Tải bản đầy đủ (.doc) (44 trang)

Thực trạng chính sách quản lý nhập khẩu của Việt Nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (913.22 KB, 44 trang )

MỤC LỤC
MỤC LỤC 1
I.Quản lý nhập khẩu bằng các biện pháp phi thuế quan 3
1.Các biện pháp hạn chế định lượng 3
1.1. Cấm xuất khẩu, nhập khẩu (Prohibitions) 3
1.2. Hạn ngạch (quotas) 9
1.4. Giấy phép nhập khẩu (import licences): 12
1.5. Hạn chế xuất khẩu tự nguyện và thoả thuận về thị trường: 13
2. Các biện pháp quản lý giá 13
2.1. Trị giá tính thuế hải quan (custom valuation): 13
2.2. Giá bán tối đa (maximum selling price): 14
2.3. Phí thay đổi (variable import levies): 15
2.4. Phụ thu (surcharges): 15
3. Các biện pháp khác 15
3.1. Đối với doanh nghiệp thương mại nhà nước (TMNN): 15
3.2. Quyền kinh doanh (trading rights): 16
3.3. Các qui định kỹ thuật (technical requirements), tiêu chuẩn (standards) và thủ tục xác định sự
phù hợp: 17
3.4. Kiểm dịch động vật và thực vật (Sanitary and Phytosanitary - SPS): 20
3.5. Biện pháp Tự vệ (Safeguard Measuares): 22
3.6. Trợ cấp và các biện pháp đối kháng (Subsidy and countervailing measures): 27
II.Quản lý nhập khẩu bằng biện pháp sử dụng thuế quan nhập khẩu 32
1.Chính sách thuế nhập khẩu 32
1.1.Chính sách Thuế nhập khẩu tại Việt Nam 32
1
Đánh giá chính sách quản lý nhập khẩu thông qua thuế nhập khẩu tại Việt Nam 40
1.2.Giá trị và cơ cấu mặt hàng nhập khẩu 40
1.3.Mức độ bảo hộ cho các ngành sản xuất trong nước 41
1.4.Nguồn thu Ngân sách Nhà nước 42
2
THỰC TRẠNG CHÍNH SÁCH QUẢN LÝ NHẬP KHẨU CỦA VIỆT NAM HIỆN


NAY
I. Quản lý nhập khẩu bằng các biện pháp phi thuế quan
1. Các biện pháp hạn chế định lượng
Việt Nam đã gia nhập WTO do đó việc WTO quy định ngoài thuế quan, thuế nội địa
và các loại phí khác, các thành viên không được tạo ra hay duy trì những biện pháp
như hạn ngạch, giấy phép hay các biện pháp khác nhằm hạn chế số lượng nhập khẩu từ
những thành viên khác, hay hạn chế số lượng xuất khẩu hoặc bán để xuất khẩu tới các
thành viên khác. Đó là các biện pháp hạn chế định lượng
1.1. Cấm xuất khẩu, nhập khẩu (Prohibitions)
Cấm xuất khẩu, nhập khẩu là biện pháp bảo hộ cao nhất, gây ra hạn chế lớn nhất đối
với thương mại quốc tế. Trong thương mại quốc tế có nhiều trường hợp cấm nhập khẩu
như: cấm hoàn toàn, cấm theo mùa, cấm tạm thời, cấm vận, cấm sản phẩm nhạy cảm,
tạm dừng cấp phép nhập khẩu WTO yêu cầu không được phép áp dụng, nếu không
có lý do chính đáng. Tuy nhiên, các thành viên có thể thi hành các biện pháp cấm xuất
khẩu, nhập khẩu trong một số trường hợp ngoại lệ sau:
- Cần thiết để đảm bảo an ninh quốc gia
- Cần thiết để: bảo vệ đạo đức xã hội; bảo vệ con người, động vật và thực vật;
bảo vệ các tài nguyên thiên nhiên khan hiếm hoặc có liên quan tới việc bảo tồn các tài
nguyên thiên nhiên có thể bị cạn kiệt; bảo vệ các tài sản quốc gia về nghệ thuật, lịch sử
hay khảo cổ, với điều kiện là các biện pháp này cần phải thực hiện kèm theo việc hạn
chế sản xuất hay tiêu dùng nội địa liên quan tới chúng; và liên quan tới nhập khẩu hay
xuất khẩu vàng và bạc.
- Được áp dụng một cách tạm thời để ngăn cản hay giảm bớt sự khan hiếm lương
thực, thực phẩm hay các sản phẩm thiết yếu khác; Cần thiết để áp dụng các tiêu chuẩn
3
hay qui định để phân loại, xếp hạng hay tiếp thị các sản phẩm trong thương mại quốc
tế.

Danh mục hàng cấm nhập khẩu của Việt Nam hiện nay bao gồm vũ khí, đạn dược, vật
liệu nổ; ma tuý; hoá chất độc; pháo các loại; thuốc lá thành phẩm; hàng tiêu dùng đã

qua sử dụng; phương tiện vận tải tay lái nghịch; vật tư, phương tiện đã qua sử dụng;
sản phẩm, vật liệu có chứa amiăng Ngoài ra trong nhiều văn bản pháp luật của Việt
Nam như Luật Bảo vệ môi trường, Luật thuỷ sản, Luật khoáng sản, Luật thương mại,
Pháp lệnh an toàn thực phẩm, Pháp lệnh thú y… có quy định về cấm, hạn chế nhập
khẩu các loài động thực vật quý hiếm, gống cây trồng, vật nuôi phù hợp với công ước
CITES, các loại phế thải, phế liệu, hoá chất độc hại độc hại theo công ước BASEL.
Quy định cấm nhập khẩu ở Việt Nam chủ yếu dựa trên những cân nhắc về mục tiêu an
ninh xã hội. Về cơ bản các quy định về cấm, hạn chế nhập khẩu của Việt Nam vì lý do
môi trường, an toàn và an ninh phù hợp với các quy định của WTO như không gây
phân biệt đối xử, không tạo ra rào cản trá hình đối với thương mại và dựa trên cơ sở
khoa học. Tuy nhiên, trước đây, một số mặt hàng cấm nhập khẩu (thuốc lá điếu, hàng
điện tử đã qua sử dụng, máy móc thiết bị cũ…) nhưng vẫn cho lưu thông trong nước là
vi phạm nguyên tắc không phân biệt đối xử của WTO. WTO yêu cầu Việt Nam phải
sửa đổi các quy định này.
Theo cam kết gia nhập WTO, Việt Nam đã cho nhập khẩu thuốc lá điếu; cho nhập
khẩu xe máy trên 175cc (sau 31/5/2007) nhưng bảo lưu quyền áp dụng các biện pháp
hành chính như độ tuổi người sử dụng và chế độ cấp bằng lái đặc biệt Việt Nam
cũng đã cho nhập khẩu ô tô đã qua sử dụng trong thời gian dưới 5 năm nhưng bảo lưu
quyền áp dụng thuế nhập khẩu ở mức cao, chỉ cho làm thủ tục tại 4 cảng biển, hải quan
Việt Nam được xác định lại giá nhập khẩu và với những yêu cầu khắt khe về an toàn
và khí thải
4
Danh mục hàng hoá cấm xuất khẩu, cấm nhập khẩu
(Ban hành kèm theo Nghị định số 12 /2006/NĐ-CP ngày 23 tháng 01 năm 2006 của
Chính phủ)
Hàng hóa thuộc danh mục này áp dụng cho hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu
hàng hoá mậu dịch, phi mậu dịch, xuất khẩu, nhập khẩu hàng hoá tại khu vực biên
giới với các nước láng giềng; hàng hoá viện trợ Chính phủ, phi Chính phủ.
HÀNG CẤM XUẤT KHẨU :
MÔ TẢ HÀNG HOÁ

1 Vũ khí, đạn dược, vật liệu nổ (trừ vật liệu nổ công nghiệp), trang thiết bị
kỹ thuật quân sự.
(Bộ Quốc phòng công bố danh mục và ghi mã số HS đúng trong Biểu
thuế xuất nhập khẩu).
2 Di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia thuộc sở hữu toàn dân, sở hữu của tổ chức
chính trị, tổ chức chính trị xã hội.
(Bộ Văn hoá - Thông tin hướng dẫn thực hiện, công bố danh mục và ghi
mã số HS đúng trong Biểu thuế xuất nhập khẩu).
3 Các loại văn hoá phẩm thuộc diện cấm phổ biến và lưu hành tại Việt
Nam.
(Bộ Văn hoá - Thông tin hướng dẫn thực hiện, công bố danh mục ghi mã
số HS đúng trong Biểu thuế xuất nhập khẩu).
4 Gỗ tròn, gỗ xẻ từ gỗ rừng tự nhiên trong nước.
5
(Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn hướng dẫn thực hiện, công bố
danh mục và ghi mã số HS đúng trong Biểu thuế xuất nhập khẩu).

5


Động vật, thực vật hoang quý hiếm và giống vật nuôi, cây trồng quý hiếm
thuộc nhóm IA-IB theo quy định tại Nghị định số 48/2002/NĐ-CP ngày
22 tháng 4 năm 2002 của Chính phủ và động vật, thực vật hoang dã quý
hiếm trong "sách đỏ" mà Việt Nam đã cam kết với các tổ chức quốc tế.
(Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn công bố danh mục và ghi mã số
HS đúng trong Biểu thuế xuất nhập khẩu).
6 Các loài thủy sản quý hiếm.
(Bộ Thuỷ sản công bố danh mục và ghi mã số HS đúng trong Biểu thuế
xuất nhập khẩu).
7 Các loại máy mã chuyên dụng và các chương trình phần mềm mật mã sử

dụng trong phạm vi bảo vệ bí mật Nhà nước.
(Bộ Thương mại và Ban Cơ yếu Chính phủ hướng dẫn thực hiện).
8 Hoá chất độc bảng I được quy định trong Công ước cấm vũ khí hoá học
(Bộ Công nghiệp công bố danh mục và ghi mã số HS dùng trong biểu
thuế xuất nhập khẩu).



II. HÀNG CẤM NHẬP KHẨU :
MÔ TẢ HÀNG HOÁ
1 Vũ khí; đạn dược; vật liệu nổ, trừ vật liệu nổ công nghiệp; trang thiết bị kỹ thuật
6
quân sự.
(Bộ Quốc phòng công bố danh mục và ghi mã số HS đúng trong Biểu thuế xuất nhập
khẩu).
2 Pháo các loại (trừ pháo hiệu cho an toàn hàng hải theo hướng dẫn của Bộ Giao thông
vận tải); các loại thiết bị gây nhiễu máy đo tốc độ phương tiện giao thông.
(Bộ Công an hướng dẫn thực hiện, công bố danh mục và ghi mã số HS đúng trong
Biểu thuế xuất nhập khẩu).
3 Hàng tiêu dùng đã qua sử dụng, bao gồm các nhóm hàng:
- Hàng dệt may, giày dép, quần áo
- Hàng điện tử
- Hàng điện lạnh
- Hàng điện gia dụng
- Thiết bị y tế
- Hàng trang trí nội thất
- Hàng gia dụng bằng gốm, sành sứ, thuỷ tinh, kim loại, nhựa, cao su, chất dẻo
và chất liệu khác.
(Bộ Thương mại cụ thể hoá các mặt hàng trên và ghi mã số HS đúng trong Biểu thuế
xuất nhập khẩu).

- Hàng hoá là sản phẩm công nghệ thông tin đã qua sử dụng.
(Bộ Bưu chính, Viễn thông cụ thể hoá mặt hàng và ghi mã số HS đúng trong Biểu
thuế xuất nhập khẩu).
4 Các loại văn hoá phẩm cấm phổ biến và lưu hành tại Việt Nam.
7
(Bộ Văn hoá - Thông tin hướng dẫn thực hiện, công bố danh mục và ghi mã số HS
đúng trong Biểu thuế xuất nhập khẩu).
5 Phương tiện vận tải tay lái bên phải (kể cả dạng tháo rời và dạng đã được chuyển đổi
tay lái trước khi nhập khẩu vào Việt Nam), trừ các loại phương tiện chuyên dùng có
tay lái bên phải hoạt động trong phạm vi hẹp gồm: xe cần cẩu; máy đào kênh rãnh; xe
quét đường, tưới đường; xe chở rác và chất thải sinh hoạt; xe thi công mặt đường; xe
chở khách trong sân bay và xe nâng hàng trong kho, cảng; xe bơm bê tông; xe chỉ di
chuyển trong sân gol, công viên.
(Bộ Giao thông vận tải công bố danh mục theo mã số HS đúng trong Biểu thuế xuất
nhập khẩu).
6 Vật tư, phương tiện đã qua sử dụng, gồm:
- Máy, khung, săm, lốp, phụ tùng, động cơ của ô tô, máy kéo và xe hai bánh, ba bánh
gắn máy;
(Bộ Giao thông vận tải công bố danh mục và ghi mã số HS đúng trong Biểu thuế
xuất nhập khẩu).
- Khung gầm của ô tô, máy kéo có gắn động cơ (kể cả khung gầm mới có gắn động
cơ đã qua sử dụng và hoặc khung gầm đã qua sử dụng có gắn động cơ mới);
(Bộ Giao thông vận tải công bố danh mục và ghi mã số HS đúng trong Biểu thuế
xuất nhập khẩu).
- Xe đạp;
(Bộ Công nghiệp công bố danh mục và ghi mã số HS đúng trong Biểu thuế xuất
nhập khẩu).
- Xe hai bánh, ba bánh gắn máy;
(Bộ Công nghiệp công bố danh mục và ghi mã số HS đúng trong Biểu thuế xuất
8

nhập khẩu).
- ô tô cứu thương;
(Bộ Giao thông Vận tải công bố danh mục và ghi mã số HS đúng trong Biểu thuế
xuất nhập khẩu).
- ô tô các loại: đã thay đổi kết cấu chuyển đổi công năng so với thiết kế ban đầu; bị
đục sửa số khung, số máy.
7 Phế liệu, phế thải, thiết bị làm lạnh sử dụng C.F.C.
(Bộ Tài nguyên và Môi trường công bố danh mục và ghi rõ mã số HS đúng trong
Biểu thuế xuất nhập khẩu).
8 Sản phẩm, vật liệu có chứa amiăng thuộc nhóm amfibole.
(Bộ Xây dựng công bố danh mục và ghi rõ mã số HS đúng trong Biểu thuế xuất nhập
khẩu).
9 Hoá chất độc Bảng I được quy định trong Công ước vũ khí hoá học (Bộ Công nghiệp
công bố danh mục và ghi rõ mã số HS dùng trong Biên thuế xuất nhập khẩu).
1.2. Hạn ngạch (quotas)
Hạn ngạch là quy định quản lý thương mại hạn chế về số lượng hoặc trị giá nhập khẩu
một mặt hàng nào đó từ một thị trường trong một thời gian có thể xác định hoặc không
xác định cụ thể (ví dụ một số thành viên WTO có thể áp dụng hạn ngạch đối với hàng
dệt may nhập khẩu từ các nước không phải là thành viên WTO). Có nhiều loại hạn
ngạch khác nhau như: hạn ngạch toàn cầu, hạn ngạch song phương, hạn ngạch theo
mùa, hạn ngạch đối với sản phẩm nhạy cảm, hạn ngạch xuất khẩu (liên quan đến giảm
bớt sự khan hiếm lương thực hay nguồn nguyên liệu nào đó ), hạn ngạch liên quan
đến bán hàng hoá trong nội địa Nhìn chung, WTO không cho phép các thành viên áp
9
dụng biện pháp hạn ngạch. Tuy nhiên, trong một số trường hợp đặc biệt, hạn ngạch có
thể được áp dụng trên cơ sở không phân biệt đối xử như: Được áp dụng một cách tạm
thời để ngăn cản hay giảm bớt sự khan hiếm lương thực, thực phẩm hay các sản phẩm
thiết yếu khác; Cần thiết để áp dụng các tiêu chuẩn hay qui định để phân loại
(classification), xếp hạng (grading) hay tiếp thị các sản phẩm trong thương mại quốc
tế; Các nông sản và thuỷ sản.

Có thể hạn chế số lượng hay giá trị hàng nhập khẩu để bảo vệ sự cân bằng cán cân
thanh toán. Việc tạo ra, duy trì hay mở rộng hạn chế số lượng vì mục đích này không
được vượt quá mức cần thiết: Để ngăn ngừa sự đe doạ sắp xảy ra hay để chặn lại
sự thiếu hụt nghiêm trọng dự trữ tiền tệ; hay trong trường hợp một thành viên có dự
trữ tiền tệ rất thấp, để đạt được một mức tăng hợp lý dự trữ tiền tệ.
Việt Nam hiện nay áp dụng hạn ngạch nhập khẩu đối với một số mặt hàng như sau:
đường, muối, vàng. Đây là 3 mặt hàng được áp quota nhập khẩu theo từng năm, nếu có
những vấn đề đột xuất xảy ra ở thị trường trong nước hoặc sự thay đổi trong chính sách
của nhà nước thì nhà nước mới cấp thêm quota nhập khẩu trong các trường hợp này.
10
1.3. Hạn ngạch thuế quan (Tariff Rate Quota-TRQ)
Đối với các sản phẩm nông nghiệp (Phụ lục I, Hiệp định Nông nghiệp) có thể áp dụng
một hình thức hạn ngạch đặc biệt gọi là hạn ngạch thuế quan. Theo Hiệp định Nông
nghiệp, các thành viên không được áp dụng các biện pháp phi thuế quan đối với nông
sản. Tất cả các biện pháp phi thuế quan cần phải được thuế hoá(Phụ lục V, Hiệp định
Nông nghiệp). Thông thường với mức thuế hoá tại vòng Uruguay thì mức nhập khẩu
nông sản hầu như không đáng kể.
Để đảm bảo mở cửa thị trường ở mức độ nhất định, WTO cho phép áp dụng biện pháp
TRQ. TRQ cho phép sử dụng hai mức thuế suất, một mức thấp cho khối lượng trong
hạn ngạch, mức thứ hai có thể cao hơn cho nhập khẩu ngoài hạn ngạch. Hạn ngạch có
thể được tính bằng mức chênh lệch giữa tiêu dùng và sản xuất trong nước. Việc quản
lý TRQ tuy khó khăn nhưng sẽ đáp ứng được người tiêu dùng muốn sử dụng hàng
nhập khẩu giá rẻ, đồng thời bảo vệ được người sản xuất trong nước. Tại vòng
Uruguay, TRQ được thông qua để đảm bảo tiếp cận thị trường hiện tại (hay tối thiểu)
khi các biện pháp phi thuế quan đã được thuế hoá (Điều IV, Hiệp định Nông nghiệp).
Cũng tại vòng này, hạn ngạch được tính để đảm bảo các yêu cầu về tiếp cận thị trường
hiện tại và tối thiểu.
Theo cam kết gia nhập WTO, Việt Nam đã bảo lưu được quyền áp dụng TRQ đối với
4 nhóm mặt hàng là: đường, trứng gia cầm, lá thuốc lá và muối (riêng muối là mặt
hàng WTO không coi là nông sản, do vậy thường không được áp dụng công cụ hạn

ngạch thuế quan nhưng Việt Nam kiên quyết đàm phán quyền áp dụng để bảo vệ lợi
ích của diêm dân). Đối với 4 mặt hàng này, mức thuế trong hạn ngạch là tương đương
mức thuế MFN hiện hành (trứng 40%, đường thô 25%, đường tinh 40-50%, thuốc lá lá
30%, muối ăn 30%), mức thuế ngoài hạn ngạch cao hơn rất nhiều.
11
1.4. Giấy phép nhập khẩu (import licences):
Giấy phép nhập khẩu được xác định như là các thủ tục hành chính được sử dụng để
thực hiện chế độ cấp phép nhập khẩu, đòi hỏi đệ trình đơn hay các tài liệu khác (không
liên quan tới mục đích hải quan) tới các cơ quan hành chính thích hợp là điều kiện tiên
quyết để được phép nhập khẩu. Tuy nhiên, thủ tục hành chính để thực hiện chế độ cấp
phép không được bóp méo thương mại do sử dụng không thích hợp các thủ tục đó. Các
qui tắc đối với thủ tục cấp phép nhập khẩu phải được áp dụng trung lập (neutral) và
được quản lý theo một cách thức công bằng và hợp lý. Mặt khác, cần phải công khai
các thông tin liên quan tới thủ tục nộp đơn, tiêu chuẩn của nhà nhập khẩu, cơ quan tiếp
nhận, danh sách các sản phẩm đòi hỏi giấy phép trong thời hạn 21 ngày trước khi
chúng có hiệu lực. Người nộp đơn chỉ cần tiếp cận tới một cơ quan hành chính. Trường
hợp đặc biệt không được quá ba cơ quan. Nhà nhập khẩu hàng cần giấy phép có thể
tiếp cận ngoại tệ cần thiết trên cùng một cơ sở với hàng nhập khẩu không cần giấy
phép.
Cấp phép nhập khẩu tự động: khi tất cả đơn đều được chấp thuận, không hạn chế khối
lượng nhập khẩu trong phạm vi điều chỉnh, không đặt ra hạn chế với nhà nhập khẩu,
được chấp thuận trong vòng 10 ngày.
Cấp phép nhập khẩu không tự động: là thủ tục cấp phép không phải là cấp phép tự
động. Cấp phép không tự động không được gây ra hạn chế hay bóp méo thương mại
hơn mức các điều kiện do yêu cầu cấp phép đặt ra. Các thủ tục cấp phép không tự động
cần phải tương ứng về phạm vi và thời hạn với biện pháp mà chúng được sử dụng để
thực hiện, và sẽ không đặt ra những gánh nặng hành chính hơn mức cần thiết để quản
lý biện pháp đó. Trong trường hợp đòi hỏi cấp phép không vì mục đích quản lý số
lượng, các thành viên phải công bố đầy đủ thông tin về cơ sở để cấp phép.
Theo cam kết gia nhập WTO, Việt Nam bảo lưu quyền cấp phép nhập khẩu văn

hoá phẩm, chủ yếu để kiểm duyệt nội dung, nhưng bảo đảm cơ chế cấp phép nhằm
12
mục đích kiểm duyệt này sẽ tuân thủ theo các quy định về minh bạch hoá và không
phân biệt đối xử của WTO.
1.5. Hạn chế xuất khẩu tự nguyện và thoả thuận về thị trường:
Trước 1995 do GATT cấm sử dụng hạn ngạch nhập khẩu, nên một số nước đã sử dụng
biện pháp hạn chế xuất khẩu "tự nguyện". Hạn chế xuất khẩu tự nguyện là một thoả
thuận song phương giữa hai chính phủ. Nước xuất khẩu giới hạn xuất khẩu một số sản
phẩm nhất định tới nước nhập khẩu. Nói chung, ngành công nghiệp đang phải cạnh
tranh gay gắt với hàng nhập khẩu tương tự gây áp lực với chính phủ đàm phán về hạn
chế xuất khẩu với nước xuất khẩu để giảm bớt áp lực cạnh tranh. Các nhà xuất khẩu bị
"bắt buộc" chấp nhận số lượng đó và bị đe doạ nhận được các hành động khắc nghiệt
hơn nếu không chấp nhận thoả thuận tự nguyện hạn chế số lượng xuất khẩu. Chính phủ
xuất khẩu hoặc chính các nhà xuất khẩu quản lý thoả thuận này. Hạn chế xuất khẩu
tình nguyện từng là một công cụ quan trọng hạn chế thương mại và đã được sử dụng
khá rộng rãi. Trong khi hạn ngạch được áp dụng chung thì hạn chế xuất khẩu tình
nguyện chỉ áp dụng với một số nước xuất khẩu chủ yếu, do đó tạo ra sự phân biệt đối
xử giữa các thành viên và rõ ràng vi phạm nguyên tắc tối huệ quốc (MFN). Mỗi thành
viên không được tìm kiếm, thực hiện hay duy trì bất cứ thoả thuận hạn chế xuất khẩu,
thoả thuận về thị trường nào hay bất cứ biện pháp tương tự khác lên phía xuất khẩu
hay nhập khẩu. Điều này bao gồm các hành động do một thành viên thực hiện riêng rẽ
cũng như các hành động do hai thành viên trở lên thực hiện
2. Các biện pháp quản lý giá
Các biện pháp quản lý giá nhập khẩu hay giá bán trong nước có thể có tác động trực
tiếp hay gián tiếp tới xuất nhập khẩu hàng hoá.
2.1. Trị giá tính thuế hải quan (custom valuation):
Việc xác định trị giá tính thuế hải quan tuỳ tiện có thể bóp méo kinh doanh xuất nhập
khẩu hàng hoá. WTO qui định giá tính thuế hàng nhập khẩu là giá giao dịch, tức là giá
13
đã trả hay phải trả cho hàng hoá khi được bán để xuất khẩu đến nước nhập khẩu có

tính đến những điều chỉnh nhất định như phí hoa hồng, môi giới, đóng gói. WTO
không cho phép xác định trị giá tính thuế quan theo các cách sau:
- giá nhập khẩu tối thiểu;
- giá bán trong nước của hàng hoá tương tự được sản xuất tại nước mà hàng hoá
cần xác định trị giá hải quan được nhập khẩu;
- một hệ thống cho phép chấp nhận giá cao hơn trong hai loại giá sử dụng để xác
định trị giá tính thuế quan của hàng hoá;
- giá bán của hàng hoá tại thị trường nước xuất khẩu;
- định giá trên có sở giả định hay tuỳ tiện.
WTO có Hiệp định về xác định trị giá tính thuế hải quan (CVA) Mục tiêu của CVA là
tất cả các nước thành viên của WTO cần áp dụng các quy định một cách đồng bộ, rõ
ràng và công bằng trong lĩnh vực trị giá hải quan.
Các nước đang phát triển được hưởng lợi từ CVA vì hiệp định này tạo ra sự minh bạch
hơn, khả năng dự báo cao hơn và khách quan hơn trong tính toán trị giá hải quan. Tuy
nhiên, nhiều nước đang phát triển như Việt Nam gặp phải các vướng mắc khi thực hiện
CVA vì đòi hỏi phải có nhiều nguồn lực, đòi hỏi phải có các thể chế có hiệu quả, các
cơ quan hải quan hiện đại và có năng lực, phải có các chương trình giáo dục và đào tạo
cho những công chức nắm giữ các vị trí chủ chốt, cần áp dụng công nghệ mới.
2.2. Giá bán tối đa (maximum selling price):
Giá bán tối đa trong nước đối với một hàng hoá nào đó có thể hạn chế nhập khẩu, đặc
biệt là đối với những nhà xuất khẩu không có khả năng cạnh tranh cao. Các thành viên
thừa nhận là các biện pháp quản lý giá tối đa dù cho có phù hợp với nguyên tắc không
phân biệt đối xử quốc gia (NT) cũng có thể có tác động xấu tới lợi ích của các thành
viên đang cung cấp hàng nhập khẩu. Do đó các thành viên đang áp dụng các biện pháp
14
quản lý giá tối đa cần phải tính đến lợi ích của các thành viên xuất khẩu nhằm tránh
mở rộng các tác động xấu đó.
Mặc dù các qui định về giá bán tối đa trong nước này thiếu tính ràng buộc nhưng vấn
đề này thường được các thành viên đặt ra với các nước đang gia nhập, như Việt Nam
2.3. Phí thay đổi (variable import levies):

Những loại phí thay đổi cản trở đáng kể thương mại do tính không minh bạch của
chúng. Hiệp định nông nghiệp qui định phải thuế hoá các loại phí thay đổi
2.4. Phụ thu (surcharges):
Tất cả các loại phí và phụ thu (không phải là thuế xuất nhập khẩu và các loại thuế nội
địa khác) đánh vào hàng xuất nhập khẩu chỉ được giới hạn ở mức tương ứng chi phí
dịch vụ thực sự bỏ ra và không được sử dụng như sự bảo hộ gián tiếp các sản phẩm
trong nước, hay như thuế xuất nhập khẩu, hay cho mục đích thu ngân sách.
Theo cam kết gia nhập WTO, Việt Nam cam kết tuân thủ Hiệp định về xác định trị giá
tính thuế hải quan của WTO ngay từ khi gia nhập. Việt Nam sẽ không áp dụng giá tính
thuế tối thiểu (trên thực tế đã được bãi bỏ từ trước khi gia nhập) và sẽ tuân thủ hoàn
toàn các qui định của WTO về nguyên tắc và trình tự xác định trị giá tính thuế nhập
khẩu. Việt Nam cũng cam kết sửa đổi một số văn bản về xác định trị giá tính thuế chưa
hoàn toàn phù hợp với WTO. Tuy nhiên, đối với ô tô cũ nhập khẩu thì Việt Nam
đã bảo lưu được quyền xác định lại giá nhập khẩu nhằm tránh gian lận thương mại
3. Các biện pháp khác
3.1. Đối với doanh nghiệp thương mại nhà nước (TMNN):
Các doanh nghiệp không phân biệt hình thức sở hữu được Nhà nước ban cho những
đặc quyền nhất định (doanh nghiệp thương mại nhà nước - DNTMNN) có thể gây ra
những trở ngại lớn tới thương mại quốc tế. Các thành viên phải cam kết các hoạt động
xuất nhập khẩu của các DNTMNN phù hợp với các nguyên tắc chung về đối xử không
15
phân biệt với các doanh nghiệp tư nhân và phải tiến hành các hoạt động mua bán hàng
hoá chỉ dựa trên tiêu chí thương mại, chẳng hạn như giá cả, chất lượng, tiếp thị, vận
tải Đồng thời phải dành cho các doanh nghiệp của các thành viên khác những cơ hội
thích hợp tham gia cạnh tranh trong việc mua bán hàng hoá phù hợp với thông lệ kinh
doanh chung. Các thành viên có nghĩa vụ thông báo cho WTO về các DNTMNN của
họ.
3.2. Quyền kinh doanh (trading rights):
WTO không có định nghĩa cụ thể về quyền kinh doanh. Quyền kinh doanh hay còn gọi
là quyền thương mại trong lĩnh vực hàng hoá là quyền dành cho một số công ty nhất

định được tiến hành hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu. Những nước có nền kinh tế kế
hoạch hoá tập trung hoặc những nước đang chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường
thường sử dụng quyền kinh doanh như một công cụ thương mại để hạn chế xuất, nhập
khẩu. Quyền kinh doanh có thể chỉ giới hạn ở việc xuất khẩu một mặt hàng nhất định
hoặc kinh doanh một loại mặt hàng nào đó. Các công ty không nhất thiết phải là công
ty nhà nước mới được hưởng quyền kinh doanh.
Theo cam kết gia nhập WTO, các DNNN của Việt Nam sẽ hoàn toàn hoạt động theo
tiêu chí thương mại thông thường, Nhà nước không can thiệp trực tiếp hay gián tiếp
vào hoạt động của DNNN và Việt Nam không coi mua sắm của DNNN là mua sắm
chính phủ. Khái niệm DNNN mà Việt Nam cam kết về diện tương đối hẹp, chỉ bao
gồm các doanh nghiệp do nhà nước sở hữu hoặc kiểm soát, không bao gồm tất cả các
"doanh nghiệp có vốn đầu tư của Nhà nước". Nhà nước với tư cách là một cổ đông
hoặc thành viên góp vốn được can thiệp bình đẳng vào hoạt động của doanh nghiệp
như các cổ đông hoặc thành viên góp vốn khác.
Về cam kết liên quan đến quyền kinh doanh (quyền xuất khẩu và nhập khẩu) là vấn đề
được nhiều thành viên WTO quan tâm bởi Việt Nam đã có sự phân biệt đối xử về
quyền xuất nhập khẩu giữa doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và doanh nghiệp
100% vốn trong nước. Do đây là lĩnh vực Việt Nam đã có cam kết chính thức với Hoa
16
Kỳ trong Hiệp định thương mại song phương Việt Nam-Hoa Kỳ nên tuân thủ quy định
của WTO, Việt Nam đồng ý cho doanh nghiệp và cá nhân nước ngoài được quyền xuất
khẩu và nhập khẩu hàng hóa như doanh nghiệp và cá nhân Việt Nam kể từ khi gia
nhập, nhưng Việt Nam bảo lưu được một số nhóm mặt hàng chỉ có DNNN được chỉ
định mới được nhập khẩu (như xăng dầu, thuốc lá điếu, xì gà, băng đĩa hình, báo, tạp
chí) và một số mặt hàng nhạy cảm khác ta chỉ cho phép sau một thời gian chuyển
đổi (như gạo và dược phẩm).
Về quyền xuất nhập khẩu, Việt Nam cam kết cho phép doanh nghiệp và cá nhân nước
ngoài không có hiện diện tại Việt Nam được đăng ký quyền xuất nhập khẩu tại Việt
Nam, tuy nhiên đây là quyền không tự động:
- Quyền xuất nhập khẩu chỉ là quyền đứng tên trên tờ khai hải quan để làm thủ tục

xuất nhập khẩu;
- Trong mọi trường hợp, doanh nghiệp và cá nhân nước ngoài sẽ không được tự
động tham gia vào hệ thống phân phối trong nước. Các cam kết về quyền kinh doanh,
sẽ không ảnh hưởng đến quyền của ta trong việc đưa ra các quy định để quản lý dịch
vụ phân phối, đặc biệt là đối với các sản phẩm nhạy cảm như dược phẩm, xăng dầu,
báo, tạp chí vv…
3.3. Các qui định kỹ thuật (technical requirements), tiêu chuẩn (standards) và thủ
tục xác định sự phù hợp:

Quy định kỹ thuật và tiêu chuẩn: Tiêu chuẩn và quy định kỹ thuật đều đặt ra
các yêu cầu cụ thể về physical đối với sản phẩm. Các yêu cầu này có thể liên quan tới
kích thước, hình dáng, thiết kế, độ dài và các chức năng của sản phẩm. Các yêu cầu
này cũng có thể quy định về nhãn mác, đóng gói, ký hiệu sản phẩm và mở rộng tới các
quy trình và phương pháp sản phẩm liên quan tới sản phẩm. Tuy nhiên, điểm khác biệt
cơ bản giữa tiêu chuẩn và quy định kỹ thuật là ở chỗ sự tuân thủ các tiêu chuẩn là
mang tính tự nguyện trong khi sự tuân thủ với các quy định kỹ thuật là bắt buộc. Trên
17
thực tế, nếu một sản phẩm nhập khẩu không đáp ứng các yêu cầu của quy định kỹ
thuật thì nó sẽ không được phép bán ra thị trường. Còn đối với tiêu chuẩn, nếu hàng
nhập khẩu không tuân thủ các yêu cầu của tiêu chuẩn đặt ra thì vẫn được phép bán ra
thị trường, mặc dù có thể bị người tiêu dùng tẩy chay. Mục đích của các quy định kỹ
thuật và tiêu chuẩn là bảo vệ an toàn, sức khoẻ của con người, bảo vệ sức khoẻ, đời
sống động thực vật, bảo vệ môi trường, ngăn chặn các hành vi lừa dối. Các tiêu chuẩn
và quy định liên quan đến kỹ thuật là một trong những cản trở lớn nhất đối với việc
tiếp cận các thị trường nước ngoài của các nước đang và kém phát triển vì những nước
này chưa có đủ trình độ và kỹ năng về công nghệ sản xuất, chế biến cũng như công
nghệ bảo quản độ an toàn cho các sản phẩm hàng hoá, nhất là các loại lương thực, thực
phẩm. Các nước phát triển thường yêu cầu các nước đang và kém phát triển phải thực
hiện các quy định rất chặt chẽ liên quan tới môi trường và nhiều khi còn yêu cầu các
nước này phải xuất trình trước các sản phẩm mẫu để họ kiểm tra, thử nghiệm Điều

này đã làm phức tạp thêm rất nhiều các thủ tục kiểm tra và chứng nhận sản phẩm xuất
khẩu.

Các thủ tục đánh giá sự phù hợp: chẳng hạn như xét nghiệm, thẩm tra xác
thực, kiểm định, chứng nhận - được sử dụng để đảm bảo rằng các sản phẩm đáp ứng
các yêu cầu kỹ thuật do các quy định kỹ thuật và tiêu chuẩn đặt ra. WTO yêu cầu các
qui định kỹ thuật, tiêu chuẩn cũng như thủ tục để đánh giá sự phù hợp với các qui định
kỹ thuật và tiêu chuẩn này không được tạo ra các trở ngại không cần thiết đối với
thương mại quốc tế, phải đảm bảo nguyên tắc không phân biệt đối xử và đãi ngộ quốc
gia, phải minh bạch và tiến tới hài hoà hoá. Nhưng các thành viên có thể đưa ra các
biện pháp cần thiết để bảo vệ môi trường, sức khoẻ con người và động thực vật, ngăn
ngừa các hành động xấu mà nó cho là thích hợp, với điều kiện là các biện pháp đó
không được áp dụng theo cách thức tạo ra sự phân biệt đối xử tuỳ tiện, hay hạn chế vô
lý đối với thương mại quốc tế.
Cụ thể Việt Nam : Một hàng rào kỹ thuật để kiểm soát NK vẫn chưa được đặt ra.
Thứ trưởng Bộ Công thương ông Nguyễn Thành Biên cho rằng, Việt Nam không đặt
18
ra vấn đề xây dựng HRKT bởi nếu có hàng rào này thì phải được áp dụng cho cả hàng
hóa sản xuất trong nước và hàng NK một cách công bằng. Một hàng rào tiêu chuẩn
như vậy sẽ có tác động nhỏ đến hàng sản xuất trong nước. Cũng theo thứ trưởng
Nguyễn Thành Biên, thay vì có hàng rào kỹ thuật, Việt Nam nên thực hiện những biện
pháp kiểm tra chất lượng hàng hóa khi NK. Theo suy định của Pháp luật, các bộ,
ngành đang xây dựng những tiêu chuẩn kỹ thuật theo lĩnh vực quản lý chuyênngành,
Bộ Công thương cũng đang xây dựng các văn bản hướng dẫn nhằm áp dụng tốt hơn
các tiêu chuẩn cho hàng hóa mà ngành Công thương quản lý. Với nhận thức, phần
nhiều hàng giả, hàng nhái là được nhập lậu, ngày 20-5-2009, Bộ Công thương đã ban
hành quy định xử phạt liên quan đến đầu cơ hàng hóa, buôn bán hàng giả, hàng kém
chất lượng… Đây là những quy định pháp luật sẽ có tác dụng kiểm soát việc NK hàng
hóa và nhập siêu. Các chuyên gia kinh tế nhận định, các biện pháp kiểm soát NK mà
ngành Công thương thực hiện thời gian vừa qua chưa đạt được hiệu quả như mong

muốn. Thể hiện rõ nét là nhiều mặt hàng trong nước lúc này đã bị hàng ngọai “đè”.
Theo Cục quản lý Chất lượng hàng hóa-Tổng cục TCĐLCL, lúc này có nhiều sản
phẩm kém chất lượng của TQ đang tràn lan trên thị trường nội địa, có những sản phẩm
về dệt may, quần áo trẻ em, đồ chơi có nghi vấn tồn dư các chất bảo quản các chất gây
ra ung thư và ảnh hưởng xấu đến sức khỏe. Còn ở một trạng thái khác, nhiều nhóm
hàng trong nước hiện nay đang kiến nghị cơ quan chức năng Việt Nam đòi tăng thuế
NK để chống sự NK ồ ạt vào trong nước. Đánh giá về thực trạng hàng rào kỹ thuật của
các bộ, ngành xây dựng nhằm bảo vệ sản xuất trong nước hợp nguyên tắc của WTO,
ông Vũ Khoan, nguyên Phó Thủ tướng Chính phủ, hiện là đặc phái viên của Thủ tướng
Chính phủ, người rất am tường về WTO băn khoăn: "Hàng rào kỹ thuật của Việt Nam
còn rất yếu, quá ít, chưa tinh vi. Muốn hội nhập cho tốt phải xây dựng bằng được hàng
rào kỹ thuật đó".
19
3.4. Kiểm dịch động vật và thực vật (Sanitary and Phytosanitary - SPS):
Hiệp định về các biện pháp Vệ sinh dịch tễ (SPS) của WTO bao gồm các biện pháp
nhằm bảo vệ cuộc sống, sức khoẻ của con người và động vật. Trong các quy định của
Hiệp định này, có cả các quy định nhằm phòng tránh những rủi ro về vệ sinh của hàng
hoá có thể phát sinh từ các chất phụ gia, các chất gây độc tố và chất có hại đối với cơ
thể con người có trong các loại lương thực, thực phẩm và đồ uống. Hiệp định cũng đưa
ra các quy định về việc ngăn chặn sự lây lan của các loại thực phẩm có hại Các biện
pháp được quy định trong Hiệp định SPS cũng nhằm mục đích đảm bảo rằng các quy
định về an toàn và sức khoẻ không có những ảnh hưởng quá mức đến thương mại quốc
tế.
Hiệp định cũng yêu cầu các biện pháp SPS, có tiêu chuẩn yêu cầu vượt quá các tiêu
chuẩn quốc tế, nếu áp dụng cần phải dựa trên các bằng chứng khoa học và phải có các
đánh giá rủi ro. Hiệp định quy định rằng các biện pháp đưa vào áp dụng không được có
các tác động hạn chế thương mại nhiều hơn mức độ bắt buộc và cần thiết phải hạn chế.
Điều này có nghĩa là khi các thành viên áp dụng các biện pháp SPS thì trong một
chừng mực nào đó sẽ có tác động hạn chế thương mại, nhưng Hiệp định về SPS đưa ra
quy định này để không khuyến khích hoặc cấm các thành viên WTO áp dụng các biện

pháp SPS có tác động hạn chế thương mại không cần thiết. Mục tiêu này nhằm cho các
thành viên chọn lựa được mức bảo hộ vệ sinh kiểm dịch cần thiết và phù hợp. Cũng
trong khuôn khổ của Hiệp định SPS, các Thành viên WTO cũng được yêu cầu thông
báo cho Uỷ ban chức năng có liên quan của WTO các biện pháp SPS đang áp dụng mà
có các ảnh hưởng đến thương mại, đồng thời phải thành lập các cơ quan Quốc gia có
chức năng kiểm tra các biện pháp này và chịu trách nhiệm trong việc cung cấp thông
tin của thành viên đó.
Hiệp định SPS cũng quy định về việc trợ giúp kỹ thuật cho các thành viên LDCs nhằm
tăng cường năng lực cho các thành viên này trong quá trình triển khai các quy định
trong Hiệp định này. Cũng giống như các quy định trong Hiệp định về các hàng rào kỹ
20
thuật đối với thương mại (TBT), Hiệp định này cũng đưa ra quy định về việc cho các
nước đang phát triển và các nước LDCs được hưởng các đãi ngộ đặc biệt trong quá
trình thực hiện Hiệp định.
Ở nhiều nước phát triển, các quy định về SPS bao gồm các luật, Nghị định, quy định,
yêu cầu và thủ tục liên quan như: các tiêu chuẩn đối với sản phẩm cuối cùng; các
phương pháp sản xuất và chế biến; các thủ tục xét nghiệm, giám định, chứng nhận và
chấp thuận; những xử lý cách ly bao gồm các yêu cầu liên quan tới việc vận chuyển
cây trồng và vật nuôi, hay các chất nuôi dưỡng chúng trong quá trình vận chuyển;
những quy định về các phương pháp thống kê, thủ tục chọn mẫu và các phương pháp
đánh giá rủi ro liên quan; các yêu cầu về đóng gói và nhãn mác liên quan trực tiếp tới
an toàn thực phẩm. Nhìn chung các biện pháp kiểm dịch động thực vật là nhằm mục
đích phát hiện ra dư lượng độc tố ( kháng sinh, hoá chất) và dư lượng vi sinh (nẫm, côn
trùng) có trong sản phẩm. HACCP là một trong những biện pháp thường được áp dụng
trong thương mại quốc tế để kiểm soát chất lượng của hàng thuỷ sản và thịt.
Theo quy định của Hiệp định SPS:
- Các thành viên WTO có thể ban hành hay thực hiện các biện pháp cần thiết để
bảo vệ sức khoẻ con người, động vật và thực vật với điều kiện các biện pháp này
không được áp dụng theo cách thức tạo ra sự phân biệt đối xử không hợp lý và tuỳ
tiện, hay bóp méo thương mại.

- Các thành viên phải đảm bảo là việc áp dụng của bất kỳ biện pháp nào chỉ với
phạm vi và mức độ cần thiết để bảo vệ sức khoẻ con người, động vật và thực vật, cũng
như phải dựa trên các cơ sở khoa học và không được phép duy trì nếu không có chứng
cớ khoa học đầy đủ.
- Trong trường hợp chứng cớ khoa học liên quan không đầy đủ, một thành viên
có thể áp dụng một cách tạm thời các biện pháp kiểm dịch động vật và thực vật trên cơ
sở thông tin xác đáng sẵn có, kể cả các thông tin từ các tổ chức quốc tế liên quan cũng
21
như các biện pháp kiểm dịch của các thành viên khác. Trong những trường hợp như
vậy, các thành viên sẽ tìm kiếm các thông tin bổ sung cần thiết cho sự đánh giá rủi ro
khách quan hơn. Đồng thời tiến hành xem xét đánh giá các biện pháp tạm thời này
trong một thời hạn hợp lý.
- Các thành viên đảm bảo rằng các biện pháp SPS được dựa trên đánh giá rủi ro
đối với sức khoẻ con người, động vật và thực vật, tuỳ theo hoàn cảnh, có cân nhắc tới
những kỹ thuật đánh giá rủi ro của các tổ chức quốc tế liên quan.
Trong quá trình đàm phán WTO, Việt Nam đã phải cam kết sửa đổi/loại bỏ các quy
định về vệ sinh và kiểm dịch động thực vật trái với quy định của WTO. Chính phủ chỉ
định Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (MARD) là cơ quan chỉ đạo quốc gia có
trách nhiệm thông báo các vấn đề về SPS. Hiện nay, Việt Nam là thành viên của các tổ
chức OIE, CODEX và IPPC (cơ quan xác định tiêu chuẩn của WTO).
Thực tế Việt Nam hiện nay:
Việt Nam chủ yếu nhập khẩu động thực vật từ Trung Quốc qua 5 cửa khẩu ở các tỉnh:
Lạng Sơn, Lào Cai, Quảng Ninh, Hà Giang. Các loại động thực vật nhập khẩu là: thủy
hải sản; gia súc gia cầm và cá sản phẩm làm từ gia súc gia cầm. ở các cửa khẩu này đã
có các trạm kiểm dịch động thực vật nhập khẩu, tuy nhiên mới chỉ mang tính hình
thức, hiệu quả không cao. Do vậy, có thể nói biện pháp quản lý nhập khẩu bằng kiểm
dịch động vật và thực vật ở nước ta gần như không có tác dụng. Chưa kể đến tình trạng
nhập lậu các mặt hàng kể trên cũng đã gây cho các cơ quan chức năng nhiều đau đầu
trong công tác quản lý.
3.5. Biện pháp Tự vệ (Safeguard Measuares):

Trong khuôn khổ WTO có các quy định về các biện pháp Tự vệ như sau:
22
- Tự vệ khẩn cấp đối với hàng nhập khẩu: được quy định tại Điều XIX GATT
1947 và Hiệp định về Tự vệ;
- Tự vệ đặc biệt đối với hàng nông sản: được quy định tại Hiệp định Nông nghiệp
(Điều 5): Tự vệ đặc biệt chỉ áp dụng đối với các mặt hàng nông sản trước đó đã được
thuế hoá và được ghi rõ trong “Danh mục nhượng bộ”, không cần áp dụng các thủ tục
thông thường ở Điều XIX, GATT 1947. Tuy nhiên, biện pháp này chủ yếu được áp
dụng tại Vòng Uruguay và hầu như không được áp dụng đối với các nước gia nhập
WTO sau năm 1995;
- Tự vệ quá độ (trong thời gian chuyển đổi) đối với hàng dệt may: được quy định
tại Hiệp định về hàng Dệt may (Điều 6), theo đó chỉ áp dụng đối với một số sản phẩm
dệt may và theo thủ tục của Điều XIX, GATT 1947 (Các biện pháp tự vệ này chỉ có
hiệu lực trong giai đoạn chuyển tiếp cho đến hết năm 2000. Sau thời điểm đó, các biện
pháp tự vệ liên quan đến hàng dệt may được áp dụng theo các quy định chung của
WTO đối với các mặt hàng khác);
Để thống nhất các quy định về việc áp dụng các biện pháp Tự vệ, WTO có cả một văn
bản luật mẫu cho việc áp dụng các biện pháp Tự vệ trên tinh thần của Điều XIX,
GATT 1947 và Hiệp định Tự vệ.
Hiệp định về Tự vệ có hiệu lực từ khi WTO ra đời. Hiệp định này mô tả chi tiết
phương thức áp dụng các biện pháp tự vệ được quy định trong Điều XIX của GATT.
Quy định chủ yếu là những biện pháp tự vệ có thể được đưa ra nếu khối lượng hàng
nhập khẩu tăng ồ ạt do những hoàn cảnh không lường trước được, và sẽ gây ra, hoặc
đe dọa gây ra những thiệt hại nghiêm trọng cho ngành sản xuất trong nước. Các biện
pháp tự vệ có thể thực hiện dưới hình thức thuế quan hoặc hạn chế định lượng (hạn
ngạch). Các biện pháp tự vệ có tác dụng là một nước có thể tạm thời nâng mức bảo hộ
chống lại hàng nhập khẩu cao hơn so với quy định trong GATT. Các biện pháp này có
chức năng như chiếc van an toàn, các nước thành viên cùng giảm mức thuế quan bằng
cách đưa ra một lối thoát khẩn cấp trong trường hợp hàng nhập khẩu tăng mạnh.
23

Thông thường, khác với các biện pháp chống bán phá giá, các biện pháp tự vệ nhằm
vào tất cả các mặt hàng nhập khẩu, theo nguyên tắc không phân biệt đối xử vốn là
nguyên tắc cơ bản của WTO. Tuy vậy, nguyên tắc này cũng có một ngoại lệ. Nếu hàng
nhập khẩu từ một nước nào đó tăng một cách mất cân đối và hạn ngạch được sử dụng
làm biện pháp đối phó, xuất khẩu tăng nhanh một cách bất thường, thì nước đó sẽ chỉ
được phân phối một lượng hạn ngạch nhỏ hơn, khối lượng xuất khẩu trước đó, so với
các nước khác trong thời hạn tối đa là bốn năm. Một ngoại lệ nữa của nguyên tắc
không phân biệt là một nước đang phát triển có thể không phải là mục tiêu nhắm đến
của một biện pháp tự vệ nếu thị phần của nước đó thấp hơn 3% hoặc xuất khẩu của
nước đang phát triển đó chiếm dưới 9% kim ngạch nhập khẩu của nước đưa ra biện
pháp này. Quy định đặc biệt cho phép những nước đang phát triển có khối lượng hàng
xuất khẩu nhỏ được bãi miễn các biện pháp tự vệ đã có tác dụng giảm nguy cơ phải
hứng chịu hậu quả xấu của các biện pháp tự vệ.
Các biện pháp tự vệ có thể không bị áp dụng dài hơn bốn năm, nhưng có thể gia hạn
thêm bốn năm nữa. Các nước đang phát triển hoàn toàn có thể áp dụng một biện pháp
tự vệ tối đa là mười năm. Các biện pháp tự vệ không được phép áp dụng cao hơn mức
cần thiết để loại bỏ những tổn hại do hàng nhập khẩu gây ra cho ngành sản xuất trong
nước. Nếu sử dụng biện pháp hạn chế định lượng thì có thể không cần phải giảm số
lượng nhập khẩu xuống thấp hơn mức trung bình của mặt hàng nhập khẩu này trong ba
năm trước đó.
Những nước phải chịu một biện pháp tự vệ nào đó có quyền sử dụng các biện pháp đối
phó (chẳng hạn như tăng mức thuế quan) chống lại nước đưa ra biện pháp này. Tuy
nhiên, không được phép áp dụng các biện pháp đối phó chừng nào mà các biện pháp tự
vệ còn hiệu lực trong vòng ba năm. Như vậy có nghĩa là một nước có thể có biện pháp
tự vệ thông thường là ba năm mà không phải chịu một biện pháp đối phó nào, và điều
này phần nào giải thích được xu hướng tăng sử dụng công cụ tự vệ này.
24
Các biện pháp tự vệ được quản lý bởi một Uỷ ban của WTO và các nước thành viên có
nghĩa vụ phải thông báo cho Uỷ ban này mỗi khi tiến hành điều tra về nhu cầu sử dụng
biện pháp tự vệ. Các biện pháp tự vệ cấm sử dụng các biện pháp vùng xám, như hạn

chế xuất khẩu tự nguyện.
Hiệp định về Tự vệ giúp cho các nước khỏi phải chịu các biện pháp tự vệ một cách tùy
tiện. Nếu các nước đang phát triển phải chịu ảnh hưởng xấu của một biện pháp bất
chấp quy định đặc biệt về đối xử với các nước đang phát triển, thì họ có quyền đưa ra
các biện pháp đối phó.
Việc sử dụng các biện pháp tự vệ đã tăng lên không ngừng trong thời gian qua. Tuy
nhiên, sau khi xem xét việc sử dụng các biện pháp tự vệ, rất nhiều các vụ trình lên
WTO bị bác bỏ để tránh hiện tượng sử dụng thái quá trong tương lai.
Đối với Trung Quốc, khi gia nhập WTO, có những quy định ngoài Hiệp định về Tự vệ
cho phép áp dụng những biện pháp tự vệ đặc biệt chống lại nước này. Ngoại lệ này có
hiệu lực đến cuối 2013. Việt Nam không bị áp dụng quy định này.
Trung Quốc bị tạm thời bãi miễn quy định cơ bản cho rằng biện pháp tự vệ phải nhằm
vào toàn bộ lượng nhập khẩu một mặt hàng nào đó, bất kể nước xuất khẩu là nước nào.
Trên cơ sở xem xét điều kiện đặc thù của Trung Quốc là một nền kinh tế đang trong
giai đoạn chuyển đổi và có năng lực sản xuất rất lớn ở thời điểm gia nhập WTO, nên
WTO đã quyết định rằng các nước thành viên khác được phép trực tiếp đưa ra các biện
pháp tự vệ chống Trung Quốc trong khuôn khổ một cơ chế tự vệ đặc biệt trong vòng
12 năm. Ngoại lệ này đối với Trung Quốc được áp dụng cho đến năm 2013.
Một số nước thành viên của WTO (EU, Hoa Kỳ, ấn Độ, và Hàn Quốc) đã sử dụng điều
kiện này đối với Trung Quốc trên cơ sở pháp lý của chính sách thương mại trong nước.
Tuy nhiên, EU đã chấp nhận không áp dụng cơ chế khẩn cấp đặc biệt chống lại Trung
Quốc đối với chủng loại sản phẩm mà hạn ngạch đang còn hiệu lực. Tháng 11 năm
2002, Hoa Kỳ là nước đầu tiên đưa ra biện pháp tự vệ đặc biệt đối với Trung Quốc, áp
25

×