Tải bản đầy đủ (.doc) (46 trang)

Đạo đức luật sư trong thời kỳ mới

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (289.02 KB, 46 trang )

Đạo đức luật sư trong thời kỳ mới
LỜI CẢM ƠN
Đây là báo cáo khoa học của nhóm năm người chúng tôi. Đây thực
sự là sản phẩm lao động miệt mài mà chúng tôi đã cố gắng có được. Nhưng
chỉ dựa vào sự gắng sức thì chưa đủ. Nếu không có sự giúp đỡ của mọi
người thì chúng tôi không thể có sản phẩm này.
Người đẩu tiên chúng tôi muốn gửi lời cảm ơn đó chính là GS.TS.
Hoàng Thị Kim Quế, người đã tận tình hướng dẫn chúng tôi thực hiện đề tài
từ những bước nhỏ nhất. Xin gửi lời chúc tốt đẹp nhất tới cô.
Xin gửi lời cảm ơn tới ĐHQG, Khoa luật và bộ môn LLNNPL đã tạo
cơ hội, điều kiện cho chúng tôi thực hiện đề tài này, đây thực sự là một hoạt
động rất bổ ích cho sinh viên. Hi vọng rằng sẽ có nhiều hoạt động nghiên
cứu khoa học hơn nữa được phát động để sinh viên có nhiều cơ hội làm
quen và thử sức, xây dựng đam mê nghiên cứu khoa học.
Xin cám ơn những nhân viên thư viện của Học viện tư pháp đã tạo
điều kiện cho chúng tôi sử dụng tài liệu để viết lên báo cáo này.
Và xin cám ơn tất cả những người đã giúp đỡ chúng tôi hoan thành
báo cáo này. Xin chúc mọi người hạnh phúc và công tác tốt.
Xin chân thành cám ơn.
1
Đạo đức luật sư trong thời kỳ mới
MỞ ĐẦU
1.Tính cấp thiết của đề tài
Xã hội ngày càng phát triển, đặc biệt là sự phát triển mặt kinh tế
đã làm thay đổi đáng kể bộ mặt xã hội trong đó có yếu tốvăn hóa pháp lý.
Việc hội nhập và phát triển kinh tế tạo cơ hội cho nhiều ngành nghề phát
triển, trong đó có nghề luật sư. Việc hội nhập kinh tế giao thương vói
nước ngoài làm nảy sinh những nhu cầu,đòi hỏi nhiều hơn từ giới luật sư.
Gia nhâp Tổ chức thương mại thế giới WTO, phải chập nhận luật chơi xứ
người, nhiều doanh nghiệp VN đã vấp phải những khó khăn pháp lý, phải
đương đầu những vụ kiện bán phá giá, kiện bản quyền, nhiều doanh nghiệp


đã tỏ ra bỡ ngỡ và thường là thất bại. Vụ kiện cá tra,cá basa, tranh chấp
thương hiệu cà fe Trung Nguyên, vụ thua kiện của hãng hàng không VN
airline là những minh chứng rõ ràng nhất. Lúc này người ta mới thấy tầm
quan trọng của người luật sư, những người hướng dẫn pháp luật trên con
đường phát triển của nước nhà.
Việt Nam đang trên con đường xây dựng nhà nước pháp quyền, nhà
nước pháp quyền là nhà nước nước coi trọng quyền con người, và một trong sứ
mệnh của luật sư là bảo vệ quyền con người trước công quyền. Qua những vụ
án nhưn vu án “vườn điều”, vụ án Đào Xuân Thế chúng ta có thể thấy luật sư
đứng lên với tư cach là bảo vệ công lý và quyền con người
Với vai trò to lớn đó số lượng luật sư đã có bước phat triển rất
nhanh. So với 186 luật sư vào cuối thâp kỉ 80, tính đến nay cả nước đã có
5800 luật sư đang hành nghề và 2200 luật sư đang thực tập, đội ngũ luật sư
đang được đánh giá phát triển với tốc độ vượt bậc, với tốc độ phát triển đat
250%. Tuy vậy, là một nghề có tốc độ phát triển nhanh nhưng luật sư vẫn
là một nghề non trẻ ở Việt Nam, số lượng không đi đôi với chất lượng ,đặc
biệt là việc xây dựng và thực hiện đao đức nghề luật. Nếu như người luật
sư là “người dẫn đường pháp lý” đi đến hội nhập thì cái gì sẽ dẫn đường
2
Đạo đức luật sư trong thời kỳ mới
cho người luật sư làm đúng nhiệm vụ vủa mình. Đó chính là đạo đức nghề
nghiệp. Nghề luật sư là một trong những nghề đòi hỏi đạo đức nghề nghiệp
rất cao, hoạt động của luật sư liên quan đến lợi ích của nhiều người, có ý
nghĩa quan trọng đối với của một bản án. Đạo đức người luật sư có tầm
quan trọng như vậy nhưng lại chưa nhận được sư quan tâm đúng mức của
nhà nước,của các tổ chức luật sư, chúng ta mới chỉ có Bộ qui tắc mẫu đạo
đức người luật sư đo Bộ tư pháp ban hành. Nhưng những qui tắc đó chỉ
mang tính định hướng, chưa thật sự rõ ràng, nhiều luật sư đã lúng túng khi
gặp các trường hợp cụ thể, dẫn đến vi phạm đạo đức nghề nghiệp.
Chính vì những lí do trên, nhóm chúng tôi mạnh dạn nghiên cứu về

đề tài “Đạo đức người luật sư trong thời kì mới”, hi vọng có thể đóng góp
để đưa ra cái nhìn toàn diện về đạo đức người luật sư ngày nay.
2.Tình hình nghiên cứu đề tài
Trước khi chúng tôi viết báo cáo này, cũng đã có những bài
viết,những báo cáo khoa học của các học giả, luật sư có liên quan đến đề
tài này
- Thạc sĩ Trần Vũ Hải –ĐH Luật Hà Nội với bài viết : “Đạo đức
luật sư- đôi điều suy nghĩ”
- PGS.TS.Lê Hồng Hạnh :”Đạo đức và kĩ năng của luật sư trong
nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa_”
- Hội thảo hợp tác pháp luật Việt Nam – Châu Âu về đạo đức nghề
luật sư.
Và rất nhiều các bài viết khác mà chúng tôi không tiện nêu, báo cáo
khoa học này có tham khảo ý kiến các bài viết, báo cáo trên.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu đề tài
Mục đích của báo cáo này là làm sáng tỏ về lí luận vấn đề “Đạo
đức nghề luật sư trong thời kì mớitừ đó cung cấp cho người đọc những cái
nhìn khái quát và cơ bản về đạo đức nghề luật sư ngày nay. Để thực hiện
được mục đích đó, báo cáo cần thực hiện những nhiệm vụ sau:
3
Đạo đức luật sư trong thời kỳ mới
1. Làm sáng tỏ các khái niệm liên quan tới đạo đức nghề luật sư
2. Chỉ ra được đặc trưng và yêu cầu đạo đức người luật sư trong thời kì
mới, từ đó đưa ra giải pháp nhằm nâng cao đạo đức người luật sư.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu đề tài
Báo cáo khoa học này tạp trung nghiên cứu những lí luận cơ bản về
đạo đức nghề luật sư trong thời kì ngày nay. Và tập trung nghiên cứu các
vấn đề chính sau :
- Các khái niệm cơ bản liên quan đến đạo đức người luât sư
- Đặc trưng của đạo đức người luật sư trong thời kì mới

- Yêu cầu về đạo đức người luật sư trong thời kì mới
- Những biểu hiện đi xuống của đạo đức người luật sư đồng thời
đưa ra giải pháp nhằm nâng cao đạo đức người luật sư
5.Phương pháp nghiên cứu
Khi thực hiện báo cáo này,chúng tôi có sử dụng một số phương
pháp sau
- Phương pháp phân tích.
- Phương pháp đối chiếu so sánh.
6. Những kết quả nghiên cứu
Báo cáo này đã đạt được một số kết quả sau :
- Đưa ra được các khái niệm liên quan đến đạo đức nghề luật sư
- Nêu được vai trò quan trọng của người luật sư, những đặc trưng
về đạo đức người luật sư
- Đưa ra các yêu cầu cơ bản về đạo đức người luật sư
- Nêu và giải thích nguyên nhân các biêu hiện đi xuống của đạo
đức của luật sư. Đồng thời đưa ra giải pháp nhằm nâng cao đạo đức
người luật sư
7. Cơ cấu của báo cáo
4
Đạo đức luật sư trong thời kỳ mới
Ngoài phần mở đầu, báo cáo khoa học này được bố cục thành ba
phần chính
- Chương I : Tổng quan các khái niệm liên quan tới đạo đức nghề luật sư
- Chương II : Đạo đức nghề luật sư ngày nay
- Chương III: Một số biều đi xuống của đạo đức nghề luật sư và giải
pháp nhằm nâng cao đạo đức người luật sư.
Kết thúc cuối báo cáo l phần kết luận và danh mục các tài liệu tham khảo
5
Đạo đức luật sư trong thời kỳ mới
CHƯƠNG I:

TỔNG QUAN KHÁI NIÊM LIÊN QUAN VỀ
NGHỀ LUẬT SƯ TRONG ĐỀ TÀI
1.Nghề luật sư
1.1. Khái niêm
Quan niệm hoạt động luật sư như một nghề nghiệp trong xã hội
không phải đã được thừa nhận trong hệ thống pháp luật thực định ở nước ta
trong suốt một thời gian dài cho đến trước thời điểm ban hành Pháp lệnh
luật sư năm 2001. Thực tế này có căn nguyên về mặt lịch sử và từ quan
niệm chung của xã hội, nhất là khi nước ta trải qua một quá trình lịch sử
dài lâu đấu tranh giành độc lập dân tộc. Về mặt khoa học, khái niệm nghề
luật nói chung và nghề luật sư nói riêng chưa xuất hiện phổ biến trong các
tác phẩm khoa học pháp lý, trong các văn bản pháp quy và đời sống xã hội.
Thực tế, khi đánh giá cả một quá trình lịch sử, thời gian gần đây có ý kiến
nhận định ở Việt Nam, nghề luật cũng được coi trọng, nhất là từ sau năm
1945 và hệ thống văn bản về nghề và hành nghề luật đã tương đối hoàn
chỉnh. Ý kiến này tuy có cơ sở lịch sử của nó, nhưng chưa phản ánh được
bản chất và nội hàm hoàn chỉnh của khái niệm nghề luật sư. Chỉ vào cuối
năm 2001, khi ban hành Pháp lệnh luật sư mới, Trường Đào tạo các chức
danh tư pháp thuộc Bộ Tư pháp mới mở khóa đầu tiên chính thức đào tạo
luật sư. Khi bàn tới khái niệm nghề luật sư, về phương diện lý luận, cần đặt
nó trong bối cảnh so với các nghề nghiệp khác của xã hội, các giá trị,
chuẩn mực nghề nghiệp và vị trí, vai trò của nó trong sự phát triển của xã
hội. Có ý kiến quan niệm việc hành xử chức năng luật sư như là một thiên
chức (mission) hơn là một nghề nghiệp (profession) để mưu sống. Trên
một bình diện khác, có tác giả cho rằng chưa có sự chính xác về mặt ngôn
ngữ khi sử dụng cụm từ “nghề luật sư” hay “nghề nghiệp luật sư” và “hành
nghề luật sư”, vì “luật sư” là một danh từ chỉ người, chứ không phải dùng
để chỉ một nghề (trong tiếng Anh người ta dùng “lawyer” để chỉ luật sư và
6
Đạo đức luật sư trong thời kỳ mới

“practice law” để chỉ hành nghề luật). Tuy nhiên, việc sử dụng cụm từ nói
trên là phù hợp với thực tiễn của Việt Nam và phù hợp với Pháp lệnh luật
sư. Hoạt động luật sư trong cơ chế thị trường được coi là một loại hình dịch
vụ nghề nghiệp, được điều chỉnh bằng các đạo luật về hành nghề luật sư và
các luật lệ về kinh doanh. Tuy nhiên, giữa các nước theo hệ thống tập quán
pháp và các nước theo hệ thống luật thành văn có những điểm khác nhau
trong quan niệm về nghề luật sư. Các nước theo tập quán pháp coi nghề
luật sư là một nghề kinh doanh, nhưng thuộc loại hình kinh doanh đặc biệt;
còn các nước theo hệ thống luật thành văn nhìn chung coi hoạt động luật sư
là một trong những nghề tự do (luật sư, công chứng, kiểm toán, bác sỹ,
kiến trúc sư…). Ngày nay, theo một quan điểm được đa số các nhà nghiên
cứu pháp luật ủng hộ, “có đầy đủ lý do để khẳng định rằng luật sư là một
nghề cao quý trong xã hội và càng được tôn vinh trong điều kiện xây dựng
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân, phấn đấu
xây dựng xã hội công bằng, dân chủ văn minh”.
Tuy nhiên, xác định hoạt động luật sư như là một nghề cao quý
không thể thiếu trong xã hội và cơ chế pháp lý điều chỉnh hoạt động nghề
nghiệp này như thế nào vẫn đang là những vấn đề lý luận và thực tiễn pháp
lý cần nghiên cứu thấu đáo nhằm đưa ra các giải pháp cho sự hoàn thiện và
phát triển của nghề luật sư. Trước hết, hiện nay trong một số văn kiện của
Đảng và pháp luật của Nhà nước, hoạt động luật sư được coi là hoạt động
“bổ trợ tư pháp” . Quan niệm này xuất phát từ thực tiễn là hành nghề của
luật sư thường gắn rất chặt với hoạt động tư pháp mà trọng tâm là hoạt
động xét xử của Tòa án. Vì thế, tổ chức nghề nghiệp của luật sư (Đoàn,
Hội luật sư) thường được thành lập trong phạm vi thẩm quyền tài phán của
một Tòa án địa phương theo công thức: Tòa án địa phương/ Đoàn luật sư
địa phương/ luật sư địa phương. Cũng vì lý do đó mà nhiều nước trên thế
giới, trong đó có Việt Nam đã coi luật sư là một hoạt động “bổ trợ tư
pháp”5. Trong hệ thống các quy định pháp luật về tố tụng, luật sư được xác
7

Đạo đức luật sư trong thời kỳ mới
định là “người tham gia tố tụng”, có địa vị pháp lý hoàn toàn khác so với
những người tiến hành tố tụng. Trong khi đó, xét về bản chất thì chức năng
bào chữa tồn tại độc lập và đối trọng với chức năng công tố như là một tất
yếu khách quan tự thân của tranh tụng hình sự. Xét ở một bình diện khác,
một quan điểm rất đáng chú ý là trong luật tố tụng hình sự thực định hiện
hành, chức năng bào chữa không chỉ thuộc về bên bào chữa mà còn thuộc
về cả bên buộc tội và cơ quan xét xử nữa.
Về mặt ngữ nghĩa, khái niệm nghề luật sư bao gồm hai cụm từ: Nghề
với tính chất là một nghề nghiệp và luật sư chỉ những người đủ điều kiện
hành nghề luật sư theo quy định của pháp luật về luật sư. Theo Từ điển
tiếng Việt, nghề là “công việc chuyên làm theo sự phân công của xã hội”
hoặc hiểu theo nghĩa thứ hai là “thành thạo trong một công việc nào đó”.
Nghề nghiệp được hiểu là “nghề nói chung”, còn nghề tự do có nghĩa là
“nghề tự mình làm để sinh sống, không thuộc tổ chức, cơ quan nào7. Nếu
theo giải thích của Từ điển tiếng Việt nêu trên, cách hiểu nghề luật sư như
một nghề tự do lại không hoàn toàn phản ánh đầy đủ bản chất và đặc trưng
của nghề nghiệp này. Luật sư hoạt động trong khuôn khổ của pháp luật và
cùng với việc được cấp chứng chỉ hành nghề, phải đăng ký hoạt động trong
một tổ chức hành nghề luật sư nhất định và sinh hoạt trong một tổ chức xã
hội nghề nghiệp nhất định nơi địa phương mình cư ngụ. nước, luật sư được
coi là một chủ thể độc lập trong hoạt động tư pháp, nhưng họ Mặt khác,
khái niệm “nghề tự do” nói trên mới đặt nặng khía cạnh “kiếm sống” mà
không bao hàm được vị trí, vai trò của nghề nghiệp trong sự phát triển của
xã hội. Trong luật thực định của một số quan niệm tính chất của nghề
nghiệp là tự do. Nói tới tính chất là nói tới thuộc tính cơ bản của một sự
vật, trong trường hợp này, luật sư là chủ thể độc lập trong hoạt động tư
pháp, là người thực thi và truyền bá pháp luật của Nhà nước nên không thể
nói tính chất của nghề nghiệp này là nghề tự do. Tính chất độc lập cần phải
được coi là thuộc tính của nghề nghiệp luật sư, còn nói tới tự do là nói tới

8
Đạo đức luật sư trong thời kỳ mới
phương thức hành nghề tự do của luật sư, như có thời gian và không gian
hoạt động tự do, có quyền tự do lựa chọn khách hàng, không bị những hạn
chế, bó buộc như một công chức Nhà nước.
Từ những phân tích, kiến giải nêu trên, lần đầu tiên chúng tôi khái
quát hóa và định nghĩa khái niệm nghề luật sư như sau: “Nghề luật sư là
một nghề luật, trong đó các luật sư bằng kiến thức pháp luật của mình, độc
lập thực hiện các hoạt động tư vấn pháp lý và bảo vệ quyền lợi hợp pháp
cho cá nhân, tổ chức theo quy định của pháp luật và quy chế trách nhiệm
nghề nghiệp, nhằm mục đích phụng sự công lý, góp phần tích cực bảo vệ
pháp chế và xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa”.
1.2.Vai trò luật sư
Luật sư là một nghề dựa trên sự am hiểu pháp luật và áp dụng pháp
luật. Nghề được hình thành và phát triển song song với hệ thống pháp luật.
Quy phạm pháp luật được hình thành trước hết phải có sự xuất hiện của
nhà lập pháp, người thảo ra các quy phạm đó. Và chính vì tính chuyên môn
cao của pháp luật, nên khó có thể lập luận, chứng minh, đưa ra ý kiến để
bảo vệ quyền lợi của mình trước tòa. Do vậy sự ra đời của luật sư đảm bảo
cho việc bào chữa cho đương sự của mình. Dần dần chức năng của luật sư
cũng thay đổi cho phù hợp với yêu cầu mới của xã hội
• Bảo vệ quyền của bị can, bị cáo và các đương sự trước tòa.
Mỗi quốc gia lại hình thành cho mình một hệ thống lập pháp riêng cùng
với đó là đội ngũ luật sư được tổ chức đa dạng, thực hiện những chức năng
khác nhau nhưng tựu chung lại có một điểm là nghề luật sư mang tính xã
hội, là công cụ hữu hiệu góp phần bảo đảm công lý, công bằng xã hội. Mỗi
người có hàng trăm mối quan hệ mà cuộc sống càng phức tạp sẽ làm nảy
sinh những mâu thuẫn, xung đột. Người luật sư là người am hiểu pháp luật,
có kinh nghiệm trong hoạt động pháp luật sẽ trợ giúp người dân về mặt
pháp lý một cách hiệu quả nhất.

• Tư vấn pháp luật góp phần bảo vệ quyền, lợi ích của cá nhân tổ chức.
9
Đạo đức luật sư trong thời kỳ mới
Càng ngày sự xuất hiện của các tổ chức, cá nhân hoạt động trong
nhiều lĩnh vực như kinh tế, chính trị, xã hội đòi hỏi liên quan mật thiết đến
pháp luật. Do vậy, với tư cách là người thông thạo pháp lý, luật sư có vai
trò tư vấn, hướng dẫn, trợ giúp họ nhằm giải quyết tranh chấp, hạn chế hành vi
vi phạm pháp luật do thiếu hiểu biết, giảm bớt khó khăn trong hoạt động.
• Hoàn thiện hệ thống pháp luật.
Là một luật sư đồng nghĩa với việc liên tục trau dồi kiến thức, kĩ
năng để tăng cường và phát triển hệ thống pháp luật. Dù hệ thống pháp luật
có tốt đến đâu thì vẫn không tránh khỏi những hạn chế, thiếu sót vì chung
quy lại nó được xây dựng dựa trên bộ óc con người mà cuộc sống luôn
luôn thay đổi nên một vài người không thể kiểm soát được. Vì vậy, đội ngũ
luật sư còn có vai trò hay trách nhiệm trong việc hoàn g trong mọi hoàn
cảnh nghề nghiệp, nâng cao ý thức trách nhiệm, lương tâm nghề nghiệp,
phẩm giá cao quý của nghề luật sư. Nó chính là thước đo phẩm chất của
một người luật sư chân chính. Người luật sư cần phải căn cứ vào những
quy tắc chuẩn thiện hệ thống pháp luật.
Nhà nước ta đang xây dựng nhà nước pháp quyền. trách nhiệm
người luật sư càng trở nên lớn lao và
2. Đạo đức nghề luật sư
2.1. Khái niệm đạo đức nghề nghiệp nói chung
Nghề là một lĩnh vực hoạt động lao động mà trong đó, nhờ được đào
tạo, con người có được những tri thức, những kỹ năng để làm ra các loại
sản phẩm vật chất hay tinh thần nào đó, đáp ứng được những nhu cầu của
xã hội. Xét một cách đơn giản nhất có 2 phạm trù lớn liên quan đến nghề
nghiệp. Đó là chuyên môn và đạo đức nghề nghiệp. Chuyên môn là một
khái niêm cơ bản nhất, mà qua đó con người dùng sức mạnh vật chất và
sức mạnh tinh thần của mình để tác động vào những đối tượng cụ thể nhằm

biến đổi những đối tượng đó theo hướng phục vụ mục đích, yêu cầu và lợi
ích của con người. Đây là điều kiện cho sự sinh tồn và phát triển của xã
10
Đạo đức luật sư trong thời kỳ mới
hội. Có thể thấy rằng, trình độ chuyên môn cao sẽ phản ánh chất lượng
nghề nghiệp tốt. Việc một đất nước có hệ thống nghề nghiệp chuyên nghiệp
chất lượng tốt sẽ góp phần xây dựng một xã hội vững mạnh. Tuy nhiên để
cho một xã hội phát triển đảm bảo sự trong sạch, văn minh, tiến bộ, vì lợi
ích của con người và cộng đồng thì nhân tố quan trọng hơn cả đó chính là
đạo đức nghề nghiệp. Một người thực hiện làm nghề có chuyên môn giỏi
nhưng không có đạo đức tốt thì chắc hẳn nghề đó cũng không thể phát triển
bền vững được. Hơn thế, khi xã hội ngày càng tiến bộ, nhu cầu vật chất cơ bản
được thỏa mãn thì vấn đề con người càng được đề cao, mà đây cũng chính là
một yêu cầu quan trọng được đặt ra cho đạo đức nghề nghiệp
Trước hết, chúng ta cần xác định thế nào là đạo đức nghề nghiệp?
Hiểu một cách đơn giản nhất đạo đức nghề nghiệp là những chuẩn mực, giá
trị tốt đẹp về cách hành xử của người đó với nghề nghiệp của mình. Bản
thân đạo đức đã là sự phản ánh của các mối quan hệ xã hội, là phép tắc đỗi
xử trong xã hội mà nhờ đó con người điều chỉnh hành vi của mình sao cho
phù hợp với lợi ích cộng đồng, xã hội. Nó được thực hiện bởi niềm tin cá
nhân, truyền thống và sức mạnh của dư luận xã hội. Đạo đức luôn mang
tính kế thừa nhất định nhưng càng về sau nó lại có những thay đổi căn bản
để phù hợp với hoàn cảnh và nhân thức xã hội. Mà đạo đức nghề nghiệp lại
là một phạm trù nhỏ của đạo đức nói chung nên nhất thiết nó mang những
đặc trưng cơ bản của đạo đức.
Phải nói rằng, đạo đức có một vai trò hết sức quan trọng trong việc
thực hiện nghề.
Thứ nhất, nó như là nhân tố quyết định để xã hội công nhận và tôn
trọng nghề nghiệp đó.
Thứ hai, đạo đức giúp cho nghề nghiệp phát triển theo hướng tốt

đẹp, thanh sạch.
Thứ ba, đạo đức góp phần thúc đẩy nền kinh tế phát triển lành mạnh
theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
11
Đạo đức luật sư trong thời kỳ mới
Thứ tư, đạo đức mới giữ vai trò quan trọng trong việc bảo tồn và
phát huy giá trị truyền thống, bản sắc văn hoá dân tộc…Đạo đức trở thành
nền tảng cho một xã hội phát triển vững mạnh và ổn định.
2.2. Đạo đức nghề luật sư
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nói: “có tài mà không có đức là người
vô dụng, có đức mà không có tài thì làm việc gì cũng khó”, có thể thấy tài
và đức là hai nhân tố vô cùng quan trọng đối với một con người. Đặc biệt
là đối với người làm nghề luật sư, nó còn đòi hỏi cao hơn thế. Nếu người
bác sĩ chữa bệnh cứu sống cơ thể người thì luật sư được so sánh như một
người chữa bệnh về tinh thần cho họ. Chính vì thế ngoài chuyên môn( tài)
phải giỏi người luật sư nhất thiết cần có đạo đức tốt, trong sáng. Nghề luật
sư được điều chỉnh và kiểm soát rất chặt chẽ bằng những quy định của
pháp luật. Ngoài nhưng quy định của pháp luật còn có những quy tắc nghề
nghiệp bổ sung cho các quy định của pháp luật. Những quy tắc này đôi khi
còn đặt ra yêu cầu cao hơn so với yêu cầu của pháp luật. Những quy tắc
đạo đức nghề nghiệp được đưa ra nhằm bảo vệ quyền lợi của khách hàng.
Tuy nhiên, cho dù quyền lợi của khách hàng có lớn đến đâu thì người luật
sư cũng không được phép làm bất cứ điều gì trái pháp luật và lương tâm.
Một bộ quy tắc không chỉ điều chỉnh việc hành nghề mà còn điều
chỉnh đến cuộc sống riêng của luật sư. Luật sư không thể trở thành một tên
du côn ở ngoài đời rồi dùng chính kiến thức luật pháp của mình để biện hộ
cho bản thân.
Đạo đức nghề luật sư là tổng hợp các nguyên tắc ứng xử mà luật sư
phải tuân thủ khi hành nghề. Ngoài ra, nó là những quy chuẩn chung về
đạo đức hành nghề của luật sư trong các mối quan hệ với khách hàng, đồng

nghiệp, cơ quan nhà nước và trong lối sống. Đạo đức nghề luật sư phản ánh
hai khía cạnh cơ bản đó là bảo vệ lợi ích khách hàng và bảo đảm công lý,
tuân thủ pháp luật. Luật sư được thuê để hướng dẫn và bảo vệ công lý
nhưng nó không hoàn toàn mang ý nghĩa kinh doanh thuần túy. Tư cách
đạo đức của nghề luật sư đảm bảo cho việc hành nghề của họ an toàn, hữu
hiệu và uy tín.
12
Đạo đức luật sư trong thời kỳ mới
Trong quá trình hành nghề, luật sư gặp rất nhiều các tình huống mà
pháp luật không quy định hoặc không thể quy định được, trong trường hợp
này những quy phạm xã hội sẽ điều chỉnh tốt hơn các quy phạm xã hội. Và
có những trường hợp pháp luật không cấm nhưng đạo đức nghề nghiệp lại
không cho phép làm. Chính vì vậy việc hình thành quy tắc đạo đức cho
người luật sư sẽ giúp họ sử xự đúng mực này để tu dưỡng, rèn luyện, phấn
đấu xứng đáng với sự tin cậy của xã hôi.
Đạo đức được coi là nguyên tắc trong hoạt động của nghề luật sư
được pháp luật ghi nhận tại điều 5 luật luật sư năm 2006. Căn cứ Pháp lệnh
luật sư năm 2001; Căn cứ Nghị định số 94/2001/NĐ/CP ngày 12 tháng 12
năm 2001 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành Pháp lệnh luật sư; Căn
cứ Nghị định số 38/CP ngày 4 tháng 6 năm 1993 của Chính phủ về chức
năng, nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức của Bộ Tư pháp; Theo đề nghị của
Vụ trưởng Vụ quản lý luật sư, tư vấn pháp luật ngày 5/8/2002 Bộ Tư pháp
đã ban hành bộ Quy tắc mẫu về đạo đức nghề luật sư. Đây là văn bản chính
thức quy định về những nguyên tắc trong hoạt động hành nghề của luật sư
trong các mối quan hệ với khách hàng, đồng nghiệp, cơ quan nhà nước
2.3.Tiêu chí đánh giá cơ bản
Lẽ đương nhiên là một luật sư đòi hỏi phải triệt để tôn trọng và thực
thi pháp luật. Nhưng cho dù hệ thống pháp luật hoàn thiện đến mấy nó
cũng không thể điều chỉnh tuyệt đối hành vi ứng xử của người luật sư. Bởi
luật sư với tư cách cá nhân tự chịu trách nhiệm về uy tín nghề nghiệp của

mình. Chính vì thế mà việc hành nghề của các luật sư mang trong mình
nhận thức, tư tưởng, tâm lý cá nhân việc đặt ra một tiêu chí đánh giá cơ bản
một luật sư có đạo đức quả thực chỉ mang tính tương đối.
Trong bộ quy tắc mẫu về đạo đức nghề luật sư có nhắc đến một số tiêu chí
chung như: sứ mệnh, kĩ năng, chuẩn mực ứng xử, thanh danh. Ngoài ra,
còn vô vàn các tiêu chí đạo đức khác mà người luật sư cần phải đạt được
đó là lương tâm nghề nghiệp, nhiệt huyết, uy tín, trách nhiệm...
13
Đạo đức luật sư trong thời kỳ mới
CHƯƠNG II:
ĐẠO ĐỨC NGHỀ LUẬT SƯ HIỆN NAY
1. Sự phát triển của nghề luật sư trong thời kì hội nhập và xây dựng
nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam
Đối với nghề nào cũng vậy, sự tác động của thị trường luôn tạo ra
một tầm ảnh hưởng không nhỏ với nghề đó. Và nhất là trong nền kinh tế thị
trường này thì việc sự tác động của không nằm ngoài quy luật đó. Nghề
luật sư có thể gọi là một nghề tự do, tự do trong khuôn khổ của pháp luật.
Cái gì càng tự do thì đều chịu ảnh hưởng nhiều từ thị trường, từ nhà nước.
Nước ta đang trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước,
chuyển từ một nước nghèo nàn, lạc hậu sang nền kinh tế hiện đại hơn.Hay
nói một cách khác nước ta đang chuyển sang nền kinh tế thị trường theo
định hướng xã hội chủ nghĩa. Vậy nên hoàn cảnh đất nước có rất nhiều vấn
đề tác động thị trường, của nhà nước lại càng quan trọng.Nghề luật sư cũng
vào nghề luật sư, tác động vào đạo đưc nghề luật sư về cả mặt tích cực lẫn
mặt tiêu cực.
1.1.Đối với kinh tế
Pháp luật thuộc một trong những yếu tố của kiến trúc thượng tầng,
còn kinh tế thì thuộc về yếu tố của cơ sở hạ tầng. Cũng như nhà nước, pháp
luật sinh ra trên cơ sở của hạ tầng, do cơ sở hạ tầng quyết định. Cơ sở hạ
tầng là nguyên nhân trực tiếp quyết định sự ra đời của pháp luật, qui định

nội dung, hình thức, cơ cấu và phát triển của pháp luật.
Nền kinh tế của nước ta đang trên đà phát triển rất nhanh. Tốc độ
tăng trưởng kinh tế của nước ta năm 2009 đạt 6,6% và đến năm 2010 nước
ta dự định tăng trưởng kinh tế đạt trên 7%. Nước ta là một nước có tốc độ
phát triển kinh tế cao trên Thế giới. Từ một nước nghèo nàn, lạc hậu, bị
thống trị hơn 1000 năm của phong kiến, trải qua 2 cuộc chiến tranh lớn với
Pháp và Mĩ, tưởng rằng nền kinh tế của Việt Nam khó có thể phụ hồi. Tuy
14
Đạo đức luật sư trong thời kỳ mới
nhiên, nhờ vào đường lối đúng đắn của Đảng và Nhà nước thì nền kinh tế
của nước ta đã phát triển một cách vượt bậc. Đảng và Nhà nước ta đã đề ra
các kế hoạch 5 năm để phát triển kinh tế của đất nước trong khi đất nước
đang rơi vào tình trạng khó khăn, khủng hoảng (đặc biệt là nạn đói năm
1945 đã làm hai triệu đồng bào ta chết đói). Nền kinh tế của Việt Nam ngày
càng đi lên theo đó là các mối quan hệ ngoại thương với các nước và các tổ
chức trên Thế giới như: gia nhập ASEAN (1995), bình thường hóa quan hệ Việt
– Mĩ(1995), tham gia AFTA, APEC và đặc biệt là vào năm 2007, Việt Nam
chính thức là thành viên thứ 150 của tổ chức thương mại Thế Giới WTO.
Theo cùng sự phát triển của nền kinh tế là sự phát triển của nghề luật
sư.Kinh tế càng phát triển, các hoạt động thương mại diễn ra càng nhiều thì
ngành luật sư càng phát triển.
thống trị hơn 1000 năm của phong kiến, trải qua 2 cuộc chiến tranh
lớn với Pháp và Mĩ, tưởng rằng nền kinh tế của Việt Nam khó có thể phụ
hồi. Tuy nhiên, nhờ vào đường lối đúng đắn của Đảng và Nhà nước thì nền
kinh tế của nước ta đã phát triển một cách vượt bậc. Đảng và Nhà nước ta
đã đề ra các kế hoạch 5 năm để phát triển kinh tế của đất nước trong khi đất
nước đang rơi vào tình trạng khó khăn, khủng hoảng (đặc biệt là nạn đói
năm 1945 đã làm hai triệu đồng bào ta chết đói). Nền kinh tế của Việt Nam
ngày càng đi lên theo đó là các mối quan hệ ngoại thương với các nước và
các tổ chức trên Thế giới như: gia nhập ASEAN (1995), bình thường hóa

quan hệ Việt – Mĩ(1995), tham gia AFTA, APEC và đặc biệt là vào năm
2007, Việt Nam chính thức là thành viên thứ 150 của tổ chức thương mại
Thế Giới WTO.
Việt Nam – WTO đồng nghĩa với việc các doanh nghiệp Việt Nam
cũng đặt chân vào sân chơi “không biên giới”, ẩn chứa cả cơ lẫn nguy. Luật
sư Lưu Văn Tám (Hội đồng Luật sư Quốc gia) cho biết, nhiều luật sư trẻ
bây giờ là đồng nghiệp, cũng là “đối thủ của ông ngay từ giai đoạn Việt
Nam đang đàm phán vào WTO. Họ đã có kế hoạch thành lập Văn phòng
Luật sư riêng.
15
Đạo đức luật sư trong thời kỳ mới
Chúng ta từng phải liên tục đối mặt với các vụ kiện bán phá giá,
liên quan đến con cá, con tôm, các mặt hàng công nghiệp như dệt may, da
giày… Hay vụ thua kiện pháp lý của Tổng Công ty Hàng không Việt Nam
(Vietnam Airlines), cũng là lời cảnh tỉnh đối với các doanh nghiệp, vừa
thiếu thông tin và cả hiểu biết về Luật thương mại quốc tế.
thống trị hơn 1000 năm của phong kiến, trải qua 2 cuộc chiến tranh
lớn với Pháp và Mĩ, tưởng rằng nền kinh tế của Việt Nam khó có thể phụ
hồi. Tuy nhiên, nhờ vào đường lối đúng đắn của Đảng và Nhà nước thì nền
kinh tế của nước ta đã phát triển một cách vượt bậc. Đảng và Nhà nước ta
đã đề ra các kế hoạch 5 năm để phát triển kinh tế của đất nước trong khi đất
nước đang rơi vào tình trạng khó khăn, khủng hoảng (đặc biệt là nạn đói
năm 1945 đã làm hai triệu đồng bào ta chết đói). Nền kinh tế của Việt Nam
ngày càng đi lên theo đó là các mối quan hệ ngoại thương với các nước và
các tổ chức trên Thế giới như: gia nhập ASEAN (1995), bình thường hóa
quan hệ Việt – Mĩ(1995), tham gia AFTA, APEC và đặc biệt là vào năm
2007, Việt Nam chính thức là thành viên thứ 150 của tổ chức thương mại
Thế Giới WTO.
thống trị hơn 1000 năm của phong kiến, trải qua 2 cuộc chiến tranh
lớn với Pháp và Mĩ, tưởng rằng nền kinh tế của Việt Nam khó có thể phụ

hồi. Tuy nhiên, nhờ vào đường lối đúng đắn của Đảng và Nhà nước thì nền
kinh tế của nước ta đã phát triển một cách vượt bậc. Đảng và Nhà nước ta
đã đề ra các kế hoạch 5 năm để phát triển kinh tế của đất nước trong khi đất
nước đang rơi vào tình trạng khó khăn, khủng hoảng (đặc biệt là nạn đói
năm 1945 đã làm hai triệu đồng bào ta chết đói). Nền kinh tế của Việt Nam
ngày càng đi lên theo đó là các mối quan hệ ngoại thương với các nước và
các tổ chức trên Thế giới như: gia nhập ASEAN (1995), bình thường hóa
quan hệ Việt – Mĩ(1995), tham gia AFTA, APEC và đặc biệt là vào năm
2007, Việt Nam chính thức là thành viên thứ 150 của tổ chức thương mại
Thế Giới WTO.
16
Đạo đức luật sư trong thời kỳ mới
1.2.Về chính trị
Việt Nam đã trải qua 2 cuộc chiến tranh lớn với Pháp và Mĩ, tưởng
rằng nền kinh tế của Việt Nam khó có thể phụ hồi. Tuy nhiên, nhờ vào
đường lối đúng đắn của Đảng và Nhà nước thì nền kinh tế của nước ta đã
phát triển một cách vượt bậc. Đảng và Nhà nước ta đã đề ra các kế hoạch 5
năm để phát triển kinh tế của đất nước trong khi đất nước đang rơi vào tình
trạng khó khăn, khủng hoảng (đặc biệt là nạn đói năm 1945 đã làm hai triệu
đồng bào ta chết đói). Nền kinh tế của Việt Nam ngày càng đi lên theo đó
là các mối quan hệ ngoại thương với các nước và các tổ chức trên Thế giới
như: gia nhập ASEAN (1995), bình thường hóa quan hệ Việt – Mĩ(1995),
tham gia AFTA, APEC và đặc biệt là vào năm 2007, Việt Nam chính thức
là thành viên thứ 150 của tổ chức thương mại Thế Giới WTO.
Luật sư Việt Nam ra đời từ khi nước Việt Nam dân chủ công hoà
được thành lập năm 1945. Nhưng, nghề luật sư chỉ được biết đến là một
nghề từ năm 1987, khi Pháp lệnh tổ chức luật sư được ban hành. Tuy được
coi là một nghề nhưng cho đến trước năm 2001, luật sư vẫn chỉ được coi là
"nghề tay trái", việc "làm thêm" của một số cán bộ, công chức trong các cơ
quan pháp luật, chưa phải là một nghề chuyên nghiệp như các nghề nghiệp

khác.Vì thế, sau 14 năm Pháp lệnh luật sư đi vào cuộc sống, cả nước mới
có chưa đầy 2000 luật sư. Phần lớn trong số ít luật sư này lại là các cán bộ
về hưu, các công chức kiêm nhiệm... Luật sư trẻ chuyên nghiệp chỉ tính
được trên đầu ngón tay!Cái vòng luẩn quẩn của sự không chuyên nghiệp đã
khiến cho luật sư Việt Nam chưa tìm được chỗ đứng trong hệ thống thực
thi pháp luật và đời sống kinh doanh, thương mại.
Pháp lệnh luật sư 2001 ra đời mang theo một sứ mệnh lịch sử là chuyên
nghiệp hoá luật sư Việt Nam, nâng tầm nghề này để xứng đáng với vị trí
vốn có của nó trong nền kinh tế thị trường của một xã hội dân chủ, văn
minh. Hai thay đổi cơ bản so với hệ thống pháp luật về luật sư trước đó là:
Hình thành các tổ chức hành nghề luật sư chuyên nghiệp và không chấp
17
Đạo đức luật sư trong thời kỳ mới
nhận sư kiêm nhiệm trong hoạt động luật sư. Bên cạnh đó, một số những
thay đổi pháp ly khác cũng có tác động tích cực đến con đường chuyên
nghiệp hoá nghề này như:không chấp nhận trình độ "tương đương đại học
luật", mở rộng phạm vi cung cấp dịch vụ cho luật sư.. Sau 5 năm thực thi
Pháp lệnh 2001, diện mạo luật sư Việt Nam đã thay đổi hẳn. Hơn 1100 tổ
chức hành nghề luât sư Việt Nam đã đi vào hoạt động, tạo thành một mạng
lưới quan trọng trong hệ thống thực thi pháp luật. Hình thành một đội ngũ
luật sư chuyên nghiệp hơn 4100 luật sư. Đặc biệt, vai trò của luật sư trong
hệ thống thực thi pháp luật và hệ thống thương mại đã được khẳng định.
Luật sư - hai từ này đã tạo được một vị trí khá quan trọng trong hệ thống
phân vai của xã hội Việt Nam đương đại.
Tuy nhiên, Pháp lệnh luật sư cũng còn để lại một khoảng trống khiến cho
con đường chuyên nghiệp hoá của luật sư Việt Nam vẫn gặp những "cú
sóc" bất ngờ. Những quy định chưa rõ ràng của Pháp lệnh 2001 về khái
niệm dịch vụ pháp lý đã đẻ ra nạn "hai luật chơi" trong thị trường dịch vụ
pháp lý. Nhiều người không phải luật sư vẫn cứ cung cấp dịch vụ pháp lý
như luật sư. Bên cạnh đó, việc phận biệt vai trò giữa luật sư trong công ty

luật hợp danh với luật sư trong các văn phòng luật sư đã khiến hệ thống
hành nghề của chúng ta phát triển không bình thường như quy luật của nó.
Luật luật sư ra đời đúng lúc. Ngày 01.01.2006 đánh dấu một mốc quan
trọng trên chặng đường chuyên nghiệp hoá của nghề luật sư Việt Nam bởi
những thay đổi về thể chế mà Luật luật sư tạo ra sẽ tạo đà cất cánh cho luật
sư Việt Nam. Những thay đổi ấy là:
• Thứ nhất, Luật đã thống nhất điều chỉnh thị trường dịch vụ pháp lý,
không còn nạn hai luật chơi. Ai muốn cung cấp dịch vụ pháp lý
phải là luật sư và phải được điều chỉnh bởi Luật, quy tắc đạo đức
nghề nghiệp.
• Thứ hai, luật đã thừa nhận bản chất của tổ chức hành nghề luật sư là
doanh nghiệp, nghề luật sư là một nghề kinh doanh dịch vụ. Như
18

×