Tải bản đầy đủ (.pdf) (72 trang)

Đổi mới cơ chế tự chủ tài chính trong Trường Đại học công lập Trường hợp trường Đại học Thương mại

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (709.39 KB, 72 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ



PHẠM XUÂN TUYỂN




ĐỔI MỚI CƠ CHẾ TỰ CHỦ TÀI CHÍNH TRONG
TRƢỜNG ĐẠI HỌC CÔNG LẬP: TRƢỜNG HỢP TRƢỜNG
ĐẠI HỌC THƢƠNG MẠI

CHUYÊN NGÀNH: QUẢN LÝ KINH TẾ
MÃ SỐ: 60.34.01



LUẬN VĂN THẠC SỸ QUẢN LÝ KINH TẾ
CHƢƠNG TRÌNH ĐỊNH HƢỚNG THỰC HÀNH




NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. NGUYỄN THÙY ANH




Hà Nội – 2014





















MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU VIẾT TẮT i
DANH MỤC CÁC BẢNG, HÌNH ii
MỞ ĐẦU 1
CHƢƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ CƠ CHẾ TỰ CHỦ TÀI CHÍNH TẠI CÁC
TRƢỜNG ĐẠI HỌC CÔNG LẬP Ở VIỆT NAM 10
1.1. Một số khái niệm 10
1.1.1 Khái niệm và vai trò của trường Đại học công lập 10
1.1.2. Khái niệm về cơ chế tự chủ tài chính 10
1.1.3 Khái niệm về cơ chế tự chủ tài chính tại các trường Đại học công lập 11
1.1.4. Tính tất yếu khách quan của việc thực hiện cơ chế tự chủ tài chính tại các

trường Đại học công lập ở Việt Nam 12
1.2. Mục tiêu, nguyên tắc thực hiện cơ chế tự chủ tài chính tại các trƣờng Đại
học công lập ở Việt Nam 14
1.2.1 Mục tiêu thực hiện cơ chế tự chủ tài chính 14
1.2.2 Nguyên tắc thực hiện 15
1.3. Điều kiện thực hiện cơ chế tự chủ tài chính ở các trƣờng Đại học công lập.
1.4. Nội dung của cơ chế tự chủ tài chính tại các trƣờng Đại học công lập ở Việt
Nam. 15
1.4.1. Tự chủ về bộ máy tổ chức và biên chế 16
1.4.2. Tự chủ trong việc lập và thực hiện dự toán thu, chi 16
1.4.3. Tự chủ trong quản lý và khai thác các nguồn thu 17
1.4.4. Tự chủ trong quản lý và sử dụng kinh phí 20
1.4.5. Tự chủ trong quản lý và sử dụng tài sản 21
1.5. Kinh nghiệm thực hiện cơ chế tự chủ tài chính của một số trƣờng Đại học
tại Việt Nam 22
1.5.1 Kinh nghiệm thực hiện cơ chế tự chủ tài chính tại Trường Đại học Bách
Khoa Hà Nội 22
1.5.2. Kinh nghiệm thực hiện cơ chế tự chủ tài chính tại Viện Đại học Mở Hà Nội
24
CHƢƠNG 2: THỰC TRẠNG THỰC HIỆN CƠ CHẾ TỰ CHỦ TÀI CHÍNH
TẠI TRƢỜNG ĐẠI HỌC THƢƠNG MẠI 26
2.1. Khái quát về trƣờng Đại học Thƣơng mại 26
2.1.1. Quá trình hình thành và phát triển Trường Đại học Thương mại 26
2.1.2. Chức năng, nhiệm vụ và cơ cấu tổ chức bộ máy của Trường Đại học
Thương mại 27
2.2. Quá trình triển khai cơ chế tự chủ tài chính tại trƣờng Đại học Thƣơng
mại 34
2.2.1. Tự chủ về bộ máy tổ chức và biên chế 34
2.2.2. Tự chủ trong việc lập và thực hiện dự toán thu, chi 37
2.2.3. Tự chủ trong quản lý và khai thác các nguồn thu 38

2.2.4. Tự chủ trong quản lý và sử dụng kinh phí 40
2.2.5 Tự chủ trong quản lý và sử dụng tài sản của nhà trường 46
2.3. Những thuận lợi và khó khăn trong quá trình triển khai cơ chế tự chủ tài
chính tại trƣờng Đại học Thƣơng mại 48
2.3.1 Thuận lợi 48
2.3.2. Khó khăn, hạn chế 48
2.4. Đánh giá chung về tình hình thực hiện cơ chế tự chủ tài chính tại Trƣờng
Đại học Thƣơng mại. 49
2.4.1 Kết quả đã đạt được 49
2.4.2 Một số khó khăn, tồn tại 52
CHƢƠNG 3: GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN CƠ CHẾ TỰ CHỦ TÀI CHÍNH
TẠI CÁC TRƢỜNG ĐẠI HỌC CÔNG LẬP Ở VIỆT NAM 53
3.1. Giải pháp về phía trƣờng Đại học Thƣơng mại 53
3.1.1. Về nhận thức 53
3.1.2. Về cơ cấu tổ chức, nhân lực 53
3.1.3. Cơ chế chi trả thu nhập cho CBVC 54
3.1.4. Về công tác đối ngoại và hợp tác quốc tế. 55
3.1.5. Về quy trình lập kế hoạch ngân sách 56
3.1.6. Tăng cường kiểm soát chi, thực hành tiết kiệm, chống lãng phí trong các
khoản chi và cơ cấu chi hợp lý 56
3.2. Kiê
́
n nghi
̣

́
i Nhà nƣớc 57
3.2.1. Nhà nước cần chỉ đạo các cơ quan chức năng (Bộ Tài chính, Bộ
GD&ĐT…) rà soát, xây dựng, ban hành các văn bản pháp lý giao quyền TCTC.
57

3.2.2. Nhà nước cần ban hành văn bản quy định bắt buộc phân tích tài chính, phân
tích các hoạt động của nhà trường theo các tiêu chí xác định. 59
3.2.3. Nhà nước cần có sự thay đổi về chế độ kiểm tra, giám sát 60
3.2.4. Nhà nước cần hoàn thiện hệ thống các qui định pháp luật về mô hình phát triển
tài chính cho các cơ sở Giáo dục Đại học công lập (GDĐHCL). 61
3.2.5. Nhà nước cần tái cơ cấu lại hệ thống mạng lưới các trường ĐHCL, thống
nhất một đầu mối quản lý. 62
3.2.6. Tăng cường đầu tư ngân sách, đổi mới cách phân bổ NS dựa trên kết quả
đầu ra là số lượng, chất lượng sinh viên tốt nghiệp, chất lượng công trình nghiên
cứu, sự đáp ứng nhu cầu xã hội, sự tham gia đóng góp vào phát triển KT-XH của
đất nước. 63
KẾT LUẬN 64
TÀI LIỆU THAM KHẢO 65


i
DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU VIẾT TẮT
STT
KÝ HIỆU
NGUYÊN NGHĨA
1
CBCNV
Cán bộ công nhân viên
2
CBVC
Cán bộ viên chức
3

Cao đẳng
4

CNH
Công nghiệp hóa
5
CSVC
Cơ sở vật chất
6
ĐHQGHN
Đại học Quốc gia Hà Nội
7
ĐH
Đại học
8
ĐHCL
Đại học công lập
9
GD&ĐT
Giáo dục và Đào tạo
10
GDĐH
Giáo dục Đại học
11
GDĐHCL
Giáo dục đai học công lập
12
HĐH
Hiện đại hóa
13
KHCN
Khoa học công nghệ
14

KT-XH
Kinh tế xã hội
15
NCKH
Nghiên cứu khoa học
16
NS
Ngân sách
17
NSNN
Ngân sách nhà nước
18
SXKD
Sản xuất kinh doanh
19
TCTC
Tự chủ tài chính
20
TSCĐ
Tài sản cố định
21
XDCB
Xây dựng cơ bản
22
XH
Xã hội
23
XHCN
Xã hội chủ nghĩa
24

XHH
Xã hội hóa



ii
DANH MỤC CÁC BẢNG, HÌNH
STT
SỐ HIỆU
NỘI DUNG
TRANG
1
Hình 2.1
Sơ đồ khối tổ chức bộ máy trường Đại học Thương
mại
28
2
Bảng 2.1
Tổ chức biên chế của trường Đại học Thương mại
giai đoạn 2010-2012
35
3
Bảng 2.2
Tỷ lệ nguồn kinh phí đầu tư so với tổng kinh phí
của trường Đại học Thương mại giai đoạn 2010-
2012
37
4
Bảng 2.3
Số liệu nguồn kinh phí ngoài ngân sách Nhà nước

của trường Đại học Thương mại giai đoạn 2010-
2012
38
5
Bảng 2.4
Tổng hợp số liệu tổng chi của trường Đại học
Thương mại giai đoạn 2010-2012
41
6
Bảng 2.5
Tỷ lệ kinh phí phân bổ cho từng hạng mục trong
tổng kinh phí của trường Đại học Thương mại giai
đoạn 2010-2012
42
7
Bảng 2.6
Tỷ lệ phân bổ kinh phí chi tiết so với tổng kinh phí
từng hạng mục của trường Đại học Thương mại
giai đoạn 2010-2012
43
8
Bảng 2.7
Số liệu nguồn thu khác của trường Đại học
Thương mại giai đoạn 2010-2012
45
9
Bảng 2.8
Thí nghiệm/thực hành
45
10

Bảng 2.9
Lớp học, ký túc xá và sân chơi
46
11
Bảng 2.10
Trang thiết bị phục vụ dạy học
46


1

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Việt Nam đang bước vào thời kỳ kinh tế hội nhập, đổi mới cơ chế tài chính
đối với giáo dục đại học theo hướng tăng quyền tự chủ cho các trường đại học là xu
hướng tất yếu để giáo dục đại học Việt Nam dần tháo gỡ được những rào cản về cơ
chế và phát triển, bắt kịp trình độ của khu vực cũng như thế giới, là một trong
những nhiệm vụ trọng tâm của Bộ Tài chính trong năm 2012. Đảng và Nhà nước đã
khẳng định phát triển giáo dục là quốc sách hàng đầu, đầu tư cho giáo dục là đầu tư
cho phát triển; giáo dục vừa là mục tiêu vừa là động lực để phát triển kinh tế - xã
hội. Giáo dục đại học Việt Nam đã đạt được những thành tựu to lớn, góp phần vào
sự nghiệp xây dựng và phát triển kinh tế, văn hóa của toàn xã hội. Đồng thời, Giáo
dục đại học công lập giữ vai trò nòng cốt trong đào tạo nguồn nhân lực, bồi dưỡng
nhân tài, cung cấp cho đất nước nguồn nhân lực có trình độ cao, góp phần quan
trọng vào thành công của của sự nghiệp đổi mới, giữ vững định hướng xã hội chủ
nghĩa, đưa đất nước tiến vào thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội
nhập quốc tế.
Trong thời gian qua, cơ chế quản lý tài chính đối với giáo dục Đại học luôn
luôn được đổi mới để phù hợp với yêu cầu phát triển. Ngay từ đầu những năm 2000,
Chính phủ ban hành Nghị định số 10/2002/NĐ-CP về chế độ tài chính đối với đơn

vị sự nghiệp có thu, tiếp đến là Nghị định số 43/2006/NĐ- CP ngày 25/4/2006 của
Chính phủ quy định về quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm về thực hiện nhiệm vụ, tổ
chức bộ máy, biên chế và tài chính đối với đơn vị sự nghiệp công lập, cho phép các
cơ sở giáo dục được quyết định tự chủ thực hiện các hoạt động sản xuất kinh doanh,
dịch vụ trong chức năng nhiệm vụ được giao. Tại các trường công lập hiện nay đang
thực hiện song song hai nhiệm vụ trong cùng một điều kiện về đào tạo được Nhà
nước đầu tư như: thực hiện chức năng, nhiệm vụ Nhà nước giao là đào tạo theo các
chỉ tiêu được giao đồng thời mở thêm một số ngành đào tạo theo nhu cầu.
Từ năm 2006 đến nay, cơ chế tài chính đối với các cơ sở giáo dục Đại học
công lập ở nước ta đã từng bước đổi mới phù hợp với yêu cầu phát triển của xã hội

2

theo hướng ngày càng nâng cao quyền tự chủ, gắn với tự chịu trách nhiệm về tài
chính. Các cơ sở giáo dục Đại học công lập có quyền tự chủ tài chính ngày càng cao
trong việc sử dụng nguồn Ngân sách Nhà nước giao, được tự chủ trong việc khai
thác và sử dụng các nguồn thu, phát huy tiềm năng về cơ sở vật chất, tài sản hiện có,
đội ngũ giảng viên để mở rộng quy mô đào tạo, đa dạng hóa các loại hình đào tạo
gắn với nhu cầu của xã hội. Những hoạt động đó đã góp phần không nhỏ trong đào
tạo nguồn nhân lực đáp ứng nhu cầu xã hội, tăng nguồn tài chính cho nhà trường,
tạo lập nguồn khấu hao tài sản cố định của các tài sản tham gia các hoạt động dịch
vụ để tăng cường tái đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị dạy học của các trường.
Chênh lệch các hoạt động dịch vụ sau khi thực hiện nghĩa vụ với Ngân sách nhà
nước, nhà trường được phép trích lập các quỹ ổn định thu nhập, khen thưởng và
phúc lợi để năng cao đời sống vật chất, tinh thần và khen thưởng động viên kịp thời
cho các tổ chức, các nhân có thành tích trong sự nghiệp đào tạo.
Qua hai lần cải cách cơ chế tài chính phần nào đã giảm bớt một số rào cản
nhưng tính hiệu lực, hiệu quả, tính linh hoạt, công bằng, tính ràng buộc tổ chức, sự
chấp thuận của cộng đồng đối với cơ chế tự chủ tài chính chưa cao. Cơ chế trao
quyền tự chủ cho các trường mới chỉ ở tình trạng nửa vời chưa tạo ra sự tự chủ về

tạo nguồn tài chính, tự cân đối thu chi, trách nhiệm giải trình của các trường, của
các cơ quan quản lý trước xã hội và người học cho việc nâng cao chất lượng đào
tạo. Và để các trường Đại học công lập thật sự “lột xác” thì cơ chế tự chủ tài chính
cần tiếp tục đổi mới để tạo ra những giải pháp đột phá về cơ chế tài chính, cơ chế
quản trị điều hành. Thực tế cho thấy rằng nguồn thu của các trường đại học công lập
được hình thành từ hai nguồn là ngân sách Nhà nước cấp và nguồn thu sự nghiệp.
Trong đó, nguồn ngân sách cấp dưới 50% (có trường chỉ đạt 10% đến 20%), nguồn
thu sự nghiệp chiếm trên 50% chủ yếu là thu từ học phí và lệ phí. Do vậy, ngoại trừ
các trường đại học khối kinh tế, luật… là có khả năng tự bảo đảm trên 50% mức chi
từ các nguồn thu sự nghiệp, các trường khác chỉ bảo đảm dưới 50% mức chi. Đặc
biệt là các trường khối y dược, thể thao, văn hóa, xã hội nhân văn, nghệ thuật… gặp
rất nhiều khó khăn vì nguồn thu ngoài ngân sách rất nhỏ, nhiều trường không có khả

3

năng tăng nguồn để tự cân đối thu chi.
Nghị quyết số 35/2009/QH12 ngày 19/6/2009 của Quốc hội khoá XII về chủ
trương, định hướng đổi mới một số cơ chế tài chính trong giáo dục và đào tạo từ
năm 2010-2011 đến năm học 2014-2015, Chính phủ đã ban hành Nghị định số
49/2009/NĐ-CP quy định về miễn, giảm học phí, hỗ trợ chi phí học tập và cơ chế
thu, sử dụng học phí đối với cơ sở giáo dục thuộc hệ thống giáo dục quốc dân từ
năm học 2010-2011 đến năm học 2014-2015,… có thể nói các cơ chế tài chính trên
đã tạo động lực quan trọng đối với các cơ sở giáo dục đại học công lập trong việc
nâng cao quyền tự chủ, gắn với tự chịu trách nhiệm trong việc khai thác, phát huy
các tiềm năng về cơ sở vật chất, tài sản, đội ngũ giáo viên để mở rộng quy mô, đa
dạng hoá các loại hình đào tạo, gắn với nhu cầu xã hội, tăng nguồn tài chính cho nhà
trường, tăng cường tái đầu tư cơ sở vật chất, nâng cao thu nhập, cải thiện đời sống
cho người lao động… Tuy vậy, thực tế cho thấy bên cạnh những thành quả tích cực
mang lại, cơ chế tài chính hiện nay đối với giáo dục đại học vẫn còn một số tồn tại,
bất cập cần tiếp tục được hoàn thiện và đổi mới cho phù hợp với các chủ trương,

định hướng về phát triển kinh tế xã hội trong giai đoạn mới.
Thông báo Kết luận số 37-TB/TW ngày 26/5/2011 của Bộ Chính trị về Đề án
“Đổi mới cơ chế hoạt động của các đơn vị sự nghiệp công lập, đẩy mạnh xã hội hoá
một số loại hình dịch vụ sự nghiệp công” và khẳng định việc tiếp tục thực hiện chủ
trương đổi mới cơ chế hoạt động sự nghiệp công lập là cần thiết, phải được tiến
hành với quyết tâm cao, đổi mới mạnh mẽ, đồng bộ và toàn diện hơn về cơ chế hoạt
động và tài chính
Xuất phát từ thực tiễn Nhà nước mà Bộ Giáo dục và Đạo tạo là cơ quan tham
mưu cần phải quan tâm quản lý các cơ sở giáo dục đào tạo công lập để hoạt động
đào tạo được tốt hơn, đặc biệt quản lý tài chính đối với hoạt động sự nghiệp, hoạt
động sản xuất kinh doanh, cung ứng dịch vụ tại các cơ sở giáo dục đào tạo. Tuy
nhiên công tác quản lý đối với các đơn vị sự nghiệp công lập chưa thực sự đổi mới
để phù hợp với quy luật hoạt động của hệ thống giáo dục đại học và đòi hỏi của phát
triển xã hội, chưa tạo đủ điều kiện để các cơ sở đào tạo thực hiện quyền và trách

4

nhiệm tự chủ, mặt khác không đủ khả năng đánh giá thực chất hoạt động của tất cả
các trường Đại học. Đó cũng là bất cập và là nguyên nhân hạn chế tính tự chủ, khó
có điều kiện phát huy tính chủ động, sáng tạo, tự chủ, tự chịu trách nhiệm trong cải
cách giáo dục nói chung và đổi mới cơ chế tự chủ tài chính nói riêng của các đơn vị
sự nghiệp công lập thuộc lĩnh vực giáo dục đào tạo Đại học mà trường Đại học
Thương mại là một trong số đó.
Trường đại học Thương mại là trường Đại học công lập trực thuộc Bộ Giáo
dục và Đào tạo được thành lập năm 1960, tiền thân là trường Thương nghiệp Trung
ương. Năm 1965, trường bắt đầu làm nhiệm vụ đào tạo đại học. Trong quá trình xây
dựng và phát triển, năm 1979, Trường được đổi tên thành Trường Đại học Thương
nghiệp và từ năm 1994 thành Trường Đại học Thương mại.
Năm 2003, trường được giao quyền tự chủ tài chính như một đơn vị sự
nghiệp có thu. Qua hai lần cải cách cơ chế tài chính (Nghị định số 10/2002/NĐ-CP

và Nghị định 43/2006/NĐ-CP) và để thực hiện tốt các quy định của Nhà nước về
quản lý kinh tế năm 2008 trường đã xây dựng “Quy chế chi tiêu nội bộ”. Quy chế
chi tiêu nội bộ thể hiện tính thống nhất quản lý tài chính trong toàn trường, được
phổ biến công khai, đưa tới các phòng, khoa và toàn thể cán bộ viên chức. Bản quy
chế đã đưa ra các định mức thu chi tài chính cho các hoạt động thường xuyên trong
nhà trường trong đó ưu tiên hàng đầu cho sự nghiệp đào tạo và nghiên cứu khoa học
công nghệ bước đầu đã đạt được kết quả tốt. Tuy nhiên trong quá trình triển khai
thực hiện nghị định 43/2006/NĐ-CP trường Đại học Thương mại còn nẩy sinh
những bất cập, hạn chế
Nghiên cứu việc triển khai thực hiện cơ chế tự chủ tài chính tại cơ sở giáo
dục đào tạo công lập theo Nghị định số 43/2006/NĐ-CP để từ đó đề xuất giải pháp
đổi mới, hoàn thiện cơ chế tự chủ tài chính trong trường Đại học công lập là vấn đề
có ý nghĩa lý luận và thực tiễn quan trọng, góp phần trong việc đưa ra một cái nhìn
tổng quan về tình hình tự chủ trong các trường Đại học công lập nói chung và tự
chủ về tài chính của trường Đại học Thương mại. Với lý do đó học viên đã nghiên

5

cứu chọn đề tài: “Đổi mới cơ chế tự chủ tài chính trong trường Đại học công lập:
Trường hợp trường Đại học thương mại” cho luận văn thạc sỹ của mình.
2. Tình hình nghiên cứu
Trong thời gian vừa qua có rất nhiều nhà quản lý tài chính, các nhà khoa học,
nhà quản lý giáo dục đã đóng góp nhiều ý kiến quan điểm qua các bài báo, các tham
luận tại nhiều Hội thảo khoa học các cấp và các đề tài luận văn, luận án nghiên cứu…
về vấn đề cần phải đổi mới cơ chế tự chủ tài chính trong trường Đại học công lập.
Cho đến nay đa số ý kiến của các chuyên gia quản lý, các nhà khoa học đều
thống nhất đổi mới cơ chế hoạt động tài chính đối với giáo dục đại học cần dựa trên
các nguyên tắc sau: phân loại các cơ sở đào tạo/ ngành đào tạo để xem xét nội dung
và phương thức triển khai phù hợp; thực hiện có lộ trình, xóa bỏ bao cấp qua giá,
phí dịch vụ, đổi mới cơ chế cấp phát ngân sách Nhà nước theo phương thức đặt

hàng, đẩy mạnh các nguồn lực xã hội hóa cho giáo dục đại học.
Hội thảo về “Đổi mới cơ chế tài chính đối với giáo dục đại học” ngày
17/11/2012 do Bộ Tài chính phối hợp với Ủy ban Tài chính - Ngân sách của Quốc
hội (UBTCNS) tổ chức tại Hà Nội đã cho thấy được sự quyết tâm đổi mới mạnh
mẽ, đồng bộ và toàn diện trong công tác tự chủ tài chính đối với đơn vị sự nghiệp
công lập. Điểm chính và tập trung nhất trong lần hội thảo này là các nhà chuyên gia,
các nhà khoa học đã cùng nhau trao đổi, thảo luận về nội dung Đề án thí điểm đặt
hàng đào tạo và Đề án thí điểm việc mở rộng quyền tự chủ về cơ chế hoạt động, cơ
chế tài chính đối với nhóm các cơ sở giáo dục đại học công lập có đào tạo các
chuyên ngành có nhu cầu cao trên thị trường. Tuy nhiên, bên cạnh điểm mới đó hội
thảo cũng đã tổng kết, đánh giá và chia sẻ kinh nghiệm thành công về việc thực hiện
cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm đối với các cơ sở giáo dục đại học công lập giai
đoạn 2008-2012; những khó khăn, vướng mắc, nguyên nhân và đề xuất các giải
pháp chính sách nhằm mở rộng hơn nữa việc giao quyền tự chủ về tài chính gắn với
tự chịu trách nhiệm, tăng cường công tác nghiên cứu khoa học trong các cơ sở giáo
dục đại học công lập.

6

Đổi mới cơ chế tài chính đối với giáo dục đại học vẫn cần phải được đổi
mới căn bản và toàn diện theo hướng chuẩn hoá, hiện đại hoá, xã hội hoá, dân chủ
hoá và hội nhập quốc tế; chất lượng giáo dục được nâng cao một cách toàn diện.
Theo đó Nhà nước cần hoàn thiện, bổ sung hệ thống văn bản pháp quy liên quan
đến việc thực hiện Nghị định số 43 và điều chỉnh một số văn bản của ngành giáo
dục ban hành đã lâu không còn phù hợp.
Sau đây là một số công trình nghiên cứu có liên quan đến đề tài, Cụ thể:
- Đề tài luận văn: “Tự chủ tài chính trong các trƣờng đại học công lập:
Trƣờng hợp trƣờng đại học Đà Lạt” của Phạm Thị Hoa Hạnh - Trường Đại học
Kinh tế, Trường Đại học Quốc gia Hà Nội (2012), luận văn đã hệ thống hóa lý luận
về tự chủ tài chính đối với các trường đại học công lập và Phân tích, đánh giá thực

trạng tình hình thực hiện tự chủ tài chính tại trường đại học Đà Lạt (minh họa số
liệu của trường đại học Đà Lạt từ năm 2009 đến năm 2011). Chỉ ra được những
vướng mắc và giải pháp để tăng cường thực hiện tự chủ tài chính đối với các trường
đại học công lập nói chung và tại trường đại học Đà Lạt nói riêng.
- Đề tài luận văn: “Hoàn thiện cơ chế quản lý tài chính tại Đại học Quốc
gia Hà Nội theo hƣớng tự chủ tài chính” của Lê Thị Khánh Trang - Trường Đại
học Kinh tế quốc dân (năm 2007), luận văn nghiên cứu cơ chế tự chủ tài chính trong
đơn vị sự nghiệp có thu nói chung, phân tích thực trạng cơ chế quản lý tài chính tại
Đại học Quốc gia Hà Nội từ đó đề xuất các giải pháp hoàn thiện cơ chế quản lý tài
chính theo hướng tự chủ tài chính. Trên cơ sở đánh giá thực trạng quá trình quản lý
tài chính từ khi thành lập Đại học Quốc gia Hà Nội (ĐHQGHN), đề ra các giải pháp
hoàn thiện cơ chế quản lý tài chính của ĐHQGHN nhằm nâng cao tính tự chủ tài
chính cho các đơn vị thành viên.
- Đề tài luận án: “Hoàn thiện cơ chế tự chủ tài chính các trƣờng Đại học
công lập ở Việt Nam” của Trần Đức Cân - Trường Đại học Kinh tế quốc dân (Bảo
vệ năm 2012), Luận án tiến sỹ nghiên cứu cơ chế tài chính nhằm hệ thống hoá cơ
sở lý luận, phân tích thực trạng, từ đó đề xuất giải pháp hoàn thiện cơ chế tự chủ
tài chính các trường Đại học công lập ở Việt Nam. Trọng tâm nghiên cứu:

7

(1). Phân tích cơ chế TCTC (tự chủ tài chính) (Nghị định 43/2006/NĐ-CP)
từ góc độ trường ĐHCL (đại học công lập). Nêu ra những thuận lợi, khó khăn,
đánh giá hiệu quả ban đầu của cơ chế tới tạo và sử dụng nguồn thu, trách nhiệm
giải trình tài chính trước xã hội, khả năng TCTC của các trường?
(2). Nhà nước cần đổi mới cơ chế TCTC như thế nào để thúc đẩy hoạt động
tạo nguồn thu; nâng cao hiệu quả sử dụng, trách nhiệm giải trình tài chính của
trường ĐHCL.
(3). Để thực hiện tốt cơ chế TCTC của trường ĐHCL cần điều kiện gì?
Việc giao quyền tự chủ tài chính hoàn toàn cho các trường công lập có ý

nghĩa quan trọng, nó là hành lang pháp lý bắt buộc các trường phải tự đổi mới, nâng
cao chất lượng đào tạo, nghiên cứu khoa học, ứng dụng công nghệ và liên doanh
liên kết. Song quá trình giao quyền tự chủ tài chính hoàn toàn cho các trường cần
phải được thực hiện theo một lộ trình nhất định, gắn với đặc điểm của mỗi trường,
từng thời kỳ và nỗ lực phấn đấu của chính các trường. Việc xây dựng cơ chế giao
quyền tự chủ tài chính hoàn toàn cho các trường phù hợp với xu thế phát triển của
thời đại và góp phần đổi mới cơ chế chính sách quản lý tài chính của Nhà nước.
Qua khái quát tình hình nghiên cứu ở trên cho thấy trong thời điểm hiện nay
việc đổi mới cơ chế hoạt động tài chính giáo dục Đại học là phù hợp với yêu cầu
đổi mới căn bản, toàn diện nhằm thực hiện Kết luận Hội nghị Trung ương VI, Khóa
XI đối với giáo dục Đại học “phải đổi mới từ nhận thức tư duy, mục tiêu đào tạo, hệ
thống tổ chức, loại hình giáo dục và đào tạo, nội dung và phương pháp dạy và học
đến cơ chế vận hành, cơ chế quản lý, xây dựng đội ngũ giáo viên, cán bộ quản lý,
cơ sở vật chất, nguồn lực, điều kiện bảo đảm thực hiện đổi mới toàn bộ hệ thống
giáo dục, bao gồm giáo dục mầm non, giáo dục phổ thông và giáo dục đại học, đào
tạo nghề”. Vì vậy, Học viên lựa chọn đề tài: “Đổi mới cơ chế tự chủ tài chính
trong trƣờng Đại học công lập: Trƣờng hợp trƣờng Đại học Thƣơng mại” làm
đối tượng nghiên cứu sẽ góp phần tiếp tục làm rõ hơn sự cần thiết phải đổi mới cơ
chế tự chủ tài chính trong các đơn vị sự nghiệp công lập nói chung, các trường Đại
học công lập nói riêng.

8

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
- Mục đích nghiên cứu: Nhằm hệ thống hoá cơ sở lý luận cơ chế TCTC
trường ĐHCL Việt Nam. Phân tích thực trạng thực hiện cơ chế tự chủ tài chính tại
Trường Đại học Thương mại, chỉ ra những kết quả đạt được cũng như những hạn
chế của công tác này, trên cơ sở đó đề xuất một số giải pháp góp phần hoàn thiện
cơ chế tự chủ tài chính tại các trường Đại học công lập nói chung và Trường Đại
học Thương Mại nói riêng.

- Nhiệm vụ nghiên cứu:
+ Nghiên cứu một số vấn đề lý luận về cơ chế tự chủ tài chính tại các trường
Đại học công lập ở Việt Nam .
+ Phân tích và đánh giá thực trạng thực hiện cơ chế tự chủ tài chính theo
Nghị định số 43/2006/NĐ-CP tại trường Đại học Thương mại.
+ Đề xuất một số giải pháp đổi mới, hoàn thiện cơ chế tự chủ tài chính tại
các trường Đại học công lập ở Việt Nam nói chung và Trường Đại học Thương mại
nói riêng.
- Câu hỏi nghiên cứu:
+ Nhà nước cần đổi mới cơ chế tự chủ tài chính như thế nào để thúc đẩy hoạt
động tạo nguồn thu; nâng cao hiệu quả quản lý và sử dụng nguồn thu của trường
Đại học công lập?
+ Bộ Giáo dục và Đào tạo cần phải giao quyền tự chủ tài chính ở mức độ nào
để khuyến khích trường Đại học Thương mại chủ động tạo nguồn thu đáp ứng nhu
cầu chi tiêu của mình?
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Cơ chế tự chủ tài chính tại Trường Đại học Thương mại
- Phạm vi nghiên cứu: Nghiên cứu thực trạng thực hiện cơ chế tự chủ tài
chính tại trường Đại học Thương mại theo Nghị định số 43/2006/NĐ-CP với các

9

nội dung chủ yếu: Quá trình triển khai khi thực hiện cơ chế tự chủ tài chính;
Thực trạng thực hiện cơ chế tự chủ tài chính tại trường Đại học này trong giai
đoạn 2010-2012.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng phương pháp nghiên cứu định tính kết hợp với định
lượng, kế thừa kết quả nghiên cứu của các đề tài có liên quan.
Trong triển khai đề tài, việc nghiên cứu lý luận và thực tiễn được thực hiện
trên cơ sở sử dụng nghiên cứu sau: phương pháp thống kê, phương pháp phân tích,

phương pháp tổng hợp, phương pháp so sánh.
6. Những đóng góp chủ yếu của luận văn
- Làm rõ những thuận lợi và khó khăn, cũng như những thành công và hạn
chế trong việc thực hiện cơ chế tự chủ tài chính tại trường Đại học Thương mại.
- Đề xuất một số giải pháp nhằm đổi mới, hoàn thiện cơ chế tự chủ tài chính
tại các trường Đại học công lập ở Việt Nam nói chung và trường Đại học Thương
mại nói riêng.
7. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn được
kết cấu thành 3 chương, bao gồm:
Chƣơng 1: Tổng quan về cơ chế tự chủ tài chính tại các trƣờng Đại học công
lập ở Việt Nam
Chƣơng 2: Thực trạng thực hiện cơ chế tự chủ tài chính tại trƣờng Đại học
Thƣơng mại
Chƣơng 3: Giải pháp hoàn thiện cơ chế tự chủ tài chính tại các trƣờng Đại học
công lập ở Việt Nam.

10

CHƢƠNG 1
TỔNG QUAN VỀ CƠ CHẾ TỰ CHỦ TÀI CHÍNH TẠI
CÁC TRƢỜNG ĐẠI HỌC CÔNG LẬP Ở VIỆT NAM

1.1. Một số khái niệm
1.1.1 Khái niệm và vai trò của trường Đại học công lập
Theo Luật Giáo dục đại học (GDĐH) ban hành tháng 6/2012, trường Đại học
công lập (ĐHCL) là cơ sở Giáo dục Đại học công lập thuộc sở hữu nhà nước, do
Nhà nước đầu tư xây dựng, cung cấp trang thiết bị dạy học, bố trí cán bộ, công chức
quản lý và đội ngũ nhà giáo giảng dạy và thống nhất quản lý hệ thống giáo dục
quốc dân về mục tiêu, chương trình, nội dung, kế hoạch giáo dục, tiêu chuẩn nhà

giáo, qui chế thi cử và hệ thống văn bằng.
Đại học công lập có vai trò to lớn trong sự ổn định và phát triển kinh tế xã
hội, thúc đẩy sự phát triển khoa học công nghệ (KHCN) của Quốc gia và phát triển
đất nước:
- Đại học công lập là nơi cung cấp các dịch vụ công về giáo dục, đào tạo ra
lực lượng lao động có trình độ cao, có tư duy linh hoạt, mềm dẻo, có khả năng cập
nhật kiến thức mới để thích nghi với sự thay đổi của môi trường lao động.
- Đại học công lập giữ vai trò chủ đạo trong việc tham gia đề xuất và thực
hiện các đề án, chương trình lớn phục vụ sự phát triển kinh tế xã hội của đất nước.
- Góp phần tăng cường nguồn lực, đẩy mạnh đa dạng hóa và xã hội hóa
nguồn lực thúc đẩy sự phát triển xã hội.
- Đại học công lập luôn là lực lượng nòng cốt thực hiện nhiệm vụ chính trị
của Đảng, Nhà nước. Có nhiệm vụ đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài cho quá
trình CNH-HĐH đất nước.
1.1.2. Khái niệm về cơ chế tự chủ tài chính
Để hiểu về cơ chế tự chủ tài chính, chúng ta cần hiểu rõ khái niệm: cơ chế, tự
chủ, tự chủ đại học, tự chủ tài chính.
- “Cơ chế” là cách thức hoạt động của một sự vật, hiện tượng trong quá trình tồn

11

tại và phát triển. (theo từ điển tiếng Việt do Viện ngôn ngữ học biên soạn năm 2000)
- “Tự chủ” là việc tự điều hành, quản lý mọi công việc của cá nhân hoặc của
tổ chức, không bị cá nhân, tổ chức khác chi phối. (theo từ điển tiếng việt do Viện
ngôn ngữ học biên soạn năm 2000).
Trong lĩnh vực tự chủ tài chính (TCTC) cách thức (cơ chế) vận hành các phạm
trù TCTC do cái gì quyết định. Đây là vấn đề cần được làm rõ. Sự vận hành các phạm
trù thuộc lĩnh vực TCTC chịu sự tác động chi phối của hai nhân tố, bao gồm:
Một là, các quy luật kinh tế, tài chính đã và đang tồn tại trong một môi
trường kinh tế, tài chính nhất định.

Hai là, sự phản ứng của con người trước sự vận động theo tính qui luật
khách quan của các phạm trù kinh tế, tài chính. Hay nói cách khác là con người đưa
ra những cách thức để hướng sự vận động của các phạm trù kinh tế, tài chính mang
tính qui luật khách quan theo những yêu cầu chủ quan của mình.
Với quan niệm “cơ chế” là cách thức thì trong lĩnh vực TCTC cách thức đó
do con người tạo ra và nó mang dấu ấn chủ quan là chủ yếu. Như vậy, cách thức
trong trường hợp này có thể hiểu là những qui định của con người trước sự vận
động mang tính qui luật của phạm trù TCTC.
Khi hàm ý cơ chế là những qui định của con người thì những qui định đó
luôn bao gồm hệ thống các quyền và lợi ích. Việc sử dụng hệ thống các quyền và
lợi ích để đưa ra những quy định (cơ chế) mang lại hiệu quả chung cho Quốc gia khi
những qui định này phù hợp với sự vận động mang tính qui luật của TCTC. Đây là
cách tiếp cận về thuật ngữ “cơ chế” trong lĩnh vực TCTC.
Cơ chế quản lý tài chính là hệ thống các nguyên tắc, luật định, chính sách,
chế độ, về quản lý tài chính và mối quan hệ tài chính giữa các đơn vị dự toán các
cấp với cơ quan chủ quản và cơ quan quản lý nhà nước.
1.1.3 Khái niệm về cơ chế tự chủ tài chính tại các trường Đại học công
lập
- Tự chủ đại học là nói đến đến quyền tự do của các trường Đại học (ĐH) và
mức độ tự do được đưa ra các quyết định riêng và những điều bắt buộc các trường

12

đại học phải thực hiện trong việc sử dụng quyền tự do này. Bản chất của tự chủ là
sự phân chia quyền lực từ nhà nước tới các trường Đại học. Phạm vi quyền tự chủ
thay đổi theo thời gian nhưng nó đều gắn với lĩnh vực học thuật, quản trị điều hành,
pháp luật và những vấn đề tài chính.
Qua phân tích ở trên cũng cho thấy tự chủ tài chính là một yếu tố, một thẩm
quyền của tự chủ Đại học. Nó là một khái niệm được sử dụng khi đồng thời quan
tâm tới cả vấn đề tài chính và quyền tự chủ

Tự chủ tài chính thực chất là một cơ chế quản lý tài chính mà ở đó thủ
trưởng của đơn vị được trao quyền tự chủ phát triển và mở rộng cung ứng các hoạt
động dịch vụ.
Cơ chế tự chủ tài chính tại các trường Đại học công lập là cơ chế quản lý
nhằm tăng cường quyền tự chủ, nâng cao tính tự chịu trách nhiệm cho các đại học
công lập có thu về các mặt hoạt động tài chính, tổ chức bộ máy và sắp xếp lao động,
qua đó nâng cao chất lượng hoạt động cung cấp dịch vụ công của trường.
1.1.4. Tính tất yếu khách quan của việc thực hiện cơ chế tự chủ tài
chính tại các trường Đại học công lập ở Việt Nam
* Tính tất yếu
Đất nước ta đang bước vào thời kỳ kinh tế hội nhập, phát triển giáo dục là
quốc sách hàng đầu, đầu tư cho giáo dục là đầu tư cho phát triển; giáo dục vừa là
mục tiêu vừa là động lực để phát triển kinh tế - xã hội.
Giáo dục đại học công lập giữ vai trò nòng cốt trong đào tạo nguồn nhân lực,
bồi dưỡng nhân tài, cung cấp cho đất nước nguồn nhân lực có trình độ cao, góp
phần quan trọng vào thành công của của sự nghiệp đổi mới, giữ vững định hướng
XHCN đưa đất nước tiến vào thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH và hội nhập quốc tế.
Trải qua hơn 10 năm thực hiện cơ chế tự chủ tài chính, giáo dục Đại học
công lập ở nước ta đã từng bước đổi mới phù hợp với yêu cầu phát triển của xã hội
theo hướng ngày càng nâng cao quyền tự chủ, gắn với tự chịu trách nhiệm về tài
chính. Việc trao quyền tự chủ tài chính cho các trường Đại học công lập có ý nghĩa

13

quan trọng, là hành lang pháp lý bắt buộc các trường phải tự đổi mới, nâng cao chất
lượng đào tạo, nghiên cứu khoa học, ứng dụng công nghệ và liên doanh liên kết.
Trao quyền tự chủ cho các trường Đại học công lập đơn vị sự nghiệp tạo ra
sự chủ động sáng tạo, linh hoạt trong việc sử dụng có hiệu quả nguồn kinh phí,
đồng thời nâng cao tính tự chịu trách nhiệm khiến cho các đơn vị phải biết tiết
kiệm, tránh lãng phí. Cơ chế tự chủ cho phép các trường Đại học công lập đơn vị sự

nghiệp được mở rộng hoạt động dịch vụ của mình, mở rộng các hình thức liên kết
nhằm tăng nguồn thu cho đơn vị và đơn vị được sử dụng nguồn thu đó theo quy
định. Chính điều này đã kích thích các đơn vị tìm kiếm, thu hút nguồn kinh phí
ngoài kinh phí Ngân sách Nhà nước (NSNN), muốn vậy họ phải nâng cao chất
lượng dịch vụ của mình.
Hoạt động của các đơn vị trở nên năng động hơn theo hướng đa dạng hoá các
loại hình hoạt động, nhờ vậy tăng nguồn thu sự nghiệp của các đơn vị. Nếu trước
kia các đơn vị chỉ trông chờ vào nguồn kinh phí từ ngân sách cấp thì nay họ có
nguồn lực từ nhiều cách. Như vậy chất lượng phục vụ của các đơn vị sự nghiệp nói
chung và chất lượng đào tạo đại học nói riêng được nâng lên, đồng thời gánh nặng
đối với ngân sách cũng được giảm nhẹ, Nhà nước chỉ phải tập trung cho những
ngành trọng điểm mũi nhọn.
* Tính khách quan
Trong nền kinh tế thị trường, giáo dục có vai trò đặc biệt quan trọng; nó là
một nhân tố quyết định sự tăng trưởng, phát triển vững bền KT-XH của một Quốc
gia và cả cộng đồng Quốc tế.
Nếu không kịp thời đổi mới giáo dục, các trường đào tạo ở tất cả các cấp sẽ tụt
hậu và mất dần vị trí trong lòng chính người dân Việt Nam để nhường chỗ cho các
trường của nước ngoài. Tự chủ trong giáo dục trong đó có tự chủ về tài chính sẽ
phát huy tính chủ động, sáng tạo, phát huy năng lực của đội ngũ giảng viên, nội lực
của nhà trường, từ đó nâng cao hiệu quả đầu tư, tạo sức mạnh cho trường để có thể
đứng vững và lớn mạnh trong quá trình cạnh tranh.
Trải qua những năm 80 của thế kỷ XX cuộc cách mạng khoa học công nghệ

14

(KHCN) đã đưa nền kinh tế thế giới nói chung và kinh tế Việt nam nói riêng chuyển
sang một giai đoạn phát triển mới, đó là nền kinh tế tri thức. Dẫn tới vai trò của giáo
dục Đại học công lập ngày càng trở nên quan trọng không chỉ đào tạo ra nguồn nhân
lực chất lượng cao mà còn là nơi sản sinh ra hệ thống tri thức mới, phát triển, chuyển

giao công nghệ hiện đại, góp phần phát triển KT-XH bền vững. Với những lý do này,
ngay từ những năm cuối thế kỷ XX, giáo dục đại học của Việt Nam cùng với của thế
giới đã có những bước chuyển biến mạnh mẽ phát triển quy mô và nâng cao chất
lượng. Cụ thể là cần tìm kiếm, khai thác thêm các nguồn tài chính ngoài ngân sách
(NS). Điều này chỉ có thể được giải quyết khi nhà trường là một chủ thể, có quyền xem
xét lại các ưu tiên, tổ chức lại cơ cấu quản lý, tự đa dạng hóa nguồn thu (bằng cách chia
sẻ chi phí cho SV, gây quỹ tư nhân, tham gia các hoạt động tạo thu nhập khác), tăng
năng suất, nâng cao hiệu quả tài chính, phân bổ lại nguồn lực nội bộ
Nhà nước cần giao quyền TCTC cho các trường Đại học công lập, đây là một
xu thế tất yếu khách quan nhằm tạo ra động lực thúc đẩy các trường phát triển phù
hợp với nền kinh tế thị trường và nền kinh tế tri thức. Đồng thời thúc đẩy sự phát
triển hệ thống theo sự vận động mang tính quy luật tự nhiên trong một thị trường
giáo dục-đào tạo có cạnh tranh lành mạnh, có sự định hướng rõ ràng của Nhà nước
và được đảm bảo kiểm soát, giám sát về chất lượng một cách chặt chẽ từ 3 phía Nhà
nước, xã hội và người học. Hơn nữa, quản lý đại học theo cơ chế tự chủ sẽ giúp các
cơ quan quản lý nhà nước giải phóng khỏi gánh nặng điều hành trực tiếp để tập
trung thực hiện tốt chức năng quản lý vĩ mô.
1.2. Mục tiêu, nguyên tắc thực hiện cơ chế tự chủ tài chính tại các
trƣờng Đại học công lập ở Việt Nam
1.2.1. Mục tiêu thực hiện cơ chế tự chủ tài chính
Trao quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm cho các nhà trường trong tổ chức, sắp
xếp bộ máy, sử dụng lao động, nguồn lực tài chính để hoàn thành nhiệm vụ, cung
cấp dịch vụ với chất lượng cao cho xã hội (XH); tăng nguồn thu, tăng thu nhập cho
người lao động. Thực hiện xã hội hóa (XHH) về cung cấp dịch vụ cho XH, tăng sự
đóng góp của cộng đồng, giảm dần sự bao cấp từ ngân sách Nhà nước.

15

1.2.2. Nguyên tắc thực hiện
Nguyên tắc thực hiện quyền tự chủ là phải hoàn thành nhiệm vụ được giao;

các hoạt động dịch vụ phù hợp với chức năng, nhiệm vụ, khả năng chuyên môn và
tài chính của nhà trường.
Đảm bảo chế độ công khai, dân chủ, gắn với tự chịu trách nhiệm; chịu sự
kiểm tra, giám sát của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Bảo đảm lợi ích Nhà
nước; quyền, nghĩa vụ của tổ chức, cá nhân theo quy định của pháp luật.
1.3. Điều kiện thực hiện cơ chế tự chủ tài chính ở các trƣờng Đại học
công lập.
Có quyết định thành lập hoặc quyết định cho phép thành lập cơ sơ
̉
gia
́
o du
̣
c
đa
̣
i ho
̣
c; Có đất đai, cơ sở vật chất, thiết bị, ký túc xá sinh viên, cơ sở phục vụ giáo
dục thể chất đáp ứng yêu cầu hoạt động đào tạo, địa điểm xây dựng bảo đảm môi
trường sư phạm, an toàn cho người học, người dạy và người lao động theo nội dung
dự án đã cam kết (phòng học, thư viện, trang thiết bị, nhà xưởng, đất đai, mạng
thông tin…); Có chương trình đào tạo và giáo trình, tài liệu giảng dạy, học tập theo
quy định; Có đội ngũ giảng viên cơ hữu và cán bộ quản lý đạt tiêu chuẩn về chuyên
môn, nghiệp vụ, đủ về số lượng, đồng bộ về cơ cấu; Có đủ nguồn lực tài chính theo
quy định để bảo đảm duy trì và phát triển hoạt động của cơ sở giáo dục đại học; Có
quy chế tổ chức và hoạt động của cơ sơ
̉
gia
́

o du
̣
c đa
̣
i ho
̣
c . Ngoài ra: phải có năng lực
quản lý vững mạnh, tự xây dựng được hệ thống quy chế làm việc và các công cụ
quản lý hiệu quả, đặc biệt là công cụ công nghệ thông tin; Năng lực nghiên cứu
khoa học và chuyển giao công nghệ mạnh, có khả năng xây dựng các chương trình
nghiên cứu độc lập và thu hút các nguồn kinh phí lớn đầu tư cho nghiên cứu ứng
dụng cũng như nghiên cứu hàn lâm; Năng lực thực hiện cung cấp các dịch vụ khoa
học - công nghệ và các dịch vụ khác để tăng nguồn thu, đóng góp một tỷ lệ đáng kể
vào ngân sách của Nhà nước
1.4. Nội dung của cơ chế tự chủ tài chính tại các trƣờng Đại học công lập
ở Việt Nam.
Nội dung cơ chế TCTC là một văn bản pháp luật chứa đựng những qui định
về quyền TCTC của trường ĐHCL. Nó là một tập hợp những qui định nhằm chuyển

16

đổi quyền hạn ra quyết định về tài chính của nhà nước sang các trường có thể hoạt
động độc lập trong lĩnh vực tài chính.
Nội dung cơ chế TCTC là các trường được quyền tự chủ trong hoạt động,
quản lý tài chính, đó là quản lý hoạt động thu chi; quản lý, phân phối quỹ kết dư;
quản lý các quỹ chuyên dụng; quản lý tài sản; quản lý nợ phải trả
1.4.1. Tự chủ về bộ máy tổ chức và biên chế
- Tự chủ, tự chịu trách nhiệm về tổ chức bộ máy: Các trường được thành lập
các tổ chức sự nghiệp trực thuộc để hoạt động sản xuất kinh doanh, dịch vụ phù hợp
với chức năng, nhiệm vụ được giao; phù hợp với phương án tự chủ, tự chịu trách

nhiệm về thực hiện nhiệm vụ, tổ chức bộ máy và biên chế và tự bảo đảm kinh phí
hoạt động. Chức năng, nhiệm vụ cụ thể và quy chế hoạt động của các tổ chức trực
thuộc do Thủ trưởng đơn vị sự nghiệp quy định.
- Tự chủ, tự chịu trách nhiệm về biên chế: Các trường Đại học công lập là
các đơn vị sự nghiệp có thu tự bảo đảm chi phí hoạt động thường xuyên, được tự
quyết định biên chế; đối với đơn vị sự nghiệp tự bảo đảm một phần chi phí hoạt
động và đơn vị sự nghiệp do ngân sách nhà nước (NSNN) bảo đảm toàn bộ chi phí
hoạt động, căn cứ chức năng, nhiệm vụ được giao, nhu cầu công việc thực tế, định
mức chỉ tiêu biên chế và khả năng tài chính của đơn vị, Thủ trưởng đơn vị xây dựng
kế hoạch biên chế hàng năm gửi cơ quan chủ quản trực tiếp để tổng hợp, giải quyết
theo thẩm quyền. Thủ trưởng đơn vị được quyết định ký hợp đồng thuê, khoán công
việc đối với những công việc không cần thiết bố trí biên chế thường xuyên; ký hợp
đồng và các hình thức hợp tác khác với chuyên gia trong và ngoài nước để đáp ứng
yêu cầu chuyên môn của đơn vị.
1.4.2. Tự chủ trong việc lập và thực hiện dự toán thu, chi
- Lập dự toán: Là cơ sở để cơ quan chủ quản xem xét quyết định đơn vị sự
nghiệp có thu đó là loại tự đảm bảo toàn bộ chi phí hay tự đảm bảo một phần chi
phí; quyết định mức kinh phí NSNN hỗ trợ hoạt động thường xuyên. Đối với các
nguồn kinh phí khác, đơn vị sự nghiệp có thu lập dự toán theo quy định hiện hành.

17

- Giao dự toán: Căn cứ vào kết quả phân loại đơn vị sự nghiệp trực thuộc, cơ
quan chủ quản giao dự toán thu, chi NSNN cho các đơn vị. Trong đó có mức NSNN
hỗ trợ hoạt động thường xuyên đối với đơn vị tự bảo đảm một phần chi phí hoạt
động thường xuyên, mức NSNN cấp chi không thường xuyên đối với cả hai loại
đơn vị sự nghiệp có thu.
- Cấp phát kinh phí: Từ năm 2004, thực hiện cấp phát ngân sách theo phương
thức: các đơn vị sử dụng ngân sách căn cứ theo tiêu chuẩn, định mức chi ngân sách,
quy chế chi tiêu nội bộ của các đơn vị đã được cấp chủ quản phê duyệt, khối lượng

nhiệm vụ thực tế phát sinh và dự toán được giao để rút kinh phí tại kho bạc Nhà
nước chi tiêu.
Cơ chế cấp phát kinh phí cho các đơn vị sử dụng ngân sách làm tăng cường
vai trò kiểm tra, kiểm soát của kho bạc Nhà nước, góp phần nâng cao hiệu quả sử
dụng NSNN. Nếu kinh phí đã có trong dự toán của đơn vị trong năm chưa sử dụng
hết, đơn vị có thể chuyển sang năm sau sử dụng tiếp. Các khoản kinh phí được
chuyển tiếp sang năm sau sử dụng đó là kinh phí do NSNN cấp nhằm đảm bảo hoạt
động thường xuyên, các khoản sự nghiệp có thu. Đây là một điểm đổi mới giúp đơn
vị chủ động hơn trong việc sử dụng nguồn kinh phí sao cho phù hợp với điều kiện
của đơn vị mình.
1.4.3. Tự chủ trong quản lý và khai thác các nguồn thu
Nguồn thu là những khoản kinh phí nhà trường nhận được không phải hoàn
trả. Theo luật pháp, nó được dùng cho việc triển khai hoạt động đào tạo, nghiên cứu
khoa học (NCKH) và các hoạt động khác của nhà trường. Nó bao gồm:
1.4.3.1. Kinh phí do ngân sách nhà nước cấp
* Đối với kinh phí chi hoạt động thường xuyên, căn cứ vào nguồn thu và
nhiệm vụ được giao:
- Những đơn vị tự đảm bảo một phần chi phí hoạt động thường xuyên được
Nhà nước cấp một phần kinh phí cho hoạt động thường xuyên.
- Đơn vị tự đảm bảo toàn bộ chi phí hoạt động, NSNN không cấp kinh phí
hoạt động thường xuyên.

18

* Đối với kinh phí không thường xuyên, Nhà nước cấp kinh phí cho các hoạt
động không thường xuyên bao gồm:
- Kinh phí thực hiện đề tài NCKH cấp Nhà nước, cấp Bộ, ngành; Chương trình
mục tiêu quốc gia và các nhiệm vụ đột xuất khác được cơ quan có thẩm quyền giao.
- Kinh phí Nhà nước thanh toán cho đơn vị theo chế độ đặt hàng để thực hiện
các nhiệm vụ Nhà nước giao.

- Kinh phí cấp để thực hiện tinh giản biên chế theo chế độ do Nhà nước quy
định đối với lao động trong biên chế dôi dư.
- Vốn đầu tư xây dựng cơ sở vật chất, mua sắm trang thiết bị phục vụ hoạt
động sự nghiệp theo dự án và kế hoạch hàng năm; Vốn đối ứng cho các dự án được
các cấp có thẩm quyền phê duyệt.
1.4.3.2. Nguồn thu từ hoạt động sự nghiệp
- Thu từ các loại phí, lệ phí thuộc NSNN (phần được để lại đơn vị). Mức thu
phí, lệ phí, tỷ lệ phần thu được để lại đơn vị sử dụng theo quy định của Pháp lệnh
phí, lệ phí và các văn bản hướng dẫn hiện hành của cơ quan Nhà nước có thẩm
quyền đối với từng loại phí, lệ phí.
- Thu từ hoạt động cung ứng dịch vụ đào tạo và nghiên cứu khoa học. Mức
thu của loại hình hoạt động này do Thủ trưởng đơn vị quyết định theo nguyên tắc bù
đắp chi phí và có lãi.
1.4.3.3. Nguồn thu viện trợ, tài trợ quà biếu, cho, tặng theo quy định của
pháp luật.
Các trường được phép tiếp nhận các nguồn viện trợ, tài trợ, quà biếu, cho,
tặng theo quy định của pháp luật. Đây là nguồn thu hợp pháp của các trường. Các
nguồn thu này phải được ghi chép, quản lý thống nhất qua hệ thống sổ sách kế toán
và được chi tiêu theo thỏa thuận với các nhà tài trợ và Quy chế chi tiêu nội bộ của
trường theo quy định tại Nghị định số 43/2006/NĐ-CP ngày 25/4/2006 của Chính
phủ và Thông tư số 71/2006/TT-BTC ngày 09/8/2006 của Bộ Tài chính hướng dẫn
thực hiện Nghị định số 43/2006/NĐ-CP ngày 25/4/2006 của Chính phủ
Quá trình quản lý và sử dụng phải quán triệt các nguyên tắc:

19

Tự nguyện, đúng mục đích: Việc huy động và tiếp nhận các khoản đóng góp
của xã hội cho các trường phải quán triệt nguyên tắc tự nguyện giữa hai bên. Không
được coi bất kỳ hình thức đóng góp nào như là một điều kiện cho việc cung cấp
dịch vụ giáo dục và không được qui định mức đóng góp cụ thể để ép buộc đối với

các đối tượng tham gia đóng góp. Đồng thời, bên đóng góp cũng không được gắn
bất kỳ điều kiện ràng buộc nào về đặc quyền, đặc lợi trong việc thụ hưởng dịch vụ
giáo dục hoặc quyền khai thác lợi ích kinh tế phát sinh từ tài sản, kinh phí đã đóng
góp cho nhà trường. Các trường khi tiếp nhận các khoản đóng góp tự nguyện có
trách nhiệm sử dụng đúng mục đích các nguồn thu đã huy động.
Dân chủ, công khai, minh bạch: Quá trình quản lý và sử dụng các khoản
đóng góp tự nguyện phải đảm bảo yêu cầu dân chủ, công khai, minh bạch theo quy
định tại Thông tư số 19/2005/TT-BTC ngày 11/3/2005 của Bộ Tài chính Hướng dẫn
việc công khai tài chính đối với các quỹ có nguồn từ ngân sách nhà nước và các quỹ
có nguồn từ các khoản đóng góp của nhân dân và Thông tư số 09/2009/TT-BGDĐT
ngày 07/5/2009 của Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành Quy chế thực hiện công
khai đối với cơ sở giáo dục của hệ thống giáo dục quốc dân. Khuyến khích các tổ
chức, cá nhân có đóng góp tự đứng ra tổ chức thực hiện việc xây dựng, mua sắm,
lắp đặt với sự thỏa thuận và hướng dẫn của nhà trường.
1.4.3.4. Nguồn thu khác: là nguồn thu ngoài phạm vi quy định nói trên như
vốn vay tín dụng, vốn huy động của cán bộ viên chức (CBVC); vốn liên doanh, liên
kết. Vay vốn của các cán bộ, viên chức.
Theo thông tư 71/2006/TT-BTC của Bộ Tài chính, đơn vị sự nghiệp có thu
có hoạt động dịch vụ phù hợp với chức năng, nhiệm vụ, ngoài được vay vốn của các
tổ chức tín dụng còn được huy động vốn của cán bộ nhân viên trong đơn vị để đầu
tư mở rộng và nâng cao chất lượng hoạt động sự nghiệp, tổ chức các hoạt dộng dịch
vụ và tự chịu trách nhiệm trả nợ vay. Tiền lãi trả cho việc huy động được tính theo
lãi suất thực tế khi ký hợp đồng vay, nhưng không tối đa không quá mức lãi suất để
tính chi phí hợp lý quy định của Luật thuế thu nhập doanh nghiệp. Nguồn vốn chi

×