Tải bản đầy đủ (.pdf) (279 trang)

Truyện ngắn trong dòng văn học yêu nước đô thị miền Nam giai đoạn 1954 – 1965

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (10.06 MB, 279 trang )


ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN





PHẠM THANH HÙNG





TRUYỆN NGẮN
TRONG DÒNG VĂN HỌC YÊU NƯỚC
ĐÔ THỊ MIỀN NAM
GIAI ĐOẠN 1954 – 1965




LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGỮ VĂN










Thành phố Hồ Chí Minh - 2008


ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN





PHẠM THANH HÙNG





TRUYỆN NGẮN
TRONG DÒNG VĂN HỌC YÊU NƯỚC
ĐÔ THỊ MIỀN NAM
GIAI ĐOẠN 1954 – 1965


Chuyên ngành : LÝ THUYẾT VÀ LỊCH SỬ VĂN HỌC
Mã số : 5.04.01


LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGỮ VĂN



NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
PGS.TS. TRẦN HỮU TÁ



Thành phố Hồ Chí Minh - 2008

“TRUYỆN NGẮN TRONG DÒNG VĂN HỌC YÊU NƯỚC ĐÔ THỊ MIỀN NAM
GIAI ĐOẠN 1954 – 1965”



- Chuyên ngành : Lý thuyết và lịch sử văn học
- Mã số : 5.04.01
- Họ và tên nghiên cứu sinh : Phạm Thanh Hùng
- Người hướng dẫn khoa học : PGS.TS. Trần Hữu Tá
- Cơ sở đào tạo : Trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn –
Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh


TÓM TẮT NỘI DUNG LUẬN ÁN

Truyện ngắn là một trong những thể loại có nhiều thành tựu của dòng văn học
yêu nước đô thị miền Nam (1954 – 1975). Nghiên cứu truyện ngắn trong dòng văn
học yêu nước đô thị miền Nam giai đoạn 1954 – 1965 là việc làm vừa có ý nghĩa
khoa học lẫn thực tiễn, vừa có tính cấp thiết và thời sự.

Trên cơ sở khảo sát khối tư liệu truyện ngắn của hơn 20 tác giả tiêu biểu
đăng trên 12 tờ báo, tạp chí từ 1954 đến 1965 ở vùng đô thị miền Nam, cùng nhiều
bài viết, công trình nghiên cứu có liên quan, tác giả luận án đã đưa ra cái nhìn bao

quát về lịch sử nghiên cứu dòng văn học yêu nước đô thị miền Nam; xác định vị trí
của truyện ngắn trong bức tranh văn học yêu nước đô thị miền Nam 1954 – 1965;
tập trung phân tích, lý giải, đánh giá những điểm nổi bật của truyện ngắn giai đoạn
này thể hiện qua nội dung yêu nước thấm thía kết hợp xuyên thấm với tinh thần
nhân văn sâu sắc và hình thức tự sự linh hoạt, hiện đại (như hình tượng nghệ thuật
đa nghĩa, cốt truyện và kết cấu uyển chuyển, không gian và thời gian nghệ thuật đa
dạng, miêu tả tâm lý và xây dựng tính cách sinh động, ngôn từ gợi tả giàu chất sống
hiện đại). Từ đó, khẳng định vị trí xứng đáng và những đóng góp đáng quý của dòng
văn học yêu nước đô thị miền Nam (1954 – 1975) đối với văn học dân tộc.

NHỮNG KẾT QUẢ MỚI CỦA LUẬN ÁN

1. Luận án đã khái quát sự hình thành và phát triển của dòng văn học yêu
nước đô thị miền Nam giai đoạn 1954 - 1965 trong tương quan chung của
ba bộ phận văn học yêu nước Việt Nam (văn học miền Bắc, văn học giải
phóng và văn học yêu nước đô thị miền Nam). Từ đó, chỉ ra đặc điểm và
sức sống của truyện ngắn trong bức tranh văn học yêu nước đô thị miền
Nam giai đoạn này.

2. Từ sự phân tích những điểm nổi bật trên hai phương diện nội dung tư tưởng
và hình thức nghệ thuật, luận án cung cấp cái nhìn bao quát về những giá trị
đã làm nên diện mạo độc đáo của truyện ngắn trong dòng văn học yêu nước
đô thị miền Nam giai đoạn 1954 – 1965.
3. Trên cơ sở khẳng định vị trí và những đóng góp của truyện ngắn cũng như
của dòng văn học yêu nước đô thị miền Nam 1954 – 1965, luận án đã góp
phần cụ thể vào việc nhìn nhận một cách toàn diện lịch sử văn học Việt Nam
giai đoạn 1954 – 1965.

CÁC ỨNG DỤNG / KHẢ NĂNG ỨNG DỤNG TRONG THỰC TIỄN HOẶC NHỮNG
VẤN ĐỀ CÒN BỎ NGỎ CẦN TIẾP TỤC NGHIÊN CỨU


1. Luận án có thể dùng làm tài liệu để nhận diện bổ sung cho việc viết giáo trình
văn học Việt Nam hiện đại và làm tài liệu tham khảo cho sinh viên khoa Ngữ
văn các trường Đại học và Cao đẳng.

2. Bên cạnh truyện ngắn, nhiều thể loại khác của dòng văn học yêu nước đô thị
miền Nam (1954 – 1975) như thơ, tiểu thuyết, ký, kịch, biên khảo, bút ký chính
luận, lý luận, phê bình văn học vẫn đang chờ đợi những công trình khảo sát,
nghiên cứu từ góc nhìn thể loại. Ngay truyện ngắn giai đoạn 1965 - 1975 vẫn
còn đang để ngỏ và rất cần có công trình tiếp tục nghiên cứu.

Xác nhận của người hướng dẫn khoa học Nghiên cứu sinh





PGS.TS. Trần Hữu Tá Phạm Thanh Hùng



The PhD thesis in Linguistics and Literature:
SHORT STORIES IN THE LINE OF PATRIOTIC LITERATURE IN SOUTHERN
VIETNAM URBAN AREAS, PERIOD 1954-1965

- PhD. Student
- Instructor
- University
: PHAM THANH HUNG
: Ass. Prof. Dr. TRAN HUU TA

: University of Social Sciences & Humanities, Vietnam
National University Ho Chi Minh City

ABSTRACT
Short stories belong to one kind of prose with much achievement in the line of
patriotic literature in Southern Vietnam urban areas (1954-1975). The research on
short stories in the line of patriotic literature in Southern Vietnam urban areas during
1954-1965, is both scientifically significant and practical, and an urgent need
concerning contemporary events.

Based on a mass of information from the short stories by over 20 typical
authors appearing in more than 12 newspapers and magazines, from 1954 to 1965
in Southern Vietnam urban areas, and many other relevant writings and research
papers, the thesis’ author has provided an overview on the history of reseaching the
line of patriotic literature in Southern Vietnam urban areas, positioning the short
stories in the context of the patriotic literature in Southern Vietnam urban areas
during the period of 1954-1965; focused on analyzing, explaining, and evaluating the
outstanding characteristics of short stories during the said period, which were
embodied in the profound contents of patriotism; combined with the spirit of deep
humanism, and the form of lively and modern narrative (eg meaningful artistic
figures, flexible plots and structures, diversified artistic space and time, lively
psychological description and characteristic building, and figurative speech rich in
modern livingness). Therefrom, the worthy position and the precious contributions by
the line of patriotic literature in Southern Vietnam urban areas (1954-1975) in the
national literature, is affirmed.

THE THESIS’ NEW RESULTS

1. The Thesis has provided an overview of the formation and development of the
line of patriotic literature in Southern Vietnam urban areas during the period of

1954-1965 in general correlation to the three parts of patriotic literature in
Vietnam (the new literature in the North, the liberation literature and urban
patriotic literature in the South). Wherefrom, the characteristics and living
strength of short stories in the picture of patriotic literature in Southern
Vietnam urban areas during the period, are showed.

2. With the analysis of outstanding points in thought contents and artistic form,
the thesis gives an overall view of those values which have created the
unique outlook of short stories in the line of patriotic literature in Southern
Vietnam urban areas (1954-1965).

3. Ascertaining the position and contributions of short stories and the line of
patriotic literature in Southern Vietnam urban areas (1954-1965), the thesis
has contributed its particular part to the comprehensive recognition of the
history of Vietnamese literature in the period of 1954-1965.

APPLICATION/POSSIBILITY OF APPLICATION IN REALITIES OR THOSE OPEN
MATTERS NEEDING CONTINUED RESEARCH

1. The thesis may be used as materials for supplementary recognition in
preparing textbooks of modern Vietnamese literature, and as references for
university and college students of Linguistics and Literature department.

2. In addition to short stories, many other categories in the line of patriotic
literature in Southern Vietnam urban areas (1954-1975) such as poetry,
novels, memoirs, plays, studies, political notes, literature theories and
critiques, are still waiting for research from the angle of each catergory. Even
the short stories in the period of 1965-1975 are still left open needing
continued research.









Lời cam đoan
Tôi xin cam đoan luận án này do tôi độc
lập nghiên cứu, xây dựng trên cơ sở tiếp thụ ý
tưởng khoa học của các tác giả đi trước, dưới sự
hướng dẫn của PGS.TS. Trần Hữu Tá.
Các số liệu, kết quả nêu trong luận án là
trung thực dựa trên sự tìm tòi, nghiên cứu của cá
nhân, chưa từng được ai công bố trong bất kỳ công
trình nào khác.

Tác giả luận án




PHẠM THANH HÙNG
















NHỮNG CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN ÁN


CIA Central Intelligence Agency (Cơ quan Tình báo Trung ương
Mỹ)
GS Giáo sư
IVS International Voluntary Service (Thanh niên Chí nguyện
Quốc tế)
JUSPAO Joint United States Public Affairs Office (Cơ quan Liên vụ
Thông tin Hoa Kỳ)
MAAG Military Assistance Advisory Group (Nhóm Cố vấn Quân sự)
MACV Military Assisyance Command, Vietnam (Bộ Chỉ huy Viện
trợ quân sự ở Viet Nam)
MSUG Michigan State University Group (Nhóm Đại học bang
Michigan)
OU Ohio University (Đại học Ohio)
PGS Phó Giáo sư
SIU Southern Illinois University (Đại học Nam Illinois)
tr. trang
TS Tiến só
USAID United States Agency for International Development (Cơ
quan Phát triển Quốc tế Hoa Kỳ)

USIS United States Information Service (Sở Thông tin Hoa Kỳ)
USOM United States Operations Mission (Phái bộ Viện trợ Hoa Kỳ)
VOA Voice of America (Đài Phát thanh Hoa Kỳ)




MỤC LỤC




MỞ ĐẦU Trang
1. Lý do chọn đề tài, mục đích nghiên cứu 1
2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 3
3. Lòch sử nghiên cứu vấn đề 7
4. Phương pháp nghiên cứu 20
5. Những đóng góp mới của luận án 21
6. Cấu trúc của luận án 21

CHƯƠNG 1
VỊ TRÍ CỦA TRUYỆN NGẮN
TRONG DÒNG VĂN HỌC YÊU NƯỚC ĐÔ THỊ MIỀN NAM
GIAI ĐOẠN 1954 – 1965

1.1.
Văn học yêu nước đô thò miền Nam 1954 – 1965, một bộ phận
khá đặc biệt của văn học Việt Nam 1954 – 1965
23
1.1.1. Ba bộ phận văn học yêu nước Việt Nam: nền văn học mới miền Bắc,

văn học giải phóng, văn học yêu nước đô thò miền Nam 23
1.1.2. Chính sách xâm lược văn hóa tư tưởng của Mỹ
và tình hình văn học đô thò 26
1.1.3. Phong trào đấu tranh của nhân dân và sức sống của dòng
văn học yêu nước ở các đô thò 42

1.2.
Truyện ngắn trong bức tranh văn học yêu nước đô thò miền Nam
1954 – 1965
52
1.2.1. Truyện ngắn, hình thức tự sự cỡ nhỏ có ưu thế được ưa chuộng 52
1.2.2. Một thể loại văn xuôi nghệ thuật giàu sức sống của dòng
văn học yêu nước đô thò miền Nam 1954 – 1965………………………57

CHƯƠNG 2
NỘI DUNG YÊU NƯỚC VÀ TINH THẦN NHÂN VĂN
CỦA TRUYỆN NGẮN TRONG DÒNG VĂN HỌC YÊU NƯỚC
ĐÔ THỊ MIỀN NAM GIAI ĐOẠN 1954 – 1965

2.1.
Nội dung yêu nước thấm thía
66
2.1.1. Tiếng nói yêu nước thương nòi 66
2.1.2. Tiếng nói chống chính thể phi nhân 78
2.1.3. Tiếng nói chống xâm lăng 89
2.2.
Tinh thần nhân văn sâu sắc
104




2.2.1. Phơi bày thảm cảnh đời sống nhân dân 104
2.2.2. Phê phán tư tưởng và lối sống xa lạ 115
2.2.3. Vạch trần bản chất vô nhân đạo, tố cáo âm mưu xâm lược……………… 124

CHƯƠNG 3
HÌNH THỨC TỰ SỰ LINH HOẠT, HIỆN ĐẠI
CỦA TRUYỆN NGẮN TRONG DÒNG VĂN HỌC YÊU NƯỚC
ĐÔ THỊ MIỀN NAM GIAI ĐOẠN 1954 – 1965
3.1.
Hình tượng nghệ thuật đa nghóa
132
3.1.1. Hình tượng âm thanh 133
3.1.2. Hình tượng thiên nhiên 135
3.1.3. Hình tượng con người 139
3.2
Cốt truyện, kết cấu uyển chuyển
142
3.2.1. Cốt truyện 142
3.2.2. Kết cấu 147
3.3.
Không gian, thời gian nghệ thuật đa dạng
157
3.3.1. Không gian nghệ thuật 157
3.3.2. Thời gian nghệ thuật 168
3.4.
Miêu tả tâm lý và xây dựng tính cách sinh động
176
3.4.1. Tính cách nhân vật phản diện 177
3.4.2. Tính cách nhân vật chính diện 181

3.5.
Ngôn từ gợi tả, giàu chất sống hiện đại
185
3.5.1. Nguyên tắc đa thanh, phức điệu 186
3.5.2. Các phương tiện tu từ 190

KẾT LUẬN 198

CÔNG TRÌNH TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ
CÓ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN

TÀI LIỆU THAM KHẢO

PHỤ LỤC
1. Sơ lược tiểu sử tác giả truyện ngắn tiêu biểu giai đoạn 1954 -1965
2. Ảnh và bút tích tác giả truyện ngắn tiêu biểu giai đoạn 1954 - 1965
3. Ảnh một số báo chí, truyện ngắn giai đoạn 1954 – 1965


1


MỞ ĐẦU

1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI, MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
1.1.
Lý do chọn đề tài

Hơn ba mươi năm từ ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng, đất nước thống
nhất, mọi mặt đời sống tinh thần, vật chất của nhân dân ta đã có nhiều đổi thay

tích cực. Nhu cầu học tập, nghiên cứu văn học không ngừng tăng lên. Thực tế đó
đòi hỏi cần phải có nhiều hơn nữa những công trình nghiên cứu về thể loại, dòng
(khuynh hướng) hay giai đoạn văn học; thẩm đònh đóng góp của những tác giả,
tác phẩm tiêu biểu, góp phần làm cho bức tranh văn học Việt Nam càng thêm
sáng rõ về nhiều phương diện: văn học sử, lý luận và phê bình văn học.
Do đặc thù lòch sử, hơn hai thập kỷ đất nước chia cắt và chiến tranh, vùng đô
thò miền Nam đặt dưới sự kiểm soát của Mỹ và chính quyền Sài Gòn. Tồn tại bên
cạnh nhiều sản phẩm văn học khác nhau của chế độ, văn học yêu nước đô thò
miền Nam trong suốt quá trình hình thành và phát triển đã góp phần xứng đáng
vào chiến thắng to lớn của dân tộc trong cuộc đấu tranh vì hoà bình, độc lập, dân
chủ và thống nhất Tổ Quốc. Nhiều thế hệ sau 1975 không khỏi ngạc nhiên, vì sao
trong một hoàn cảnh chính trò - tư tưởng, văn hoá - xã hội phức tạp như thế, dòng
văn học này “không chỉ có giá trò phục vụ kòp thời mà không ít tác phẩm thực sự
có giá trò lâu dài, chòu đựng được sự thử thách của thời gian” [400, tr. 127]. Dù
vậy, vì những lí do khác nhau, đến nay công trình nghiên cứu liên quan đến dòng
văn học yêu nước đô thò miền Nam (1954 – 1975) nói chung, giai đoạn 1954 –
1965 nói riêng, vẫn còn rất ít ỏi, chưa đủ đáp ứng nhu cầu thực tế. Nhiều giáo
trình chuyên ngành bậc đại học hay sách giáo khoa trung học, phần biên soạn về
văn học đô thò miền Nam trước 1975 chỉ có tính khái quát, đôi khi rất sơ lược.
Nghiên cứu về thể loại văn học càng hiếm hoi. Truyện ngắn, một thể loại “đạt
2


được những thành tựu rất đặc sắc” [359, tr. 5] của dòng văn học yêu nước, vẫn
chưa có công trình nghiên cứu toàn diện và hệ thống.
Để làm nên thành tựu của dòng văn học này, nhiều nhà văn - chiến só hoạt
động trong lòng đô thò miền Nam đã ngã xuống hay bò bắt bớ, tù đày. Và theo qui
luật sinh tồn, nhiều người từng là chứng nhân sinh động của một thời kì lòch sử
cam go, sôi động và hào hùng này, sau 1975, đã lần lượt yên nghỉ. Điều đó khiến
cho nhu cầu tìm hiểu, nghiên cứu trở nên bức thiết hơn bao giờ hết để có được

những nhận xét, đánh giá toàn diện về dòng văn học có nhiều đóng góp này.
Trên cơ sở những nhận thức vừa nêu, chúng tôi quyết đònh chọn đề tài luận
án: “
Truyện ngắn trong dòng văn học yêu nước đô thò miền Nam giai đoạn 1954
– 1965


.
1.2.
Mục đích nghiên cứu



Với mục đích nghiên cứu truyện ngắn trong dòng văn học yêu nước đô thò
miền Nam đã hình thành và phát triển từ 1954 đến 1965, luận án sẽ tập trung giải
quyết các yêu cầu cơ bản sau:
Về mặt lý luận: Thông qua tìm hiểu khái quát ba bộ phận văn học yêu nước
Việt Nam 1954 –1965, luận án làm rõ vò trí của truyện ngắn trong bức tranh văn
học yêu nước đô thò miền Nam giai đoạn này. Trên cơ sở khảo sát những thành
tựu tiêu biểu, luận án đi sâu trình bày, phân tích những điểm nổi bật về nội dung
tư tưởng và hình thức nghệ thuật của truyện ngắn. Từ đó, khẳng đònh những đóng
góp mang sắc thái riêng của truyện ngắn và dòng văn học yêu nước đô thò miền
Nam 1954 - 1965 trong tiến trình văn học sử dân tộc và trong cuộc đấu tranh giải
phóng miền Nam, thống nhất đất nước.
Về mặt thực tiễn: Hai mươi mốt năm chia cắt đất nước đưa đến vô vàn khó
khăn khi tiếp cận quá trình diễn biến của những dòng văn học khác nhau vùng đô
thò miền Nam trước năm 1975. Thế nhưng, vượt qua những trở ngại khách quan,
3



nhiều cây bút lý luận, nghiên cứu – phê bình ở cả hai miền Nam Bắc, kể cả trong
vùng kiểm soát của chính quyền Sài Gòn, vẫn thường xuyên có những bài viết
sắc sảo, những công trình nghiên cứu công phu về dòng văn học yêu nước đô thò
miền Nam. Từ khi đất nước hòa bình, thống nhất, những khó khăn khách quan
trên không còn. Nhưng để có được những nhận xét, đánh giá về bất kỳ một hiện
tượng văn học nào cũng cần phải có một độ lùi lòch sử nhất đònh. Việc xem xét,
đánh giá sao cho công bằng thành tựu truyện ngắn cùng đóng góp của những nhà
văn yêu nước trước chính sách xâm lược văn hóa tư tưởng của Mỹ và sự khủng
bố, đàn áp của chính quyền Sài Gòn không phải là việc dễ dàng, khi sự cọ xát
chủ yếu vẫn trên tinh thần văn bản tác phẩm. Dù vậy, người viết luôn mong
muốn góp tiếng nói của mình vào việc giữ gìn di sản văn học dân tộc đã hình
thành và phát triển trong một giai đoạn lòch sử đặc biệt của đất nước. Làm được
điều này, luận án sẽ đáp ứng phần nào nhu cầu tìm hiểu, nghiên cứu của độc giả
về dòng văn học yêu nước đô thò miền Nam (1954 – 1975) nói chung, thể loại
truyện ngắn giai đoạn 1954 – 1965 nói riêng.
2. ĐỐI TƯNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU
2.1.
Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu là truyện ngắn trong dòng văn học yêu nước đô thò
miền Nam từ khi hiệp đònh Genève ký kết (20-7-1954), đất nước tạm chia hai
miền, đến khoảng giữa năm 1965, khi Mỹ ồ ạt đưa quân vào miền Nam Việt
Nam tiến hành chiến tranh cục bộ. Trong khoảng thời gian đó, tình hình văn học
có những biến chuyển phù hợp với thực tế đấu tranh yêu nước bước sang một giai
đoạn mới. Vấn đề chủ yếu luận án tập trung khảo sát chính là nội dung yêu nước,
tinh thần nhân văn và hình thức tự sự linh hoạt, hiện đại đã làm nên vò trí truyện
ngắn như một thể loại văn xuôi nghệ thuật giàu sức sống và được ưa chuộng
trong bức tranh văn học yêu nước đô thò miền Nam 1954 - 1965.
4



Ở đây, khái niệm “yêu nước” thể hiện nội dung, tính chất, nét độc đáo của
dòng văn học cần được xác đònh để làm rõ đối tượng nghiên cứu của luận án. Là
sản phẩm nghệ thuật thể hiện sức mạnh tình cảm và trí tuệ nhân dân, văn học
yêu nước đô thò miền Nam ra đời từ ngòi bút của những con người ở nhiều vò trí
và hoàn cảnh sống khác nhau, trực tiếp hoặc gián tiếp chòu ảnh hưởng của cách
mạng và kháng chiến. Họ có thể là cán bộ kháng chiến “nằm vùng” hay người
công dân yêu nước bình thường, đồng tình với cộng sản hay không, đứng trên lập
trường cách mạng hay lập trường dân tộc…; những gì họ viết ra phải làm sao
vượt qua được chế độ kiểm duyệt của chính quyền nhằm cổ vũ hòa bình, chống
chiến tranh xâm lược, khơi dậy truyền thống quật cường, khích lệ tinh thần dân
tộc, tình đoàn kết yêu thương giống nòi. Tùy thực tế diễn biến chính sách xâm
lược của Mỹ, sự khủng bố đàn áp của nhà cầm quyền, sự chỉ đạo của Đảng (đối
với những nhà văn cách mạng hoạt động công khai), phong trào đấu tranh của
nhân dân đô thò, mà mỗi người tự xác đònh nội dung yêu nước và hình thức thể
hiện các sáng tác của mình sao cho phù hợp. Như vậy, dù mức độ có khác nhau,
tác phẩm của họ vẫn mang hơi thở nhân dân, sức sống dân tộc, thấm đượm tình
yêu quê hương đất nước và tinh thần nhân văn.
2.2.
Phạm vi nghiên cứu
Xác đònh phạm vi nghiên cứu 11 năm đầu (1954 – 1965) hình thành và phát
triển của truyện ngắn trong dòng văn học yêu nước đô thò, người viết căn cứ vào
những biến đổi của tình hình văn học đồng hành với những đổi thay của bối cảnh
xã hội - chính trò, văn hóa - tư tưởng diễn ra ở miền Nam trong thời gian này.
Mốc 1965 là thời điểm bộ mặt xâm lược của Mỹ hoàn toàn lộ diện khi quyết
đònh can thiệp sâu bằng quân sự. o tưởng về một nền dân chủ, tự do kiểu
phương Tây nhanh chóng tan biến trong nhận thức của nhiều người dân thành thò.
Đây cũng là thời điểm của những cao trào chống Mỹ công khai, trực diện trên
5



văn đàn đô thò. Cuộc “đụng đầu” lòch sử này đã phát huy cao nhất tư cách công
dân và phẩm chất nghệ só trong mỗi nhà văn yêu nước. Những ai có lương tâm và
lương tri đều tìm cách cất lên tiếng nói “tự tình dân tộc” bằng phương tiện sẵn có
của mình, bất chấp sự đàn áp của chính quyền. So với trước đó, sự biến đổi của
dòng văn học diễn ra rõ nhất ở phương diện thi pháp thể loại, thể hiện qua nghệ
thuật xây dựng hình tượng, kết cấu, không gian, thời gian, ngôn từ… Đây cũng là
lúc văn học chính thống của chế độ nhận được sự chi viện mạnh mẽ từ chính sách
xâm lược của Mỹ và sự hỗ trợ tích cực, bền bỉ từ chính quyền Sài Gòn.
Tuy vậy, cần phải thấy rằng, chính trong hoàn cảnh khó khăn của cuộc đấu
tranh yêu nước, nhất là từ 1954 đến 1960, mà mỗi thành tựu của dòng văn học
yêu nước đô thò miền Nam giai đoạn 1954 – 1965 đều mang trong nó ý nghóa và
giá trò riêng vượt lên từ hoàn cảnh khủng bố, đàn áp khốc liệt của chính quyền
được Mỹ gầy dựng và không ngừng củng cố. Đó là lúc lực lượng sáng tác chưa
đông. Sự hậu thuẫn của nhân dân chưa thật mạnh mẽ. Phong trào yêu nước chưa
có chỗ dựa vững chắc là các vùng giải phóng như giai đoạn sau. Niềm mơ ước
của nhân dân miền Nam về một nước Việt Nam hoà bình, độc lập, thống nhất
hình thành từ quyền tự quyết của nhân dân hai miền theo tinh thần hiệp đònh
Genève tuy còn, nhưng đã trở nên mờ nhạt từ cuối 1956 trở đi. Cảm hứng yêu
nước, chống ngoại xâm chưa thể có được khí thế hừng hực, nóng bỏng của giai
đoạn sau. Cách viết biểu tượng hai mặt trở thành phổ biến, khác lối viết trực diện
sau này…
Hình thành và phát triển từ thực tiễn đấu tranh của nhân dân, truyện ngắn
trong dòng văn học yêu nước đô thò miền Nam giai đoạn 1954 – 1965 gắn liền với
tên tuổi của những nhà văn tiêu biểu như Lý Văn Sâm, Thẩm Thệ Hà, Trang Thế
Hy, Lê Vónh Hòa, Viễn Phương, Tô Nguyệt Đình, Sơn Nam, Vũ Hạnh, Bình
Nguyên Lộc, Võ Hồng, Nguyễn Văn Xuân, Vân Trang, Lưu Nghi, Nhất Tiếu,
6


Phan Du, Lê Văn, Thiên Giang, Võ Đình Cường, Lê Quang Vònh… Độc giả tìm

thấy sáng tác của họ đăng trên báo chí tiến bộ hoặc không hẳn tiến bộ đương
thời. Dù nhà văn luôn tìm mọi cách vừa viết vừa “lách” để tránh sự kiểm duyệt
gắt gao, vẫn có nhiều truyện ngắn không thể vượt qua được “chế độ Hốt - Cắt -
Đục” (từ của Nguyễn Ngọc Lan) [400, tr. 490] của chính quyền Sài Gòn. Hệ quả
đưa đến là truyện bò đục bỏ, báo chí đăng tải bò tòch thu tiêu hủy, tòa soạn bò
đóng cửa, thậm chí cảnh bắt bớ, tù đày ập đến cho người viết. Điều này khiến
việc sưu tầm tư liệu gặp không ít khó khăn. Ngoài ra, trong trận tuyến đấu tranh
lâu dài và phức tạp, sáng tác văn học nói chung, truyện ngắn nói riêng xuất hiện
rất đa dạng. Vì thế, việc tập hợp cũng không được dễ dàng. Nhiều báo chí trước
đây hay đăng những sáng tác truyện ngắn còn lại đến nay thường không liên tục
các số trong năm, hay giữa các năm với nhau. Lý do có thể do điều kiện bảo
quản của thư viện chưa thật tốt, và một phần bò hủy sau ngày 30 - 4 - 1975. Mặc
dù vậy, người viết vẫn hết sức cố gắng tập hợp càng nhiều càng tốt khối lượng
truyện ngắn của trên 40 tác giả đăng ở 12 tờ báo chí tiêu biểu xuất hiện hợp pháp
từ 1954 đến 1965, gồm Nhân Loại, Duy Tân, Điện Báo, Công Lý, Tiểu Thuyết
Thứ Bảy, Bách Khoa, Vui Sống, Mã Thượng, Tiếng Chuông, Mai, Văn, Văn Học
hiện lưu giữ (tuy không đầy đủ) trong các thư viện lớn ở Thành phố Hồ Chí Minh;
sưu tầm một số tập truyện ngắn xuất bản trước 1975 (để đối chiếu); bổ sung số
truyện ngắn đăng trên Bách Khoa được đưa lên mạng internet… Đó là lý do luận
án có nhiều đơn vò tài liệu tham khảo. Trong phạm vi nội dung nghiên cứu, luận
án đề cập đến hơn 20 tác giả tiêu biểu. Những tác giả khác, người viết xem là
phần đóng góp tài liệu nghiên cứu về dòng văn học này.
Có phần thuận lợi khi gần đây các tuyển tập (cùng lời giới thiệu) Lê Vónh
Hòa, Võ Hồng, Bình Nguyên Lộc, Lý Văn Sâm, Nguyễn Văn Xuân; sách viết về
thân thế, sự nghiệp Dương Tử Giang, Lý Văn Sâm, Thẩm Thệ Hà đã ra mắt độc
7


giả. Nhiều tập truyện ngắn Vũ Bằng, Vũ Hạnh, Trang Thế Hy, Sơn Nam, Viễn
Phương, Võ Hồng… được in hoặc tái bản. Bài viết về những nhà văn dòng văn

học yêu nước đô thò miền Nam thỉnh thoảng xuất hiện trên báo, tạp chí. Hồi ký
Sơn Nam, Vũ Hạnh; sách viết về văn hóa, văn học và phong trào đấu tranh đô thò
lần lượt ra đời. Vài luận văn thạc só chọn đề tài về Bình Nguyên Lộc, Sơn Nam.
Một số bài viết về văn học đô thò đăng trên Tạp chí Văn học trước đây được đưa
lên mạng internet… Nguồn tư liệu khác người viết có được qua tiếp xúc, phỏng
vấn các nhà văn (Sơn Nam, Vũ Hạnh, Viễn Phương, Nhất Tiếu, Thẩm Thệ Hà,
Đinh Bằng Phi…), gia đình nhà văn và một số nhà nghiên cứu về Tô Nguyệt
Đình, Lý Văn Sâm, Dương Tử Giang… Tất cả được xem là phạm vi tư liệu
nghiên cứu của luận án.
Do tính liên tục của quá trình phát triển văn học đô thò, những ảnh hưởng tác
động qua lại giữa các dòng văn học, nên trong quá trình triển khai, luận án có so
sánh một số tác phẩm khác cùng hay không cùng giai đoạn để làm nổi bật nội
dung đề tài.
3. LỊCH SỬ NGHIÊN CỨU VẤN ĐỀ
Có thể chia làm hai chặng: trước và sau năm 1975, khi đề cập đến những bài
viết, công trình nghiên cứu, phê bình có liên quan đến truyện ngắn trong dòng
văn học yêu nước đô thò miền Nam giai đoạn 1954 – 1965.
3.1.
Trước 1975

3.1.1. Những năm đầu sau 1954, trong không khí văn học đô thò miền Nam
thưa thớt những bài viết phê bình, năm 1960, trên tạp chí Bách Khoa ở mục
“Điểm sách”, lần đầu tiên Cô Phương Thảo (tức Vũ Hạnh) đã có những bài viết
về các tập truyện ngắn: Cô gái xóm nghèo (Văn Hữu Á Châu, 1959) của Phan
Du [429], Ký thác (Bến Nghé, 1960) của Bình Nguyên Lộc [430], Cái bong bóng
lợn (Nam Chi Tùng Thư, 1961) của Phan Văn Tạo [431]. Ở mỗi tập truyện, tác
8


giả đều có những nhận xét khái quát về giá trò nội dung và nghệ thuật, những ưu

và nhược điểm trong phong cách nhà văn, trước khi rút ra kết luận. Chẳng hạn
viết về Phan Du và tập truyện Cô gái xóm nghèo, Cô Phương Thảo ghi nhận:
“Những đề tài lớn nhất phải làm băn khoăn mọi người cầm bút chân chính ở
trong thời đại chúng ta đã được Phan Du đề cập, từ sự chống đối những quan
niệm chính trò phi nhân đến sự phát huy những cái hay cái đẹp thời xưa, từ một
yêu cầu xây dựng xã hội đến sự thống nhất đất nước” [429, tr. 101-102]. Ngoài
ra, còn phải kể thêm những bài tổng kết tình hình văn học Sài Gòn hằng năm trên
tạp chí Bách Khoa được đông đảo người đọc chờ đợi, rải rác tác giả có đề cập
đến những sáng tác truyện ngắn trong dòng văn học yêu nước ở các đô thò.
3.1.2. Những tập truyện ngắn của các tác giả yêu nước có tên tuổi tiếp tục
được các cây bút phê bình quan tâm. Trên tạp chí Mai, lần lượt các số 3, 4, 6 năm
1960, Nguyễn Văn Xuân có loạt bài phê bình về các tập: Hoài cố nhân (Ban Mai,
1959) của Võ Hồng [500], Cô gái xóm nghèo (Văn Hữu Á Châu, 1959) của Phan
Du [501], Ký thác (Bến Nghé, 1960) của Bình Nguyên Lộc [502]. Trên cơ sở đó,
ông viết một bài tìm hiểu thực trạng truyện ngắn đô thò lúc bấy giờ [503]. So sánh
giữa truyện ngắn Bình Nguyên Lộc và Phan Du, tác giả nhận xét: “Nội dung
truyện ngắn của ông, cũng như của Phan Du hướng về Chân – Thiện – Mỹ cổ
điển. Ông khác Phan Du ở chỗ ít lý luận, phát triển dài dòng (tôi nói ít hơn thôi).
Nhưng ông lại thích đá thêm những lý luận vẩn vơ theo lối nghệ só rẻ tiền, triết lý
rẻ tiền…” [502, tr. 19]. Đưa ra nhận đònh về hiện trạng truyện ngắn, ông cho
rằng: “Trong bốn tập truyện ngắn tôi mới phê bình (…) ấn hành không cách biệt
lắm về thời gian, đã chứng tỏ phong trào truyện ngắn có lên phần nào trong cái
trầm lặng từ lâu của nó” [503, tr. 13]. Ngoài ra, Nguyễn Văn Xuân còn đề cập
đến những vấn đề có liên quan đến lónh vực sáng tạo của các nhà văn đương thời
như: “Mối băn khoăn lớn của các nhà văn hiện nay là luôn luôn tìm thấy mâu
9


thuẫn trong hình thức và nội dung; giữa vấn đề trong truyện, và cách kết cấu. Bởi
nhà văn thường tìm vấn đề xây dựng nhân vật, quan sát sự việc, tìm chất liệu

trước rồi mới đặt cốt truyện sau…” [503, tr. 18]. Ở vùng đô thò miền Nam trước
năm 1975, Vũ Hạnh và Nguyễn Văn Xuân đều là những cây bút truyện ngắn nổi
tiếng. Xuất phát từ sự am tường công việc “bếp núc” của nhà văn, những bài
nhận xét phê bình của hai ông rất được độc giả chú ý.
3.1.3. Một cây bút lý luận - phê bình văn học xông xáo, quen thuộc với
độc giả miền Nam nữa, là Lữ Phương. Trước khi ra vùng giải phóng (1968), ông
là tác giả của nhiều bài tiểu luận, phê bình văn hóa, văn học đô thò đăng trên
Bách Khoa, Đất nước, Tin Văn xuất bản ở Sài Gòn. Tháng 10-1972, từ vùng giải
phóng miền Nam, ông viết bài “Mấy suy nghó về một chiều hướng phát triển mới
trong văn học thành thò miền Nam” gởi đăng Tạp chí Văn học (Hà Nội), số 5-
1974. Trong bài viết, sau khi phê phán dòng văn chương chống cộng của một số
người từng làm mưa làm gió thời Ngô Đình Diệm đến thời điểm ấy vẫn còn tồn
tại như Mai Thảo, Võ Phiến, Doãn Quốc Sỹ, Nguyễn Mạnh Côn…; vạch trần
chính sách xâm lăng văn hóa của Mỹ; ông đưa ra những nhận xét về thái độ phản
ứng tự phát của một số cây bút lớp trước và lớp trẻ đối với cuộc chiến tranh xâm
lược, đồng thời nêu lên thực trạng: “hiện tượng một tờ báo bò tòch thu, một tác giả
bò đưa ra tòa vì một truyện ngắn, một bút ký, một bài thơ đã trở thành hiện tượng
phổ biến trong sinh hoạt chữ nghóa ở Sài Gòn” [360, tr. 20]. Dù chủ yếu đề cập
đến chiều hướng phát triển mới của văn học thành thò, bài viết vẫn có những
đoạn viết về dòng văn học yêu nước tiến bộ. Đáng chú ý là hiện tượng “trở về
nguồn” xuất hiện trong “văn chương phản chiến” được tác giả nhìn nhận “đó là
sự thức tỉnh của tinh thần dân tộc trước sự tàn phá của văn hóa đế quốc” [360, tr.
22]; là khuynh hướng thoát ra khỏi không gian đô thò quen thuộc để viết về những
người lao khổ đông đảo, và gần đây “Hình tượng những người nông dân ở các
10


vùng tranh chấp được miêu tả khá chân thật trong một số truyện ngắn” [360, tr.
22-23]. Theo ông, vẫn còn có nhiều truyện ngắn miêu tả người nông dân “đều là
những kẻ cần cù, ước mơ được sống yên ổn với vườn, đất của mình; nhưng để

sống yên ổn như thế, họ thường là những con người thụ động, mồm luôn luôn
trách móc AK lẫn M.16 như chính những người đã đưa họ vào tác phẩm” [360, tr.
23]. Từ đó, tác giả đặt vấn đề cần phải “chọn lựa” trong tình hình có phần không
đơn giản là “theo xâm lược, đồng lõa với xâm lược, hay chống lại xâm lược”, mà
nếu “Không làm rõ được thực chất vấn đề ấy, người cầm bút khi mô tả về hiện
thực cuộc chiến này dễ lẫn lộn mọi thứ phải trái, trắng đen” [360, tr. 23].
3.1.4. Ngoài những trang viết của Lữ Phương từ vùng giải phóng miền Nam
gởi ra Bắc, bạn đọc miền Bắc và vùng giải phóng miền Nam còn có điều kiện
hiểu biết ít nhiều về dòng văn học yêu nước đô thò miền Nam nói chung, truyện
ngắn giai đoạn 1954 – 1965 nói riêng, qua một số bài viết của những nhà nghiên
cứu văn học sống và viết ở miền Bắc như Nguyễn Đức Đàn, Thạch Phương, Bùi
Công Hùng, Nguyễn Đức Nam, Chu Nga, Phan Đắc Lập… Xuất phát từ ý thức
của người cầm bút trước yêu cầu của cuộc đấu tranh cam go đương thời, người
đọc dễ dàng tìm thấy nhiều bài viết tập trung phê phán những đặc điểm của văn
học thực dân mới trước năm 1975, hơn là viết về một thể loại văn học cụ thể như
truyện ngắn trong dòng văn học yêu nước đô thò miền Nam chẳng hạn. Mặc dù
vậy, đây đó người đọc vẫn có thể tìm thấy những nội dung liên quan đến dòng
văn học này. Bùi Công Hùng trong bài viết về “Một thứ văn chương vì mục đích
đồng tiền”, sau khi nêu lên nguyên nhân bế tắc, phá sản của dòng văn học chống
cộng là do “sự nghèo nàn về nội dung tư tưởng và hình thức nghệ thuật, vì xuyên
tạc sự thật, chân lý” [178, tr. 45] đã liên hệ đến dòng văn học “có ít nhiều yếu tố
tích cực, tiến bộ thì bò đàn áp, bò bao vây, bò gây nhiều khó khăn” [178, tr. 45].
Thực tế đó, theo tác giả, đã khiến cho “Những nhà văn còn có suy nghó, có lương
11


tâm thì gặp phải bế tắc trên đường đi tìm ý nghóa cho cuộc sống và trên đường đi
tìm cái mới trong sáng tạo nghệ thuật” [178, tr. 45].
3.1.5. Ở một phương diện khác, khi đề cập đến phương thức phản ánh hiện
thực của các nhà văn yêu nước trước và sau khi chế độ Ngô Đình Diệm sụp đổ,

nhất là từ khi hơn nửa triệu quân Mỹ ồ ạt kéo vào miền Nam, Nguyễn Đức Đàn
trong bài viết “Những diễn biến mới trong văn học miền Nam vùng tạm bò chiếm
những năm gần đây” (Tạp chí Văn học, số 7-1969), đã có sự so sánh cụ thể sự
khác nhau giữa lối viết trước đây “thường phải vay mượn các câu chuyện cổ hoặc
các câu chuyện nước ngoài (chuyện kháng chiến An-giê-ri, chuyện nhân dân ta
kháng chiến chống Pháp, chuyện cổ Trung Quốc…) để ám chỉ một cách xa xôi
bóng gió những câu chuyện thời sự” [43, tr. 64] với lối viết hiện thời “hầu hết đều
lấy đề tài trực tiếp từ cuộc sống trước mắt. Những phóng sự, truyện ngắn, bút ký,
ký sự thuộc khuynh hướng này phần nhiều đều tập trung xung quanh chủ đề: tố
cáo những cảnh sa đọa, xấu xa trong sinh hoạt xã hội do đế quốc Mỹ gây ra,
những tác hại của đồng đô la, của lối sống Mỹ, tố cáo những bọn làm giàu trên
xương máu đồng bào, những cảnh bất công đầy rẫy…” [43, tr. 64].
3.1.6. Trong bối cảnh văn học cách mạng miền Bắc và văn học giải phóng
miền Nam gặt hái được nhiều thành tựu, tiếp tục quan tâm đến truyện ngắn và
dòng văn học yêu nước đô thò miền Nam, trên Tạp chí Văn học số 5-1974, Chu
Nga có bài viết: “Lê Vónh Hòa, vò trí của anh trong nền văn xuôi cách mạng miền
Nam”. Trước khi viết về mảng sáng tác trong vùng giải phóng của nhà văn, tác
giả bài viết đã đề cập đến một loạt truyện ngắn xuất hiện trong vùng tạm chiếm
(1956-1958) như Vang bóng, Áo vải tim vàng, Nước cạn, Trảm Trònh Ân, Trăng
lu, và nhận xét: “Bảo vệ hồn dân tộc, bảo vệ những truyền thống tốt đẹp của cha
ông là một chủ đề nổi bật trong sáng tác của Lê Vónh Hòa” [317, tr. 72]. Về nghệ
thuật truyện ngắn Lê Vónh Hòa, Chu Nga cho rằng: “… vẽ lên trước mắt ta những
12


bức tranh của dó vãng quen thuộc dòu dàng với những cảnh và người mà cho đến
nay mỗi chúng ta còn ghi nhớ. Đó là một thủ pháp nghệ thuật của Lê Vónh Hòa,
một cách phê phán bóng gió mà hoàn cảnh của miền Nam những năm đen tối đã
bắt buộc anh phải dùng” [317, tr. 72]. Trên cơ sở đó, theo tác giả, “ thủ pháp nghệ
thuật bắt buộc này lại như khiến cho sức phê phán của ngòi bút nhà văn càng trở

nên sâu xa thấm thía. Bởi nó không chỉ khơi dậy trong ta lòng căm thù phẫn uất,
mà nó còn gợi lên trong ta biết bao tình cảm yêu thương” [317, tr. 72].
Bên cạnh Tạp chí Văn học - tạp chí chuyên ngành nghiên cứu, lý luận, phê
bình văn học - bạn đọc miền Bắc trước năm 1975 còn có thể tìm thấy một số bài
viết về dòng văn học yêu nước đô thò miền Nam nói chung, truyện ngắn nói riêng
trên Tạp chí Văn nghệ Quân đội, Tuần báo Văn nghệ (của Hội Nhà văn Việt
Nam), Tuần báo Thống nhất (của Ủy ban Thống nhất Trung ương). Rất tiếc,
người viết chưa có điều kiện tiếp xúc với nguồn tài liệu hiếm hoi và bổ ích này.
3.2.
Sau 1975

Hòa trong niềm vui chung của nhân dân cả nước về sự thống nhất Tổ Quốc
là niềm vui gặp gỡ của những nhà văn, nhà nghiên cứu, lý luận, phê bình văn học
ở hai miền Nam – Bắc. Nhiều “món nợ” văn chương trước đây vì hoàn cảnh đất
nước chia cắt chưa thể trả, thì giờ đây, theo thời gian đã được trả dần. Riêng thể
loại truyện ngắn trong dòng văn học yêu nước đô thò miền Nam, đây đó một vài
công trình có đề cập đến.
3.2.1. Trước hết, phải kể đến tập truyện ngắn xuất hiện vào loại sớm nhất:
Bút máu của Vũ Hạnh - một nhà văn hoạt động đơn tuyến, công khai trong lòng
đô thò miền Nam trước năm 1975 - do nhà xuất bản Văn học, Hà Nội, in năm
1986, dày 267 trang, khổ 13x19cm. Sau khi điểm qua những truyện ngắn tiêu
biểu như Bút máu, Chất ngọc, Người nữ tỳ, Những giọt mồ hôi, Tô cháo lòng,
Người chồng thời đại, Mụ Tư Cò, Con thằn lằn, Thay đổi, Núi rừng bất khuất,
13


trong “Lời nói đầu” nhà xuất bản cho rằng: “Những tác phẩm của nhà văn trong
giai đoạn này là đóng góp đáng quý cho phong trào văn hóa tiến bộ và cách
mạng” [116, tr. 5-6].
3.2.2. Cuối năm 1986, đáp ứng lòng mong đợi từ lâu của độc giả, nhà xuất

bản Cửu Long đã cho ra đời tuyển tập truyện ngắn của nhiều tác giả thuộc dòng
văn học yêu nước đô thò miền Nam giai đoạn 1954 - 1975, quyển Mùa xuân chim
én bay về, dày 214 trang, khổ 13x19cm. Viết “Lời giới thiệu”, Huỳnh Như
Phương nhận xét: “Hai mươi năm, một dòng văn học yêu nước đã ra đời và phát
triển ngay bên trong những chấn song của một nhà tù lớn là xã hội miền Nam
dưới chế độ Mỹ – ngụy… Trong dòng văn học đó, truyện ngắn giữ vò trí của một
thể văn xung kích và đã đạt được những thành tựu rất đặc sắc [359, tr. 5]. Sách
giới thiệu 15 truyện ngắn tiêu biểu của 15 tác giả. Có những tên tuổi quen thuộc
với độc giả trong giai đoạn đầu (1954 – 1965) như Lê Vónh Hòa, Viễn Phương, Tô
Nguyệt Đình, Sơn Nam, Võ Hồng, Vũ Hạnh… Bên cạnh là một loạt cây bút trẻ ở
giai đoạn sau (1965 – 1975) như Trần Phước Nguyện, Võ Trường Chinh, Hàng
Chức Nguyên, Ngụy Ngữ, Huỳnh Ngọc Sơn, Tiêu Dao Bảo Cự Những truyện
ngắn của họ, qua cái nhìn của người trong cuộc như Huỳnh Như Phương (trước
1975, ký bút danh Trùng Hư), “không phải là những sản phẩm văn chương “thuần
túy”, đây là tâm huyết, là mồ hôi và nước mắt của các nhà văn. Để trung thành
với sự thật đời sống, để không bẻ cong ngòi bút, các tác giả đã phải trả giá đắt,
người thì bò kẻ thù theo dõi, người thì bò bắt bớ, tù đày” [359, tr. 11].
3.2.3. Năm 1997, sau hơn hai mươi năm giải phóng miền Nam, thống nhất
đất nước, một công trình do nhiều cá nhân (Viễn Phương, Đinh Quang Nhã, Võ
Ngọc An, Hồng Duệ, Nguyễn Kim Hoa) tham gia tuyển chọn và nhiều cơ quan
(Nhà xuất bản Văn nghệ, Hội Liên hiệp văn học nghệ thuật, Trung tâm Thông tin
triển lãm thuộc Sở Văn hóa thông tin Thành phố Hồ Chí Minh) hợp lực xuất bản,
14


nhan đề Văn học yêu nước tiến bộ – cách mạng trên văn đàn công khai Sài Gòn
1954 –1975, dày 593 trang, khổ 18x24cm, đã chọn in lại nhiều tác phẩm tiêu biểu
thuộc nhiều thể loại (thơ, truyện ngắn, tiểu luận, phê bình văn học) của 65 tác giả
khác nhau. Nhận đònh về dòng văn học này, trong bài giới thiệu đầu sách: “Văn
học yêu nước – tiến bộ – cách mạng trên văn đàn công khai Sài Gòn 1954 –

1975”, Trần Trọng Đăng Đàn xem đây là “một bộ phận quan trọng và độc đáo có
ý nghóa lớn của dòng văn hóa, văn nghệ cách mạng – yêu nước – tiến bộ tại các
vùng bò đòch tạm chiếm ở Nam Việt Nam”, đồng thời khẳng đònh rằng: “Bộ phận
văn học này rất xứng đáng và rất đầy đủ tư cách để cùng với bộ phận văn học
bán công khai, không công khai; bên cạnh văn học giải phóng miền Nam đi vào
lòch sử văn học như là một điểm son, một niềm tự hào của văn hóa, văn nghệ
Việt Nam thời hiện đại” [348, tr. 11]. Bên cạnh nêu bật những cố gắng của hội
đồng tuyển chọn, tác giả bài viết còn cho độc giả thấy được thực tế khó khăn
trong việc tập hợp sách báo, tài liệu để quyển sách ra đời, mà theo ông “cũng chỉ
mới phản ánh được một phần nhỏ và còn sơ lược so với tất cả những gì đã làm
nên dòng văn học yêu nước - tiến bộ - cách mạng trên văn đàn công khai 1954 –
1975” [348, tr. 12].
3.2.4. Công trình khá dày dặn khác là Đòa chí văn hóa Thành phố Hồ Chí
Minh, gồm bốn tập, khổ 19x27cm, nhà xuất bản Thành phố Hồ Chí Minh, 1998.
Bộ sách ra mắt bạn đọc nhân “Kỷ niệm 300 năm Sài Gòn – Thành phố Hồ Chí
Minh”, do GS. Trần Văn Giàu và Trần Bạch Đằng chủ biên, soạn cùng với nhiều
tác giả khác. Ở đây, chúng tôi chỉ đề cập đến Tập II: Văn học – Báo chí – Giáo
dục, dày 868 trang. Trong bài viết “Văn học yêu nước công khai ở Sài Gòn trong
30 năm cách mạng và kháng chiến” do Tầm Vu, Nguyên Thanh, Viễn Phương,
Hồ Só Hiệp và Trần Hữu Tá biên soạn, ở phần II: “Văn học công khai Sài Gòn và
các thành thò miền Nam giai đoạn 1954 – 1975”, các tác giả đã đề cập đến “một

×