Tải bản đầy đủ (.doc) (29 trang)

Thực trạng công tác đào tạo nghề cơ khí của khoa cơ điện trường trung cấp nghề dân tộc nội trú huyện Tri Tôn hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (165.34 KB, 29 trang )

MỤC LỤC

Trang
A. Mở đầu 2
B. Nội dung
Chương 1: Quan niệm về đào tạo nghề cơ khí và chủ trương đào tạo
nghề cơ khí ở trường dân tộc nội trú hiện nay
1.1. Quan niệm về đào tạo nghề cơ khí và sự cần thiết phải đào
tạo nghề cơ khí hiện nay.
a. Quan niệm về đoà tạo nghề cơ khí………………………………………
b. Sự cần thiết phải đào tạo nghề cơ khí ở các trường dân tộc nội trú hiện
nay………………………………………………………………………
1.2. Những chủ trương, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước về công tác
đào tạo nghề cơ khí trong các trường dân tộc nội trú ở nước ta hiện nay
Chương 2: Thực trạng công tác đào tạo nghề cơ khí của khoa cơ điện trường trung cấp
nghề dân tộc nội trú huyện Tri Tôn hiện nay
2.1. Khái quát đặc điểm chủ yếu về tổ chức bộ máy và phương thức hoạt động đào
tạo nghề cơ khí của khoa cơ điểnường trung cấp nghề dân tộc nội trú huyện Tri Tôn
hiện nay.
a. Đặc điểm về sự hình thành, cơ cấu tổ chức bộ máy……………………
b. Đặc điểm về phương thức hoạt độngđào tạo nghề cơ khí ………….
-1-
2.2. Thực trạng công tác đào tạo nghề cơ khí của khoa cơ điện trường dân tộc nội
trú huyện tri Tôn từ năm ….đến nay
2.2.1. Những kết quả đạt được và nguyên nhân.
a. Những kết quả đạt được…………………………………….
b. Những nguyên nhân đạt được…………………………
2.2.2. Những hạn chế, yếu kém và nguyên nhân.
a. Những hạn chế, yếu kém………………………
b. Nguyên nhân hạn chế, yếu kém………………….
Chương 3: Mục tiêu, yêu cầu và giải pháp nâng cao chất lượng đào tạo nghề cơ khí


của khoa cơ điện trường dân tộc nội trú huyện tri tôn đến năm 2015
3.1. Mục tiêu, yêu cầu của việc nâng cao chất lượng đào tạo nghề
cơ khí của khoa cơ điện trường dân tộc nội trú huyện Tri Tôn đến
năm 2015.
3.2. Những giải pháp nâng cao chất lượng đào tạo nghề cơ khí
của khoa cơ điểntường dân tộc nội trú huyện tri Tôn đến năm
2015
C. Kết luận và kiến nghị
-2-
A MỞ ĐẦU
Hiện nay cùng với sự phát tiển của khoa học kỹ thuật trên thế giới, đất nước ta
cũng đang trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước nên nên vấn đề đào
tạo đội ngũ nhân lực có tay nghề cao có khả năng tiếp cận với các trình độ khoa học
công nghệ trong khu vực và trên thế giới là vấn đề giải quyết cấp thiết hiện nay. Dựa
trên sự phát triển của đất nước thì mạng lưới các trường đào tạo nghề cũng phải được
đầu tư xây dựng thành một mạng lưới đào tạo toàn quốc từ đó trường trung cấp nghề
Dân Tộc Nội Trú An Giang ra đời, đây là ngôi trường đầu tiên trong khu vực đồng
bằng sông cửu long, mục đích chính của ngôi trường này xây dựng lên là để đào tạo
nghề cho con em đồng bào dân tộc ít người sinh sống trên địa bàn 2 huyện miền núi
Tri Tôn và Tịnh Biên nói riêng và người dân tộc ít người cả tỉnh An giang nói chung,
trường được xây dựng để đào tạo nghề cho các em học sinh người dân tộc không đủ
điều kiện về kinh tế để học xa tại các thành phố hay không có khả năng để học tập
các môn văn hoá trong chương trình trung học phổ thông. Khi học tại đây các em học
sinh là người dân tộc thiểu số sẽ không phải đóng học phí mà còn được hưởng các
chế độ chính sách về trợ cấp chi phí học tập theo quy định của nhà nước đồng thời
qua quá trình đào tạo nghề sẽ trang bị cho cho con em người dân tộc ít người sẽ có
được một nghề nghiệp ổn định, tạo điều kiện cho việc tự tạo việc làm hay tiếp tục học
liên thông lên cao đẳng, đại học tạo thu nhập chính đáng bằng chính sức lao động của
chính mình. Đây là vấn đề đảm bảo an sinh xã hội, đảm bảo ổn định trật tự an ninh xã
hội, ổn định kinh tế - chính trị trong khu vực mà tỉnh An giang là tỉnh có rất nhiều

đồng bào dân tộc ít người sinh sống. Có thể nói đây là một chủ trương đúng đắn
mang đậm ý nghĩa nhân văn của Đảng và nhà nước ta. Hiện nay công tác đào tạo
nghề cơ khí tại trường trung cấp nghề Dân Tộc Nội Trú An Giang gặp rất nhiều khó
khăn, đó là vấn đề trăn trở của tôi bởi vì sau khi học xong ra trường các em phải có
đủ kiến thức, tay nghề tương đối ổn định để có thể tiếp cận với sự tiến bộ của khoa
-3-
học công nghệ hiện nay không? bởi vì sự tiến bộ của khoa học công nghệ nó thay đổi
hàng ngày, hàng giờ, mà vấn đề đào tạo nghề cơ khí tại trường trung cấp nghề Dân
Tộc Nội Trú An Giang gặp khó khăn về nhiều yếu tố như: về yếu tố con người, đa số
các kỹ sư cơ khí ra trường đi làm ở các công ty xí nghiệp có thu nhập rất cao còn lại
một số ít mới đi về các trường dạy nghề, trường trung cấp nghề Dân Tộc Nội Trú An
Giang cũng vậy hiện nay nhà trường rất thiếu đội ngũ giáo viên ở lĩnh vực cơ khí, còn
các thiết bị dạy nghề thì còn thiếu thốn rất nhiều vì trường vừa thành lập hơn một
năm, một số thiết bị dạy nghề được trang bị để dạy nghề thì được đầu tư không đồng
loạt có nghề cần thiết bị thì lại thiếu thốn còn những nghề chưa cần đào đạo lại dư
thừa thiết bị vì các thiết bị chủ yếu được cấp trên phân bổ về trường dẫn đến trang
thiết bị được trang bị để dạy nghề không đồng bộ, một yếu tố lớn nữa là đội ngũ giáo
viên còn hạn chế về trình độ, đa số giáo viên là từ lĩnh vự giáo dục phổ thông sang
công tác đào tạo nghề rất mới mẽ còn lại đa số giáo viên mới ra trường kinh nghiệm
giảng dạy lại không có, chưa được đào tạo chuyên sâu dẫn đến kết quả chất lượng đào
tạo nghề cơ khí của khoa cơ điện nói riêng và của cả trường nói chung còn non kém.
Xuất phát từ thực trạng trên nên tôi mạnh dạn viết đề tài này để nêu ra những hạn chế
và những biện pháp khắc phục để công tác đào tạo nghề cơ khí tại trường trung cấp
nghề Dân Tộc Nội Trú An Giang ngày càng có chất lượng hơn, góp phần giải quyết
việc làm của các em sau khi tốt nghiệp ra trường với kiến thức và kỹ năng nghề được
trang bị tại trường các em có thể tự tạo việc làm để tăng thu nhập cho gia đình hoặc
các em có đủ kiến thức để tiếp tục học ở trình độ cao hơn khi có điều kiện. Tuy nhiên
trong thời gian hoạt động rất ngắn không thể nào nói hết được những khó khăn và các
biện pháp khắc phục được đầy đủ mà lĩnh vực cơ khí đa dạng, trường mới thành lập
nên đề tài trong lĩnh vực cơ khí của khoa cơ điện chỉ giới hạn trong một nghề cơ khí

duy nhất của trường là nghề Hàn hiện đang đào tạo mà không đề cập hết các nghề cơ
khí khác vì trường chưa mở lớp, chưa có các thiết bị, máy móc để giảng dạy.
-4-
B. NỘI DUNG
CHƯƠNG 1
QUAN NIỆM VỀ ĐÀO TẠO NGHỀ CƠ KHÍ VÀ CHỦ TRƯƠNG ĐÀO
TẠO NGHỀ CƠ KHÍ Ở TRƯỜNG DÂN TỘC NỘI TRÚ HIỆN NAY
1.1.Quan niệm về đào tạo nghề cơ khí và sự cần thiết phải đào tạo nghề cơ
khí hiện nay
a.Quan niệm về đào tạo nghề cơ khí
- Thế nào là đào tạo nghề.
Đào tạo nghề là giải pháp rất quan trọng nhằm bảo đảm yêu cầu giải quyết việc
làm cho người lao động trong thời kỳ công nghiệp, hiện đại hoá đất nước. Trong
những năm qua mặc dù trong điều kiện kinh tế- xã hội ở Tinh ta còn gặp rất nhiều
khó khăn nhưng với sự cố gắng của lãnh đạo tỉnh, các cấp, các ngành, các tổ chức
đoàn thể công tác dạy nghề của tỉnh ta ngày càng được nâng cao và phát triển mạnh
mẽ. Giáo dục đào tạo nghề là một thành tố và là một thành tố quan trọng nhất, có ý
nghĩa quyết định phát triển nguồn nhân lực. Muốn có nguồn nhân lực chất lượng, có
khả năng cạnh tranh cao trên thị trường lao động, song song với các cơ chế chính
sách sử dụng có hiệu quả nguồn nhân lực, cần phải tăng cường đầu tư nâng cao chất
lượng đào tạo nghề.
Theo quan niệm của Liên hiệp quốc, phát triển nguồn nhân lực bao gồm giáo
dục, đào tạo và sử dụng tiềm năng con người nhằm thúc đẩy phát triển kinh tế - xã
hội và nâng cao chất lượng cuộc sống. Yếu tố con người, vốn con người đã trở thành
một yếu tố quan trọng trong tăng trưởng kinh tế. Nhờ có nền tảng đào tạo nghề, người
lao động nâng cao được kiến thức và kỹ năng nghề của mình, qua đó nâng cao năng
suất lao động, tăng thu nhập, góp phần đảm bảo an sinh xã hội quốc gia. Để hiểu rõ
vai trò của đào tạo nghề với việc nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, qua đó góp
phần đảm bảo an sinh xã hội, có thể thông qua vấn đề sau:
-5-

Về mặt lý thuyết, một nền kinh tế muốn tăng trưởng nhanh và bền vững phải
dựa trên ít nhất ba trụ cột cơ bản:
+ Áp dụng công nghệ mới.
+ Phát triển hạ tầng cơ sở hiện đại.
+ Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực.
Trong đó, động lực quan trọng nhất của sự tăng trưởng kinh tế bền vững chính
là những con người được đào tạo, đặc biệt là nhân lực có kỹ năng nghề cao. Trong
bối cảnh các nguồn lực tự nhiên và nguồn lực khác là hữu hạn và ngày càng có nguy
cơ cạn kiệt, thì nguồn nhân lực có chất lượng chính là vũ khí mạnh mẽ nhất để giành
thắng lợi trong cạnh tranh giữa các nền kinh tế. Nguồn nhân lực chất lượng cao, là
những con người được đầu tư phát triển, có kỹ năng, kiến thức, tay nghề, kinh
nghiệm, năng lực sáng tạo. Năng lực thực hiện này chỉ có thể có được thông qua đào
tạo nghề và tích lũy kinh nghiệm trong quá trình làm việc. Tuy nhiên, ngay cả việc
tích lũy kinh nghiệm này cũng dựa trên nền tảng là đào tạo nghề nghiệp cơ bản. Như
vậy, có thể thấy vai trò quyết định của đào tạo nghề đối với việc hình thành và phát
triển năng lực thực hiện của con người. Trên cơ sở năng lực này, người lao động có
khả năng thích ứng được với những thay đổi của công nghệ và nền kinh tế ( cả tích
cực và tiêu cực), điều này góp phần nâng cao năng suất lao động, tăng trưởng kinh tế
bền vững, từ đó tạo ra nền tảng vật chất cơ bản để thực hiện các chính sách an sinh xã
hội.
Vai trò của đào tạo nghề nghiệp đối với đảm bảo an sinh xã hội xuất phát từ
khía cạnh lợi ích cá nhân của con người. Lý thuyết về vốn nhân lực hiện đại cho rằng
“tất cả các hành vi của con người đều xuất phát từ những nhu cầu lợi ích kinh tế cho
chính các cá nhân hoạt động tự do trong thị trường mang tính cạnh tranh”, các cá
nhân đầu tư vào đào tạo nghề nhằm tích luỹ những kiến thức và kỹ năng nghề nghiệp,
những cái có thể mang lại lợi ích lâu dài sau đó và đó là nhân tố cơ bản cho sự phát
-6-
triển bền vững. Như vậy đầu tư cho đào tạo nghề chính là sự đầu tư cho từng cá nhân
và dưới gốc độ xã hội, tạo ra chất lượng nguồn nhân lực với các “tầng” khác nhau
(trình độ cao, trình độ phổ quát, đại trà) và do đó, mang lại không chỉ lợi ích kinh tế

quốc dân mà còn thực hiện đảm bảo an sinh xã hội quốc gia. Mối tương quan giữa
trình độ nghề nghiệp và thu nhập: học vấn và kỹ năng nghề càng cao, thu nhập càng
tăng và ngược lại. Thực ra, vấn đề này đã được Lê nin từng đề cập. Ông đã chứng
minh rằng, có mối quan hệ tỷ lệ thuận giữa trình độ chuyên môn kỹ thuật và năng
suất lao động của người lao động. Những người có chuyên môn kỹ thuật càng cao
(trình độ đào tạo nghề nghiệp), có kỹ năng nghề cao, thì năng suất lao động càng cao
và do đó thu nhập càng cao; những lao động không qua đào tạo ( còn gọi là lao động
phổ thông) thì năng suất lao động thấp và do đó thu nhập không cao. Ở đây có thể
thấy, đào tạo nghề nghiệp trang bị cho mỗi cá nhân ở một trình độ và kỹ năng nhất
định, qua đó mang lại cho họ việc làm và thu nhập. Người có chuyên môn kỹ thuật
cao, có kỹ năng nghề tốt cơ hội tìm được việc làm tốt hơn và ít có nguy cơ thất
nghiệp.
Như đã biết, trong bối cảnh cạnh tranh gay gắt trên thị trường lao động, những
người có học vấn thấp, những người kỹ năng, tay nghề thấp hoặc không có nghề khó
có thể cạnh tranh được so với những người có trình độ, có kỹ năng nghề cao. Khi đó,
họ sẽ trở thành nhóm người “yếu thế” trong thị trường lao động. Họ phải làm những
việc thu nhập thấp, thậm chí không kiếm được việc làm, trở thành người thất nghiệp
dài hạn. Mặc dù ở nhiều nước, nhất là những nước phát triển, có hệ thống bảo hiểm
thất nghiệp hoặc các loại trợ cấp xã hội để hỗ trợ cho nhóm người này. Nhưng dù sao,
những trợ cấp đó chỉ mang tính tức thời, giúp họ “cầm cự” được trong cuộc sống
thường nhật, tạo cơ hội cho họ quay trở lại thị trường lao động. Nhưng nếu những
người này không tự tạo cho họ năng lực, nâng cao “vốn nhân lực” của mình thì sớm
hay muộn, họ cũng lại bị “bật” ra khỏi thị trường lao động. Muốn thoát khỏi vòng
luẩn quẩn này, buộc những người này bằng cách này hay cách khác phải nâng cao
-7-
“vốn nhân lực” của mình và cách hiệu quả nhất là đầu tư vào đào tạo nghề. Như
vậy, đào tạo nghề vô hình trung, trở thành một nhân tố làm giảm số lượng những
người “yếu thế” trên thị trường lao động và như vậy, xét ở khía cạnh quốc gia, an
sinh xã hội được đảm bảo hơn, nhà nước đỡ phải chi phí nhiều hơn cho các loại trợ
cấp xã hội, do nghèo đói, do không có việc làm

Trong Chiến lược phát triển kinh tế- xã hội Việt nam 2011-2020, đã nêu rõ:
“Đến năm 2020, chỉ số phát triển con người (HDI) đạt nhóm trung bình cao của thể
giới;… lao động qua đào tạo đạt trên 70%, đào tạo nghề chiếm 55% tổng lao động xã
hội”. Đây là một định hướng rất rõ ràng về phát triển kinh tế- xã hội đất nước, trong
đó khẳng định vai trò của đào tạo nghề đối với việc đảm bảo an sinh xã hội. Mục
tiêu tăng tỷ lệ lao động qua đào tạo và đào tạo nghề là tiền đề, là điều kiện và cơ hội
để người lao động có được công ăn, việc làm tử tế, có thu nhập ổn định. Khi người
lao động có kỹ năng nghề nghiệp thì họ có cơ hội tốt hơn tham gia vào thị trường lao
động và như vậy, làm tăng tỷ lệ người lao động có việc làm, điều này cũng đồng
nghĩa với tỷ lệ thất nghiệp, tỷ lệ nghèo của lực lượng lao động giảm xuống. Đào tạo
nghề, như đã nêu trên, giúp cho những đối tượng yếu thế trong xã hội, nhất là những
người nghèo, đặc biệt là người nghèo ở nông thôn có được kỹ năng nghề nghiệp cần
thiết, từ đó vươn lên thoát khỏi cảnh nghèo một cách bền vững.
Ở các nước đã trải qua quá trình công nghiệp hóa, nhu cầu của nền kinh tế công
nghiệp đòi hỏi phải phát triển đội ngũ lao động có kiến thức, có kỹ năng nghề nghiệp
cao, có khả năng làm chủ được các phương tiện, máy móc, làm chủ được công nghệ.
Quá trình công nghiệp hóa dài hay ngắn, ngoài các yếu tố về cơ chế, chính sách và
thể chế, phụ thuộc vào năng lực của đội ngũ lao động kỹ thuật này. Đây có thể nói là
nhu cầu khách quan của nền kinh tế, đòi hỏi Chính phủ các nước phải đầu tư cho đào
tạo nghề. Trong từng giai đoạn phát triển của nền kinh tế, đòi hỏi quy mô và cơ cấu
giáo dục- đào tạo nghề và qua đó đòi hỏi quy mô và cơ cấu nhân lực kỹ thuật khác
nhau. Nếu như ở thời kỳ phát triển thấp, cơ cấu giáo dục – đào tạo theo trật tự ưu tiên
-8-
sẽ là giáo dục phổ thông- giáo dục nghề nghiêp và giáo dục đại học ( và cơ cấu nhân
lực sẽ là lao động phổ thông- công nhân kỹ thuật bậc thấp và bậc trung- lao động kỹ
thuật bậc cao và lao động quản lý); thì ở thời kỳ nền kinh tế phát triển cao ( nhất là
trong nền kinh tế tri thức) , cơ cấu trên sẽ là giáo dục đại học- giáo dục nghề nghiệp
và giáo dục phổ thông ( và cơ cấu nhân lực sẽ là lao động kỹ thuật bậc cao và lao
động quản lý- công nhân kỹ thuật bậc trung và bậc thấp- lao động phổ thông) hoặc
trong thời kỳ….Ngược lại, đào tạo nghề lại là động lực thúc đẩy sự nghiệp công

nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Nếu hệ thống đào tạo yếu kém, chất lượng thấp thì
nguy cơ tạo ra nguồn nhân lực chất lượng thấp và sẽ kìm hãm sự phát triển kinh tế,
làm tăng nguy cơ tụt hậu của đất nước trong bối cảnh toàn cầu hóa và Hội nhập kinh
tế thế giới. Chính điều này cho thấy vai trò chiến lược của đào tạo nghề đối với sự
phát triển của đất nước, nhìn cả từ khía cạnh kinh tế và khía cạnh an sinh xã hội. Do
vậy, đầu tư cho đào tạo nghề là một sự đầu tư cho phát triển bền vững đất nước. Nhận
thức rõ điều này, trong thời gian gần đây, Đảng và Nhà nước ta đã chú trọng đến phát
triển đào tạo nghề. Trong thời gian tới, đào tạo nghề sẽ phát triển theo hai hướng cơ
bản:
+ Phát triển đào tạo nghề trình độ cao, có những nghề đạt trình độ và có những
trường nghề đạt đẳng cấp các nước trong khu vực ASEAN và thế giới, nhằm đào tạo
những lao động có kỹ năng nghề nghiệp cao, đáp ứng nhu cầu của các ngành kinh tế
mũi nhọn, các nghề trọng điểm, tạo “chìa khoá” để tăng sức cạnh tranh của nền kinh
tế trong bối cảnh Hội nhập.
+ Phổ cập nghề cho người lao động, nhất là các nhóm lao động nông thôn, lao
động nghèo, lao động ở thành thị chưa qua đào tạo nghề, nhằm trang bị cho họ những
kiến thức và kỹ năng nghề nghiệp cơ bản, có thể tham gia vào thị trường lao động với
năng suất và chất lượng tốt hơn. Chiến lược phát triển kinh tế- xã hội 2011-2020 nêu
rõ: Phát triển nhanh nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao, tập trung
vào việc đổi mới căn bản, toàn diện nền giáo dục quốc dân là một trong ba khâu đột
-9-
phá chiến lược…Đẩy mạnh dạy nghề và tạo việc làm, nhất là ở nông thôn và vùng đô
thị hoá; hỗ trợ các đối tượng chính sách, người nghèo học nghề.
- Thế nào là nghề cơ khí.
Ngành nghề cơ khí được xem là một ngành nghề xương sống cơ bản nhất cho
sự phát triển công nghiệp. Từ những cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật lần 1 đến nay,
thì vai trò của ngành cơ khí rất lớn và hầu như không thể ngành nào có thể thay thế
được. Việc ra đời của khoa học máy tính – truyền thông, của sự phát triển Điện –
Điện tử cũng chỉ là đóng góp cho sự phát triển mạnh hơn của ngành Cơ khí, chứ
không thể là yếu tố thay thế, trong lĩnh vực công nghiệp. Nhìn lại toàn bộ lịch sử loài

người, ngành cơ khí có một lịch sử phát triển lâu đời nhất, cùng với sự phát triển của
loài người (ngay từ thuở bộ tộc, dùng những công cụ bằng đá, kim loại để kiếm sống)
đến một xã hội hiện nay (con người đã có những chuyến bay vào không gian). Tiếp
tục trong những thế kỷ tới, ngành cơ khí vẫn là ngành nghề cơ bản và mang tính sống
còn của loài người. Nhìn chung, theo xu hướng đào tạo chung của thế giới thì ngành
cơ khí được chia ra làm hai nhóm có quan hệ mật thiết với nhau:
Thứ 1. Nhóm ngành kỹ thuật Cơ khí và hệ thống: bao gồm các nhóm ngành
về thiết kế sản phẩm, dịch vụ liên quan đến Cơ khí; xây dựng các công cụ hỗ trợ sản
xuất; quản lý hệ thống một cách hiệu quả nhằm nâng cao năng lực sản xuất.
Thứ 2. Nhóm ngành công nghệ chế tạo: gồm các chuyên ngành về chế tạo,
lắp ráp, vận hành, bảo trì hệ thống sản xuất; robots phục vụ sản xuất, dịch vụ; thiết
kế, chế tạo phương tiện giao thông vận tải (ô tô, tàu thủy, máy bay, phi thuyền…),
quân sự, không gian; tự động hóa quá trình sản xuất. Hiện nay nhóm này đang mở
rộng thêm một số ngành về kỹ thuật y sinh, sản phẩm phục vụ cho công tác điều trị
tại các bệnh viện. Dù chia hai nhóm nhưng trong bất kỳ một công ty sản xuất sản
phẩm thì luôn phải có hiện diện của hai nhóm kỹ sư này kết hợp, hỗ trợ nhau hết sức
-10-
chặt chẽ.
b.Sự cần thiết phải đào tạo nghề cơ khí ở các trường Dân tộc nội trú hiện nay.
Kỹ thuật cơ khí là ngành phục vụ trong các lĩnh vực kỹ thuật và quản lý về sử
dụng, bảo trì, thiết kế, chế tạo, nghiên cứu các loại máy móc, thiết bị, dây chuyền
công nghệ phục vụ cho nhiều lĩnh vực khác nhau như chế biến lương thực, thực
phẩm, thủy hải sản, lâm sản; công nghiệp ô tô, xe máy; công nghiệp hóa chất, phân
bón Công nghệ cơ khí luôn là một trong những ngành then chốt đối với sự phát
triển kinh tế - xã hội trên toàn thế giới. Ngày nay, tất cả các máy móc vận hành trong
các dây chuyền sản xuất, hoạt động ở mọi nơi (trên và dưới mặt đất, trên mặt biển,
dưới đáy biển, trên trời, ngoài vũ trụ…) đều có sự đóng góp lớn của các nhà khoa
học, các tổng công trình sư, kỹ sư, cán bộ kỹ thuật , công nhân cơ khí.
Điều kiện làm việc và cơ hội nghề nghiệp: Những người được đào tạo về cơ khí có
thể làm việc ở mọi nơi trên đất nước họ và các nước khác trên thế giới trong mọi

ngành công nghiệp và kinh tế khác nhau. Có thể tóm tắt trong một số lĩnh vực chính
sau:
- Công tác ở các viện nghiên cứu
- Công tác ở các trường đại học, cao đẳng, trung cấp, dạy nghề.
- Làm việc trong các nhà máy, công ty sản xuất cơ khí của mọi lĩnh vực công nghiệp,
nông nghiệp, văn hóa, xã hội, quốc phòng.
- Làm việc ở mọi nơi có sử dụng máy móc, thiết bị vận hành.

Việt Nam đang nỗ lực thúc đẩy chiến lược phát triển công nghiệp hóa - hiện
đại hóa để hội nhập với nền kinh tế thế giới sau khi gia nhập WTO nên cơ hội làm
việc trong ngành cơ khí càng trở nên phong phú và rộng mở hơn bao giờ.

-11-
Một số nghề nghiệp trong ngành Công nghệ cơ khí:
- Cán bộ nghiên cứu khoa học và giảng dạy: Dành phần lớn thời gian làm việc trong
phòng thí nghiệm, thư viện cùng với những thiết bị, dụng cụ chuyên dùng. Họ cũng
thường xuyên lên lớp truyền đạt những tri thức của mình cho thế hệ trẻ yêu thích
ngành cơ khí và không quên chuyển giao các kết quả nghiên cứu thành công cho các
cơ sở sản xuất ứng dụng.
- Kỹ sư điều hành công nghệ: Trực tiếp gắn bó với các dây chuyền, thiết bị cơ khí
trong phân xưởng sản xuất cùng công nhân để kịp thời khắc phục xử lý các sự cố có
thể xảy ra và giám sát công việc, đảm bảo dây chuyền hoạt động đều đặn, đạt chất
lượng yêu cầu.
- Kỹ sư giám sát: Thực hiện việc kiểm tra, giám sát các công đoạn trong dây chuyền
gia công sản phẩm cơ khí, đảm bảo thực hiện đúng quy trình công nghệ với các điều
kiện kỹ thuật, quy phạm, tiêu chuẩn của ngành cơ khí cũng như tiêu chuẩn của quốc
gia, quốc tế.
- Kỹ sư thiết kế: Làm việc phần lớn trong văn phòng với các máy móc, thiết bị
chuyên dụng cho công tác thiết kế như máy tính cài đặt phần mềm phù hợp, giá vẽ,
bút thước… Kỹ sư thiết kế luôn tư duy, tìm tòi để thiết kế ra những dây chuyền công

nghệ ngày một tốt hơn. Họ cũng dành nhiều thời gian xuống phân xưởng để trực tiếp
quan sát, rút kinh nghiệm.
- Cán bộ tư vấn và chuyển giao công nghệ: Là những chuyên gia giàu kinh nghiệm,
trực tiếp tư vấn hoặc chuyển giao công nghệ cho các Bộ, ngành, cơ quan Nhà nước,
các công ty, nhà máy…, lựa chọn nhập khẩu các dây chuyền thiết bị chất lượng, đem
lại hiệu quả kinh tế tốt nhất.
1.2.Những chủ trương, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước về
đào tạo nghề cơ khí trong các trường Dân tộc nội trú ở nước ta hiện nay.
-12-
- Theo Luật giáo dục 2005:
Điều 32. Giáo dục nghề nghiệp
Giáo dục nghề nghiệp bao gồm:
1. Trung cấp chuyên nghiệp được thực hiện từ ba đến bốn năm học đối với người có
bằng tốt nghiệp trung học cơ sở, từ một đến hai năm học đối với người có bằng tốt
nghiệp trung học phổ thông;
2. Dạy nghề được thực hiện dưới một năm đối với đào tạo nghề trình độ sơ cấp, từ
một đến ba năm đối với đào tạo nghề trình độ trung cấp, trình độ cao đẳng.
Điều 33. Mục tiêu của giáo dục nghề nghiệp
Mục tiêu của giáo dục nghề nghiệp là đào tạo người lao động có kiến thức, kỹ năng
nghề nghiệp ở các trình độ khác nhau, có đạo đức, lương tâm nghề nghiệp, ý thức kỷ
luật, tác phong công nghiệp, có sức khoẻ nhằm tạo điều kiện cho người lao động có
khả năng tìm việc làm, tự tạo việc làm hoặc tiếp tục học tập nâng cao trình độ chuyên
môn, nghiệp vụ, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội, củng cố quốc phòng, an
ninh.
Trung cấp chuyên nghiệp nhằm đào tạo người lao động có kiến thức, kỹ năng thực
hành cơ bản của một nghề, có khả năng làm việc độc lập và có tính sáng tạo, ứng
dụng công nghệ vào công việc.
Dạy nghề nhằm đào tạo nhân lực kỹ thuật trực tiếp trong sản xuất, dịch vụ có năng
lực thực hành nghề tương xứng với trình độ đào tạo.
Trong điều 7 của Luật dạy nghề được quốc hội khoá IX, kỳ họp lần thứ 10

thông qua ngày 29 tháng 11 năm 2006 thì chính sách về phát triển dạy nghề như sau:
1. Đầu tư mở rộng mạng lưới cơ sở dạy nghề, nâng cao chất lượng dạy nghề
góp phần bảo đảm cơ cấu nguồn nhân lực phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện
đại hoá đất nước; góp phần thực hiện phân luồng học sinh tốt nghiệp trung học cơ sở
-13-
và trung học phổ thông; tạo điều kiện phổ cập nghề cho thanh niên và đáp ứng nhu
cầu học nghề của người lao động; đào tạo nghề cho người lao động đi làm việc ở
nước ngoài.
2. Đầu tư có trọng tâm, trọng điểm để đổi mới nội dung, chương trình và
phương pháp dạy nghề, phát triển đội ngũ giáo viên, hiện đại hoá thiết bị, đẩy mạnh
nghiên cứu khoa học nhằm nâng cao chất lượng dạy nghề; tập trung xây dựng một số
cơ sở dạy nghề tiếp cận với trình độ tiên tiến của khu vực và thế giới; chú trọng phát
triển dạy nghề ở các vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn; đầu tư đào
tạo các nghề thị trường lao động có nhu cầu, nhưng khó thực hiện xã hội hoá.
3. Thực hiện xã hội hoá hoạt động dạy nghề, khuyến khích tổ chức, cá nhân
Việt Nam, tổ chức, cá nhân nước ngoài, người Việt Nam định cư ở nước ngoài thành
lập cơ sở dạy nghề và tham gia hoạt động dạy nghề. Khuyến khích nghệ nhân và
người có tay nghề cao tham gia dạy nghề; khuyến khích, hỗ trợ dạy các nghề truyền
thống và ngành nghề ở nông thôn. Các cơ sở dạy nghề bình đẳng trong hoạt động dạy
nghề và được hưởng ưu đãi về đất đai, thuế, tín dụng theo quy định của pháp luật.
4. Hỗ trợ các đối tượng được hưởng chính sách người có công, quân nhân xuất
ngũ, người dân tộc thiểu số, người thuộc hộ nghèo, người tàn tật, khuyết tật, trẻ em
mồ côi không nơi nương tựa, người trực tiếp lao động trong các hộ sản xuất nông
nghiệp bị thu hồi đất canh tác và các đối tượng chính sách xã hội khác nhằm tạo cơ
hội cho họ được học nghề để tìm việc làm, tự tạo việc làm, lập thân, lập nghiệp.

Theo Chiến lược phát triển Dạy nghề thời kỳ 2011 – 2020 xác định: mục tiêu
tổng quát đến năm 2020, dạy nghề đáp ứng được nhu cầu của thị trường lao động cả
về số lượng và chất lượng, cơ cấu nghề và trình độ đào tạo; chất lượng đào tạo một
số nghề đạt trình độ các nước phát triển trên thế giới; hình thành đội ngũ lao động

lành nghề, góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia; phổ cập nghề cho người
-14-
lao động, góp phần thực hiện chuyển dịch cơ cấu lao động, nâng cao thu nhập, giảm
nghèo vững chắc, đảm bảo an sinh xã hội. Các mục tiêu cụ thể: nâng tỷ lệ lao động
qua đào tạo nghề đạt 40%, tương đương 23,5 triệu người vào năm 2015 và 55% vào
năm 2020, tương đương 34,4 triệu người.
CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG CÔNG TÁC ĐÀO TẠO NGHỀ CƠ KHÍ CỦA KHOA
CƠ ĐIỆN TRƯỜNG DÂN TỘC NỘI TRÚ HUYỆN TRI TÔN TỪ NĂM 2010 –
2012
2.1.Khái quát đặc điểm chủ yếu về tổ chức bộ máy và phương thức hoạt
động đào tạo nghề cơ khí của Khoa cơ điện trường Dân tộc nội trú huyện Tri
Tôn hiện nay
a.Đặc điểm về sự hình thành, cơ cấu tổ chức bộ máy.
Trường Trung cấp nghề Dân tộc Nội trú tỉnh An giang được thành lập theo
quyết định số 1886/QĐ-UBND và Quyết định sô 1738/QĐ-UBND của Ủy ban nhân
dân tỉnh An Giang về việc thành lập Trường Trung cấp nghề Dân tộc Nội trú tỉnh An
giang trên cơ sở nâng cấp từ Trung tâm dạy nghề của Huyện Tri Tôn, trụ sở chính của
trường đặt tại ấp Tô Hạ, Xã Núi Tô, Huyện Tri Tôn, Tỉnh An giang, đây là một xã rất
khó khăn về kinh tế. Trường Trung cấp nghề Dân tộc Nội trú tỉnh An giang được khởi
công xây dựng từ tháng 02 năm 2009 với tổng diện tích của trường là 31.275 m2 và
tổng mức đầu tư xây dựng theo dự án là 82,4 tỷ đồng. Đối với đồng bào dân tộc thiểu
số của hai huyện Tri Tôn và Tịnh Biên khi trường Trung cấp nghề Dân tộc Nội trú An
giang được Tỉnh và Trung ương tập trung đầu tư xây dựng, cùng với các chính sách
ưu đãi đặc thù sẽ thu hút, thúc đẩy công tác dạy và học nghề phát triển nhanh trong
thời gian tới của hai huyện Tri tôn và tịnh Biên nói riêng và người dân tộc thiểu số cả
tỉnh nói chung, Trường chỉ xét tuyển đầu vào ưu tiên cho các con em người dân tộc
không riêng gì về khơmer mà cả người dân tộc thiểu số Chăm … đang sinh sống ở
-15-
các huyện: Tri tôn, Tịnh Biên, Tân Châu, Châu Thành, Châu Phú, Thoại Sơn.

Về cơ cấu nhân sự của tổ chức bộ máy rất ít từ khi thành lập chỉ có 9 đồng chí
giáo viên đang công tác tại các trường phổ thông trong huyện Tri Tôn, trong đó có 8
giáo viên văn hoá và một giáo viên là kỹ sư nhưng đến nay trường đã được 56 giáo
viên, trong đó:
- Ban giám hiệu: Có 2 đ/c; một đồng chí hiệu trưởng và một đồng chí hiệu phó.
Trong đó một đồng chí là người dân tộc.
- Cán bộ phòng chức năng: 6 đ/c trong đó có 2 đ/c là người dân tộc.
- Cán bộ lãnh đạo khoa chuyên môn : 4 đ/c trong đó có 2 đ/c là người dân tộc.
- Giáo viên, nhân viên của trường: 44 đ/c trong đó 24 đ/c là người dân tộc.
Đội ngũ cán bộ , giáo viên có tâm huyết với công tác đoà tạo nghề, có nguyện
vọng công tác gắn bó lâu dài với nhà trường để đào tạo nghề cho con em người dân
tộc thiểu số của tỉnh.
b.Đặc điểm về phương thức hoạt động đào tạo nghề cơ khí.
Vào tháng 03 năm 2011 trường trung cấp nghề Dân tộc Nội trú An giang đã tổ
chức lễ công bố thành lập trường và chính thức tuyển sinh được 12 lớp trung cấp
nghề với 268 học sinh tham gia học ở 5 nghề:
- Tin học văn phòng.
- Sửa chữa, lắp ráp cài đặt máy tính.
- Điện công nghiệp.
- Hàn.
- Bảo vệ thực vật.
Tuy nhiên vấn đề đào tạo nghề Hàn của khoa cơ điện hiện nay gặp rất
nhiều khó khăn bởi vì khoa cơ điện được thành lập trên cơ sở nâng cấp từ tổ bộ
-16-
môn dạy nghề ban đầu chỉ có nhân sự nhưng đến nay có 10 nhân sự gồm các
cử nhân, kỹ sư ở 2 lĩnh vực chế tạo máy và điện công nghiệp. Nhưng đa phần
chủ yếu là các kỹ sư điện công nghiệp chiếm tỉ lệ 70% cho nên đây cũng là
vấn đề đặt ra rất khó khăn cho khoa cơ điện. Trường tuyển sinh ở các ngành
nghề nên nghề cơ khí của khoa cơ điện hiện nay chỉ tuyển được 2 khoá là Hàn
Khoá 1 và Hàn Khoá 2 còn các nghề thuọcc lĩnh vực cơ khí như: tiện, phay,

bào thì khoong mở lớp được vì trường mới thành lập được sự hổ trợ 100% từ
ngân sách của nhà nước nên máy móc không được trang bị đầy đủ cho cả lĩnh
vực cơ khí.
Hình thức đào tạo của nhà trường là các em học sinh phải học song song
các môn văn hoá với các môn học- mô đun nghề , cho nên đây cũng là khó
khăn cho khoa cơ điện trong việc giảng dạy, bởi vì học sinh khi tiếp cận với với
các môn học nghề các em phải được trang bị một lượng kiến thức văn hoá
tương đối vững vàng mới có đủ điều kiện học được các môn học nghề, đồng
thời đối tượng đầu vào của trường chỉ là xét tuyển kiến thức văn hoá chưa
trang bị đầy đủ học sinh không thể tiếp thu các kiến thức khoa học xã hội và
mang tính thực tiển ứng dụng trong đời sống và trong sản xuất làm cho chất
lượng đào tạo của nghề Hàn gặp rất nhiều khó khăn.
Một vấn đề đặt ra nữa là đối tượng tuyển sinh của trường trung cấp nghề
Dân tộc Nội trú An giang là học sinh dân tộc thiểu số đã tốt nghiệp trung học
phổ thông và tốt nghiệp trung học sơ sở điều được xét tuyển vào học tại trường
nhưng chỉ có 96% học sinh đã tốt nghiệp trung học phổ thông nên nhà trường
phải lựa chọn phương án đào tạo theo hệ trung học cơ sở như vậy các em đã tốt
ghiệp trung học phổ thông sau khi được trúng tuyển vào ngành nghề mình đã
chọn chỉ học 1 đến 3 môn học/ môđun nghề trong học kỳ, không tham gia học
văn hoá trong chương trình lớp 10,11,12 đây cũng là vấn đề gặp khó khăn
trong việc duy trì sĩ số của lớp hàn.
-17-
Ngày nay, có hàng ngàn loại máy móc thiết bị phục vụ cho nhiều mục
đích khác nhau trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội như nông nghiệp,
công nghiệp, giao thông vận tải, thông tin liên lạc…như máy tiện, máy phay,
máy bào, máy đóng hộp, máy gặt đập liên hợp, xe tải, xe container, xe ô tô,
máy xúc, tàu thủy, máy bay Các loại máy móc, phương tiện trên là đối tượng
của nghề Hàn.
* Sự phù hợp nghề:
- Học ngành này trong quá trình thực tập thường xuyên phải tiếp xúc với dầu

nhớt, các bộ phận máy móc làm bằng kim loại nên thường rất nặng, do vậy sẽ
khó khăn nhiều cho các học sinh nữ khi muốn theo đuổi nghề này.
- Trong quá trình học và làm việc thường xuyên sử dụng tay chân cho các công
việc thiết kế, điều khiển, lắp ráp vì vậy nghề này hạn chế với khuyết tật chân
- tay, mù màu vàng, xanh, đỏ.
* Về chươg trình đào tạo:
Kiến thức:
- Khối kiến thức lý luận, chính trị, quan điểm, tư tưởng: chủ nghĩa Mác-Lênin,
Đường lối cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam, Tư tưởng Hồ Chí Minh
- Khối kiến thức khoa học cơ sở: Toán, Lý, Hóa, tin học, anh văn, pháp luật.
- Khối kiến thức cơ sở ngành: đặc tính, tính chất, tính toán của các dạng toán lý
hóa trong điều kiện thực tế, có liên quan đến chuyên ngành (cơ học, nhiệt học,
điện năng, vật liệu, thủy lực…)
- Khối kiến thức về sử dụng các phần mềm thiết kế – mô phỏng: CAD, CAM,
CNC, Matlab, LabVIEW, Proteus, AVR Studio, …
- Khối kiến thức về nguyên lý làm việc, kết cấu các chi tiết và các hệ thống của
cơ khí, điện, hệ thống tự động điều khiển, thiết bị tiện nghi. Kiến thức tính toán
các hệ thống riêng biệt hợp thành hệ thống tự động điều khiển… ;
-18-
- Kiến thức về cấu tạo, chức năng của các thiết bị, quản lý, lựa chọn các thiết bị
phù hợp với công việc trong xưởng cơ khí;
- Kiến thức phân tích và khắc phục được các nguyên nhân hư hỏng trong quá
trình hoạt động của phương tiện. Kiến thức kiểm định, bảo dưỡng, sửa chữa,
thí nghiệm máy móc và thiết bị;
Kỹ năng nghề:
Chuyên môn nghề nghiệp được rèn luyện thành kỹ năng thông qua các môn
học thực hành, đồ án, đồ án tốt nghiệp
- Kỹ năng đo: đo chính xác bằng các loại công cụ đo chuyên ngành cơ khí
- Kỹ năng gia công nguội: gia công hình thành sản phẩm cơ khí bằng các
phương tiện gia công bằng tay như bào, giũa, máy khoan

- Kỹ năng xây dựng bản vẽ kỹ thuật cơ khí trên máy tính bằng phần mềm
AUTO CAD
- Kỹ năng xác định chức năng, định vị các chi tiết máy.
- Kỹ năng vận hành các máy : tính toán, xác định hỏng hóc, đề xuất cải tiến kỹ
thuật.
- Kỹ năng chuẩn đoán hệ thống điện điều khiển: kiểm tra, điều chỉnh, sửa chữa
hệ thống điện điều khiển động cơ, hệ thống truyền động.
- Kỹ năng tháo lắp, kiểm tra, sửa chữa, khảo nghiệm, vận hành các hệ thống
điện động cơ được trang bị trên các máy công cụ. Chẩn đoán, tìm pan và khắc
phục các hư hỏng cho hệ thống điện động cơ đạt yêu cầu kỹ thuật cao trong
thời gian ngắn nhất.
- Kỹ năng tháo lắp các máy móc thiết bị cơ khí.
Cơ hội nghề nghiệp:
Học sinh tốt nghiệp ngành này có thể đảm nhận công việc tại các vị trí :
- Vị trí vận hành, giám sát sản xuất phụ tùng, phụ kiện và lắp ráp máy móc
thuộc lĩnh vực nông nghiệp, công nghiệp…;
-19-
- Vị trí điều hành, giám sát tại các cơ sở sửa chữa ô tô-máy động lực;
- Vị trí kiểm định tại các trạm đăng kiểm;
- Vị trí kinh doanh tại các doanh nghiệp kinh doanh về lĩnh vực cơ khí, máy
động lực, phụ tùng.
2.2.Thực trạng công tác đào tạo nghề cơ khí của khoa cơ điện trường Dân
tộc nội trú huyện Tri Tôn từ năm 2010 – 2011.
2.2.1.Những kết quả đạt được và nguyên nhân.
a.Những kết quả đạt được.
- Về sĩ số:
Nghề
Thời gian
Hàn khoá 1 Hàn khoá 2 Ghi chú
Đầu khoá học 30 hs 30 hs

Hiện tại 16 hs 18 hs
- Về chất lượng giảng dạy các môn học/ mô đun nghề Hàn:
Học kỳ I có 1 lớp.
Lớp Hàn khoá 1:

n
Vẽ kỹ thuật Tỉ lệ An toàn lao Tỉ Vật liệu Tỉ lệ
-20-
Loại
cơ khí động lệ Cơ khí
Giỏi 0 0 0
Khá 3 5 2
Trung
bình
13 11 13
Yếu
Kém
/ / / / 1
Học kỳ II có 2 lớp:
Lớp Hàn khoá 1:

n
Loại
Chế tạo phôi
hàn
Tỉ lệ Gá lắp kết
cấu hàn
Tỉ
lệ
Dung sai

đo lường
Tỉ lệ
Giỏi / / /
Khá 7 5 7
Trung
bình
8 10 9
Yếu
Kém
1 1 /
Lớp Hàn khoá 2:

n
Vẽ kỹ thuật Tỉ lệ An toàn lao
động
Tỉ
lệ
Vật liệu Tỉ lệ
-21-
Loại
cơ khí Cơ khí
Giỏi 1 1 1
Khá 7 5 8
Trung
bình
10 12 9
Yếu
Kém
/ / / / / /
Nhận xét đánh giá:

- Về sĩ số: Tuyển sinh đầu khoá mỗi lớp phân bổ 30 học sinh nhưng sau mỗi học kỳ
số lượng học sinh cứ giảm dần.
- Về chất lượng giảng dạy các môn học/ môđun nghề:
+ Rất ít học sinh có khả năng tiếp thu kiến thức các môn học mô đun nghề mỗi lớp
chỉ có khoảng 1 em là đạt loại giỏi chiếm tỷ lệ (dưới 20%).
+ Đa số các em có khả năng tiếp cận được môn học/môdun nghề từ loại trung bình và
khá chiếm tỷ lệ cao trong lớp học.
+ Vẫn còn một số em không tiếp cận được các kiến thức các môn học môđun nghề.
Bắt buộc số ít này phải học lại trong học kỳ sau.
b.Những nguyên nhân đạt được
- Học sinh khi vào học tập tại trường sẽ có chế đôk trợ cấp hàng tháng, được
trang bị các đồ dùng học phẩm phục vụ học tập.
- Được bố trí vào ở trong ký túc xá miễn phí, tiền điện và nước sinh hoạt nhà
trường chi trả từ nguồn ngân sách nhà nước.
- Có sự quan tâm giúp đỡ kịp thời của ban giám hiệu nhà trường.
-22-
- Sự chỉ đạo uyển chuyển của lãnh đạo khoa cơ điện.
- Đa số giáo viên trẻ nhiệt tình các thầy cô cố gắng giúp đở cho các em về việc
ôn tập củng cố lại kiến thức để thi kết thúc môn học.
2.2.2.Những hạn chế, yếu kém và nguyên nhân
a.Những hạn chế, yếu kém
- Chất lượng giảng dạy các môđun/môn học không cao.
- Rất ít học sinh nắm vững các kiến thức nghề Hàn.
- Sĩ số lớp học giảm dần theo từng học kỳ.
- Trong quá trình giảng dạy học tập không có đủ phương tiện, thiết bị giảng
dạy.
- Đa số các học sinh khi vào học tập tại trường có kiến thức văn hoá hạn chế,
không học nổi chương trình trung học phổ thông.
b.Nguyên nhân hạn chế, yếu kém là do?
- Đa số giáo viên chuyển từ trường trung học phổ thông sang.

- Trình độ văn hoá các em còn thấp,
- Tiếng việt của một số em sống trong phum, sóc phát âm tiếng việt chưa
chuẩn.
- Các em chưa trao đổi ngôn ngữ với nhau bằng tiếng việt nhiều, chủ yếu bằng
khơmer ngữ.
- Ý thức học tập chưa cao một số em không đi học tham gia gặt lúa, làm rẫy
giúp gia đình.
- Đa số học sinh có hoàn cảnh kinh tế gia đình nghèo khó, một số em không có
xe đi học phải nghĩ ở nhà.
-23-
- Đa số học sinh ở cách xa trường trên 10 km nên dẫn đến duy trì sĩ số gặp khó
khăn, nếu ở lại học các giờ buổi chiều thì các em không đủ tiền cho việc ăn uống
trong tháng đó vì mỗi tháng các em chỉ nhận khoảng vài trăm ngàn.
- Đội ngũ giáo viên còn non trẻ, kinh nghiệm truyền đạt kiến thức khoa học
đến học sinh chưa cao.
CHƯƠNG 3
MỤC TIÊU, YÊU CẦU VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG
ĐÀO TẠO NGHỀ CƠ KHÍ CỦA KHOA CƠ ĐIỆN TRƯỜNG DÂN TỘC NỘI
TRÚ HUYỆN TRI TÔN ĐẾN NĂM 2015
3.1.Mục tiêu, yêu cầu của việc nâng cao chất lượng đào tạo nghề cơ khí
của Khoa cơ điện trường Dân tộc nội trú huyện Tri Tôn đến năm 2015
- Mục tiêu tổng quát………đến năm 2015.
Các học sinh ra trường phải có tay nghề bậc thợ tương đương bậc 1/7.
Đảm bảo 80% học sinh sau khi tốt nghiệp ra trường có khả năng tự tạo việc
làm bằng cách mở các tiệm gia công nghề cơ khí Hàn hoặc có đủ khả năng chuyên
môn , tay nghề để tham gia học tiếp các lớp đào tạo liên thông lên cao đẳng, đại học
hoặc tham gia trực tiếp vào lao động sản xuất tại các công ty, xí nghiệp hiện có trên
địa bàn huyện Tri Tôn, Tịnh Biên đảm bảo an sinh xã hội.
Có kế hoạch bổ xung kiến thức, tay nghề, ôn thi để 20% học sinh sau khi tốt
nghiệp ra trường có khả năng học tiếp tục ở bậc học cao đẳng, đại học nhằm nâng cao

trình độ chuyên môn nghiệp vụ để tiếp cận với các máy móc khoa học tiên tiến trong
khu vực.
- Những yêu cầu phải làm để thực hiện mục tiêu tổng quát nói trên
-24-
Phải tăng cường cơ sở vật chất, đầu tư thêm các máy móc thiết bị dạy nghề
Hàn, đầu tư theo từng năm học có đào tạo các môđun-môn học sẽ dạy trong hnăm
học đó, tránh tình trạng đầu tư tràng lan kém hiệu quả.
Tổ chức các buổi thực tập thực nghiệm tại các doanh nghiệp, công ty, xí nghiệp
có trên địa bàn
Lãnh đạo địa phương ủng hộ tích cực qua các chủ trương các hoạt động hợp tác
giữa nhà trường với doanh nghiệp có trên địa bàn, khuyến khích các doanh nghiệp
tiếp nhận các con em đồng bào dân tộc vào thực hành, lao động sản xuất trực tiếp tại
các công ty xí nghiệp thuộc địa phận mình quản lý. Khuyến khích các doanh nghiệp,
công ty , xí nghiệp nhận các em học sinh người dân tộc vào làm tại công ty để giúp
địa phương đảm bảo trật tự an ninh xã hội, an sinh xã hội.
Đề nghị ngân hàng chính sách huyện Tri Tôn hổ trợ vốn kinh doanh nếu các
em học sinh sau khi tốt nghiệp ra trường không có điều kiện học tiếp lên cao đẳng đại
học có cơ hội mở xưởng gia công tại quê nhà để phát triển kinh doanh tư nhân, giúp
các em tự tạo việc làm và thu nhập chính đáng từ sức lao động của bản thân.
Đề nghị Sở lao động thương binh và xã hội Tỉnh An giang phê duyệt kế hoạch
đào tạo liên thông từ trung cấp lên cao đẳng, đại học
3.2.Những giải pháp nâng cao chất lượng đào tạo nghề cơ khí của Khoa cơ
điện trường Dân tộc nội trú huyện Tri Tôn đến năm 2015.
3.2.1. Tăng cường dự giờ thăm lớp.
3.2.2. Tăng cường thao giảng chuyên đề cấp khoa, cấp trường.
3.2.3. Tập trung thảo luận, nêu ra giải pháp nâng cao chất lượng chuyên môn
trong các cuọc họp khoa định kỳ hàng tháng.
3.2.4. Phát động phong trào làm đồ dùng dạy học và viết sáng kiến kinh
nghiệm.
-25-

×