Tải bản đầy đủ (.pdf) (95 trang)

Pháp luật Việt Nam về tiền lương tối thiểu

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (778.49 KB, 95 trang )


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT




LƢU THỊ LAM




PH¸P LUËT VIÖT NAM VÒ TIÒN L¦¥NG TèI THIÓU





LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC







HÀ NỘI - 2014

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT





LƢU THỊ LAM



PH¸P LUËT VIÖT NAM VÒ TIÒN L¦¥NG TèI THIÓU

Chuyên ngành: Luật Kinh tế
Mã số: 60 38 01 07



LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC



Người hướng dẫn khoa học: TS. NGUYỄN XUÂN THU



HÀ NỘI - 2014
LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của
riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong
bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong
Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã
hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ

tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để
tôi có thể bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!


NGƯỜI CAM ĐOAN



Lƣu Thị Lam


MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các bảng
MỞ ĐẦU 1
Chƣơng 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TIỀN LƢƠNG TỐI
THIỂU VÀ PHÁP LUẬT VỀ TIỀN LƢƠNG TỐI THIỂU 7
1.1. Khái niệm, vai trò, đặc trƣng, các yếu tố ảnh hƣởng và căn
cứ xác định tiền lƣơng tối thiểu 7
1.1.1. Khái niệm tiền lương tối thiểu 7
1.1.2. Vai trò của tiền lương tối thiểu 12
1.1.3. Đặc trưng của tiền lương tối thiểu 14
1.1.4. Các yếu tố ảnh hưởng đến tiền lương tối thiểu 15
1.1.5. Các tiêu chí xác định tiền lương tối thiểu 18
1.2. Pháp luật về tiền lƣơng tối thiểu 19

1.2.1. Khái niệm và vai trò của pháp luật về tiền lương tối thiểu 19
1.2.2. Nội dung và hình thức của pháp luật về tiền lương tối thiểu 22
Chƣơng 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ TIỀN
LƢƠNG TỐI THIỂU 29
2.1. Quy định hiện hành về tiền lƣơng tối thiểu ở nƣớc ta hiện nay 29
2.1.1. Tiền lương tối thiểu chung 30
2.1.2. Tiền lương tối thiểu vùng 35
2.1.3. Tiền lương tối thiểu ngành 41
2.1.4. Về tổ chức triển khai thực hiện tiền lương tối thiểu 42
2.2. Thực tiễn thực hiện chính sách tiền lƣơng tối thiểu 43
2.2.1. Về xác định mức lương tối thiểu 43
2.2.2. Về thực hiện điều chỉnh mức lương tối thiểu 46
2.3. Đánh giá thực trạng quy định của pháp luật về tiền lƣơng tối thiểu 67
2.3.1. Những kết quả đạt được 67
2.3.2. Những tồn tại, hạn chế 69
Chƣơng 3: GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN VÀ NÂNG CAO HIỆU
QUẢ THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ TIỀN LƢƠNG TỐI
THIỂU Ở VIỆT NAM 72
3.1. Yêu cầu của việc hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả
thực hiện pháp luật về tiền lƣơng tối thiểu 72
3.1.1. Yêu cầu chung của cải cách hệ thống chính sách tiền lương 72
3.1.2. Yêu cầu của bối cảnh kinh tế xã hội trong nước và yêu cầu hội
nhập kinh tế quốc tế 73
3.1.3. Yêu cầu về sự phù hợp với các Công ước của ILO 75
3.1.4. Yêu cầu từ quan hệ cung, cầu trên thị trường lao động 76
3.1.5. Yêu cầu từ việc thể chế hóa đường lối, quan điểm của Đảng về
tiền lương 78
3.2. Giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thực
hiện pháp luật về tiền lƣơng tối thiểu 81
3.2.1. Xác định mức lương tối thiểu trên cơ sở tính đúng, đủ (đảm bảo)

mức sống tối thiểu và phù hợp với điều kiện kinh tế xã hội từng
thời kỳ 81
3.2.2. Điều chỉnh lương tối thiểu khi kinh tế tăng trưởng, lạm phát 82
3.2.3. Thực hiện lương tối thiểu ngành thông qua thương lượng, ký
kết thỏa ước lao động tập thể ngành, nhóm doanh nghiệp 82
3.2.4. Hoàn thiện pháp luật về tiền lương tối thiểu, tiến tới xây dựng
Luật tiền lương tối thiểu 83
3.2.5. Giải pháp khác nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về tiền
lương tối thiểu 91
KẾT LUẬN 95
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 97
PHỤ LỤC 103

DANH MỤC CÁC BẢNG PHỤ LỤC

Số hiệu bảng
Tên bảng
Trang
Bảng 2.1:
So sánh chênh lệch tiền lương tối thiểu giữa các vùng
103
Bảng 2.2:
Mức lương tối thiểu chung ấn định so với mức lương tối
thiểu được xác định theo phương pháp dựa vào nhu cầu
tối thiểu
103
Bảng 2.3:
Điều chỉnh mức lương tối thiểu chung so với CPI (năm trước
bằng 100%)
104

Bảng 2.4:
Điều chỉnh mức tiền lương tối thiểu đối với khu vực FDI
104
Bảng 2.5:
Mức lương tối thiểu vùng giai đoạn 2008-2015
99



1
M U

1. Tớnh cp thit ca vic nghiờn cu ti
Chính sách tiền l-ơng có vị trí quan trọng trong hệ thống chính sách
kinh tế xã hội của đất n-ớc, là động lực để sử dụng có hiệu quả nguồn lao
động. Chớnh sỏch tin lng nc ta sau nhiu ln ci cỏch ó v ang th
hin c vai trũ v chc nng ca mỡnh trong sn xut kinh doanh v i
sng ca ngi lao ng, nht l chớnh sỏch tin lng t nm 1993 n nay
ó tng bc i mi theo c ch th trng nh hng xó hi ch ngha,
khụng tớnh bỡnh quõn, co bng. Tin lng c coi l giỏ c sc lao ng
v c hỡnh thnh trờn c s thng lng, tha thun gia ngi lao ng
v ngi s dng lao ng thụng qua ký kt hp ng lao ng hoc tha c
lao ng tp th. Tin lng tr thnh ng lc, ũn by kớch thớch, khuyn
khớch ngi lao ng lm cụng vic cú nng sut, cht lng, hiu qu, nõng
cao trỡnh chuyờn mụn, nghip v, tay ngh, ng thi l phng tin m
bo cuc sng ngy cng nõng cao.
Tin lng ti thiu l mt ni dung c bn v quan trng ca chớnh
sỏch tin lng trong kinh t th trng. Tin lng ti thiu tham gia vo quỏ
trỡnh phõn phi, iu tit v mụ v tin lng v thu nhp trờn phm vi ton xó
hi; ng thi l yu t tham gia vo hỡnh thnh chi phớ u vo ca doanh

nghip v phõn phi theo kt qu u ra ca sn xut kinh doanh.
Trong kinh t th trng, tin lng ti thiu cú v trớ quan trng, l sn
thp nht m khụng mt ngi s dng lao ng cú quyn tr thp hn mc
ú v l li an ton cho ngi lm cụng n lng trong xó hi. Tin lng
ti thiu do Nh nc quy nh l mt trong nhng cụng c quan trng qun
lý v mụ v tin lng, gim bt bỡnh ng v tin lng, thu nhp, chng
nghốo úi, búc lt lao ng quỏ sc, l cn c phỏp lý ngi lao ng v
ngi s dng lao ng tha thun cỏc mc tin cụng cao hn trờn th trng

2
lao động. Tiền lương tối thiểu tham gia vào quá trình phân phối, điều tiết vĩ
mô về tiền lương và thu nhập trên phạm vi toàn xã hội; đồng thời, là yếu tố
tham gia vào hình thành chi phí đầu vào của doanh nghiệp và phân phối theo
kết quả đầu ra của quá trình sản xuất kinh doanh. Trong hội nhập kinh tế quốc
tế, tiền lương tối thiểu được coi là một trong những chỉ báo quan trọng thể
hiện là nền kinh tế thị trường.
Đối với nước ta, trong quá trình chuyển sang nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa, nhận thức về tiền lương tối thiểu trong kinh tế thị
trường ngày càng rõ nét. Chính sách tiền lương ở Việt Nam nói chung và tiền
lương tối thiểu nói riêng qua nhiều lần cải cách đã không ngừng hoàn thiện,
phù hợp với mỗi giai đoạn phát triển của đất nước, đã từng bước đổi mới theo
định hướng thị trường, góp phần thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển dựa
trên nguyên tắc coi tiền lương là yếu tố của sản xuất, là giá cả sức lao động
được hình thành thông qua sự thoả thuận giữa người lao động và người sử dụng
lao động, phù hợp với quan hệ cung - cầu trên thị trường lao động. Hiện nay,
chính sách tiền lương tối thiểu được luật hóa trong Bộ luật lao động (Điều 56
Bộ luật lao động 1994 và Điều 91 Bộ luật lao động năm 2012).
Tuy nhiên, trong giai đoạn quá độ chuyển đổi từ cơ chế quản lý tập
trung, bao cấp sang kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, nền kinh
tế nước ta ngày càng hội nhập sâu, rộng với kinh tế quốc tế thì tiền lương tối

thiểu đối với các doanh nghiệp ở Việt Nam hiện nay cần được tiếp tục nghiên
cứu, hoàn thiện để đáp ứng yêu cầu thực tế, đó là:
Thứ nhất, tiền lương tối thiểu còn thấp, chưa đảm bảo được mức
sống của người lao động, (theo mức lương tối thiểu vùng mới được điều
chỉnh từ ngày 01/01/2014 mới đáp ứng khoảng 70% mức sống tối thiểu của
người lao động) [27].
Thứ hai, tiền lương tối thiểu, bao gồm từ cơ chế và nguyên tắc hình

3
thành, xác định mức lương tối thiểu chưa được luật hóa rõ ràng, đầy đủ và
thống nhất, đồng bộ, các căn cứ, tiêu chí điều chỉnh mức lương tối thiểu chưa
được lượng hóa cụ thể dẫn đến việc điều chỉnh tiền lương tối thiểu trên thực
tế chưa thực sự dựa trên các nguyên tắc của kinh tế thị trường. Trong điều
kiện thị trường lao động ở nước ta mới được hình thành, việc thoả thuận tiền
lương chưa trở thành thông lệ, người lao động luôn trong tình trạng bị ép tiền
công thì tiền lương tối thiểu hiện nay chưa thực sự là công cụ tối ưu để bảo vệ
người làm công ăn lương, góp phần xây dựng mối quan hệ lao động trong các
doanh nghiệp ổn định, lành mạnh cùng phát triển [51].
Thứ ba, về mặt luật pháp thì tiền lương tối thiểu đối với khu vực sản
xuất, kinh doanh đã được tách khỏi khu vực hành chính, sự nghiệp hưởng
lương từ ngân sách nhà nước (Bộ luật lao động năm 2012) nhưng các nội
dung còn quy định chung chung, chưa có hướng dẫn cụ thể. Vì vậy, một số
chế độ, chính sách của người lao động vẫn còn phụ thuộc vào chính sách tiền
lương đối với cán bộ, công chức và lực lượng vũ trang (chế độ đóng, hưởng
bao hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp; chính sách lao động dôi dư; lương
hưu ). Luật về tiền lương tối thiểu cũng đã được cơ quan có thẩm quyền
nghiên cứu, soạn thảo, tuy nhiên, đến thời điểm này vẫn chưa trình Quốc hội
cho ý kiến (dự kiến năm 2016 sẽ trình Quốc hội cho ý kiến về Luật tiền lương
tối thiểu). Việc liên tục phải điều chỉnh lương tối thiểu và việc Luật tiền lương
tối thiểu chưa thể ban hành đúng kế hoạch đã chứng minh sự thiếu ổn định ở

tầm vĩ mô về những quy định liên quan đến lương tối thiểu [37].
Trên cơ sở nghiên cứu, phân tích, đánh giá mặt được và mặt hạn chế
của tiền lương tối thiểu do Nhà nước quy định, thực trạng tình hình thực hiện
các quy định của Nhà nước về tiền lương tối thiểu và các yêu cầu đối với tiền
lương tối thiểu trong nền kinh tế thị trường, của Tổ chức lao động quốc tế, khi
Việt Nam tham gia Tổ chức Thương mại thế giới, đề tài khuyến nghị các nội

4
dung cơ bản hoàn thiện tiền lương tối thiểu ở Việt Nam phù hợp hơn theo
kinh tế thị trường, hội nhập kinh tế quốc tế, góp phần xây dựng mối quan hệ
lao động trong các doanh nghiệp ổn định, lành mạnh cùng phát triển, gồm:
- Đề xuất, khuyến nghị nội dung và giải pháp để luật hóa đầy đủ, đồng
bộ tiền lương tối thiểu phù hợp với kinh tế thị trường và hội nhập kinh tế quốc
tế (bao gồm cơ chế và nguyên tắc hình thành, xác định, điều chỉnh các mức
lương tối thiểu) nhằm thực hiện thống nhất, góp phần bảo vệ người làm công
ăn lương, xây dựng mối quan hệ lao động ổn định, lành mạnh, phát triển.
- Đề xuất, khuyến nghị nội dung và giải pháp để thực hiện tách tiền
lương tối thiểu đối với các doanh nghiệp và tiền lương tối thiểu đối với khu
vực hưởng lương từ ngân sách nhà nước, nhằm tạo sự linh hoạt của tiền lương
tối thiểu theo nguyên tắc của kinh tế thị trường.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Trong những năm qua, có một số đề tài, luận văn nghiên cứu về tiền
lương tối thiểu như: Đề tài cấp Nhà nước về “Xác định tiền lương tối thiểu
trên cơ sở điều tra nhu cầu mức sống dân cư làm căn cứ cải cách tiền lương ở
Việt Nam giai đoạn 2001-2010” do tác giả Nguyễn Văn Thường làm chủ
nhiệm; Luận văn Thạc sĩ luật học năm 2010 “Chế độ pháp lý về tiền lương tối
thiểu và hướng hoàn thiện” của tác giả Đào Duy Phương; cùng một số bài
viết như: “Đánh giá tác động của lương tối thiểu đến nhu cầu lao động ở
doanh nghiệp tại Việt Nam" của tác giả Nguyễn Việt Cường (2012); “Nghiên
cứu mức lương tối thiểu theo giờ” của đồng các tác giả Nguyễn Huyền Lê,

Nguyễn Thị Hương Hiền và Trần Thị Diệu (2012) Từ những thống kê trên
cho thấy, các quy định của pháp luật điều chỉnh trực tiếp đến tiền lương tối
thiểu còn nhiều khiếm khuyết, hạn chế. Các văn bản pháp lý về tiền lương tối
thiểu thay đổi thường xuyên, liên tục; chưa có văn bản quy phạm pháp luật về
tiền lương tối thiểu được ban hành dưới hình thức một Luật riêng để điều
chỉnh về nội dung này. Cho đến nay, chưa có một công trình nghiên cứu luật

5
học đáng kể nào về tiền lương tối thiểu, nghiên cứu được toàn diện, đầy đủ về
các nội dung cơ bản của tiền lương tối thiểu.
3. Phạm vi nghiên cứu của đề tài
Luận văn tập trung nghiên cứu các vấn đề chính sau:
Khái niệm, bản chất, vai trò của tiền lương tối thiểu, các phương pháp
xác định tiền lương tối thiểu; các yếu tố ảnh hưởng đến quy định về mức
lương tối thiểu; nội dung và hình thức của pháp luật về tiền lương tối thiểu.
Thực trạng của pháp luật Việt Nam về tiền lương tối thiểu cũng như các giải
pháp hoàn thiện và nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về tiền lương tối
thiểu ở Việt Nam.
Lương tối thiểu là vấn đề của cả người lao động làm công ăn lương nói
chung và đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức nói riêng. Vì vậy, luận văn
tiếp cận tiền lương tối thiểu với cả hai đối tượng trên.
4. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu
Luận văn được nghiên cứu trên cơ sở vận dụng phương pháp luận duy
vật lịch sử của chủ nghĩa Mác-Lê nin và sử dụng các phương pháp nghiên cứu
cụ thể gồm: phương pháp phân tích, tổng hợp; phương pháp đối chiếu, so
sánh; phương pháp thống kê. Đồng thời, thực hiện việc kết hợp giữa các
nhóm phương pháp để nghiên cứu, giải quyết những yêu cầu đề ra.
5. Mục đích và nhiệm vụ của việc nghiên cứu đề tài
Việc nghiên cứu đề tài với mục đích cụ thể là: xây dựng quan điểm và
lý thuyết về tiền lương tối thiểu. Đánh giá thực trạng quy định của pháp luật

Việt Nam hiện nay về lương tối thiểu để rút ra những ưu, nhược điểm của hệ
thống các quy định pháp luật hiện hành về lương tối thiểu. Thông qua việc
đánh giá khách quan, luận văn đề xuất giải pháp hoàn thiện quy định về lương
tối thiểu, nhằm góp phần xây dựng pháp luật lao động hoàn chỉnh, phù hợp
với thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Để đạt được mục đích đề ra, luận văn tập trung nghiên cứu, giải quyết

6
các nhiệm vụ: nghiên cứu quan điểm, khái niệm, bản chất, vai trò và các vấn
đề chung về lương tối thiểu; sự phát triển của pháp luật Việt Nam về lương tối
thiểu qua các thời kỳ. Chỉ ra những hạn chế, bất cập trong các quy định của
pháp luật Việt Nam hiện hành về lương tối thiểu. Nghiên cứu đề ra các biện
pháp hoàn thiện pháp luật Việt Nam về lương tối thiểu trên cơ sở đánh giá
khoa học. Đồng thời, nghiên cứu những vấn đề liên quan về lương tối thiểu
của một số nước trên thế giới.
6. Một số điểm mới của luận văn
Xây dựng khái niệm tương đối toàn diện, hoàn chỉnh về lương tối thiểu;
bản chất, vai trò và các yếu tố ảnh hưởng của lương tối thiểu; các phương
pháp xác định lương tối thiểu. Đánh giá tương đối toàn diện quy định của
pháp luật Việt Nam hiện hành về tiền lương tối thiểu. Đề ra những yêu cầu,
biện pháp tương đối toàn diện, độc lập để hoàn thiện pháp luật Việt Nam về
tiền lương tối thiểu, đáp ứng nhu cầu điều chỉnh quan hệ xã hội về lĩnh vực
này trong thị trường lao động.
7. Kết cấu của luận văn
Với phạm vi, đối tượng, mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu nêu trên,
ngoài phần mở đầu và kết luận, đề tài gồm 3 chương chính như sau:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về tiền lương tối thiểu.
Chương 2: Thực trạng pháp luật Việt Nam về tiền lương tối thiểu.
Chương 3: Giải pháp hoàn thiện và nâng cao hiệu quả thực hiện pháp
luật về tiền lương tối thiểu ở Việt Nam.








7
Chƣơng 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TIỀN LƢƠNG TỐI THIỂU VÀ
PHÁP LUẬT VỀ TIỀN LƢƠNG TỐI THIỂU

1.1. Khái niệm, vai trò, đặc trƣng, các yếu tố ảnh hƣởng và căn cứ
xác định tiền lƣơng tối thiểu
1.1.1. Khái niệm tiền lương tối thiểu
1.1.1.1. Quan niệm tiền lương tối thiểu của C. Mác
Trong lí luận về giá trị thặng dư C. Mác đã chỉ ra tiền lương là giá cả
hàng hóa sức lao động, phụ thuộc vào quan hệ cung cầu lao động, lên xuống
xoay quanh giá trị của nó - giá trị sức lao động. Cũng như các loại hàng hóa
khác, giá trị hàng hóa sức lao động là thời gian lao động xã hội cần thiết để
sản xuất ra nó, tức là giá trị những tư liệu sinh hoạt nhằm bù đắp lại sức lao
động đã hao phí của người lao động, gồm 3 loại chi phí sau:
(1) chi phí để nuôi sống và duy trì khả năng lao động của bản
thân người lao động với tư cách là người công dân tự do tự nguyện
bán sức lao động (ký kết hợp đồng lao động); (2) chi phí để học tập
và đào tạo để trở thành người lao động; và (3) chi phí để nuôi sống
gia đình người lao động [8].
Do sự phát triển của khoa học công nghệ và sự đòi hỏi chất lượng lao
động ngày càng cao của nền sản xuất xã hội, nên chi phí học tập và đào tạo
ngày càng tăng và tăng nhanh hơn so với sự tăng lên của 2 loại chi phí còn lại.

Trong điều kiện lao động giản đơn không cần học nghề thì những chi phí cần
thiết này chỉ là những hàng hóa cần thiết để duy trì đời sống người lao động,
là “giới hạn tột cùng” của giá trị sức lao động và tương đối giống nhau giữa
những người lao động khác nhau. Từ đó C. Mác kết luận:
Chi phí sản xuất ra sức lao động đơn giản gồm chi phí sinh hoạt

8
của người công nhân và chi phí tái sản xuất ra người công nhân. Giá
những chi phí sinh hoạt và chi phí tái sản xuất đó là tiền công. Tiền
công được quy định như vậy là tiền công tối thiểu [8, tr.38-39].
Nhưng sức lao động chỉ tồn tại khi người lao động sống và tham gia
các quan hệ xó hội, do đó ngoài yếu tố thuần túy sinh lý, giá trị sức lao động
cũng có tính lịch sử xã hội. Giới hạn tột cùng của giá trị sức lao động do yếu
tố sinh lý quyết định - đó là giá trị các tư liệu sinh hoạt cần thiết để người
công nhân tự duy trì và tái sinh. Yếu tố lịch sử xó hội phụ thuộc vào hoàn
cảnh sống và tập quán sinh hoạt của mỗi cộng đồng người, vào công bằng và
tiến bộ xó hội đạt được trong mỗi thời kỳ ở mỗi vùng, mỗi quốc gia; yếu tố
lịch sử xó hội thường xuyên thay đổi, nhưng có thể không được tính đến khi
xác định giá trị sức lao động.
1.1.1.2. Quan niệm tiền lương tối thiểu của Tổ chức Lao động quốc tế (ILO)
Năm 1919, trong hiến chương thành lập, ILO đã khuyến cáo “bảo đảm
mức tiền lương đủ sống cho người lao động” là một trong những nội dung nhằm
hoàn thiện các điều kiện lao động, an sinh xã hội và thúc đẩy hoà bình [42].
Trong Công ước số 26 ngày 30/5/1928 của Tổ chức Lao động quốc tế
(ILO) cho rằng: “Tiền lương tối thiểu là mức trả công lao động thấp nhất trả
cho người lao động làm các công việc đơn giản nhất đủ đảm bảo cho họ một
mức sống tối thiểu với tư cách là người chủ gia đình, phù hợp với điều kiện
kinh tế xã hội" [41].
Năm 1970, tại Công ước 131 về tiền lương tối thiểu, ILO đã xác định:
“bảo đảm cho những người làm công ăn lương một sự bảo đảm xã hội cần

thiết dưới dạng mức tiền lương tối thiểu đủ sống” [43]. Hay nói cách khác,
tiền lương tối thiểu là mức tiền lương duy trì cuộc sống ở mức tối thiểu cho
người làm công ăn lương.
Năm 1976, trong tuyên bố Chương trình hành động tại hội nghị thế giới

9
3 bên về việc làm, phân phối thu nhập và tiến bộ xã hội, ILO đã khuyến nghị
“Bảo đảm mức sống tối thiểu là một trong những nội dung cơ bản của chiến
lược phát triển kinh tế xã hội và chính sách tiền lương của mỗi nước” [45].
1.1.1.3. Quan niệm tiền lương tối thiểu trong nền kinh tế thị trường
Trong nền kinh tế thị trường, tiền lương tối thiểu được xem xét trong
mối quan hệ với việc làm, liên quan trực tiếp đến quan hệ cung cầu trên thị
trường lao động, đó là mức tiền lương thấp nhất trả cho người làm công ăn
lương làm công việc giản đơn trong điều kiện lao động bình thường mà không
một người sử dụng lao động nào có quyền trả thấp hơn. Vì vậy, tiền lương tối
thiểu là một trong những nguyên nhân làm gia tăng tỷ lệ thất nghiệp khi nó
được quy định cao hơn tiền lương cân bằng của quan hệ cung cầu lao động
trên thị trường lao động.
Thông thường tiền lương tối thiểu được luật hóa trên cơ sở có sự tham
gia của đại diện người sử dụng lao động và người lao động và trở thành mức
sàn thấp nhất theo quy định của pháp luật để trả cho người làm công ăn lương
trên thị trường. Mức tiền lương tối thiểu không bao gồm các khoản tiền
thưởng hoặc phúc lợi xã hội, không phải là mức trợ cấp xã hội, được tính theo
thời gian, thường áp dụng cho lao động thành niên không có kỹ năng, lần đầu
tiên tham gia làm việc và có thể được tính theo giờ, ngày, tuần hoặc tháng.
Các mức tiền lương thấp nhất xác định thông qua thỏa ước lao động tập thể
của các doanh nghiệp không phải là tiền lương tối thiểu, mà đây là mức lương
thỏa thuận giữa người sử dụng lao động và đại diện người lao động.
Với những vai trò và đặc điểm nêu trên, tiền lương tối thiểu phải thỏa
mãn các yêu cầu như sau:

- Bảo đảm đời sống tối thiểu cho người lao động ở trình độ lao động
phổ thông, phù hợp với khả năng của nền kinh tế trong từng thời kỳ nhất định,
phải bảo đảm mức sống tối thiểu thực tế cho người hưởng mức lương tối thiểu.

10
- Được tính đúng, tính đủ để trở thành lưới an toàn chung cho những
người làm công ăn lương trong toàn xã hội, không phân biệt thành phần kinh
tế và khu vực kinh tế.
- Bảo đảm mối quan hệ thực sự giữa mức lương tối thiểu, trung bình và
tối đa để chống lại xu hướng gia tăng chênh lệch bất hợp lý tiền lương giữa
các loại lao động, vi phạm nguyên tắc phân phối theo lao động.
- Là yếu tố tác động đến mức tiền công trên thị trường lao động, tạo
điều kiện cho các doanh nghiệp tính đủ chi phí đầu vào và đầu tư hợp lý giữa
các vùng, ngành, mở rộng môi trường đầu tư và hội nhập.
- Là công cụ điều tiết của Nhà nước nhằm bảo đảm xã hội đối với
người lao động làm việc trong ngành nghề, khu vực có quan hệ lao động, thiết
lập những ràng buộc kinh tế trong lĩnh vực sử dụng lao động, tăng cường
trách nhiệm của các bên trong quan hệ lao động.
1.1.1.4. Quan niệm tiền lương tối thiểu ở Việt Nam
Ở Việt Nam, năm 1993 khi thực hiện cải cách chính sách tiền lương,
mức lương tối thiểu được quan niệm là căn cứ xây dựng hệ thống trả công lao
động cho các khu vực, ngành nghề; tính mức lương cho các loại lao động khác
nhau; tạo ra lưới an toàn xã hội cho lao động trong cơ chế thị trường; thiết lập
mối quan hệ ràng buộc kinh tế giữa người sử dụng lao động và người lao động
trong thoả thuận ký kết hợp đồng lao động (về tiền lương, tiền công).
Bộ Luật lao động năm 1994 của Việt Nam chỉ rõ:
Mức lương tối thiểu được ấn định theo giá sinh hoạt, bảo đảm
cho người lao động làm công việc giản đơn nhất trong điều kiện lao
động bình thường bù đắp sức lao động giản đơn và một phần tích
luỹ tái sản xuất mở rộng và được dùng làm căn cứ để tính các mức

lương cho các loại lao động khác. Chính phủ quyết định và công bố
mức lương tối thiểu chung, mức lương tối thiểu vùng, mức lương

11
tối thiểu ngành cho từng thời kỳ sau khi lấy ý kiến Tổng Liên đoàn
Lao động Việt Nam và đại diện của người sử dụng lao động. Khi
chỉ số giá sinh hoạt tăng lên làm cho tiền lương thực tế của người
lao động bị giảm sút, thì Chính phủ điều chỉnh mức lương tối thiểu
để bảo đảm tiền lương thực tế [38, Điều 56].
Như vậy, tiền lương tối thiểu (hay mức lương tối thiểu) là số lượng tiền
thấp nhất do Nhà nước quy định để trả công cho lao động giản đơn nhất trong
xã hội trong điều kiện lao động bình thường, người sử dụng lao động không
được trả lương cho người lao động thấp hơn mức do Chính phủ quy định.
Tiền lương tối thiểu được trả theo tháng, bao gồm tiền lương tối thiểu chung,
tiền lương tối thiểu vùng, tiền lương tối thiểu ngành.
Tiền lương tối thiểu chung là tiền lương tối thiểu áp dụng cho toàn xã
hội, là "lưới an toàn" cho toàn bộ những người làm việc hưởng lương trong
toàn xã hội. Nó là "nền" của toàn bộ hệ thống tiền lương.
Tiền lương tối thiểu theo vùng là tiền lương tối thiểu dùng cho một
vùng nào đó của đất nước, phụ thuộc vào nhu cầu tối thiểu của bản thân và
gia đình người lao động trong vùng; mức sống chung đạt được và sự chênh
lệch mức sống giữa các tầng lớp dân cư; mức tiền lương, tiền công chung đạt
được và yếu tố giá cả trong vùng. Ngoài các yếu tố trên, tiền lương tối thiểu
theo vùng còn phụ thuộc vào các yếu tố chính trị, kinh tế, xã hội.
Tiền lương tối thiểu theo ngành là tiền lương tối thiểu áp dụng cho một
ngành nào đó, dựa trên cơ sở mức lương tối thiểu chung, mức lương tối thiểu
vùng và năng suất lao động, khả năng chi trả của doanh nghiệp và quan hệ
cung cầu lao động của từng ngành và do đại diện người lao động và người sử
dụng lao động thoả thuận, quy định trong thoả ước lao động ngành.
Nhìn chung, tiền lương tối thiểu phải phản ánh mức sống tối thiểu của

người lao động làm công ăn lương trong từng thời kỳ nhất định. Do kinh tế xã

12
hội ngày càng phát triển, mức sống của người lao động ngày càng cao đòi hỏi
tiền lương tối thiểu ngày càng phải tăng để đảm bảo đời sống cho những
người trong diện hưởng lương tối thiểu.
1.1.2. Vai trò của tiền lương tối thiểu
Vai trò của tiền lương tối thiểu sớm được khẳng định trong Công ước
số 26 ngày 30/5/1928 của Tổ chức Lao động quốc tế (ILO). Đây có giá trị như
một văn bản pháp quy đầu tiên về việc luật pháp hoá các quy chế xây dựng
mức lương tối thiểu của các nước thành viên. Tổ chức lao động quốc tế cho
rằng: “Tiền lương tối thiểu là mức trả công lao động thấp nhất trả cho người
lao động làm các công việc đơn giản nhất đủ đảm bảo cho họ một mức sống
tối thiểu với tư cách là người chủ gia đình, phù hợp với điều kiện kinh tế xã
hội" [41]. Hội nghị Quốc tế của ILO họp ở Thái Lan (tháng 12/1990) đã
khẳng định vai trò cần thiết của việc thiết lập chế độ tiền lương tối thiểu trong
các nước, nhất là đối với các nước đang phát triển.
Tiền lương tối thiểu do Nhà nước quy định là mức “sàn” thấp nhất của
xã hội để trả công cho người lao động tham gia quan hệ lao động, làm công
việc giản đơn nhất trong điều kiện lao động bình thường trên thị trường lao
động, cho khu vực có quan hệ lao động, không phân biệt thành phần kinh tế,
ngành, nghề, vùng lãnh thổ. Tiền lương tối thiểu là một trong những công cụ
quan trọng quản lý vĩ mô của Nhà nước về lĩnh vực tiền lương, tiền công và
lao động, việc làm nhằm đảm bảo vai trò điều tiết của Nhà nước và phát huy
quyền tự chủ của doanh nghiệp. Chính sách tiền lương tối thiểu được coi là
một trong những biện pháp của Nhà nước nhằm chống nghèo đói, ngăn cản
bần cùng hóa dưới mức cho phép và thúc đẩy kinh tế phát triển.
Tuy nhiên, tuỳ từng nơi, từng lúc, vai trò của tiền lương tối thiểu được
thể hiện khác nhau, nhưng có vai trò chủ yếu như sau:
- Tiền lương tối thiểu là lưới an toàn đối với người lao động. Người sử


13
dụng lao động không được trả công thấp hơn mức lương tối thiểu, nên loại trừ
sự bóc lột thậm tệ có thể xảy ra đối với những người làm công, ăn lương trước
sức ép mức cung quá lớn của thị trường sức lao động.
- Bảo đảm sức mua cho các mức tiền lương khác trước sự gia tăng của
lạm phát và các yếu tố kinh tế xã hội khác thông qua việc điều chỉnh tiền
lương tối thiểu.
- Giảm bớt sự đói nghèo. Vì vậy việc xác định tiền lương tối thiểu được
coi là một trong những biện pháp quan trọng để tiến công trực tiếp vào đói
nghèo của một quốc gia.
- Loại bỏ sự cạnh tranh không công bằng, chống lại xu hướng giảm chi
phí các yếu tố sản xuất tới mức không thoả đáng trong đó có tiền lương. Luật
tiền lương tối thiểu buộc các chủ doanh nghiệp phải tìm mọi cách khác để
giảm chi phí và tăng hiệu quả của sản xuất kinh doanh.
- Bảo đảm sự trả công tương đương cho những công việc tương đương.
Luật tiền lương tối thiểu ở mức độ nào đó là sự điều chỉnh quan hệ về tiền
lương trong các nhóm người lao động mà ở đó tiền lương không được tính
đúng mức (phụ nữ - nam giới, tiền lương ở các vùng khác nhau, giữa các đẳng
cấp, nhóm lao động khác nhau).
- Phòng ngừa sự xung đột giữa giới chủ và giới thợ làm ảnh hưởng đến
sự phát triển kinh tế, vì tiền lương tối thiểu là công cụ của nhà nước trong
việc điều tiết thu nhập giữa giới chủ và người lao động.
Tóm lại, mục tiêu có tính khái quát đặt ra của tiền lương tối thiểu là
nhằm đáp ứng yêu cầu của nền kinh tế thị trường trong đó phải tạo điều kiện
để tự do dịch chuyển lao động và khả năng thoả thuận của các bên có liên
quan; đồng thời là lưới an toàn chung cho lao động xã hội. Tiền lương tối
thiểu là căn cứ để xác định mức tiền công của các loại lao động góp phần điều
tiết cung cầu lao động, phát triển thị trường lao động lành mạnh.


14
Tuy nhiên, trong điều kiện kinh tế của nước ta trong giai đoạn hiện nay,
mặc dù đã đạt được nhiều thành tựu to lớn trong phát triển kinh tế, ổn định
chính trị, xã hội nhưng điểm xuất phát chưa cao, GDP bình quân đầu người,
khả năng cạnh tranh của nền kinh tế còn thấp, khả năng ngân sách còn hạn
hẹp, cung cầu lao động vẫn còn mất cân đối, năng suất lao động so với khu
vực và thế giới còn rất thấp, chất lượng nguồn lao động chưa cao, thì mặc dù
mục tiêu đề ra của tiền lương tối thiểu là đúng đắn nhưng lại khá cao so với
khả năng của nền kinh tế và trình độ phát triển xã hội. Vì vậy, ngoài các mục
tiêu có tính chiến lược, cần phải có các mục tiêu cụ thể phù hợp với phát triển
kinh tế và nhận thức của từng giai đoạn để có tính khả thi.
1.1.3. Đặc trưng của tiền lương tối thiểu
Đặc trưng của tiền lương tối thiểu là những giá trị phản ánh bản chất
của nó, đây là vấn đề có tính nhận thức đã từ lâu là mối quan tâm của Chính
phủ và các tổ chức quốc tế.
Trong nền kinh tế thị trường, mục tiêu xã hội của chính sách tiền lương
tối thiểu là nhằm ngăn chặn bóc lột sức lao động và chống đói nghèo. Có nghĩa
là lương tối thiểu đưa ra một sức mua vừa đủ để giúp người lao động có được
mức sống cơ bản. Lương tối thiểu còn có mục tiêu kinh tế - đó là khuyến khích
người lao động và chia sẻ các lợi ích mà tăng trưởng kinh tế mang lại. Như vậy,
có thể rút ra bản chất hay đặc trưng của tiền lương tối thiểu là:
- Tiền lương tối thiểu được xác định dựa trên sự thỏa mãn nhu cầu tối
thiểu (đủ sống) của người lao động làm công ăn lương, bao gồm nhu cầu của
bản thân người lao động và gia đình họ.
- Đó là sự đảm bảo xã hội cần thiết mà các bên (các chủ thể) trong quan
hệ lao động (nhà nước, người sử dụng lao động, người lao động và các chủ
thể xã hội khác) phải dựa vào nó để thương lượng, thỏa thuận và xử lý hài hòa
mối quan hệ lợi ích giữa các bên.

15

- Tiền lương tối thiểu vừa có mục tiêu về kinh tế vừa có mục tiêu xã hội.
Từ đó, việc xác định mức tiền lương tối thiểu phải tính đến các yếu tố kinh tế
và yếu tố xã hội, để đảm bảo vai trò, chức năng của tiền lương tối thiểu trong
kinh tế thị trường phát huy một cách hiệu quả nhất.
Xuất phát từ thực tiễn, Bộ luật Lao động Việt Nam năm 1994 đã nâng
tầm quan trọng của tiền lương tối thiểu lên đúng vị trí của nó, để chính thức
luật hóa thể hiện ở một số đặc trưng của tiền lương tối thiểu:
- Một là, tương ứng với trình độ lao động giản đơn nhất, người lao động
không cần qua đào tạo nghề cũng có thể làm được và làm việc trong điều kiện
lao động bình thường không có hại cho sức khỏe của người lao động;
- Hai là, mức lương tối thiểu phải đủ để mua những tư liệu sinh hoạt và
dịch vụ cần thiết bù đắp sức lao động giản đơn và một phần để tích lũy tái sản
xuất sức lao động mở rộng phù hợp với mức sống chung của xã hội;
- Ba là, được dùng làm cơ sở để tính các mức lương cho các loại lao
động khác nhau;
- Bốn là, mức lương tối thiểu (chung, vùng, ngành) do Chính phủ quyết
định và công bố sau khi tham khảo ý kiến của đại diện người lao động và
người sử dụng lao động;
- Năm là, được điều chỉnh theo giá sinh hoạt, mức độ tăng trưởng của
nền kinh tế và cung cầu lao động trên thị trường từng thời kỳ.
1.1.4. Các yếu tố ảnh hưởng đến tiền lương tối thiểu
1.1.4.1. Tình hình cung cầu lao động và mức lương trên thị trường lao động
Tình hình cung cầu lao động có tác động không nhỏ đến mức tiền
lương tối thiểu. Khi cung về lao động lớn hơn cầu về lao động thì tiền lương
có xu hướng giảm, khi cung về lao động nhỏ hơn cầu về lao động thì tiền
lương có xu hướng tăng, còn khi cung về lao động bằng với cầu lao động thì
thị trường lao động đạt tới sự cân bằng. Tiền lương lúc này là tiền lương cân

16
bằng, mức tiền lương này bị phá vỡ khi các nhân tố ảnh hưởng tới cung cầu

về lao động thay đổi như (năng suất biên của lao động, giá cả của hàng hoá,
dịch vụ …). Tuy nhiên, tiền lương hiện nay chưa thực sự gắn với mối quan hệ
cung cầu lao động trên thị trường, tốc độ tăng tiền lương chậm trong khi nhu
cầu nhân lực là lớn.
1.1.4.2. Chi phí sinh hoạt; giá cả hàng hóa, dịch vụ
Khi xác định mức lương tối thiểu cần xem xét đến yếu tố biến động của
giá cả các mặt hàng, dịch vụ phục vụ nhu cầu sinh hoạt của người lao động.
Khi nền kinh tế quốc dân vẫn còn trong giai đoạn chuyển đổi và mức lương
chung còn thấp, việc xem xét các nhu cầu cơ bản của con người có ý nghĩa
đặc biệt quan trọng. Tiền công trong những công việc khác nhau tăng lên và
hạ xuống qua thời gian phần lớn là do những thay đổi về giá cả của những
hàng hóa tiêu dùng và dịch vụ đó. Ví dụ, khi ô-tô thay thế xe ngựa trong nửa
đầu của thế kỷ trước, tiền công của thợ đúc móng ngựa và thợ làm yên cương
sụt giảm nhiều trong khi tiền công của thợ cơ khí ô-tô lại tăng lên.
Khi chi phí sinh hoạt thay đổi, do giá cả hàng hoá, dịch vụ thay đổi sẽ
kéo theo tiền lương thực tế thay đổi. Khi chỉ số giá sinh hoạt tăng, tiền lương
thực tế của người lao động bị giảm sút và Chính phủ phải điều chỉnh lương tối
thiểu để đảm bảo ổn định cuộc sống cho người lao động, đảm bảo tiền lương
thực tế không bị giảm. Theo ý kiến của một số nhà quản lý, việc tăng lương
tối thiểu, cải thiện điều kiện sống cho người lao động sẽ thu hút được lao
động có tay nghề cao, qua đó sẽ nâng cao hiệu quả đầu tư.
1.1.4.3. Sự tăng trưởng của nền kinh tế
Tăng lương hợp lý có thể coi là biện pháp kích cầu lành mạnh để thúc
đẩy sản xuất phát triển, góp phần vào tăng trưởng chung thúc đẩy nền kinh tế.
Ngược lại nền kinh tế có tăng trưởng thì tiền lương mới tăng.
Khi xảy ra khủng hoảng tài chính và suy thoái, diễn biến xấu của kinh

17
tế do khủng hoảng và những yếu kém nội tại của nền kinh tế, điều đó dẫn đến
khó khăn cho việc huy động các nguồn lực để thực hiện cải cách tiền lương,

tiền lương của người lao động bị tác động và ảnh hưởng lớn. Hơn thế nữa,
trong tình trạng kinh tế suy thoái hoặc khủng hoảng, các doanh nghiệp có thể
đứng trong tình trạng rất khó khăn, phải cắt giảm nhân lực, chi tiêu của doanh
nghiệp. Lúc này doanh nghiệp buộc phải thay đổi mức lương của người lao
động để doanh nghiệp có thể tiếp tục hoạt động. Nếu trong tình hình nền kinh
tế tăng trưởng tốt, các doanh nghiệp thuận lợi hơn trong hoạt động của mình,
lợi nhuận tăng cao cũng sẽ khiến doanh nghiệp có điều kiện tăng mức tiền
lương của người lao động để khuyến khích và giữ chân người lao động.
1.1.4.4. Các yếu tố khác
Các yếu tố vùng miền, dân tộc cũng là những ảnh hưởng to lớn tác
động tới mức lương của người lao động. Việc quy định mức lương tối thiểu
cao hơn đối với những vùng phát triển hơn sẽ làm tăng tính cạnh tranh về việc
làm, thu hút được những lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật, nâng cao
năng suất lao động.
Đối với những địa phương kém phát triển hơn, mức lương tối thiểu sẽ
được quy định thấp hơn. Điều đó giúp địa phương có cơ hội thu hút vốn đầu
tư, tạo ra nhiều việc làm hơn, thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu ngành từ
nông nghiệp sang công nghiệp và dịch vụ.
Ngoài ra, tại mỗi địa phương, chi phí đảm bảo nhu cầu tối thiểu phụ
thuộc vào hai yếu tố: sự khác nhau về giá cả hàng hoá và thói quen tiêu dùng
của người lao động. Trong khi đó, giá cả hàng hoá ở mỗi vùng lại rất khác
nhau, nhất là giữa vùng nông thôn và các thành phố lớn. Vì vậy, một trong
những mục tiêu của việc quy định tiền lương tối theo vùng là để đảm bảo sức
mua của tiền lương tối thiểu trong điều kiện các mức giá khác nhau cho cùng
một loại hàng hoá.

18
1.1.5. Các tiêu chí xác định tiền lương tối thiểu
Việc đưa ra tiêu chí xác định tiền lương tối thiểu đến nay vẫn còn nhiều
ý kiến khác nhau, nhưng nhìn chung đều dựa vào 2 nhóm tiêu chí chủ yếu là

tiêu chí mang tính xã hội - nhu cầu cơ bản của con người và tiêu chí kinh tế.
Khuyến nghị số 135 của ILO về xác định mức lương tối thiểu đưa ra
các tiêu chí và giải thích Điều 3 của Công ước 131 về xác định lương tối thiểu
với một số chú ý đặc biệt về các nước đang phát triển. Các tiêu chí đó là:
(1) Hệ thống nhu cầu của người lao động và gia đình họ
(2) Mức tiền lương chung đạt được
(3) Chi phí sinh hoạt và sự biến động của giá cả sinh hoạt
(4) Các khoản phúc lợi xã hội
(5) Tương quan mức sống giữa các nhóm dân cư
(6) Các yếu tố kinh tế (bao gồm: mục tiêu phát triển kinh tế xã
hội, năng suất lao động, tổng mức việc làm và khả năng chi trả của
các doanh nghiệp [43, 44].
Theo thống kê của ILO, tiêu chí thường được sử dụng nhất ở các nước
trên thế giới là tỉ lệ lạm phát/chi phí sinh hoạt, sau đó là điều kiện kinh tế và
mức lương; tiếp đến là nhu cầu của người lao động, năng suất và tỉ lệ có việc
làm; cuối cùng là khả năng chi trả của doanh nghiệp và trợ cấp xã hội. Tiêu
chí nhu cầu của người lao động và gia đình chỉ đứng hàng thứ 4 và năng lực
chi trả của doanh nghiệp đứng cuối cùng. Tuy nhiên hai tiêu chí này rất quan
trọng khi xác định tiền lương tối thiểu nhằm bảo vệ mức sống của người lao
động và hiệu quả sản xuất kinh doanh, năng lực chi trả của doanh nghiệp [4].
Trong điều kiện Việt Nam, tiền lương tối thiểu được xác định dựa trên
cơ sở bảo đảm hài hòa các yếu tố cơ bản sau:
- Nhu cầu các mặt hàng tiêu dùng thiết yếu của người lao động liên
quan đến mức sống “tối thiểu”. Đó là hệ thống nhu cầu các mặt tiêu dùng,

19
dịch vụ tối thiểu của người lao động và gia đình họ với mức giá của các mặt
hàng đó trên thị trường;
- Mức tiền lương chung trên thị trường được xác lập thông qua cung
cầu lao động và khả năng chi trả của doanh nghiệp. Mức tiền lương chung

trên thị trường phản ánh khả năng cung về số lượng và chất lượng của nguồn
nhân lực, đồng thời cũng phản ánh khả năng tài chính và xu thế phát triển của
cầu lao động. Ngoài ra nó còn cho biết mức tiền công mà người lao động
nhận được đã xứng đáng chưa, có bị bóc lột sức lao động hay không.
- Mức độ phát triển mức sống dân cư, khả năng của nền kinh tế cũng
như mục tiêu phát triển kinh tế xã hội trong từng thời kỳ. Đây là yếu tố quan
trọng để bảo đảm tiền lương tối thiểu là công cụ chống nghèo đói, giảm bớt
phân hóa trong xã hội, nâng cao mức sống của người lao động phù hợp với
tốc độ phát triển của nền kinh tế.
- Tham khảo tiền lương tối thiểu của các nước lân cận và tương đương
để vừa bảo đảm yếu tố cạnh tranh, vừa bảo đảm yếu tố phát triển.
1.2. Pháp luật về tiền lƣơng tối thiểu
1.2.1. Khái niệm và vai trò của pháp luật về tiền lương tối thiểu
1.2.1.1. Khái niệm pháp luật về tiền lương tối thiểu
Lương tối thiểu là một trong những nội dung cơ bản của hệ thống chính
sách tiền lương Nhà nước, là công cụ để thực hiện quản lý vĩ mô về lĩnh vực
tiền lương, tiền công. Trong chế độ tiền lương Việt Nam ban hành ngày 23
tháng 5 năm 1993, tiền lương tối thiểu được hiểu là số tiền nhất định trả cho
người lao động làm công việc giản đơn nhất, ở mức độ nhẹ nhàng và diễn ra
trong môi trường lao động bình thường. Số tiền đó được bảo đảm cho người
lao động có thể mua được những tư liệu sinh hoạt thiết yếu để tái sản xuất sức
lao động của bản thân và có dành một phần để nuôi con và bảo hiểm lúc hết
tuổi lao động.

×