BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PTNT
HỌC VIỆN NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM
NGUYỄN BÌNH GIANG
NÂNG CAO HIỆU LỰC QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC
VỀ THUẾ ĐỐI VỚI CÁC DOANH NGHIỆP
TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH BẮC GIANG
Chuyên ngành: QUẢN LÝ KINH TẾ
Mã số: 60 34 04 01
LUẬN VĂN THẠC SĨ
Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. TRẦN ĐÌNH THAO
HÀ NỘI - 2014
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế
Page i
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan rằng, số liệu và kết quả nghiên cứu trong luận văn này là
trung thực và chưa hề được sử dụng để bảo vệ một học vị nào.
Tôi xin cam đoan rằng, mọi sự giúp đỡ cho việc thực hiện luận văn này đã
được cảm ơn và các thông tin trích dẫn trong luận văn này đều đã được chỉ rõ
nguồn gốc.
Hà Nội, ngày tháng năm 2014
Tác giả
Nguyễn Bình Giang
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế
Page ii
LỜI CẢM ƠN
Tôi xin chân thành cảm ơn:
Ban giám hiệu, Ban quản lý đào tạo, Khoa kinh tế và Phát triển nông thôn
Học viện Nông nghiệp Việt Nam đã giúp đỡ về mọi mặt để tôi hoàn thành luận văn.
Các thầy, cô bộ môn phân tích định lượng, cùng các thầy, cô trong khoa
kinh tế và phát triển nông thôn đã giảng dạy, giúp đỡ tôi trong quá trình học và
làm luận văn.
Cục Thuế tỉnh Bắc Giang, các Doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh đã tạo mọi
điều kiện thuận lợi cho tôi trong quá trình thu thập số liệu tại đơn vị.
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến thầy giáo PGS.TS Trần Đình Thao đã
tận tình chỉ dẫn và giúp đỡ tôi hoàn thành luận văn.
Tôi xin gửi lời cảm ơn sâu sắc tới các đồng chí, đồng nghiệp, bạn bè và gia
đình đã tạo mọi điều kiện thuận lợi và giúp đỡ, động viên khích lệ, đồng thời có
những ý kiến đóng góp quý báu trong quá trình thực hiện và hoàn thành luận văn.
Hà Nội, ngày tháng năm 2014
Tác giả
Nguyễn Bình Giang
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế
Page iii
MỤC LỤC
Trang
LỜI CAM ĐOAN i
LỜI CẢM ƠN ii
MỤC LỤC iii
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT vi
DANH MỤC BẢNG, BIỂU ĐỒ VÀ HÌNH vii
PHẦN I: MỞ ĐẦU 1
1.1. Tính cấp thiết của vấn đề nghiên cứu 1
1.2. Mục tiêu nghiên cứu 2
1.2.1. Mục tiêu chung 2
1.2.2. Mục tiêu cụ thể 3
1.3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 3
1.3.1. Đối tượng nghiên cứu 3
1.3.2. Phạm vi nghiên cứu 3
PHẦN 2. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN 4
2.1. Cơ sở lý luận 4
2.1.1. Những khái niệm cơ bản 4
2.1.2. Phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến hiệu lực quản lý thuế. 27
2.2. Cơ sở thực tiễn 35
2.2.1. Kinh nghiệm nâng cao hiệu lực quản lý thuế trên thế giới 35
2.2.2. Kinh nghiệm nâng cao hiệu lực quản lý thuế của thành phố Hồ Chí Minh. 40
2.2.3. Bài học kinh nghiệm về nâng cao hiệu lực quản lý thuế 43
PHẦN 3. ĐẶC ĐIỂM ĐỊA BÀN VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 47
3.1. Đặc điểm địa bàn nghiên cứu 47
3.1.1. Đặc điểm chung 47
3.1.2. Đặc điểm tự nhiên 47
3.1.3. Đặc điểm kinh tế xã hội 47
3.1.4. Đặc điểm của Cục Thuế tỉnh Bắc Giang 48
3.1.5. Tình hình phát triển các doanh nghiệp ở tỉnh Bắc Giang 50
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế
Page iv
3.2. Phương pháp nghiên cứu 52
3.2.1. Phương pháp chọn điểm nghiên cứu 52
3.2.2. Phương pháp thu thập số liệu 53
3.2.3. Phương pháp xử lý thông tin 55
3.2.4. Phương pháp phân tích 55
3.2.5. Hệ thống các chỉ tiêu nghiên cứu 56
PHẦN 4. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN 59
4.1. Thực trạng quản lý thuế ở Bắc Giang 59
4.1.1. Tình hình thu thuế của các doanh nghiệp 59
4.1.2. Thực trạng thi hành pháp luật về thuế theo Luật Quản lý thuế của các
Doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh Bắc Giang 60
4.1.3. Thực trạng công tác quản lý, giám sát việc thực hiện Pháp luật về thuế
của cơ quan thuế đối với các DN trên địa bàn tỉnh Bắc Giang 67
4.1.4. Các biện pháp bổ trợ của Cục thuế tỉnh Bắc Giang nhằm nâng cao hiệu
lực quản lý về thuế đối với các Doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh. 90
4.1.5. Đánh giá hiệu lực công tác quản lý Nhà nước về thuế trên địa bàn tỉnh
Bắc Giang 95
4.1.5.2. Những hạn chế, nguyên nhân hạn chế trong việc thực hiện công tác
quản lý Nhà nước về thuế của Cục thuế tỉnh Bắc Giang. 99
4.2. Các yếu tố ảnh hưởng đến hiệu lực quản lý thuế trên địa bàn tỉnh Bắc Giang 108
4.2.1. Quy định của luật thuế và Chính sách thuế 109
4.2.2. Ảnh hưởng của cơ cấu tổ chức, quản lý của cơ quan quản lý thuế 109
4.2.3. Ảnh hưởng của trình độ cán bộ thuế 111
4.2.4. Ảnh hưởng của ý thức chấp hành các luật thuế của doanh nghiệp 112
4.2.5. Điều kiện tài chính và một số điều kiện khác 113
4.2.6. Ảnh hưởng của kết cấu hạ tầng 113
4.2.7. Ảnh hưởng của sự kết hợp giữa cơ quan thuế và cơ quan pháp luật 114
4.3. Các quan điểm, định hướng và mục tiêu chủ yếu nâng cao hiệu lực quản
lý Nhà nước về thuế đối với doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh Bắc Giang 116
4.3.1. Thực hiện các biện pháp nhằm hỗ trợ 116
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế
Page v
4.3.2. Tạo áp lực để NNT chấp hành pháp luật thuế 116
4.3.3. Định hướng nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước về thuế đối với các DN 117
4.4. Giải pháp nâng cao hiệu lực quản lý thuế 118
4.4.1. Giải pháp cho Nhà nước 118
4.4.2. Giải pháp cho Cục thuế 120
4.4.3. Giải pháp cho người nộp thuế 130
PHẦN V KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 132
5.1. Kết luận 132
5.2 . Kiến nghị 133
TÀI LIỆU THAM KHẢO 135
PHỤ LỤC 137
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế
Page vi
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
DN Doanh nghiệp
CQT Cơ quan thuế
FDI Đầu tư trực tiếp nước ngoài
GTGT Giá trị gia tăng
HĐND Hội đồng nhân dân
KH&ĐT Kế hoạch và Đầu tư
MTTQ Mặt trận tổ quốc
NNT Người nộp thuế
NSNN Ngân sách Nhà nước
SXKD Sản xuất kinh doanh
TNDN Thu nhập doanh nghiệp
TTĐB Tiêu thụ đặc biệt
UBND Uỷ ban nhân dân
VCCI Phòng thương mại và Công nghiệp Việt Nam
WTO Tổ chức thương mại thế giới
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế
Page vii
DANH MỤC BẢNG, BIỂU ĐỒ VÀ HÌNH
Trang
Bảng 3.1. Số lượng DN tỉnh Bắc Giang qua các năm từ 2010- 2013 51
Bảng 3.2. Phân cấp quản lý Doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh Bắc Giang 52
Bảng 4.1. Tổng hợp công tác thu NSNN tỉnh Bắc Giang 2010- 2013 60
Bảng 4.2. Tổng hợp công tác đăng ký thuế 62
Bảng 4.3. Tình hình nộp tờ khai thuế của người nộp thuế năm 2010-2013 64
Bảng 4.4. Số tiền thuế nợ của các Doanh nghiệp Năm 2010- 2013 67
Bảng 4.5. Tình hình hoàn thuế qua các năm từ năm 2010-2013: 73
Bảng 4.6. Đánh giá công tác giám sát của cơ quan thuế: 74
Bảng 4.7. Tình hình kiểm tra hồ sơ khai thuế tại trụ sở cơ quan thuế từ
năm 2010- 2013 76
Bảng 4.8. Tỷ lệ kiểm tra tại trụ sở Người nộp thuế giai đoạn 2011-2013 78
Bảng 4.9. Kết quả kiểm tra tại trụ sở Người nộp thuế giai đoạn 2010- 2013 79
Bảng 4.10. Kế hoạch thanh tra thuế giai đoạn 2011- 2013 80
Bảng 4.11. Kết quả công tác thanh tra tại trụ sở NNT năm 2010- 2013 81
Bảng 4.12. Tỷ lệ thất thu thuế 82
Bảng 4.13. Tình hình nợ thuế và thu nợ thuế giai đoạn 2010- 2013 84
Bảng 4.14. Các biện pháp thực hiện thu hồi tiền nợ thuế năm 2011- 2013 85
Bảng 4.15. Công tác tuyên truyền về chính sách pháp luật 91
Bảng 4.16. Tổng kết công tác hỗ trợ người nộp thuế qua các năm 92
Bảng 4.17. Đánh giá chung về hiệu lực quản lý thuế 98
Biểu đồ 4.1. Số thu nộp NSNN của các DN năm 2010- 2013 66
Hình 3.1. Sơ đồ hệ thống bộ máy quản lý thuế hiện hành 48
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế
Page 1
PHẦN I: MỞ ĐẦU
1.1. Tính cấp thiết của vấn đề nghiên cứu
Thuế là nguồn thu chủ yếu của Ngân sách nhà nước, là một trong những
chính sách kinh tế - xã hội quan trọng của Đảng và nhà nước ta, là công cụ điều tiết
nền kinh tế phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa, tạo môi trường thuận lợi
cho sản xuất kinh doanh phát triển, giải quyết các vấn đề kinh tế- xã hội của đất
nước, góp phần vào tích luỹ ngân sách, tăng tổng sản phẩm xã hội và thu nhập quốc
dân, góp phần đảm bảo công bằng xã hội và hội nhập quốc tế, đảm bảo an ninh
quốc phòng.
Thuế gắn liền với sự tồn tại, phát triển của Nhà nước và là một công cụ quan
trọng mà bất kỳ quốc gia nào cũng sử dụng để thực thi chức năng, nhiệm vụ của
mình. Quản lý thuế là một trong những hoạt động quản lý hành chính nhà nước
nhằm thực hiện các mục tiêu đặt ra cho thuế trên cơ sở tổ chức bộ máy quản lý thuế
theo mô hình quản lý phù hợp từng thời kỳ kinh tế xã hội.
Ở Việt Nam, nguồn động viên từ thuế luôn giữ một tỉ lệ lớn, trong những
năm qua Ngành thuế luôn luôn hoàn thành và vượt mức dự toán thu qua từng thời
kỳ, số thu về thuế và phí hiện chiếm trên 93% số thu của Ngân sách nhà nước hàng
năm, nhờ đó NSNN đã đảm bảo nhu cầu chi thường xuyên, dành một phần tăng chi
đầu tư phát triển, chi trả nợ, kiềm chế lạm phát.
Tuy nhiên qua thực tiễn trong công tác quản lý thuế của các DN trên địa bàn
tỉnh Bắc Giang cho thấy, tình trạng trốn thuế, lậu thuế, gian lận về thuế, nợ đọng chiếm
dụng tiền thuế còn diễn ra ở nhiều khoản thu, sắc thuế ở các địa phương trong tỉnh, vừa
làm thất thu cho NSNN, vừa không đảm bảo công bằng xã hội. Tình trạng đó có nhiều
nguyên nhân, trong đó có nguyên nhân từ nội dung quy định của pháp luật về thuế, bộ
phận quản lý pháp luật về thuế và việc chấp hành chế độ chính sách, pháp luật về thuế
của người nộp thuế. Với dự báo của các chuyên gia kinh tế, nền kinh tế Việt Nam vẫn
tiếp tục có mức tăng trưởng cao, với các cơ chế, chính sách thông thoáng tạo điều kiện
cho các nhà đầu tư, sản xuất, kinh doanh phát triển, số lượng doanh nghiệp tiếp tục
tăng, thu nhập của người lao động nhờ thế cũng tăng cao, diện các đối tượng phải quản
lý thu thuế tăng nhanh đó là thách thức cho công tác quản lý thuế ở nước ta nói chung
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế
Page 2
và tỉnh Bắc Giang nói riêng. Với tiến trình hội nhập ngày càng sâu rộng thì công tác
quản lý thuế ở nước ta cũng phải theo những chuẩn mực chung của quốc tế. Trong
chiến lược cải cách hệ thống thuế giai đoạn 2011- 2020 xác định mục tiêu tổng quát là:
“ Xây dựng ngành thuế Việt Nam hiện đại, hiệu lực, hiệu quả; Công tác quản lý thuế,
phí và lệ phí thống nhất, minh bạch, đơn giản, dễ hiểu, dễ thực hiện dựa trên ba nền
tảng cơ bản: Thể chế chính sách thuế minh bạch, quy trình thủ tục hành chính đơn
giản, khoa học phù hợp với thông lệ quốc tế;Nguồn nhân lực có chất lượng, liêm
chính; Ứng dụng công nghệ thông tin hiện đại, có tính lên kết, tích hợp, tự động hóa
cao phấn đấu đưa Việt Nam thuộc nhóm các nước hàng đầu khu vực Đông Nam Á
trong xếp hạng mức độ thuận lợi về thuế vào năm 2020”.
Từ những vấn đề nêu trên đang đặt ra cho các nhà quản lý là cần phải nghiên
cứu, làm rõ lý luận về quan hệ quản lý Nhà nước về thuế; công tác quản lý Nhà
nước về thuế trong thời gian qua đối với các doanh nghiệp được thể hiện như thế
nào? những yếu tố nào ảnh hưởng tới hiệu lực quản lý thuế? để trên cơ sở đó đánh
giá một cách khách quan, toàn diện về thực trạng công tác quản lý thuế đối với các
Doanh nghiệp ở tỉnh Bắc Giang, từ đó xác định phương hướng và giải pháp hoàn
thiện nhằm nâng cao hiệu lực pháp luật quản lý thuế đối với các doanh nghiệp ở
tỉnh Bắc Giang.
Xuất phát từ thực tế trên có thể khẳng định rằng đề tài nghiên cứu: "Nâng
cao hiệu lực quản lý Nhà nước về thuế đối với các doanh nghiệp trên địa bàn
tỉnh Bắc Giang” của chúng tôi là có tính cấp thiết, có tính khoa học và thực tiễn để
làm đề tài nghiên cứu luận văn, góp phần thiết thực triển khai thực hiện Chiến lược
cải cách hệ thống thuế giai đoạn 2011 - 2020: Xây dựng ngành thuế tỉnh Bắc Giang
hiện đại, hiệu lực, hiệu quả.
1.2. Mục tiêu nghiên cứu
1.2.1. Mục tiêu chung
Mục tiêu bao trùm của luận văn là trên cơ sở nghiên cứu thực trạng công tác
quản lý về thuế đối với các doanh nghiệp, đưa ra các giải pháp phù hợp, khả thi
nhằm nâng cao hiệu lực quản lý Nhà nước về thuế đối với doanh nghiệp trên địa
bàn tỉnh Bắc Giang trong thời gian tới.
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế
Page 3
1.2.2. Mục tiêu cụ thể
- Góp phần hệ thống hoá được cơ sở lý luận và thực tiễn vai trò quản lý Nhà
nước về thuế đối với các doanh nghiệp.
- Đánh giá thực trạng hiệu lực quản lý Nhà nước về thuế đối với các doanh
nghiệp trên địa bàn tỉnh Bắc Giang.
- Phân tích ảnh hưởng của các nhân tố đến hiệu lực quản lý thuế đối với
doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh Bắc Giang.
- Đưa ra được các giải pháp nhằm nâng cao hiệu lực quản lý Nhà nước về
thuế đối với các doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh Bắc Giang trong thời gian tới.
1.3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
1.3.1. Đối tượng nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu là các vấn đề quản lý Nhà nước về thuế đối với các
doanh nghiệp, các loại hình doanh nghiệp;
- Sự tuân thủ Pháp luật về thuế của các Doanh nghiệp, các loại hình doanh
nghiệp.
- Công tác quản lý, giám sát việc thực hiện Pháp luật về thuế của cơ quan
thuế đối với các Doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh Bắc Giang.
- Những nhân tố ảnh hưởng đến hiệu lực của công tác quản lý thuế tại các
Doanh nghiệp.
1.3.2. Phạm vi nghiên cứu
- Thời gian: Nghiên cứu từ năm 2010 - 2013.
- Về không gian: đề tài được thực hiện trên địa bàn tỉnh Bắc Giang.
- Về nội dung: luận văn chỉ tập trung vào nghiên cứu thực trạng quản lý nhà
nước đối với hoạt động thu thuế nội địa đối với các doanh nghiệp (như thuế GTGT,
thuế TNDN, thuế TNCN ) dưới sự quản lý của Tổng cục Thuế, Cục Thuế Bắc
Giang và các Chi cục Thuế huyện, thành phố từ đó đưa ra những đề xuất giải pháp
nhằm nâng cao hiệu lực quản lý về thuế đối với các doanh nghiệp.
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế
Page 4
PHẦN 2
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
2.1. Cơ sở lý luận
2.1.1. Những khái niệm cơ bản
2.1.1.1. Quan niệm về Thuế và các loại thuế.
Ra đời và tồn tại cùng Nhà nước, Thuế là hình thức huy động tài chính cho
Nhà nước. Thuế là công cụ để Nhà nước có nguồn thu nhằm trang trải các chi tiêu
của Nhà nước. Nhà nước dùng quyền lực của mình ban hành các luật thuế để bắt
buộc dân cư và các đối tượng khác trong nền kinh tế đóng góp cho Nhà nước.
Trải qua một quá trình phát triển lâu dài và khái niệm về thuế cũng không
ngừng được hoàn thiện.
Theo các nhà kinh điển, "Thuế là cái mà Nhà nước thu của dân nhưng không
bù lại" và "thuế cấu thành nên nguồn thu của Chính phủ, nó được lấy ra từ sản
phẩm của đất đai và lao động trong nước, xét cho cùng thì thuế được lấy ra từ tư
bản hay thu nhập của người chịu thuế'' [1].
Nhà kinh tế học G.Jeze trong cuốn "tài chính công" đã đưa ra một khái niệm
cổ điển nhất và cũng nổi tiếng nhất về thuế, ông cho rằng: " Thuế là một khoản trích
nộp bằng tiền, có tính chất xác định, không hoàn trả trực tiếp do các công dân đóng
góp cho Nhà nước thông qua con đường quyền lực nhằm bù đắp những chi tiêu của
Nhà nước”[21].
Theo thời gian, khái niệm cổ điển này đến nay đã được bổ sung, chỉnh sửa và
hoàn thiện như sau: "Thuế là một khoản trích nộp bằng tiền, có tính chất xác định,
không hoàn trả trực tiếp do các công dân đóng góp cho Nhà nước thông qua con
đường quyền lực nhằm bù đắp những chi tiêu của Nhà nước trong việc thực hiện
các chức năng kinh tế- xã hội của Nhà nước".
Trên góc độ phân phối thu nhập, người ta đưa ra khái niệm về thuế như sau:
Thuế là hình thức phân phối và phân phối lại tổng sản phẩm xã hội và thu nhập
quốc dân nhằm hình thành nên quĩ tiền tệ tập trung lớn nhất của Nhà nước (quỹ
NSNN) để đáp ứng nhu cầu chi tiêu cho việc thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của
Nhà nước.
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế
Page 5
Trên góc độ người nộp thuế thì thuế được định nghĩa như sau: Thuế là khoản
đóng góp bắt buộc mà mỗi tổ chức, cá nhân phải có nghĩa vụ đóng góp cho Nhà
nước theo Luật định để đáp ứng nhu cầu chi tiêu cho việc thực hiện các chức năng,
nhiệm vụ của Nhà nước; người đóng góp thuế được hưởng hợp pháp phần thu nhập
còn lại.
Trên góc độ kinh tế học, thuế được định nghĩa như sau: Thuế là biện pháp
đặc biệt, theo đó Nhà nước sử dụng quyền lực của mình để chuyển một phần nguồn
lực từ khu vực tư sang khu vực công nhằm thực hiện các chức năng kinh tế- xã hội
của Nhà nước.
Cụ thể hơn, Giáo trình Quản lý Tài chính công của Học viện tài chính quan
niệm rằng: "Thuế là một hình thức động viên bắt buộc của Nhà nước theo luật định,
thuộc phạm trù phân phối, nhằm tập trung một bộ phận thu nhập của các thể nhân
và pháp nhân vào Ngân sách Nhà nước để đáp ứng các nhu cầu chi tiêu của Nhà
nước và phục vụ lợi ích công cộng"[2, tr106].
Tuy nhiên có thể thấy rõ các khái niệm trên đều thống nhất: Thuế là khoản
nộp bắt buộc vào NSNN để đáp ứng các nhu cầu chi tiêu của nhà nước.
Như vậy, đã có nhiều khái niệm khác nhau về thuế. Tuy nhiên, để hiểu rõ
bản chất của thuế, khi nghiên cứu khái niệm về thuế cần chú ý các đặc điểm sau:
Thứ nhất, thuế là khoản trích nộp bằng tiền: Về nguyên tắc, thuế là một
khoản trích nộp dưới hình thức tiền tệ, điều này trái ngược với các hình thức thanh
toán bằng hiện vật đã tồn tại trước đây. Sự phát triển của quan hệ hàng hoá - tiền
tệ tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của thuế, đổi lại, nghĩa vụ của đối
tượng nộp thuế được thực hiện bằng tiền lại góp phần thúc đẩy sự phát triển của
kinh tế thị trường.
Thứ hai, thuế là khoản trích nộp bắt buộc được thực hiện thông qua con
đường quyền lực: Dù được thực hiện dưới hình thức nào, thuế vẫn thể hiện tính chất
bắt buộc, được thực hiện thông qua con đường quyền lực Nhà nước (qua hệ thống
pháp luật thuế). Do đó, đối tượng nộp thuế không có quyền trốn thuế hoặc mong
muốn tự mình ấn định hay thoả thuận mức đóng góp của mình mà chỉ có quyền
chấp thuận. Những đối tượng nộp thuế vi phạm luật sẽ bị cơ quan nhà nước có thẩm
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế
Page 6
quyền xử lý vi phạm hoặc cưỡng chế thi hành theo quy định của pháp luật để buộc
họ phải làm tròn nghĩa vụ nộp thuế. Đây là điểm khác biệt giữa thuế với các khoản
đóng góp mang tính chất tự nguyện.
Thứ ba, thuế là khoản thu có tính chất xác định: Thuế là khoản thu xác định
của các tổ chức thụ hưởng, đó là Nhà nước, các cấp chính quyền địa phương. Trái
ngược với vay, thuế không được hoàn trả trực tiếp.
Thứ tư, thuế là một khoản thu không có đối khoản cụ thể, không hoàn trả
trực tiếp nhằm đáp ứng nhu cầu chi tiêu của Nhà nước trong việc thực hiện các
chức năng quản lý xã hội, chức năng kinh tế - xã hội của Nhà nước:
Khác với khoản vay, thuế không hoàn trả trực tiếp cho người nộp thuế (tuy
nhiên, một phần thuế được hoàn trả gián tiếp cho người nộp thuế thông qua các
khoản phúc lợi xã hội, phúc lợi công cộng). Sự không hoàn trả trực tiếp được thể
hiện ở cả trước và sau khi thu thuế. Trước khi thu thuế, Nhà nước không hề cung
ứng trực tiếp một dịch vụ nào cho người nộp thuế. Sau khi thu thuế, Nhà nước cũng
không có sự bồi hoàn trực tiếp nào cho người nộp thuế. Cũng như vậy, người nộp
thuế không thể phản đối việc thực hiện nghĩa vụ thuế với lý do họ sử dụng ít các
dịch vụ công cộng; họ cũng không có quyền đòi hỏi được hưởng nhiều dịch vụ công
cộng hơn so với số thuế họ phải trả vì lý do này hay lý do khác; và họ cũng không
thể từ chối nộp thuế với lý do họ đã phải thanh toán cho các khoản chi trái với
nguyên tắc này.
Thuế được thu nhằm đáp ứng mọi nhu cầu chi tiêu của Nhà nước, thuế không
có đối khoản cụ thể. Điều này thể hiện rõ ở chỗ nguồn thu từ mỗi loại thuế không
được quy định gắn với mục đích chi tiêu cụ thể nào cả mà đều được sử dụng để đáp
ứng nhu cầu chi tiêu chung của Nhà nước trong quá trình thực hiện chức năng,
nhiệm vụ của Nhà nước.
Khái niệm “chi tiêu của Nhà nước” ngày nay không thể hiểu theo nghĩa hẹp
là chỉ bao gồm các chi phí liên quan đến chức năng duy trì bộ máy của Nhà nước để
thực hiện các chức năng của Nhà nước, mà còn gồm các chi phí cho việc thực hiện
các chức năng kinh tế - xã hội. Chính vì thế, khi xem xét khái niệm thuế cũng phải
hiểu thuế trên hai góc độ: thuế vừa là công cụ huy động nguồn thu để đáp ứng nhu
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế
Page 7
cầu chi tiêu của Nhà nước và thuế vừa là công cụ giúp Nhà nước thực hiện các mục
tiêu kinh tế - xã hội hay công cụ quản lý vĩ mô nền kinh tế.
Lịch sử phát triển của thuế đã chứng minh rằng, thuế phải thực hiện được
3 chức năng cơ bản, đó là: chức năng bảo đảm nguồn thu cho NSNN nhằm đáp ứng
nhu cầu chi tiêu của Nhà nước; chức năng phân phối lại thu nhập và tài sản nhằm
đảm bảo công bằng xã hội và chức năng điều tiết vĩ mô nền kinh tế.
Chức năng đảm bảo nguồn thu cho NSNN
Mức độ động viên các nguồn thu từ thuế vào ngân sách phần lớn, gắn liền
với tổng số chi tiêu của nhà nước vì các khoản thu này là nguồn bù đắp chủ yếu
cho các khoản chi ngân sách. Nhưng các khoản thu này cũng không phải là nguồn
bù đắp duy nhất mà bên cạnh đó, thâm hụt ngân sách còn được bù đắp bằng nguồn
vay hoặc phát hành tiền tệ. Mức độ động viên thu ngân sách với tỷ lệ giữa thâm hụt
ngân sách trên tổng sản phẩm quốc nội (GDP) của mỗi nước cho thấy mức độ huy
động của Nhà nước để bù đắp cho các khoản chi này (tất nhiên kể cả khoản lãi phải
trả khi hoàn trả nợ).
Chức năng phân phối lại nhằm đảm bảo công bằng xã hội
Về nguyên tắc, gánh nặng về thuế phải được phân chia một cách công bằng;
thuế phải có vai trò sửa chữa những khiếm khuyết của sự phân phối lần đầu để đảm
bảo sự công bằng và bình đẳng. Tuy nhiên, sự công bằng chỉ mang tính chất tương
đối và tuỳ thuộc vào quan niệm cho rằng sự phân phối phải công bằng hay không
trong việc phân chia quyền sở hữu diễn ra trên thị trường. Chính vì vậy, đánh thuế
luỹ tiến, đối với một số người, có thể được coi như đồng nghĩa với sự công bằng,
với một số người khác, lại bị coi là tuỳ tiện.
Chức năng điều tiết vĩ mô nền kinh tế hay khắc phục những bất cân bằng của
thị trường
Thuế là một công cụ của chính sách kinh tế có thể đóng vai trò khuyến khích,
hạn chế hoặc ổn định kinh tế. Thuế có thể được sử dụng để khắc phục những bất
cân bằng của thị trường, ví dụ, dựa trên cơ sở các phân tích kinh tế vi mô để quốc tế
hoá những tác động nội tại của nền kinh tế. Thuế cũng có thể góp phần thực hiện
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế
Page 8
các cân bằng tổng thể trong khuôn khổ chính sách ngân sách dựa trên cơ sở các
phân tích kinh tế vĩ mô.
Cách tiếp cận kinh tế vi mô phù hợp với cách nhìn tự do về sự can thiệp của
Nhà nước mà với chức năng trợ cấp ngân sách, Nhà nước có thể xoá bỏ được những
vật cản nảy sinh trong kinh tế thị trường. Cách tiếp cận này đôi khi cũng là trung
tâm của các cuộc tranh luận.
Cách tiếp cận kinh tế vĩ mô thuộc quan niệm của Keynes về chính sách kinh
tế, thuế là một biến số mà Nhà nước sử dụng nhằm ổn định tình huống (chính sách
tác động trên nhu cầu tổng thể) hoặc cơ cấu (chính sách thuế nhằm tạo thuận lợi cho
sự tăng trưởng kinh tế). Khả năng của thuế trong việc thực hiện các mục tiêu hiệu
quả kinh tế này đã bị tranh luận khá gay gắt. Tuỳ theo quan niệm mà người ta thừa
nhận vị trí tự do hay can thiệp của thuế mà chức năng này được đánh giá ưu việt
nhiều hay ít.
Tóm lại, để phát huy được vai trò của thuế trong nền kinh tế, phải sử dụng
thuế đúng với chức năng của nó. Tuy nhiên, vai trò của thuế đối với nền kinh tế ở
mỗi quốc gia không giống nhau mà tuỳ thuộc vào “nghệ thuật sử dụng” công cụ
thuế của mỗi quốc gia đó. Vấn đề có tính nguyên tắc là thuế phải luôn luôn phù
hợp với mục tiêu, đường lối phát triển kinh tế - xã hội và là công cụ đắc lực cho
việc thực hiện đường lối, chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia
trong từng thời kỳ nhất định. Đó cũng là lý do mà các quốc gia phải thường xuyên
rà soát mức độ phù hợp của hệ thống thuế với chiến lược phát triển kinh tế xã hội
cuả mình, thực hiện các cải cách thuế kịp thời nếu thấy cần thiết.
Lợi ích của việc phân loại thuế là tạo ra một cách tiếp cận tổng hợp đối
với cơ cấu thuế. Căn cứ theo đặc điểm, công dụng, chức năng và vai trò của từng
loại thuế đối với quá trình phát triển kinh tế, xã hội và tuỳ theo mục tiêu, yêu cầu
của quản lý mà người ta có thể đưa ra các cách phân loại thuế khác nhau, từ đó
nhằm sử dụng phát huy vai trò tích cực của từng công cụ thuế trong quản lý, điều
tiết vĩ mô nền kinh tế. Dưới đây là một số cách phân loại chủ yếu:
- Căn cứ vào tính chất của nguồn tài chính động viên vào ngân sách Nhà
nước, thuế được phân làm 2 loại: thuế trực thu và thuế gián thu.
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế
Page 9
Thuế gián thu là loại thuế mà Nhà nước sử dụng nhằm động viên một phần
thu nhập của người tiêu dùng hàng hóa, sử dụng dịch vụ thông qua việc thu thuế đối
với người sản xuất, kinh doanh hàng hóa, dịch vụ. Tính chất gián thu thể hiện ở chỗ
người nộp thuế và người chịu thuế không đồng nhất với nhau. Thuế gián thu là một
bộ phận cấu thành trong giá cả hàng hoá, dịch vụ do chủ thể hoạt động sản xuất, kinh
doanh nộp cho Nhà nước nhưng người tiêu dùng lại là người phải chịu thuế.
Ở nước ta thuộc loại thuế này bao gồm: Thuế giá trị gia tăng, thuế xuất khẩu,
thuế nhập khẩu, thuế tiêu thụ đặc biệt
Thuế trực thu là loại thuế mà Nhà nước thu trực tiếp vào phần thu nhập của
các pháp nhân hoặc thể nhân. Tính chất trực thu thể hiện ở chổ người nộp thuế theo
quy định của pháp luật đồng thời là người chịu thuế. Thuế trực thu trực tiếp động
viên, điều tiết thu nhập của người chịu thuế.
Ở nước ta thuộc loại thuế này gồm: thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế thu
nhập cá nhân, thuế chuyển quyền sử dụng đất, thuế sử dụng đất nông nghiệp
Sự phân loại thuế thành thuế trực thu và thuế gián thu có ý nghĩa quan trọng
trong việc xây dựng chính sách pháp luật thuế.
- Căn cứ vào đối tượng đánh thuế. Theo cách phân loại này thuế được chia
thành:
Thuế đánh vào hoạt động sản xuất kinh doanh, dịch vụ như thuế giá trị gia tăng.
Thuế đánh vào sản phẩm hàng hoá như thuế xuất nhập khẩu, thuế tiêu thụ
đặc biệt
Thuế đánh vào thu nhập như thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế thu nhập đối
với người có thu nhập cao.
Thuế đánh vào tài sản như thuế nhà đất.
Thuế đánh vào việc khai thác hoặc sử dụng một số tài sản quốc gia như thuế
tài nguyên, thuế sử dụng đất, sử dụng vốn của ngân sách Nhà nước.
Thuế khác và lệ phí, phí.
Các loại thuế trên được áp dụng cho nhiều đối tượng khác nhau để vừa phát
huy tác dụng riêng của từng loại thuế, vừa hổ trợ, bổ sung cho nhau nhằm thực hiện
một cách tổng hợp các mục tiêu và vai trò của hệ thống pháp luật thuế.
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế
Page 10
2.1.1.2. Doanh nghiệp và Các sắc thuế doanh nghiệp phải nộp.
Doanh nghiệp (DN) là thuật ngữ có nguồn gốc từ lĩnh vực kinh tế học,
trên mỗi góc độ nghiên cứu thì có các quan điểm nhìn nhận về Doanh nghiệp
khác nhau
Trên quan điểm nhà tổ chức thì DN là một tổng thể các các phương tiện máy
móc thiết bị và con người được tổ chức lại nhằm đạt một mục đích.
Quan điểm lợi nhuận thì DN là một tổ chức sản xuất, thông qua đó, trong
khuôn khổ một tài sản nhất định, người ta kết hợp nhiều yếu tố sản xuất khác nhau,
nhằm tạo ra các sản phẩm và dịch vụ đẻ bán trên thị trường và thu khoản chênh
lệch giữa giá thành và giá bán sản phẩm.
Quan điểm chức năng thì DN là đơn vị sản xuất kinh doanh nhằm thực hiện
một, một số, hoặc tất cả các công đoạn trong quá trình đầu tư từ sản xuất đến tiêu
thụ sản phẩm hoặc thực hiện các dịch vụ nhằm mục đích sinh lợi.
Đứng trên quan điểm lý thuyết hệ thống thì DN là một bộ phận hợp thành
trong hệ thống kinh tế, mỗi đơn vị trong hệ thống đó phải chịu sự tác động tương hỗ
lẫn nhau, phải tuân thủ những điều kiện hoạt động mà Nhà nước đặt ra cho hệ
thống kinh tế đó nhằm phục vụ cho mục đích tiêu dùng của xã hội.
Trên góc độ pháp lý: "Doanh nghiệp là tổ chức kinh tế có tên riêng, có tài
sản, có trụ sở giao dịch ổn định, được đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp
luật nhằm mục đích thực hiện ổn định các hoạt động kinh doanh'' và "Kinh doanh
là việc thực hiện một, một số hoặc tất cả các công đoạn của quá trình đầu tư, từ sản
xuất đến tiêu thụ sản phẩm hoặc thực hiện dịch vụ trên thị trường nhằm mục đích
sinh lợi" [3].
Theo ý kiến của chúng tôi: "DN là một đơn vị sản xuất kinh doanh được tổ
chức, nhằm tạo ra sản phẩm và dịch vụ đáp ứng nhu cầu tiêu dùng trên thị trường,
thông qua đó để tối đa hoá lợi nhuận trên cơ sở tôn trọng luật pháp của Nhà nước
và quyền lợi chính đáng của người tiêu dùng".
Trên thực tế DN còn được gọi bằng nhiều thuật ngữ khác nhau như: nhà
máy, xí nghiệp, hãng, công ty
Những đặc điểm hoạt động của DN:
Mang chức năng sản xuất kinh doanh.
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế
Page 11
Tối đa hoá lợi nhuận là mục tiêu kinh tế cơ bản, bên cạnh các mục tiêu xã
hội.
Phải chấp nhận sự cạnh tranh để tồn tại và phát triển.
Các loại hình Doanh nghiệp: theo quy định của Luật Doanh nghiệp năm
2005 bao gồm:
Công ty:
Công ty TNHH 1 thành viên.
Công ty TNHH có từ 2 thành viên trở lên (tối đa 50).
Công ty Cổ phần.
Công ty hợp danh.
Doanh nghiệp tư nhân.
Ngoài ra còn có các thuật ngữ sau:
Nhóm công ty là tập hợp các công ty có mối quan hệ gắn bó lâu dài với nhau
về lợi ích kinh tế, công nghệ, thị trường và các dịch vụ kinh doanh khác. Nó gồm có
các hình thức sau: công ty mẹ - công ty con, tập đoàn kinh tế
Doanh nghiệp nhà nước là doanh nghiệp trong đó nhà nước sở hữu trên 50%
vốn điều lệ.
Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (FDI) là doanh nghiệp do nhà đầu tư
nước ngoài thành lập để thực hiện hoạt động đầu tư tại Việt Nam hoặc doanh
nghiệp Việt Nam do nhà đầu tư nước ngoài mua cổ phần, sáp nhập, mua lại.
Các DN được thành lập và hoạt động tại Việt Nam sẽ phải đóng thuế, loại
thuế và mức đóng thuế phụ thuộc vào loại hình kinh doanh và những phát sinh thực
tế trong doanh nghiệp và Doanh nghiệp có thể bị chịu các loại thuế sau:
(i).Thuế môn bài
Thuế môn bài là loại thuế doanh nghiệp đóng hàng năm, doanh nghiệp sau
khi đăng ký kinh doanh phải đóng thuế môn bài ngay trong tháng đăng ký kinh
doanh.
Doanh nghiệp tư nhân, công ty liên danh, công ty trách nhiệm hữu hạn và
công ty cổ phần nộp thuế môn bài căn cứ trên số vốn đăng ký trong giấy chứng
nhận đăng ký kinh doanh hoặc giấy phép đầu tư.
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế
Page 12
(ii).Thuế thu nhập doanh nghiệp
Thuế thu nhập doanh nghiệp là loại thuế cơ bản, chủ yếu doanh nghiệp phải
đóng.
Thuế thu nhập doanh nghiệp (thuế TNDN) là sắc thuế tính trên thu nhập chịu
thuế của các doanh nghiệp trong kỳ tính thuế. Thuế thu nhập doanh nghiệp có đặc
điểm như sau:
Thuế TNDN là thuế trực thu, đối tượng nộp thuế thu nhập doanh nghiệp là
các doanh nghiệp, các nhà đầu tư thuộc các thành phần kinh tế khác nhau đồng thời
cũng là người chịu thuế.
Thuế TNDN phụ thuộc vào kết quả hoạt động kinh doanh của các doanh
nghiệp hoặc các nhà đầu tư. Thuế TNDN được xác định trên cơ sở thu nhập chịu
thuế, nên chỉ khi các doanh nghiệp, các nhà đầu tư kinh doanh có lợi nhuận mới
phải nộp thuế TNDN.
(iii).Thuế giá trị gia tăng.
Thuế giá trị gia tăng (thuế GTGT) là một loại thuế gián thu tính trên giá trị
tăng thêm của hàng hoá, dịch vụ phát sinh trong quá trình từ sản xuất, lưu thông đến
tiêu dùng.
Đối tượng chịu thuế GTGT là Hàng hóa, dịch vụ sử dụng cho sản xuất, kinh
doanh và tiêu dùng ở Việt Nam là đối tượng chịu thuế giá trị gia tăng, trừ một số
trường hợp theo quy định của luật.
Người nộp thuế GTGT là tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh hàng hóa,
dịch vụ chịu thuế giá trị gia tăng và tổ chức, cá nhân nhập khẩu hàng hóa chịu thuế
giá trị gia tăng.
(iv).Thuế xuất nhập khẩu:
Thuế xuất khẩu, nhập khẩu là loại thuế gián thu, thu vào các mặt hàng được
phép xuất, nhập khẩu qua biên giới Việt Nam.
Thuế xuất nhập khẩu áp dụng khi doanh nghiệp thực hiện hoạt động xuất
nhập khẩu hàng hóa thuộc đối tượng chịu thuế.
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế
Page 13
(v).Thuế thu nhập cá nhân
Các thành viên trong doanh nghiệp phải chịu thu nhập cá nhân theo quy định
pháp luật thuế thu nhập cá nhân. Doanh nghiệp có trách nhiệm kê khai nộp thuế thu
nhập doanh nghiệp cho các nhân viên của mình.
(vi).Thuế tài nguyên
Thuế tài nguyên là loại thuế doanh nghiệp thu vào các hoạt động khai thác tài
nguyên thiên nhiên. Doanh nghiệp có hoạt động khai thác tài nguyên thiên nhiên
phải nộp loại thuế này.
Tài nguyên thiên nhiên thuộc diện chịu thuế là các tài nguyên thiên nhiên
trong phạm vi đất liền, hải đảo, nội thủy, lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm
lục địa thuộc chủ quyền của nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam, bao gồm:
Khoáng sản kim loại; Khoáng sản không kim loại; Dầu thô;Khí thiên nhiên, khí
than; Sản phẩm của rừng tự nhiên, trừ động vật; Hải sản tự nhiên, bao gồm động vật
và thực vật biển; Nước thiên nhiên, bao gồm nước mặt và nước dưới đất; Yến sào
thiên nhiên và Tài nguyên khác do Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định.
(vii).Thuế tiêu thụ đặc biệt
Thuế tiêu thụ đặc biệt là một loại thuế gián thu đánh vào tiêu dùng của xã
hội, được nhiều nước trên thế giới áp dụng. Mục tiêu của loại thuế này là nhằm điều
tiết mạnh vào các loại hàng hóa, dịch vụ cao cấp hay những sản phẩm tiêu dùng
không có lợi cho sức khỏe, góp phần hướng dẫn phát triển sản xuất kinh doanh, tiêu
dùng xã hội theo định hướng của Nhà nước, qua đó góp phần đảm bảo nguồn thu ổn
định cho ngân sách nhà nước. Doanh nghiệp hoạt động kinh doanh hàng hóa, dịch
vụ này phải đóng thuế tiêu thụ đặc biệt
(viii). Thuế sử dụng đất.
Doanh nghiệp có tài sản là quyền sử dụng đất phải đóng thuế đất.
(ix). Thuế Bảo vệ môi trường.
Là loại thuế gián thu, thu vào sản phẩm, hàng hoá khi sử dụng gây tác động
xấu đến môi trường.
Doanh nghiệp sản xuất, nhập khẩu hàng hoá thuộc đối tượng chịu thuế bảo
vệ môi trường là người nộp thuế môi trường.
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế
Page 14
2.1.1.3. Khái niệm về quản lý.
Khái niệm quản lý.
Hiện nay còn tồn tại nhiều cách giải thích thuật ngữ về quản lý. Thuật ngữ
quản lý có thể được hiểu theo nhiều nghĩa khác nhau, tuỳ thuộc vào góc độ nghiên
cứu các ngành khoa học khác nhau như: kinh tế học, hành chính học, luật học, xã
hội học đều sử dụng thuật ngữ quản lý với nội dung phù hợp đối tượng nghiên
cứu của từng chuyên ngành.
Dưới góc độ của chuyên ngành khoa học, "Quản lý là điều khiển, chỉ đạo
một hệ thống hay một quá trình, căn cứ vào quy luật, định luật hay nguyên tắc
tương ứng để cho một hệ thống hay quá trình ấy vận động theo ý muốn của người
quản lý và nhằm đạt được những mục đích đã định trước" [4,tr258]
Trong cuốn giải thích thuật ngữ Việt Nam giải thích: "Quản lý là sự tác động
của chủ thể quản lý đến các đối tượng bị quản lý nhằm đạt được mục tiêu đã đề ra
của tổ chức. Nó nhằm chỉ một tập hợp các hoạt động cần thiết phải được thực hiện
nhằm đạt được những mục tiêu chung" [4,tr258].
Có một số định nghĩa về quản lý được ghi nhận ở các tài liệu khác:
" Quản lý là sự tác động có ý thức để chỉ huy, điều hành, hướng dẫn các quá
trình xã hội và hành vi hoạt động của con người để hướng đến mục đích đúng ý chí
và phù hợp với quy luật khách quan". Hoặc "Quản lý là thuật ngữ chỉ hoạt động
của con người nhằm sắp xếp tổ chức, chỉ huy, điều hành, hướng dẫn, kiểm tra các
quá trình xã hội và hoạt động của con người để hướng chúng phát triển phù hợp
với quy luật xã hội, đạt được mục tiêu xác định theo ý chí của nhà quản lý với chi
phí thấp nhất" [5,tr136].
Theo chúng tôi: Quản lý là sự tác động có tổ chức, có hướng đích của chủ
thể quản lý lên đối tượng và khách thể quản lý nhằm sử dụng có hiệu quả nhất các
nguồn lực, các thời cơ của tổ chức để đạt được mục tiêu đặt ra trong điều kiện môi
trường luôn biến động.
Qua các giải thích trên cho thấy, thuật ngữ quản lý được sử dụng khi nói tới
các hoạt động và một loạt các nhiệm vụ mà người quản lý phải liên tục đảm nhận và
giải quyết. Đó là lập kế hoạch, tổ chức, chỉ huy, phối hợp và kiểm tra. Ngoài ra, khi
sử dụng thuật ngữ này người ta còn hàm ý bao gồm cả mục tiêu, kết quả và hiệu
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế
Page 15
năng hoạt động của một tổ chức, nghĩa là nói tới kết quả đạt được với chất lượng tốt
nhất và chi phí thấp nhất chứ không chỉ là những quy trình thực hiện các thao tác kỹ
thuật đơn thuần.
Nội dung của quản lý: đó là lập kế hoạch, tổ chức, chỉ huy- phối hợp và
kiểm tra.
- Lập kế hoạch là tổng thể các hoạt động liên quan đế đánh giá, dự đoán, dự
báo và huy động các nguồn lực để xây dựng chương trình hành động tương lai cho
tổ chức.
- Tổ chức: là thực hiện sự phân công lao động hợp lý để phát huy cao nhất khả
năng của nguồn nhân lực nhằm thực hiện hiệu quả mục tiêu chung. Vì thế, tổ chức là
một công việc chuyên môn vừa mang tính khoa học, vừa mang tính nghệ thuật.
- Lãnh đạo, điều hành: " Lãnh đạo là một phần công việc của quản lý nhưng
không phải toàn bộ công việc quản lý. Lãnh đạo là năng lực thuyết phục người khác
hăng hái phấn đấu cho những mục tiêu đã xác định" [James Gibson].
" Lãnh đạo là hoạt động gây ảnh hưởng đến con người để họ phấn đấu tự
nguyện cho các mục tiêu của tổ chức" [George Tery].
''Lãnh đạo là ảnh hưởng liên nhân cách được thực hiện trong tình huống và
được định hướng thông qua quá trình giao tiếp nhằm đạt được mục đích chung
hoặc những mục đích chuyên biệt" [R.Tanmenbaum, R.Weschler và F.Massarik]
Có nhiều quan niệm khác nhau về mối quan hệ giữa lãnh đạo và quản lý
nhưng thực chất, lãnh đạo và quản lý vừa có sự đồng nhất vừa có sự khác biệt, từ
những quan niệm về lãnh đạo và về mối quan hệ giữa lãnh đạo và quản lý.
- Kiểm tra, đánh giá và điều chỉnh.
Kiểm tra là một trong những chức năng của quy trình quản lý. Thông qua
chức năng kiểm tra mà chủ thể quản lý nắm bắt và điều chỉnh kịp thời các hoạt động
để thực hiện tốt mục tiêu đã xác định.
Các nội dung cơ bản của quản lý: Lập kế hoạch- Tổ chức- Lãnh đạo, điều
hành- Kiểm tra, đánh giá và điều chỉnh có mối liên hệ chặt chẽ với nhau, hỗ trợ cho
nhau. Chúng ta cần xác định các công việc của nhà quản lý phải làm để đạt được
các mục tiêu của tổ chức, cùng với và thông qua các cá nhân.
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế
Page 16
2.1.1.4. Quản lý thuế và nội dung quản lý thuế
Quản lý thuế là một dạng của quản lý xã hội kể từ khi có Nhà nước và gắn
với quyền lực Nhà nước. Quản lý thuế trước hết và quan trọng nhất thuộc trách
nhiệm của Nhà nước cho nên người ta thường quan niệm quản lý thuế là quản lý
Nhà nước trong lĩnh vực thuế. Tuy nhiên, hiện nay để quản lý thuế có hiệu quả, ở
những mức độ nhất định có sự tham gia của các tổ chức, cá nhân trong xã hội để hỗ
trợ cho công tác quản lý thuế của Nhà nước.
Quản lý thuế được một số tác giả khái niệm như sau:
"Quản lý thuế là quản lý việc thực thi và đảm bảo thực thi các chính sách
thuế hay là việc thực hiện quyền hành pháp và tư pháp của Nhà nước trong lĩnh vực
thuế" [6, tr.18].
"Quản lý thuế là quá trình tổ chức thực thi các luật thuế là việc định ra một hệ
thống các tổ chức, phân công các chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm cho
các tổ chức này xác lập mối quan hệ hữu hiệu trong việc thực thi luật thuế nhằm đạt
được mục tiêu đã đề ra trong điều kiện môi trường luôn biến động" [7, tr.11].
"Quản lý thuế là một quá trình tổ chức thực thi chính sách thuế, thông qua
quá trình tác động của các cơ quan thuế lên các tổ chức và công dân nhằm bảo
đảm và tăng cường sự tuân thủ nghĩa vụ thuế một cách đầy đủ, tự nguyện và đúng
thời hạn trong điều kiện môi trường quản lý thuế luôn biến động" [8,tr.33]
Theo Luật Quản lý thuế Trung Quốc:''Quản lý thuế là một chuỗi các hoạt
động bảo đảm mục tiêu thu NSNN bao gồm: quản lý đăng ký thuế, quản lý sổ sách
chứng từ, quản lý khai báo nộp thuế, truy thu tiền thuế, kiểm tra thuế và đảm bảo
trách nhiệm pháp luật về thuế" [6,tr18].
Từ các quan niệm trên đây vấn đề đặt ra là cần tiếp cận khái niệm quản lý
thuế theo hai pham vi:
Theo nghĩa rộng, quản lý thuế là tất cả các hoạt động của Nhà nước liên quan
đến thuế. Quản lý thuế không chỉ bao gồm hoạt động tổ chức hoạt động tổ chức
điều hành quá trình thu nộp thuế vào NSNN mà còn bao gồm hoạt động xây dựng
chiến lược phát triển hệ thống thuế, ban hành pháp luật thuế và cả hoạt động kiểm
tra, giám sát việc sử dụng tiền thuế của các tổ chức thụ hưởng NSNN.
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế
Page 17
Theo nghĩa hẹp, quản lý thuế là quản lý hành chính Nhà nước về thuế, bao
gồm việc tổ chức, quản lý, điều hành quá trình thu nộp thuế, hay nói một cách khác
đó là hoạt động chấp hành của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền mà cụ thể là hệ
thống cơ quan quản lý thuế từ trung ương đến địa phương trong quản lý thu, nộp
thuế cho Nhà nước từ các tổ chức, cá nhân là đối tượng nộp thuế đã được xác định
trong các luật thuế.
Tuỳ thuộc vào mục đích của người nghiên cứu mà định nghĩa về quản lý thuế
sẽ được tiếp cập ở những phạm vi khác nhau. Để phù hợp với pháp luật thực định ở
nước ta, trong luận văn này, tác giả sử dụng khái niệm quản lý thuế theo nghĩa hẹp
tương thích với quy định trong Luật Quản lý thuế năm 2006 và được sửa đổi, bổ
sung năm 2012 (Điều 3. Nội dung quản lý thuế).
Thuế có các chức năng cơ bản là huy động nguồn lực tài chính cho Nhà
nước và điều chỉnh các mục tiêu kinh tế của Nhà nước. Khi nhà nước ban hành
một loại thuế mới thì mục đích đầu tiên là đem lại bao nhiêu nguồn thu cho ngân
sách. Tiền thuế được coi là tài sản quốc gia dùng để phục vụ lợi ích chung của
toàn xã hội.
Mục tiêu của quản lý thuế là cái đích mà quản lý thuế hướng tới và nhằm
đạt được. Theo chúng tôi, quản lý thuế thực chất nhằm đạt các mục tiêu cơ bản sau:
Tập trung huy động đầy đủ và kịp thời các khoản thu cho NSNN dựa vào
khai thác cơ sở thuế hiện tại và tìm kiếm, khuyến khích cơ sở thuế tiềm năng.
Tối thiểu hóa chi phí quản lý thuế của Nhà nước và chi phí tuân thủ của
NNT.
Phát huy tốt nhất vai trò của công cụ thuế trong nền kinh tế thị trường như:
ổn định kinh tế vĩ mô, đảm bảo công bằng trong phân phối thu nhập và điều tiết các
hoạt động SXKD theo mục tiêu của Nhà nước đã định trong từng thời kỳ.
Tăng cường sự tuân thủ thuế của NNT một cách đầy đủ, kịp thời và tự
nguyện theo các quy định của luật thuế.
Góp phần đảm bảo sự công bằng, bình đẳng giữa các chủ thể nộp thuế khác
nhau trong thực hiện nghĩa vụ thuế đối với nhà nước, đảm bảo môi trường cạnh
tranh lành mạnh, tạo động lực thúc đẩy kinh tế tăng trưởng và phát triển.