Tải bản đầy đủ (.pdf) (104 trang)

Giữ gìn và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống dân tộc trong bối cảnh toàn cầu hóa ở Việt Nam hiện nay.PDF

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.57 MB, 104 trang )



MỤC LỤC
Mở đầu
1
CHƯƠNG
1.
KHÁI LƯỢC VỀ TOÀN CẦU HOÁ: TÍNH TẤT YẾU,
KHÁI NIỆM, NỘI DUNG VÀ ĐẶC ĐIỂM
8
1.1.
Toàn cầu hoá: tính tất yếu, khái niệm
8
1.2.
Nội dung, đặc điểm của quá trình toàn cầu hoá trong
bối cảnh hiện nay
23
Chương 2.
Tác động của toàn cầu hóa đối với một số giá trị văn
hóa truyền thống của dân tộc
34
2.1.
Văn hóa và các giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc
34
2.2.
Những ảnh hưởng của quá trình toàn cầu hoá đối với
một số giá trị văn hoá truyền thống của dân tộc
50
Chương 3.
Một số nguyên tắc và giải pháp nhằm giữ gìn và phát
huy các giá trị văn hóa truyền thống trước bối cảnh


toàn cầu hóa
69
3.1.
Một số nguyên tắc và giải pháp cần đảm bảo và thực
hiện trong quá trình tham gia toàn cầu hóa
69
3.2.
Một số giải pháp cơ bản nhằm giữ gìn và phát huy các
giá trị văn hóa truyền thống trong bối cảnh toàn cầu hóa
76

Kết luận

93
Danh mục các tài liệu tham khảo



Luận văn thạc sĩ Triết học Phạm Xuân
Hoàng

1
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Ngày nay, “Toàn cầu hoá” (Globalization) đang là xu thế khách quan diễn
ra mạnh mẽ và phức tạp, nó có tác động tới hầu hết các lĩnh vực của đời sống
xã hội của các quốc gia trong khu vực và trên thế giới, trong đó có Việt Nam
chúng ta. Toàn cầu hoá vừa có cả những tác động tích cực, vừa có những tác
động tiêu cực đối với các quốc gia, dân tộc trên thế giới. Không phải ngẫu
nhiên mà trong khi toàn cầu hoá được đón nhận một cách nhiệt thành ở các

nước đang phát triển thì phong trào chống toàn cầu hoá (Anti-globalization)
lại diễn ra mạnh mẽ ở các nước phát triển như Anh, Pháp, Mỹ Tình hình đó
đặt ra vấn đề buộc các quốc gia dân tộc trên thế giới phải suy ngẫm để tìm ra
phương thức hành động đúng đắn nhất khi tham gia vào quá trình toàn cầu
hoá.
Có thể dễ dàng nhận thấy rằng, toàn cầu hoá đang diễn ra là toàn cầu
hoá chịu sự chi phối của chủ nghĩa tư bản. Kể từ sau khi chiến tranh thế giới
thứ II kết thúc, các nước tư bản chủ nghĩa giữ vai trò chi phối các hoạt động
kinh tế, chính trị trên thế giới. Các nước đó (đứng đầu là Mỹ) mưu toan đóng
vai trò bá chủ thế giới. Toàn cầu hoá hiện đang trở thành một xu thế tất yếu.
Các quốc gia, dân tộc dù muốn hay không muốn đều bị cuốn hút vào quá trình
đó. Việt Nam chúng ta, dĩ nhiên cũng không thể đứng ngoài lề của quá trình
toàn cầu hoá. Song, điều đó hoàn toàn không có nghĩa là chúng ta tham gia
toàn cầu hoá một cách ồ ạt, thiếu ý thức. Bởi quá trình đó đang đặt ra nguy cơ
chệch hướng xã hội chủ nghĩa, phai nhạt các giá trị truyền thống của dân tộc.
Đứng trước bối cảnh đó, Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng đã
xác định: “Toàn cầu hoá kinh tế là xu thế khách quan lôi cuốn ngày càng
nhiều nước tham gia, xu thế này đang bị một số nước phát triển và các tập
Luận văn thạc sĩ Triết học Phạm Xuân
Hoàng

2
đoàn xuyên quốc gia chi phối, chứa đựng nhiều mâu thuẫn vừa có mặt tiêu
cực, vừa hợp tác vừa có đấu tranh” [17, tr.64].
Như vậy, chúng ta có thể khẳng định rằng, ở Việt Nam, toàn cầu hoá
vừa tạo ra những cơ hội lẫn thách thức trong quá trình tiến hành hội nhập kinh
tế thế giới và thực hiện công cuộc đổi mới. Đối với cơ hội, phải chuẩn bị tinh
thần và điều kiện để đón lấy, song với thách thức, cần phải có sự chuẩn bị
những giải pháp thích hợp. Vấn đề đặt ra là: làm thế nào để tận dụng tốt nhất
những cơ hội và vượt qua những thách thức do toàn cầu hoá mang lại hay nói

cách khác vừa hội nhập phát triển kinh tế và đồng thời phải đảm bảo ổn định
chính trị, giữ gìn bản sắc văn hoá của dân tộc. Để góp phần giải quyết vấn đề
đó, chúng tôi chọn đề tài: “Giữ gìn và phát huy giá trị văn hoá truyền thống
dân tộc trong bối cảnh toàn cầu hoá ở nước ta hiện nay” làm đề tài Luận văn
thạc sĩ của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Thời gian gần đây, những vấn đề xung quanh chủ đề toàn cầu hóa đã
được thảo luận khá sôi nổi trong nhiều hội thảo hoặc trên các diễn đàn cấp
khu vực và quốc tế. Nhiều hội thảo đã được tổ chức như là: “Toàn cầu hoá
kinh tế - cơ hội và thách thức đối với các nước Đông Nam Á” được tổ chức
vào tháng 12/2002 tại Hà Nội. Hội thảo “Đối thoại giữa các truyền thống văn
hoá: triển vọng toàn cầu”, do Hội đồng nghiên cứu Giá trị và Triết học thế
giới phối hợp với Đại học Văn hoá Thổ Nhĩ Kỳ tổ chức tháng 8/2003. Hội
thảo “Toàn cầu hoá, khu vực hoá và vấn đề hợp tác giữa các nước: kinh
nghiệm của Việt Nam và Liên bang Nga”, được tổ chức vào tháng 10/2003,
tại Matxcơva. Đặc biệt, tại Đại hội Triết học thế giới lần thứ XXI ở Istanbul,
Thổ Nhĩ Kỳ, 8/2003, chủ đề toàn cầu hoá đã thu hút sự chú ý của không ít các
học giả quốc tế. Tháng 10.2004, tại Neptun, Rumani, đã diễn ra Hội thảo quốc
tế: Những ngày đêm văn học với chủ đề Văn hoá trong xu thế toàn cầu hoá,
Luận văn thạc sĩ Triết học Phạm Xuân
Hoàng

3
hơn 150 nhà văn của 26 quốc gia đã tham dự Hội thảo (Văn nghệ số 44, tháng
10.2004). Điều đó nói lên rằng, toàn cầu hoá đã trở thành mối quan tâm
không chỉ của giới học thuật mà còn của các nhà hoạt động chính trị xã hội
trên toàn thế giới.
Đối với Việt Nam, toàn cầu hoá là một vấn đề khá mới mẽ, nó thực sự
được quan tâm nghiên cứu từ khi Việt Nam tiến hành mở cửa, giao lưu với
nước ngoài. Hai năm lại đây, Việt Nam cũng đã tổ chức nhiều Hội thảo khoa

học về toàn cầu hoá, như: Hội thảo khoa học về toàn cầu hóa và chủ động hội
nhập kinh tế của nước ta. Hội thảo khoa học: “Tác động của toàn cầu hoá kinh
tế đối với các lĩnh vực chính trị, văn hoá, xã hội”. Gần đây nhất, 3/2004, tại
Hà Nội, tạp chí Cộng sản phối hợp với Ủy ban Quốc gia về hợp tác kinh tế,
Bộ thương mại và Dự án Hợp tác Kinh tế đa biên, tổ chức hội thảo khoa học
với chủ đề: “Hội nhập kinh tế quốc tế - những vấn đề lí luận và thực tiễn”.
Trong các hội thảo đó, nhiều vấn đề liên quan đến toàn cầu hoá đã được các
nhà khoa học dần dần làm sáng rõ. Trên thực tế, người ta có thể nghiên cứu,
tiếp cận toàn cầu hoá từ nhiều góc độ khác nhau, như nhân loại học, nhân
chủng học, kinh tế học, văn hoá học, quốc tế học…
Trên phương diện kinh tế, chúng ta có thể kể ra đây các công trình tiêu
biểu như “Toàn cầu hoá kinh tế”; “Toàn cầu hoá: cơ hội và thách thức đối với
lao động Việt Nam” của Nguyễn Bá Ngọc và Trần Văn Hoan (chủ biên), Nxb
Lao động - Xã hội, Hà Nội, 2002 và nhiều bài viết về toàn cầu hoá trên các
tạp chí lí luận và tạp chí khoa học chuyên ngành kinh tế. Nhìn chung, những
công trình và các bài viết đó đã cung cấp cho ta một cái nhìn về toàn cầu hoá
trên phương diện kinh tế và tác động tích cực, tiêu cực của nó đối với nền
kinh tế nước ta…
Trên phương diện chính trị, đây có lẽ là vấn đề khá nhạy cảm và phức
tạp, nên chưa thấy có công trình nào đề cập riêng về tác động của toàn cầu
Luận văn thạc sĩ Triết học Phạm Xuân
Hoàng

4
hoá đối với chính trị, khía cạnh này chủ yếu được tập trung đề cập trong các
bài tiểu luận khoa học, các chuyên đề. Trong đó, đáng chú ý là một số bài viết
bàn về những thách thức của toàn cầu hoá của tác giả Nguyễn Trọng Chuẩn.
Tác giả nhấn mạnh rằng, thách thức của toàn cầu hoá đối với chính trị là quan
trọng nhất [5, tr.368].
Trên lĩnh vực văn hoá, trong mấy năm gần đây, riêng Hội đồng nghiên

cứu Triết học và Giá trị (Mỹ) đã tổ chức hoặc phối hợp tổ chức nhiều Seminar
hoặc thảo luận xung quanh chủ đề Toàn cầu hoá và bản sắc văn hoá, chẳng
hạn như: Toàn cầu hoá và bản sắc văn hoá (Seminar từ tháng 9-11.2002), Sự
đối thoại giữa các nền văn hoá trong bối cảnh toàn cầu hoá (được tổ chức
trước thềm Đại hội triết học lần thứ XXI, vào tháng 8.2003 ở Istanbul, Thổ
Nhĩ Kỳ), Truyền thống văn hoá và tiến bộ xã hội (được tổ chức vào tháng 6
năm 2004), tại Thượng Hải, Trung Quốc), Toàn cầu hoá và tinh thần dân tộc
(được tổ chức vào tháng 7.2004 tại Vũ Hán, Trung Quốc).v.v Tại các Hội
thảo đó, các học giả đến từ nhiều nước khác nhau trên thế giới đều khẳng định
toàn cầu hoá có nguy cơ đe dọa và huỷ hoại bản sắc văn hoá của các dân tộc.
Ở Việt Nam, gần đây có một số công trình và khá nhiều bài viết bàn về
vấn đề toàn cầu hoá với văn hoá, tiêu biểu là “Giá trị truyền thống trước thách
thức của toàn cầu hoá”, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2003, Nguyễn Trọng
Chuẩn và Nguyễn Văn Huyên (đồng chủ biên), “Toàn cầu hoá và vấn đề bảo
tồn văn hoá dân tộc”, của Trường Lưu. Các công trình trên đây và các bài viết
trên các tạp chí khoa học xã hội và nhân văn gần đây cũng đã chỉ ra những
thách thức của toàn cầu hoá đặt ra đối với văn hoá truyền thống của dân tộc,
như: tác động của toàn cầu hoá đối với bản sắc văn hoá, lối sống của người
Việt…
Nhìn một cách tổng thể, các công trình và các bài viết trên đây đã chỉ ra
được những cơ hội và thách thức của toàn cầu hoá, những tác động tiêu cực
Luận văn thạc sĩ Triết học Phạm Xuân
Hoàng

5
và tích cực của toàn cầu hoá, trong đó chủ yếu vẫn nổi lên vấn đề tác động
của toàn cầu hoá đối với kinh tế. Lĩnh vực văn hoá cũng đã được các nhà
nghiên cứu bàn nhiều, tuy nhiên, ít có công trình đó nghiên cứu một cách thấu
đáo dưới góc độ triết học vấn đề tác động của toàn cầu hoá đối với các giá trị
văn hóa truyền thống dân tộc.

Thời gian gần đây, có hai công trình lớn đó là Việt Nam trong thế kỷ
XX, 4 tập và công trình Góp phần nhận thức thế giới đương đại, là kết quả
nghiên cứu đầu tiên của Chương trình khoa học xã hội cấp nhà nước KX.08.
Những công trình đó đã chỉ ra những đặc điểm của thế giới và đặc điểm của
Việt Nam trong thế kỉ XX đã qua và triển vọng trong thời gian tới. Tuy nhiên,
đây là những vấn đề lớn có ý nghĩa bao quát, nó cung cấp cơ sở lí luận và
phương pháp luận cho nhận thức của chúng ta về thế giới, về đất nước, chứ
cũng chưa đi sâu vào nghiên cứu tổng quan tác động của toàn cầu hoá đối với
một lĩnh vực cơ bản nào của xã hội.
Có thể nói rằng, mặc dù được nghiên cứu khá nhiều, song “toàn cầu
hóa” là một quá trình đang diễn ra theo chiều hướng hết sức phức tạp và có
biểu hiện khá phong phú, đa dạng, đang có những tác động không nhỏ đến
lĩnh vực văn hoá tư tưởng nói chung và giá trị văn hoá truyền thống dân tộc
nói riêng. Do đó, nghiên cứu tác động của toàn cầu hoá và sự tác động của nó
đối với các giá trị văn hoá truyền thống trong khi chúng ta hội nhập kinh tế
thế giới, thực chất là đi tìm những giải pháp tốt nhất để bảo vệ, giữ gìn và
phát huy các giá trị đó trước sự xâm hại của văn hoá thế giới. Đó là một vấn
đề cần thiết, cấp bách và chắc chắn cần phải được nghiên cứu sâu hơn nữa.
3. Mục đích, nhiệm vụ, phạm vi nghiên cứu của Luận văn
Mục đích của luận văn là: nghiên cứu làm rõ sự tác động của toàn cầu
hoá đến lĩnh vực văn hoá truyền thống ở nước ta hiện nay, từ đó đưa ra các
Luận văn thạc sĩ Triết học Phạm Xuân
Hoàng

6
giải pháp để giữ gìn, phát huy các giá trị văn hoá dân tộc trong giai đoạn hiện
nay và lâu dài.
Để thực hiện được mục đích trên, nhiệm vụ của Luận văn là:
Thứ nhất, trình bày một cách khái quát nội dung và những đặc điểm
chủ yếu của toàn cầu hoá trong giai đoạn hiện nay.

Thứ hai, trình bày những tác động của toàn cầu hoá đối với những giá
trị văn hoá truyền thống, cố gắng chỉ ra xu hướng vận động của các giá trị văn
hoá truyền thống đó trong bối cảnh toàn cầu hoá tiếp tục vận động mạnh mẽ
và phức tạp.
Thứ ba, nêu ra và phân tích một số nguyên tắc và các giải pháp nhằm
đảm bảo việc giữ gìn và phát huy các giá trị văn hoá truyền thống trong bối
cảnh toàn cầu hoá hiện nay.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Cơ sở lí luận và phương pháp luận của Luận văn là quan điểm của chủ
nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử về xã hội, các quan
điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam và tư tưởng Hồ chí Minh có liên quan đến
nội dung đề cập trong Luận văn.
Về phương pháp nghiên cứu: các phương pháp được sử dụng trong
Luận văn là phương pháp phân tích và tổng hợp, kết hợp giữa lịch sử và lôgíc,
phương pháp cấu trúc - hệ thống, đặc biệt là phương pháp so sánh.
5. Đóng góp về mặt khoa học của Luận văn
Trên cơ sở trình bày tính tất yếu, nội dung và đặc điểm của quá trình
toàn cầu hoá, Luận văn góp phần kiến giải những tác động tích cực và tiêu
cực của toàn cầu hoá đối với văn hoá dân tộc ở nước ta hiện nay và đi đến
khẳng định cần phải có những điều kiện và giải pháp đảm bảo việc giữ gìn
Luận văn thạc sĩ Triết học Phạm Xuân
Hoàng

7
phát huy bản sắc văn hoá truyền thống dân tộc trước những tác động tiêu cực,
mặt trái của toàn cầu hoá.


6. Ý nghĩa lí luận và ý nghĩa thực tiễn của Luận văn
Luận văn có thể làm tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu và giảng

dạy những vấn đề triết học xã hội, các chuyên đề về toàn cầu hoá, .v.v.
7. Kết cấu của Luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, và danh mục các tài liệu tham khảo, Luận
văn được phân làm 3 chương với 6 tiết.

Luận văn thạc sĩ Triết học Phạm Xuân
Hoàng

8
Chương 1
KHÁI LƯỢC VỀ TOÀN CẦU HOÁ: TÍNH TẤT YẾU,
KHÁI NIỆM, NỘI DUNG VÀ ĐẶC ĐIỂM
1.1. Toàn cầu hoá: tính tất yếu, khái niệm
Toàn cầu hoá không còn là một hiện tượng quá mới mẻ. Nó đã và đang
diễn ra với những diễn biến hết sức phức tạp. Là một quá trình đang diễn ra
trên tầm độ rộng lớn nên người ta chưa thể định hình nó lại một cách đầy đủ
và có thể nắm bắt bản chất của nó một cách chính xác. Vì thế, cho đến nay,
xung quanh vấn đề này, trên thế giới cũng như ở Việt Nam ta, còn tồn tại
nhiều ý kiến khác nhau, thậm chí trái ngược nhau.
Thuật ngữ toàn cầu hoá được đưa vào từ điển tiếng Anh của Webster
năm 1961, nhưng mãi đến năm 1980 thuật ngữ này mới được sử dụng rộng
rãi. Ở Việt Nam, khái niệm toàn cầu hoá và những nội dung đặc điểm của nó
cũng mới được bàn nhiều từ thập kỷ 90 của thế kỷ XX lại nay. Mặc dù còn
tồn tại nhiều ý kiến khác nhau, song về cơ bản, có hai loại quan niệm: quan
niệm theo nghĩa rộng và quan niệm theo nghĩa hẹp. Trên cơ sở đó, chúng ta
có thể hệ thống hoá được vô vàn các định nghĩa cụ thể khác nhau về toàn cầu
hoá.
Theo nghĩa rộng, toàn cầu hoá được xác định như là một hiện tượng
hay một quá trình làm tăng sự phụ thuộc lẫn nhau trong quan hệ quốc tế trên
nhiều mặt của đời sống xã hội (kinh tế, chính trị, văn hoá, an ninh, môi

trường ) giữa các quốc gia. Chúng ta có thể kể ra đây rất nhiều quan niệm
khác nhau về vấn đề này. Tiêu biểu cho cách hiểu này là các quan niệm của
các tác giả, cũng như nhóm tác giả ở các nước, các tổ chức kinh tế, chính trị
xã hội trên thế giới. Chẳng hạn, TS. Jan Aart Scholte cho rằng "toàn cầu hoá
là một xu hướng làm cho các mối quan hệ trở nên ít bị ràng buộc bởi địa lý và
lãnh thổ" [3, tr.43]. Trong Báo cáo thường niên của tổ chức Thương mại thế
Luận văn thạc sĩ Triết học Phạm Xuân
Hoàng

9
giới (WTO) năm 1998, các nhà phân tích, cho rằng "toàn cầu hoá là một quan
hệ có nhiều mặt vì nó bao quát cả lĩnh vực kinh tế, xã hội, chính trị và các hậu
quả của sự phân phối" [3, tr.43]. Rộng hơn, tổ chức Liên Hiệp Quốc cho rằng:
toàn cầu hoá là một quá trình đa hệ [8, tr.19]. Năm 1999, Krueger, một tác giả
người Đức, đã đưa ra một định nghĩa rộng hơn nữa, theo đó "toàn cầu hoá là
những quá trình trên toàn thế giới góp phần tạo thành và phát triển những hệ
thống toàn cầu" [65, tr.65]. Nhìn chung, các quan điểm trên đã xem xét toàn
cầu hoá với tư cách là một quá trình có cấp độ phụ thuộc lẫn nhau, tác động
lẫn nhau trên nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội. Những người ủng hộ quan
điểm này đã có cách nhìn bao quát về quá trình toàn cầu hoá. Đó không đơn
thuần là một quá trình kinh tế mà còn mang ý nghĩa chính trị, văn hoá và xã
hội sâu sắc. Ở Việt Nam, tác giả Lê Hữu Nghĩa cũng có quan điểm tương tự
như vậy khi cho rằng, toàn cầu hoá, xét về bản chất là quá trình tăng lên mạnh
mẽ những mối liên hệ, sự ảnh hưởng, sự tác động lẫn nhau, phụ thuộc lẫn
nhau của tất cả các quốc gia, các dân tộc trên toàn thế giới.
Theo nghĩa hẹp, toàn cầu hoá được hiểu là toàn cầu hoá kinh tế. Phần
lớn các nhà kinh tế xem toàn cầu hoá là quá trình kinh tế vi mô. Hay nói cách
khác, họ thường xem xét toàn cầu hoá dưới góc độ kinh tế, như là các quá
trình kinh tế. Tiêu biểu cho loại quan niệm này, có thể dẫn ra một số tác giả
sau đây. Có tác giả cho rằng, toàn cầu hóa được định nghĩa là tiến trình mà

trong đó sự liên kết chiến lược và mạng lưới quốc tế, các doanh nghiệp (dẫu
có hay không có quan hệ kinh tế đặc biệt) càng phụ thuộc với nhau, càng liên
kết với nhau hơn [65, tr.66]. Một số tác giả khác nhận định, toàn cầu hoá là sự
phân công lao động ngày càng mạnh mẽ trên phạm vi toàn thế giới, thể hiện
trước hết qua sự phân chia các quá trình sản xuất thành nhiều bậc khác nhau
tại các địa điểm khác nhau (trên đây là quan điểm của H.R.Hemmer et at) [65,
tr.66]. Walter Good cho rằng, toàn cầu hoá chỉ khuynh hướng gia tăng các sản
Luận văn thạc sĩ Triết học Phạm Xuân
Hoàng

10
phẩm có các bộ phận cấu thành được chế tạo ở một loạt nước [3, tr.43]. Các
tác giả thuộc Trung tâm Phương Nam thì cho rằng: "Toàn cầu hoá là sự liên
kết các thị trường hàng hoá và tài chính được thuận lợi bởi quá trình tự do
hoá" [3, tr.44]. Còn Charles P.Oman định nghĩa: toàn cầu hoá là "sự tăng lên
hoặc một cách chính xác hơn là sự tăng ngày càng nhanh của các hoạt động
kinh tế vượt khỏi biên giới quốc gia và các khu vực" [3, tr.44]. Các nhà kinh
tế thuộc UNCTAD đưa ra một định nghĩa đầy đủ và cụ thể hơn rằng: "Toàn
cầu hoá liên hệ với các luồng giao lưu không ngừng tăng lên của hàng hoá và
nguồn lực vượt qua biên giới giữa các quốc gia cùng với sự hình thành và cấu
trúc tổ chức trên phạm vi toàn cầu nhằm quản lý các hoạt động và các giao
dịch quốc tế không ngừng gia tăng đó” [3, tr.44].
Tóm lại, các quan niệm này tập trung vào lĩnh vực kinh tế, vào xem xét
toàn cầu hoá dưới góc độ sản xuất, trao đổi, phân phối, lưu thông. Theo đó,
toàn cầu hoá chủ yếu diễn ra trên các lĩnh vực tài chính, thương mại, phân
công lao động quốc tế, các nguồn lực và các tổ chức kinh tế trên phạm vi toàn
cầu. Tiếp nối các quan điểm thuộc cách hiểu đó, Ủy ban Châu Âu quan niệm
một cách rõ ràng hơn, chủ yếu dưới góc độ của sự phát triển thị trường toàn
cầu. Theo Ủy ban này, toàn cầu hoá có thể định nghĩa như một quá trình mà
thông qua đó thị trường và sản xuất ở nhiều nước khác nhau đang ngày càng

trở nên phụ thuộc lẫn nhau do có sự năng động của buôn bán hàng hoá và
dịch vụ cũng như do có sự lưu thông tư bản và công nghệ. Đây không phải là
một hiện tượng mới mà là sự tiếp tục một tiến trình được khơi mào từ khá lâu.
Công bằng mà nói, các quan niệm trên đều có lý của nó, song chưa thể bao
quát hết bản chất, có những quan niệm quá chung chung, có quan niệm quá đi
sâu vào chi tiết mà chưa nêu lên được thuộc tính bản chất của toàn cầu hoá.
Ở Việt Nam ta, cũng có quan niệm coi toàn cầu hoá là toàn cầu hoá
kinh tế, là sự gia tăng nhanh chóng các yếu tố kinh tế vượt qua biên giới quốc
Luận văn thạc sĩ Triết học Phạm Xuân
Hoàng

11
gia dân tộc, khu vực, vươn tới quy mô toàn cầu. Các tác giả sách “Tìm hiểu
một số khái niệm trong văn kiện đại hội IX của Đảng”, đã chỉ ra rằng: “Toàn
cầu hoá là quá trình tăng lên mạnh mẽ những mối liên hệ ảnh hưởng, tác động
lẫn nhau, phụ thuộc lẫn nhau của tất cả các khu vực, các quốc gia, các dân tộc
trên thế giới, làm nổi bật hàng loạt biến cố có quan hệ lẫn nhau từ đó chúng
có thể phát sinh một loạt điều kiện mới. Toàn cầu hoá khiến cạnh tranh quốc
tế ngày càng gắt, làm sâu sắc hơn chuyên môn hoá và phân công lao động
quốc tế, kích thích gia tăng sản xuất không chỉ ở cấp độ quốc gia, mà còn mở
rộng ra trên toàn thế giới” [61, tr.94-95]. Bên cạnh đó, một số tác giả không
xem xét toàn cầu hoá là một quá trình đơn phương, riêng rẽ mà gắn toàn cầu
hoá với khu vực hóa xem đó là hai quá trình có mối liên hệ mật thiết với
nhau, không mâu thuẫn mà bổ sung cho cho nhau trong quá trình hội nhập
quốc tế. Theo họ, “các khái niệm toàn cầu hoá và khu vực hoá cần được hiểu
là quá trình hình thành và phát triển các thị trường toàn cầu và khu vực, làm
tăng sự tương tác và tuỳ thuộc lẫn nhau, trước hết về kinh tế, giữa các nước
thông qua sự gia tăng các luồng giao lưu hàng hoá và nguồn lực vượt qua biên
giới giữa các quốc gia cùng với sự hình thành các định chế, tổ chức nhằm
quản lí các hoạt động và giao dịch kinh tế quốc tế" [3, tr.47]. Như vậy, toàn

cầu hoá và khu vực hoá tuy là hai hiện tượng có những khác biệt nhất định
nhưng về cơ bản là thống nhất với nhau. Có thể xem khu vực hoá là một bộ
phận của quá trình toàn cầu hoá, là những bước để đi tới toàn cầu hoá. Nói
cách khác, khu vực hoá là quá trình toàn cầu hoá từng bộ phận và theo khu
vực địa lý, đời sống kinh tế của mỗi quốc gia.
Theo một nghiên cứu khác của các nhà khoa học Việt Nam, mặc dù có
sự khác nhau về cách trình bày và diễn, song về đại thể, có thể quy các quan
niệm về toàn cầu hoá trong và ngoài nước thành mấy quan niệm sau: toàn cầu
hoá là chủ nghĩa tư bản hoá toàn cầu; toàn cầu hoá là phương Tây hoá; toàn
Luận văn thạc sĩ Triết học Phạm Xuân
Hoàng

12
cầu hoá là một quá trình lịch sử khách quan; toàn cầu hoá là sự nhất thể hoá
kinh tế chính trị toàn cầu; toàn cầu hoá là toàn cầu hoá kinh tế.
Ở đây, chúng tôi muốn tập trung tìm hiểu một số quan niệm tiêu biểu.
Xung quanh quan điểm xem toàn cầu hoá là một quá trình lịch sử khách quan,
vẫn còn có các cách lý giải khác nhau. Nhiều ý kiến nhấn mạnh yếu tố phát
triển của lực lượng sản xuất, có ý kiến nhấn mạnh đến khía cạnh quan hệ sản
xuất. Nói tóm lại, các quan niệm này chú ý tới trình độ phát triển của phương
thức sản xuất, tập trung là do yếu tố kinh tế. Đúng là, toàn cầu hoá phản ánh
sự phát triển của lực lượng sản xuất trên quy mô toàn cầu, song vấn đề đặt ra
là, bản chất của các hoạt động kinh tế này ra sao. Quan niệm này nếu không
cẩn thận sẽ đưa lại cách hiểu đơn giản về toàn cầu hoá, trong khi đó, trên thực
tế, toàn cầu hoá là hiện tượng phức tạp, đầy mâu thuẫn. Theo họ, toàn cầu hoá
ra đời và phát triển trong quỹ đạo của chủ nghĩa tư bản. Những tiềm năng to
lớn về khoa học, công nghệ và kinh tế của loài người đã được chủ nghĩa tư
bản phát động lên, những lực lượng sản xuất tiềm tàng của xã hội được chủ
nghĩa tư bản tổ chức và phát triển. Tất cả các yếu tố đó đã tạo ra những thành
tựu làm cơ sở cho sự ra đời kinh tế thị trường với toàn cầu hoá. Cùng với đó,

các nước tư bản phát triển, các thế lực đế quốc chủ nghĩa đang triệt để lợi
dụng tính tất yếu khách quan của toàn cầu hoá kinh tế để bành trướng quan hệ
sản xuất tư bản chủ nghĩa ra toàn thế giới, để thiết lập vĩnh viễn hệ thống
phân công lao động thế giới và hệ thống quan hệ quốc tế theo mô hình trung
tâm - ngoại vi. Các nước tư bản phát triển ở phương Tây, đứng đầu thế giới là
Mỹ đang đóng vai trò trung tâm, còn lại là ngoại vi. Về thực chất, toàn cầu
hoá tư bản chủ nghĩa, phương Tây hoá, hay Mỹ hoá đều có sự giống nhau về
nội dung và tính chất vì chúng có lợi ích thống nhất với nhau về cơ bản.
Nhìn chung, các quan điểm ở trong nước đều đồng tình cho rằng toàn
cầu hoá hiện nay là xu thế tất yếu bắt nguồn từ tính chất xã hội của lao động
Luận văn thạc sĩ Triết học Phạm Xuân
Hoàng

13
sản xuất, là kết quả của sự phát triển lực lượng sản xuất ở trình độ quốc tế
hoá, hay nói cách khác, toàn cầu hoá là quá trình phát triển tất yếu của lực
lượng sản xuất ngày càng được mở rộng trên phạm vi quốc tế. Song, một số
quan niệm chưa phân biệt giữa toàn cầu hoá và quốc tế hoá. Thực ra, giữa
toàn cầu hoá (Globalization) và quốc tế hoá (Internationalizion) có những
điểm tương đồng nhưng chứa đựng sự khác biệt nhất định. Theo nhiều nhà
nghiên cứu, điểm tương đồng giữa toàn cầu hoá và quốc tế hoá thể hiện ở chỗ,
cả hai quá trình (quốc tế hoá và toàn cầu hoá) đều tập hợp những hiện tượng
đan xen và liên thông giữa các doanh nghiệp và thị trường các nước, trên cơ
sở đan xen và liên thông về thông tin, tri thức, kỹ thuật và công nghệ với
những phương tiện truyền thông và thể chế thị trường ở mức độ này hay mức
độ khác.
Điểm khác biệt giữa quốc tế hoá và toàn cầu hoá là ở chỗ, trong quá
trình quốc tế hoá, mối quan hệ giữa các dân tộc được thể chế hoá dựa trên
những tiêu chuẩn và hệ thống chung đã được cộng đồng quốc tế chấp nhận và
được thực hiện thông qua việc kí kết các thể chế dưới dạng hiệp định, điều

khoản và thông qua tập quán quốc tế. Trên một số phương diện, quốc tế hoá
là một bước để đi đến toàn cầu hoá. Còn toàn cầu hoá là tập hợp những hiện
tượng vốn chưa có tính toàn cầu nhưng đang vận động vươn lên thành hiện
tượng toàn cầu nhờ sử dụng những thành tựu mới của cuộc cách mạng khoa
học - công nghệ. Chính thông tin hiện đại với số hoá, tin học hoá và mạng hoá
đã thúc đẩy nhiều quá trình, hiện tượng trong xã hội loài người trở thành hiện
tượng và quá trình bao trùm lên toàn thế giới mà không phải thông qua một
điều ước quốc tế nào. Việc sử dụng tri thức trên phạm vi toàn cầu, sự chi phối
của thể chế thị trường và các công ty siêu quốc gia là bà đỡ chủ yếu cho toàn
cầu hoá kinh tế, văn hoá Nếu như quốc tế hoá còn mang nặng yếu tố chủ
quan thì toàn cầu hoá lại mang tính khách quan hơn.
Luận văn thạc sĩ Triết học Phạm Xuân
Hoàng

14
Ngoài ra, cũng cần phân biệt thuật ngữ toàn cầu hoá với thuật ngữ thế
giới hoá (Mundialization). Theo các nhà nghiên cứu, thế giới hoá có hai đặc
trưng. Thứ nhất, nó động chạm phần lớn đến các hoạt động của con người.
Thứ hai, nó không đối xứng theo nghĩa là tất cả các hoạt động của con người
đều không được thế giới hoá theo cùng nhịp điệu. Nhiều tác giả thừa nhận, thế
giới hoá đã tồn tại trong nhiều khu vực, nhưng vẫn chưa mang tính toàn cầu.
Đặc trưng quan trọng nhất của nó là không mang tính đối xứng và không
đồng nhất bởi vì tất cả các hoạt động của con người không được thế giới hoá
theo cùng một nhịp điệu. Trong khi các lĩnh vực tài chính doanh nghiệp được
thế giới hoá, thì các lĩnh vực khác như công bằng xã hội, đấu tranh chống
khủng bố, sự cộng tác về thiết chế và hành động của chính phủ… ngược lại
còn bị bó hẹp trong những giới hạn địa lý được xác định rõ [56, tr.42].
Theo chúng tôi, trình tự lôgic đi đến toàn cầu hoá diễn ra theo các cấp
độ từ quốc gia, khu vực tới toàn cầu, trong đó đan xen với nhau các quá trình
như thế giới hoá, khu vực hoá, quốc tế hoá, toàn cầu hoá mà cấp độ tổng hợp

cao nhất của sự vận động là toàn cầu hoá.
Trên thực tế, cho đến nay, các học giả chưa có sự thống nhất trong việc
nêu ra một định nghĩa chính xác về quá trình toàn cầu hoá. Một số nhà nghiên
cứu có ý định mở rộng khái niệm toàn cầu hoá như là một khái niệm chính trị,
trong khi đó một số khác lại cố gắng làm sáng tỏ khái niệm này trong phạm vi
kinh tế, chính trị và môi trường. Một số người tập trung phân tích những tác
động tích cực của toàn cầu hoá, một số khác lại nhấn mạnh những ảnh hưởng
tiêu cực, những mặt trái của nó đối với xã hội như vấn đề thu nhập, sự bất
công, bất bình đẳng xã hội Một số quan điểm nhấn mạnh đến tác động của
toàn cầu hoá đối với các quốc gia và lo ngại về sự mất vai trò của các nhà
nước, chính phủ quốc gia trong khi tham dự nền kinh tế toàn cầu không biên
giới như hiện nay.
Luận văn thạc sĩ Triết học Phạm Xuân
Hoàng

15
Từ những quan niệm khác nhau trong và ngoài nước, chúng tôi cho
rằng, toàn cầu hoá là quá trình quốc tế hoá mạnh mẽ lực lượng sản xuất kéo
theo gia tăng sự gắn kết, tác động, sự phụ thuộc lẫn nhau trên nhiều lĩnh vực
của đời sống xã hội; là quá trình mở rộng cả về biên độ, qui mô và cường độ
hoạt động giữa các quốc gia, dân tộc, các khu vực trên phạm vi toàn cầu.
Về tính tất yếu của toàn cầu hóa hay nói như một số tác giả là nguyên
nhân tất yếu dẫn đến toàn cầu hoá, cũng tồn tại nhiều quan điểm khác nhau.
Dưới góc độ kinh tế, đại diện tiêu biểu cho cách tiếp cận này là các nhà kinh
tế có uy tín của Cộng hoà Liên bang Đức H.V.R Hemmer, K.Bubl, R.Krueger
và H.Marienburg. Các tác giả đã nêu ra ba nguyên nhân quan trọng nhất đã
làm cho toàn cầu hoá trở thành xu thế tất yếu.
Một là, tự do lưu thông hàng hoá và vốn. Ở đây, các động lực để thúc
đẩy toàn cầu hoá thể hiện qua sự bãi bỏ ngày càng tăng của các biện pháp
quản lý vốn và sự tự do hoá các thị trường tài chính ở nhiều nước. Xu hướng

quốc tế hoá về thanh toán không có sự can thiệp, điều chỉnh của nhà nước
cũng như sự tự do hoá của từng nước và sự an toàn đảm bảo của chuyển đổi
tiền tệ đã bổ sung nền kinh tế, trao đổi quốc tế thành cộng đồng thanh toán
quốc tế. Bãi bỏ việc kiểm tra lưu thông vốn, bãi bỏ định mức lãi suất cao nhất
theo quy định của nhà nước cũng như việc thả nổi giao dịch ngân hàng cho
kinh tế tư nhân trong và ngoài nước tại nhiều nước đã góp phần quan trọng
cho con đường tiếp cận không thể ngăn cản và ngày càng tăng trên toàn thế
giới vào các thị trường tài chính và qua đó lưu thông quốc tế tự do trở thành
hiện thực.
Hai là, sự gia tăng năng lực sản xuất trên toàn thế giới. Một nguyên
nhân khác của toàn cầu hoá, theo các tác giả này là sự công nghiệp hoá
(Industrialization) trên phần lớn toàn thế giới mà sự ra đời của các nước công
nghiệp mới (NICs) là biểu hiện cụ thể. Trong hai thập niên vừa qua của thế kỷ
Luận văn thạc sĩ Triết học Phạm Xuân
Hoàng

16
XX, tại nhiều nước đang phát triển, năng lực sản xuất tăng lên, tham gia vào
nền kinh tế toàn cầu và tạo ra một cuộc cạnh tranh sâu sắc trên nhiều thị
trường… qua đó, những cản trở do thị trường quá nhỏ bé ngăn cản chiến lược
toàn cầu hoá đối với những công ty trong thời gian trước sẽ không còn tồn tại
nữa.
Ba là, sự tiến bộ kĩ thuật đã góp phần giảm chi phí vận chuyển và thông
tin liên lạc. Sự phát triển của kĩ thuật nhằm vượt qua những giới hạn khoảng
cách không gian và thời gian trong sự chuyển động của con người. Công nghệ
vận chuyển và thông tin liên lạc mới, trước hết tạo điều kiện cho toàn cầu hoá
trong điều kiện và tình hình hiện nay. Ví dụ, trước chiến tranh thế giới thứ II
(từ thế kỷ XVI - XVIII) phương tiện vận chuyển chủ yếu là tàu hoả, tàu thuỷ,
những động cơ chạy bằng máy hơi nước. Sau chiến tranh Thế giới thứ II, vận
chuyển chủ yếu được thực hiện bằng máy bay, tàu vận tải quy mô lớn,

container… Từ thập kỷ 70 của thế kỷ XX đến nay, giao dịch chủ yếu được
thực hiện thông qua Internet và các Lan Webs (mạng nội bộ) [62, tr.20]. Tóm
lại, theo các tác giả này, nguyên nhân tất yếu dẫn đến toàn cầu hoá chủ yếu là
về mặt kinh tế. Những nhu cầu về trao đổi, giao lưu của kinh tế, sự nâng cao
năng lực sản xuất, sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật và công nghệ đã tạo ra
khả năng và thúc đẩy quá trình toàn cầu hoá diễn ra ngày càng nhanh và mạnh
hơn. Ba nguyên nhân trên đây cũng được nhiều nhà nghiên cứu khác đề cập
và xác định là những nguyên nhân quan trọng nhất dẫn đến toàn cầu hoá.
Ở Việt Nam, các tác giả bàn về toàn cầu hoá đã có những cách diễn giải
khác nhau trong sự thống nhất về các nhân tố chủ yếu quy định tính tất yếu
này.
Một là, do sự phát triển của lực lượng sản xuất mà biểu hiện tập trung
nhất là ở sự phát triển của khoa học kỹ thuật, công nghệ.
Luận văn thạc sĩ Triết học Phạm Xuân
Hoàng

17
Hai là, sự phát triển cả về chiều rộng lẫn chiều sâu của kinh tế thị
trường hiện đại làm cho nền kinh tế thế giới được vận hành
Ba là, sự bành trướng của các công ty xuyên quốc gia (TNCs) tạo ra sự
liên kết giữa các nền kinh tế quốc gia làm cho nền kinh tế thế giới được gắn
kết với nhau hơn.
Bốn là, sự xuất hiện các tổ chức quốc tế (IOs) đưa đến sự ra đời các
định chế kinh tế toàn cầu.
Năm là, sự chuyển đổi chính sách của các quốc gia theo hướng mở cửa
tự do lưu thông các yếu tố của quá trình sản xuất.
Sáu là, sự nẩy sinh các vấn đề toàn cầu (global problems) đòi hỏi phải
có sự phối hợp các quốc gia dân tộc trên bình diện quốc tế để cùng giải quyết.
Bảy là, do sự tương tác của khu vực hoá, các xu thế khác và toàn cầu
hoá [56, tr.49-50; 65, tr.28-29].

Nhìn chung, các quan điểm của các nhà nghiên cứu ở Việt Nam có
nhiều điểm tiếp cận trùng với các tiếp cận về nguyên nhân tất yếu của toàn
cầu hoá của các nhà nghiên cứu trên thế giới. Song, các tác giả Việt Nam
không chỉ thấy được tính tất yếu về mặt kinh tế mà còn thấy được các nguyên
nhân chính trị - xã hội khác như các vấn đề toàn cầu, nguyên nhân chính trị,
sự chủ động chuyển đổi chính sách của các quốc gia, thấy được mối liên hệ
giữa khu vực hoá và toàn cầu hoá trong việc thúc đẩy toàn cầu hoá.
Chúng tôi cho rằng, các quan niệm trên vừa nêu lên các nguyên nhân
chính và các nhân tố có tính điều kiện thúc đẩy quá trình toàn cầu hoá. Chúng
tôi đồng ý với các tác giả trên ở ba khía cạnh sau và cho đó là những nguyên
nhân chủ yếu, quan trọng nhất của toàn cầu hoá hiện nay.
Một là, sự phát triển cao của lực lượng sản xuất mà tập trung là ở sự
phát triển cao của trình độ khoa học, kỹ thuật. Quả thật, sự phát triển như vũ
Luận văn thạc sĩ Triết học Phạm Xuân
Hoàng

18
bão của khoa học, kỹ thuật đã làm phá vỡ hàng rào ngăn cách địa lý trong
giao dịch của con người trên các mặt của quốc gia. Điều này đã thúc đẩy quốc
tế hoá kinh tế lên một thời kỳ mới, thời kỳ toàn cầu hoá nền kinh tế thế giới.
Hai là, sự phát triển mạnh mẽ của kinh tế thị trường. Quá trình quốc tế
hoá, toàn cầu hoá có sự gắn bó chặt chẽ với tiến trình phát triển của kinh tế thị
trường từ trong các nước tới thị trường toàn cầu. Chúng ta biết rằng, quốc tế
hoá nảy sinh gắn liền với sự hình thành của thị trường liên quốc gia. Kinh tế
thị trường càng phát triển thì nhu cầu về thị trường và nhiên liệu càng trở nên
quan trọng. Kinh tế thị trường càng gắn bó phụ thuộc chặt chẽ vào nhau. Kinh
tế thị trường phát triển đã mở ra cho sự gia tăng xu thế quốc tế hoá thể hiện
trên hai khía cạnh chính. Thứ nhất, kinh tế thị trường mở ra cơ sở, điều kiện
cho sự phát triển của lực lượng sản xuất, làm cho quy mô sản xuất không bó
hẹp trong phạm vi của từng quốc gia mà mang tầm quốc tế. Như vậy, điều đó

cũng có nghĩa là, kinh tế thị trường thúc đẩy quá trình phân công lao động
quốc tế, gắn các quốc gia trong sự ràng buộc của sản xuất và tiêu thụ. Thứ
hai, kinh tế thị trường phát triển ở các quốc gia đưa lại cơ chế thống nhất cho
xử lý các mối quan hệ kinh tế, đó là cơ chế thị trường. Có thể dễ dàng nhận
thấy rằng, ngày nay, nền kinh tế thế giới thống nhất ở cơ chế vận hành: cơ chế
thị trường. Đây chính là cơ sở cho sự gia tăng của xu thế toàn cầu hoá kinh tế.
Ba là, sự gia tăng của các vấn đề toàn cầu. Sau khi kết thúc chiến tranh
lạnh, nhân loại đang bước vào thời kỳ hoà bình, hợp tác và phát triển, song,
nhiều vấn đề có tính toàn thế giới nổi cộm, bức xúc và có quan hệ nhân quả
với nhau cho nên đòi hỏi phải có quan điểm tổng thể khi giải quyết và đòi hỏi
phải có sự nỗ lực của mọi quốc gia. Những vấn đề toàn cầu đó là: vũ khí huỷ
diệt, nạn khủng bố, sự ô nhiễm và suy giảm môi trường, vấn đề ngày càng
khan hiếm nhiên liệu và cạn kiệt năng lượng, bùng nổ dân số… Các vấn đề
trên liên quan tới mọi quốc gia, nó tác động trên phạm vi toàn thế giới, ngày
Luận văn thạc sĩ Triết học Phạm Xuân
Hoàng

19
càng tăng tính chất phức tạp và mức độ nghiêm trọng. Vì lợi ích trước hết của
mỗi quốc gia, cũng như lợi ích chung của toàn nhân loại, thế giới đòi hỏi phải
có sự hợp sức, hợp tác của cả cộng đồng. Vì bản thân mỗi quốc gia dân tộc dù
có tiềm lực đến đâu cũng không thể giải quyết nổi vấn đề liên quan đến toàn
thể thế giới. Đây chính là cơ sở khách quan quy định, thúc đẩy những cố gắng
phối hợp liên kết sức mạnh, là cơ sở cho việc tiến tới thống nhất những quy
trình phát triển kinh tế.
Tác giả Hoàng Khắc Nam, lại có một các tiếp cận khác về tính tất yếu
của toàn cầu hoá [65, tr.52]. Tác giả này đã tiếp cận nghiên cứu tính tất yếu
của toàn cầu hoá từ cơ sở khách quan và chủ quan của nó, dưới góc độ quốc
tế học. Theo tác giả này, quy luật mở rộng quan hệ quốc tế đó chính là cơ sở
khách quan của quá trình toàn cầu hoá. Bởi lẽ, các giá trị được phổ biến ra

phạm vi và cấp độ toàn cầu chủ yếu thông qua quan hệ quốc tế. Cùng với sự
mở rộng các quan hệ đó, các giá trị chung dần dần được hình thành, quan hệ
quốc tế càng mở rộng, các giá chung càng dễ đạt tới quy mô toàn cầu. Toàn
cầu hoá xẩy ra khi quan hệ quốc tế đã phát triển tới mức độ nhất định và đạt
tới quy mô toàn cầu.
Về mặt chủ quan, đó là ý thức của con người về tính thống nhất chung
cho nhân loại và thế giới. Ngay từ xa xưa, con người đã có ý thức về tính
thống nhất của nhân loại, thông qua hình ảnh những vị thần trị vì loài người
mà những vị thần này do các cộng đồng khác nhau tạo nên. Ý thức đó được
củng cố, khẳng định khi những phát kiến địa lý chứng minh trái đất là hình
cầu, rằng không gian sinh tồn của nhân loại là có giới hạn. Nhận thức về tính
chung nhất của con người và thế giới là bền vững và phổ biến, đó chính là cơ
sở và động lực đưa các giá trị chung. Nhận thức này chính là cơ sở chủ quan
của toàn cầu hoá. Tác giả này cũng đã thấy rõ giữa hai cơ sở này có mối quan
hệ biện chứng với nhau. Sự phát triển của quan hệ quốc tế mở rộng thế giới
Luận văn thạc sĩ Triết học Phạm Xuân
Hoàng

20
quan của con người, qua đó, các giá trị chung càng được nhận thức. Ngược
lại, thông qua quan hệ quốc tế, ý thức về tính chung nhất của nhân loại và thế
giới đã đưa con người xích gần lại với nhau. Cả hai quá trình này cùng hướng
tới một điểm chung: toàn cầu hoá. Trên đây là một quan điểm khá thuyết
phục, đáng để chúng ta suy ngẫm về tính tất yếu của toàn cầu hoá.
Quay trở lại Mác, chúng ta xem Mác đã bàn gì về vấn đề này. Như
chúng ta đã biết, thời đại Mác sống, bối cảnh kinh tế - xã hội khác xa với thời
đại ngày nay. Nhịp độ và cường độ phát triển sản xuất chưa diễn ra nhanh và
mạnh như ngày nay, các mối quan hệ cũng chỉ dừng lại ở cấp độ quốc gia,
song phương và khu vực, song với phép biện chứng duy vật - một công cụ
đúng đắn và quan trọng trong nhận thức và dự cảm thiên tài của mình, C.Mác

và Ph.Ăngghen đã có những dự báo về một quá trình sẽ diễn ra đó chính là
toàn cầu hoá như chúng ta đang chứng kiến hôm nay. Dưới cách nhìn của chủ
nghĩa Mác-Lênin, vấn đề toàn cầu hoá được tiếp cận dưới góc độ lịch sử và
mang tính biện chứng, đó chính là lí luận về thị trường thế giới tư bản chủ
nghĩa, hay nói cách khác là từ góc độ xem xét sự phát triển của lực lượng sản
xuất dưới chủ nghĩa tư bản.
Trong Tuyên ngôn của Đảng cộng sản (1848), Mác-Ăngghen đã dự báo
rằng, với sự phát triển mạnh mẽ của lực lượng sản xuất sẽ dẫn đến phân công
lao động xã hội rộng rãi làm mở rộng nhu cầu trao đổi hàng hoá; trao đổi hàng
hoá mở rộng ra trên phạm vi thế giới hình thành thị trường thế giới, thị trường
thế giới, đến lượt nó liên kết các quốc gia khu vực trên toàn cầu.
Khi nghiên cứu về toàn cầu hoá, các lý thuyết gia của trường phái lý
thuyết Chức năng và Hiện thực (của Chủ nghĩa tư bản) giải thích nguyên nhân
của quá trình này trước hết là động cơ chính trị. Họ cho rằng, xuất phát điểm
của liên kết giữa các nước trong khuôn khổ khu vực hay toàn cầu là mối quan
tâm về an ninh. Ví dụ, sự ra đời của cộng đồng Than thép Châu Âu chủ yếu là
Luận văn thạc sĩ Triết học Phạm Xuân
Hoàng

21
do mối quan tâm về an ninh của Pháp - Đức; Asean được lập ra cũng trên cơ
sở mối quan tâm về an ninh của các nước thành viên. Ở đây, có thể nói rõ
hơn, đó là an ninh về mặt kinh tế.
Khác với quan điểm trên, quan điểm mácxit xem toàn cầu hoá là một
xu thế lịch sử tất yếu bắt nguồn từ tính chất xã hội của lao động sản xuất và là
kết quả của sự phát triển và quốc tế hoá của lực lượng sản xuất tư bản chủ
nghĩa. Xã hội loài người được hình thành và phát triển thông qua quá trình lao
động sản xuất để tạo ra của cải vật chất và đấu tranh giữa con người với nhau
để bảo vệ sự sinh tồn. Quá trình lao động và sản xuất đó buộc con người từng
bước phải tập hợp lại với nhau thành những cộng đồng và liên kết nhiều cộng

đồng thành những dân tộc và tổ chức thành các quốc gia, các quốc gia tập hợp
lại thành từng nhóm quốc gia và cộng đồng thế giới. Đó là quá trình phát triển
xã hội một cách tự nhiên và hợp lôgíc, hay nói cách khác đó là một quá trình
"lịch sử tự nhiên". Bản thân lao động sản xuất và đấu tranh sinh tồn là một
hoạt động xã hội và tính xã hội của hoạt động này ngày càng cao hơn, thể
hiện ở chỗ, ngày càng có nhiều công việc và sản phẩm được thực hiện không
chỉ bởi một cá nhân mà còn do sự đóng góp của nhiều thành viên ở các quốc
gia khác nhau. Xã hội càng phát triển thì sự phân công lao động xã hội và
chuyên môn hoá sản xuất trên phạm vi quốc gia cũng như phạm vi quốc tế
ngày càng sâu rộng hơn và tinh vi hơn. Mức độ quốc tế hoá các quá trình lao
động sản xuất, của lực lượng sản xuất đã dẫn tới sự thay đổi chỉnh thể đời
sống xã hội hình thành nên "lịch sử thế giới". Việc trao đổi sản phẩm và các
yếu tố của quá trình sản xuất giữa người với người, giữa cộng đồng và các
quốc gia với nhau có đóng góp hết sức quan trọng vào quá trình quốc tế hoá
lực lượng sản xuất. Đây là yếu tố trực tiếp thúc đẩy quá trình toàn cầu hoá.
Trong các xã hội xa xưa, các quốc gia, các dân tộc tồn tại tương đối
biệt lập, ít có quan hệ với nhau. Nhưng cùng với sự phát triển của lực lượng
Luận văn thạc sĩ Triết học Phạm Xuân
Hoàng

22
sản xuất và trao đổi hàng hoá, sự mở rộng thị trường thì các mối quan hệ cũng
dần vượt ra khỏi ranh giới quốc gia, hình thành các mối quan hệ quốc tế và
quá trình quốc tế hoá bắt đầu. Quá trình này đặc biệt được đẩy mạnh với sự ra
đời và phát triển của chủ nghĩa tư bản. Cùng với nó, những phát kiến về địa lí,
những cuộc chiến tranh xâm lược thuộc địa, cuộc cách mạng công nghiệp và
những thành tựu khoa học, công nghệ, sự mở rộng thị trường quốc tế và các
mối giao lưu quốc tế đã làm cho lực lượng sản xuất của thế giới, đặc biệt là
châu Âu và Bắc Mỹ, tăng lên mạnh mẽ, làm cho chủ nghĩa tư bản thắng thế ở
đây.

Quá trình này cũng đồng thời xoá đi tính chất cát cứ, biệt lập khép kín
trong phạm vi quốc gia, mở rộng không gian hoạt động của chủ nghĩa tư bản
trên phạm vi toàn cầu. Nhận định về quá trình này, C.Mác và Ph.Ăngghen đã
có nhiều luận điểm tiêu biểu. Hai ông cho rằng: "Đại công nghiệp đã tạo ra thị
trường thế giới…" [37, tr.598]; và chính "do bóp nặn thị trường thế giới, giai
cấp tư sản đã làm cho sản xuất và tiêu dùng của tất cả các nước mang tính
chất thế giới" [37, tr.601]. Đến lượt nó, thị trường thế giới đã "thay cho tình
trạng cô lập trước kia của các địa phương và dân tộc vẫn tự cung tự cấp, ta
thấy phát triển những quan hệ phổ biến, sự phụ thuộc phổ biến giữa các dân
tộc mà sản xuất vật chất đã như thế thì sản xuất tinh thần cũng không kém
như thế" [37, tr.602]. Và cũng chính "nhờ cải tiến mau chóng công cụ sản
xuất và làm cho các phương tiện giao thông trở nên vô cùng tiện lợi, giai cấp
tư sản lôi cuốn đến tất cả những dân tộc dã man nhất vào trào lưu văn minh.
Giá rẻ của những sản phẩm của những giai cấp ấy là trọng pháo bắn thủng tất
cả những bức vạn lí trường thành và buộc những người dã man bài ngoại một
cách ngoan cường nhất cũng phải hàng phục" [37, tr.602]. Giai cấp tư sản
trong quá trình phát triển, do nhu cầu về thị trường tiêu thụ, chúng đã mở rộng
phạm vi địa bàn hoạt động ra trên phạm vi toàn cầu. Điều này cũng đã được
Luận văn thạc sĩ Triết học Phạm Xuân
Hoàng

23
Mác và Ph.Ăngghen chỉ rõ: “Vì luôn luôn bị thúc đẩy bởi những nhu cầu về
những nơi tiêu thụ sản phẩm, giai cấp tư sản xâm lấn khắp hoàn cầu. Nó phải
xâm nhập vào khắp nơi, trụ lại ở khắp nơi và thiết lập những mối liên hệ ở
khắp nơi” [37, tr.601]. Những phân tích trên của Mác-Ăngghen cho thấy, sự
phát triển lực lượng sản xuất và quốc tế hoá sản xuất dưới chủ nghĩa tư bản đã
làm cho các nước gắn lại với nhau và tạo ra xu thế toàn cầu hoá. Chủ nghĩa
Mác đã nhấn mạnh mặt trái của thị trường thế giới, phân tích tương đối đầy
đủ những mặt tích cực của nó, đồng thời đã có cách giải thích sâu sắc, toàn

diện và thuyết phục hơn các học thuyết khác về nguyên nhân dẫn đến toàn cầu
hoá.
Trên cơ sở quan niệm của chủ nghĩa Mác và nghiên cứu thực tiễn quá
trình toàn cầu hoá, chúng tôi cho rằng, toàn cầu hoá hiện nay là kết quả tất
yếu của quá trình xã hội hoá lực lượng sản xuất, của tốc độ phát triển nhanh
của lực lượng sản xuất, bắt nguồn từ sự thúc đẩy của khoa học kỹ thuật và
công nghệ hiện đại, nó là kết quả tất yếu của sự phát triển sâu rộng, mạnh mẽ
nền kinh tế thị trường trên toàn thế giới, của sự phân công lao động quốc tế,
sự mở rộng ngày càng lớn hơn trong không gian và thời gian các mối quan hệ
giao lưu phổ biến của loài người và sự xuất hiện của những vẫn đề toàn cầu
cấp bách. Nói cách khác, toàn cầu hoá là kết quả của sự tích lũy về lượng, đạt
tới một chất lượng mới, xu thế khu vực hoá, quốc tế hoá đã chuyển thành xu
thế toàn cầu hoá trong thời đại ngày nay. Nó là một trong những xu thế lịch sử
khách quan do quy luật phát triển của lực lượng sản xuất chi phối, vì thế, đó
cũng là quá trình không thể đảo nghịch và không thể chối bỏ.
1.2. Nội dung, đặc điểm của quá trình toàn cầu hoá trong bối cảnh hiện
nay
Toàn cầu hoá là một quá trình đang diễn ra với những biến đổi phức
tạp, khó lường, chắc chắn sẽ còn nhiều nội dung, đặc điểm mà đến bây giờ
Luận văn thạc sĩ Triết học Phạm Xuân
Hoàng

24
chúng ta cũng chưa thể nhận thức hết được. Tuy nhiên, không phải vì thế mà
các nhà nghiên cứu không thể không xác định được những nội dung và đặc
điểm hiện thời của nó. Thông qua những phương pháp nghiên cứu, cách tiếp
cận của mình, các nhà nghiên cứu đã chỉ ra những đặc điểm cơ bản của toàn
cầu hoá trong bối cảnh hiện nay.
Phần lớn các nhà nghiên cứu xem xét đặc điểm đặc trưng của toàn cầu
hoá gắn liền với bản chất, tính chất của nó, vì trong thực tế, đây là một quá

trình kinh tế-chính trị-xã hội phức tạp khó tách bạch từng mặt để xem xét một
cách cụ thể, riêng biệt. Nhìn chung, khi bàn về đặc điểm của quá trình này các
nhà nghiên cứu đi vào mấy khía cạnh sau: nội dung của toàn cầu hoá hiện nay
là gì, ai giữ vai trò chi phối toàn cầu hoá, lợi ích của toàn cầu hoá thuộc về ai,
toàn cầu hoá có tác động hay không và như thế nào đến các lĩnh vực của đời
sống xã hội… phương thức chuyển tải toàn cầu hoá, xu thế vận động tiếp theo
là như thế nào?…
Một số nhà nghiên cứu ở Việt Nam đã đi tìm cầu trả lời và dần dần
phác họa những nét cơ bản về bức tranh toàn cầu hoá trong bối cảnh hiện nay.
Các tác giả trong cuốn “Góp phần nhận thức thế giới đương đại”, coi toàn cầu
hoá hiện nay là toàn cầu hoá kinh tế diễn ra ngày càng sâu rộng và mạnh mẽ,
trong quá trình đó diễn ra sự bất bình đẳng giữa các nước phát triển và các
nước đang phát triển và xu hướng đó ngày càng tăng, hố ngăn cách giàu
nghèo giữa các nước và trong từng nước ngày càng lớn. Các tác giả cũng cho
rằng, quá trình toàn cầu hoá kinh tế đang tác động mạnh mẽ đến các lĩnh vực
chính trị, an ninh, đối ngoại, văn hoá - tư tưởng… Trong quá trình toàn cầu
hoá, xu thế tự do hoá kinh tế song song với xu hướng bảo hộ mậu dịch, toàn
cầu hoá đi liền với phản toàn cầu hoá [5, tr.201].
Tác giả Tô Huy Rứa trong một phát biểu ở một cuộc hội thảo gần đây,
lại chú ý tới vấn đề trụ cột của toàn cầu hoá là các tập đoàn kinh tế xuyên

×