Tải bản đầy đủ (.doc) (24 trang)

CỔ PHẦN HOÁ DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (226.28 KB, 24 trang )

Website: Email : Tel : 0918.775.368
LỜI NÓI ĐẦU
Từ năm 1986 nền kinh tế tập trung ở nước ta đã chuyển sang nền kinh
tế thị trường như một đòi hỏi tất yếu của sự phát triển.Trong điều kiên cơ
chế quản lí thay đổi, khi hiệu quả kinh doanh trở thành yếu tố sống còn của
mỗi doanh nghiệp thì các doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế Nhà nước đã
bộc lộ đầy đủ những yếu kém, lâm vào tình trạng sa sút và khủng
hoảng.Vậy vấn đề đặt ra là làm thế nào để cấu trúc lại sở hữu Nhà nước và
cải cách khu vực kinh tế Nhà nước nhằm nâng cao hiệu quả và vai trò của
nó theo tinh thần nghị quyết đại hội VI và VII của Đảng. Nghị quyết Quốc
hội về nhiệm vụ năm 2002 và chương trình hoạt động của Chính phủ đã thể
hiện quyết tâm cao của cơ quan quyền lực Nhà nước trong việc tập trung
mọi nỗ lực cho sự phát triển. Tháng 9 năm 2001, Hội nghị Ban chấp hành
Trung ương Đảng Khóa IX đã ra Nghị quyết về sắp xếp, đổi mới, nâng cao
hiệu quả doanh nghiệp Nhà nước, Nghị quyết Trung ương III có đi vào
cuộc sống trở thành hiện thực hay không còn phụ thuộc vào phần lớn sự
vận động của hơn 60. 000 doanh nghiệp trong cả nước. Do vậy, nâng cao
năng lực quản lý và cạnh tranh của doanh nghiệp là nhân tố quan trọng để
chúng ta có thể đáp ứng được những đòi hỏi bức xúc của tình hình mới.
Chính phủ đã triển khai nhiều chủ trương, chính sách để tổ chức, sắp xếp
lại, phát huy quyền tự chủ kinh doanh, nâng cao hiệu quả của doanh nghiệp
Nhà nước. Một trong những chủ trương quan trọng đó là : Cổ phần hóa các
doanh nghiệp Nhà nước. Đây là quyết định đúng đắn của Nhà nước nhằm
khắc phục những điểm yếu kém, trì trệ của các doanh nghiệp Nhà nước.
Trong giai đoạn hiện nay Nhà nước đang có chủ trương khuyến khích
các doanh nghiệp Nhà nước cổ phần hoá. Đây là vấn đề rất quan trọng, vì
vậy em xin mạnh dạn được đề cập đến đề tài :
Website: Email : Tel : 0918.775.368
1
Website: Email : Tel : 0918.775.368
CỔ PHẦN HOÁ DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC THỰC TRẠNG


VÀ GIẢI PHÁP
Mặc dù đã cố gắng học hỏi, sưu tầm tài liệu nhưng chắc chắn em
không tránh khỏi những hạn chế khiếm khuyết.
Em kính mong các thầy giáo, cô giáo chỉ bảo em thêm.
Em xin trân trọng cảm ơn!
Website: Email : Tel : 0918.775.368
2
Website: Email : Tel : 0918.775.368
NỘI DUNG
I- Những vấn đề chung về cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước
1. Khái niệm cổ phần hóa các doanh nghiệp Nhà nước:
Các doanh nghiệp Nhà nước được hình thành và phát triển trên cơ sở
nguồn vốn cấp phát của ngân sách Nhà nước và do đó tất cả các sự hoạt
động đều chịu sự kiểm soát và chi phối trực tiếp của Nhà nước. Cũng như
nhiều nước trên thế giới, khu vực kinh tế Nhà nước hoạt động hết sức kém
hiệu quả, đặc biệt các doanh nghiệp Nhà nước do cấp địa phương quản lý.
Như vậy, có thể thấy rằng vấn đề sản xuất kinh doanh trong các doanh
nghiệp Nhà nước cần phải được giải quyết một cách cơ bản. Để giải quyết
vấn đề này giải pháp hữu hiệu trong nền kinh tế thị trường và đáp ứng được
các yêu cầu kinh doanh hiện đại - Đó là các công ty cổ phần.
Cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước là chủ trương lớn của Đảng và
Nhà nước ta nhằm đa dạng hoá hình thức sở hữu trong doanh nghiệp Nhà
nước, nâng cao hiệu quả của loại hình doanh nghiệp này. Để thực hiện chủ
trương đó, Nhà nước ban hành khá nhiều các văn bản hướng dẫn thi hành.
Đó là quyết định số 202/CT ngày 8/6/1992 của Chủ tịch Hội đồng Bộ
trưởng về tiếp tục thí điểm chuyển doanh nghiệp Nhà nước thành công ty
cổ phần, kèm theo đề án chuyển một số doanh nghiệp Nhà nước thành công
ty cổ phần; Chỉ thị số 84/TTg ngày 4/3/1993 của Thủ tướng Chính phủ về
xúc tiến thực hiện thí điểm cổ phần hoá các doanh nghiệp Nhà nước và các
giải pháp đa dạng hoá hình thức sở hữu các doanh nghiệp Nhà nước. Nghị

định 28/CP ngày 7/5/1996 của Chính phủ về chuyển một số doanh nghiệp
Nhà nước thành công ty cổ phần; Thông tư số 50/TCDN ngày 30/8/1996
của Bộ tài chính hướng dẫn thực hiện; Nghị định 28/CP của Chính phủ;
Nghị định số 25/CP ngày 26/3/1997 về sửa đổi một số điểu của nghị định
số 28/CP và nghị định số 44/CP ngày 2/6/1998 về sửa đổi một số điều
Website: Email : Tel : 0918.775.368
3
Website: Email : Tel : 0918.775.368
trong nghị định số 28/CP, nghị định số 64/CP ngày 19/6/2002, nghị định
187/2004/ND-CP nhày 16 tháng 11 năm 2004 của Chính phủ về việc
"Chuyển doanh nghiệp Nhà nước thành công ty cổ phần". Và mới đây nhất
là chỉ thị 04/2005/CT-TTg của Thủ tương Chính phủ nhằm thúc đẩy các
doanh nghiệp Nhà nước cổ phần hoá.
Theo các văn bản trên cổ phần hoá ở nước ta là cách nói tắt của chủ
trương chuyển một số doanh nghiệp Nhà nước thành công ty cổ phần. Điều
I Thông tư số 50/TCDN ngày 30/8/1996 của Bộ Tài chính qui định: "doanh
nghiệp Nhà nước chuyển thành công ty cổ phần (hay còn gọi là cổ phần
doanh nghiệp Nhà nước)" là một biện pháp chuyển doanh nghiệp Nhà nước
từ sở hữu Nhà nước sang hình thức sở hữu nhiều thành phần, trong đó tồn
tại một phần sở hữu Nhà nước.
Như vậy: “Cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước là việc chuyển doanh
nghiệp Nhà nước thành công ty cổ phần đối với những doanh nghiệp mà
Nhà nước thấy không cần nắm giữ 100% vốn đầu tư, nhằm tạo điều kiện
cho người lao động trong trong doanh nghiệp có cổ phần làm chủ thực sự
doanh nghiệp, huy động vốn toàn xã hội để đầu tư đổi mới công nghệ, phát
triển doanh nghiệp góp phần tăng trưởng kinh tế.
2. Công ty cổ phần:
Thực chất của quá trình cổ phần hóa doanh nghiệp là quá trình chuyển
đổi hình thức doanh nghiệp sang hình thức công ty cổ phần.
Công ty cổ phần là doanh nghiệp, trong đó :

- Vốn điều lệ được chia thành nhiều phần bằng nhau gọi là cổ phần;
- Cổ đông chỉ chịu trách nhiệm về nợ và các nghĩa vụ tài sản khác của
doanh nghiệp trong phạm vi số vốn đã góp vào doanh nghiệp;
- Cổ đông có quyền tự do chuyển nhượng cổ phần của mình (trừ cổ
đông sở hữu cổ phần ưu đãi biểu quyết);
Website: Email : Tel : 0918.775.368
4
Website: Email : Tel : 0918.775.368
- Cổ đông có thể là tổ chức; cá nhân; số lượng cổ đông tối thiểu là ba
và không hạn chế số lượng tối đa;
- Công ty cổ phần có quyền phát hành chứng khoán ra công chúng
theo qui định của pháp luật về chứng khoán.
Công ty cổ phần có tư cách pháp nhân kể từ ngày được cấp giấy
chứng nhận đăng ký kinh doanh.
Hay nói cách khác, công ty cổ phần là một tổ chức kinh doanh có tư
cách pháp nhân do một số người, một số tổ chức kinh tế xã hội tự nguyện
góp vốn dưới hình thức mua cổ phiếu của công ty gọi là cổ đông. Các cổ
đông chỉ chịu trách nhiệm pháp lý hữu hạn trong phần vốn góp của mình.
Điều này cho phép công ty có tư cách pháp lý đầy đủ để huy động những
lượng vốn lớn nằm rải rác trong các tầng lớp dân cư.
Khi công ty mới thành lập yêu cầu cần có một lượng vốn nhất định.
Trên cơ sở số vốn ban đầu công ty xác định số cổ phiếu và mệnh giá cổ
phiếu. Công ty cổ phần bắt buộc phải có cổ phần phổ thông và có thể có cổ
phần ưu đãi. Ngoài ra, công ty cổ phần được phát hành trái khoán để huy
động thêm vốn.
Các cổ phiếu và trái phiếu của công ty được chuyển nhượng dễ dàng
trên thị trường chứng khoán. Đồng thời, nhờ cơ chế này nó đã tạo nên sự di
chuyển linh hoạt các luồng vốn xã hội theo các nhu cầu và cơ hội đầu tư đa
dạng của các công ty và công chúng.
II- Tại sao phải cổ phần hóa các doanh nghiệp Nhà nước

1. Đặc điểm của các doanh nghiệp Nhà nước ở Việt Nam hiện nay:
Doanh nghiệp Nhà nước ở nước ta ra đời và hoạt động trong cơ chế kế
hoạch hoá tập trung với một thời gian dài. Mặt khác, do hình thành từ
những nguồn gốc khác nhau và được sản xuất trên cơ sở của nhiều quan
Website: Email : Tel : 0918.775.368
5
Website: Email : Tel : 0918.775.368
điểm nên các doanh nghiệp Nhà nước ở Việt Nam có những đặc trưng khác
biệt so với nhiều nước trong khu vực và trên thế giới, đó là:
- Quy mô doanh nghiệp phần lớn nhỏ bé, cơ cấu phân tán, biểu hiện ở
số lượng lao động và mức độ tích luỹ vốn.
- Trình độ kỹ thuật, công nghệ lạc hậu (từ 2-3 thế hệ, cá biệt tới 5-6
thế hệ), trừ một số rất ít chỉ có18% số doanh nghiệp Nhà nước được đầu tư
mới (sau khi có chính sách đổi mới), phần lớn các doanh nghiệp Nhà nước
đã được thành lập khá lâu, có trình độ kỹ thuật thấp. Vì vậy khi chuyển
sang kinh tế thị trường, khả năng cạnh tranh cả trong nước lẫn quốc tế của
doanh nghiệp Nhà nước rất yếu, ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động, khả
năng hội nhập kinh tế khu vực và thế giới.
Do những đặc điểm trên nên khi chuyển sang kinh tế thị trường, các
doanh nghiệp Nhà nước không còn được bao cấp mọi mặt như trước đây,
mặt khác lại bị các thành phần kinh tế khác cạnh tranh quyết liệt, nên nhiều
doanh nghiệp Nhà nước không trụ nổi, dẫn đến phá sản, giải thể.
2. Sự hoạt động kém hiệu quả của các doanh nghiệp Nhà nước:
Trước khi thực hiện cổ phần hoá, nước ta có hơn 6. 000 doanh nghiệp
Nhà nước, nắm giữ 88% tổng số vốn của các doanh nghiệp trong nền kinh
tế nhưng hiệu quả kinh doanh thấp, chỉ có khoảng 50% doanh nghiệp Nhà
nước là có lãi, trong đó thực sự làm ăn hiệu quả và có triển vọng lâu dài chỉ
chiếm dưới 30%. Trên thực tế doanh nghiệp Nhà nước nộp ngân sách
chiếm 80-85% tổng số thu nhưng nếu trừ khấu hao cơ bản và thuế gián thu
thì doanh nghiệp Nhà nước chỉ đóng góp được trên 30% ngân sách Nhà

nước. Đặc biệt nếu tính đủ chi phí, tài sản cố định và đất theo giá thị trường
thì các doanh nghiệp Nhà nước hầu như không tạo ra được tích luỹ. Điều
đó có nghĩa là hoạt động của doanh nghiệp Nhà nước không tương xứng
với phần đầu tư của Nhà nước cho nó cũng như không tương xứng với tiềm
lực của chính doanh nghiệp Nhà nước.
Website: Email : Tel : 0918.775.368
6
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Trình độ công nghệ còn lạc hậu, tình hình này có phần do hậu quả
nặng nề của thời kỳ kế hoạch hoá tập trung bao cấp trước đây và ảnh hưởng
nghiêm trọng của chiến tranh. Máy móc, thiết bị đã quá lạc hậu, lỗi thời và
hiện có đến 54, 3% doanh nghiệp Nhà nước Trung ương và 74% doanh
nghiệp Nhà nước đại phương còn sản xuất ở trình độ thủ công. Chính điều
này đã gây khó khăn cho việc tăng năng suất lao động và nâng cao chất
lượng sản phẩm của doanh nghiệp Nhà nước.
Nhận thức được tầm quan trọng và tính tất yếu của việc cổ phần hoá
doanh nghiệp Nhà nước, Đảng và Nhà nước ta đã sớm đề ra chủ trương,
chính sách cổ phần hóa một bộ phận doanh nghiệp Nhà nước ngay từ đầu
những năm 1990, từng bước thực hiện và đổi mới cho phù hợp với từng
giai đoạn của tiến trình cổ phần hóa.
3. Mục tiêu cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước:
Nghị định 187/2004/NĐ-CP ngày 16/11/2004 của Chính phủ về việc
chuyển một số doanh nghiệp Nhà nước thành công ty cổ phần đã nêu rõ:
Chuyển doanh nghiệp Nhà nước thành các công ty cổ phần nhằm các mục
tiêu:
- Huy động vốn của toàn xã hội, bao gồm cá nhân, các tổ chức kinh tế,
tổ chức xã hội trong nước và nước ngoài để đầu tư đổi mới công nghệ, tạo
thêm việc làm, phát triển doanh nghiệp, nâng cao sức cạnh tranh, thay đổi
cơ cấu doanh nghiệp Nhà nước.
- Tạo điều kiện để người kinh doanh trong doanh nghiệp có cổ phần

và những người đã góp vốn được làm chủ thực sự, thay đổi phương thức
quản lý, tạo động lực thúc đẩy doanh nghiệp kinh doanh có hiệu quả, tăng
tài sản Nhà nước, nâng cao thu nhập của người lao động, góp phần tăng
trưởng kinh tế đất nước.
Website: Email : Tel : 0918.775.368
7
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Như vậy một trong những mục đích quan trọng của cổ phần hóa là để
doanh nghiệp thu hút vốn nhàn rỗi trong và ngoài nước vào hoạt động sản
xuất kinh doanh và đầu tư phát triển doanh nghiệp. Một mặt nó sẽ góp phần
tháo gỡ sức áp lực cho ngân sách Nhà nước, mặt khác doanh nghiệp cổ
phần có điều kiện mở rộng quy mô kinh doanh, đầu tư đổi mới dây chuyền
công nghệ, gắn trách nhiệm với lợi ích của chính người lao động nên sẽ
thúc đẩy tăng hiệu quả kinh doanh.
Cổ phần hoá tạo điều kiện cho người lao động được thật sự làm chủ
doanh nghiệp. Lợi ích của người lao động gắn chặt với hiệu quả hoạt động
của chính công ty, do đó người lao động làm việc với tinh thần trách nhiệm
cao, làm việc cho chính bản thân mình, bên cạnh đó đòi hỏi Hội đồng quản
trị, Ban Giám đốc cũng phải thật sự năng động, sáng tạo trong điều hành
hoạt động sản xuất kinh doanh của đơn vị mình.
Thực hiện cổ phần hóa sẽ khắc phục được tình trạng buông lỏng trong
quản lý, tình trạng "vô chủ" của doanh nghiệp, đảm bảo sử dụng các nguồn
lực cho hoạt động kinh doanh một cách có hiệu quả, tăng khả năng cạnh
tranh, đứng vững trên thị trường. Mặt khác cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà
nước sẽ tạo tiền đề cho thị trường chứng khoán ở Việt Nam phát triển,
đồng thời góp phần đắc lực vào việc thực hiện chủ trương chuyển đổi cơ
cấu kinh tế của Đảng và Nhà nước.
Như vậy, cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước giúp cho doanh nghiệp
Nhà nước đổi mới toàn diện cả về phương thức quản lý, giải pháp về vốn,
công nghệ, sản phẩm, khả năng cạnh tranh, hiệu quả hoạt động để tồn tại và

phát triển theo thời gian, tạo điều kiện thuận lợi để thực hiện công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước, hội nhập kinh tế khu vực và thế giới.
Website: Email : Tel : 0918.775.368
8
Website: Email : Tel : 0918.775.368
III- quá trình cổ phần hoá các doanh nghiệp Nhà nước ở Việt Nam -
những thành tựu và hạn chế
1. Quá trình thực hiện cổ phần hoá các doanh nghiệp Nhà nước:
Từ giữa năm 1992 Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng (nay là Thủ tướng
Chính phủ) đã có quyết định về thí điểm chuyển một số doanh nghiệp Nhà
nước thành công ty cổ phần nhưng trong thời gian này vẫn chưa có doanh
nghiệp Nhà nước nào thực hiện chuyển đổi.
Ngày 4/3/1993 Thủ trướng Chính phủ đã ra chỉ thị 84/TTg về tiếp tục
thí điểm chuyển doanh nghiệp Nhà nước thành công ty cổ phần. Qua 4 năm
thực hiện (1992-1996) đã có 5 doanh nghiệp Nhà nước thành công ty cổ
phần.
Ngày 7/5/1996 Chính phủ ban hành Nghị định số 28/CP để đáp ứng
những đòi hỏi của thực tiễn cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước đạt ra.
Kết quả là cuối năm 1997 chúng ta đã tiến hành cổ phần hoá được 13
doanh nghiệp.
Ngày 29/6/1998 Chính phủ đã ban hành Nghị định 44/CP về chuyển
doanh nghiệp Nhà nước thành công ty cổ phần. Tính đến cuối năm 1998 cả
nước đã có 116 doanh nghiệp Nhà nước chuyển thành công ty cổ phần.
Ngày 19/6/2002 Chính phủ đã ban hành NĐ64/CP về chuyển doanh
nghiệp Nhà nước thành công ty cổ phần.
Ngày 16/11/2004 Chính phủ ban hành NĐ187/CP về cổ phần hoá
doanh nghiệp Nhà nước.
Mới đây chỉ thị 04/2005/TTg của Thủ tướng Chính phủ là hiệu lệnh
tăng tốc cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước.
Hiện nay, doanh nghiệp Nhà nước còn khoảng 5.911 doanh nghiệp, cả

nước có khoảng 2.500 doanh nghiệp Nhà nước được cổ phần hoá (Số liệu
tính đến đầu năm 2005),riêng năm 2005 dự tính có khoảng gần 800 sẽ cổ
Website: Email : Tel : 0918.775.368
9

×