1
TRƯỜNG ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRUNG TÂM ĐÀOTẠO VÀ BỒI DƯỠNG GIẢNG VIÊN LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ
***
ĐÀO THỊ NGA
LUẬN VĂN THẠC SỸ
ĐỀ TÀI
Giáo dục đạo đức mới cho sinh viên các trường cao
đẳng nghề ở Hà Nội trong xu thế hội nhập quốc tế
hiện nay
Chuyên ngành: Triết học
Mã số: 602280
HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS NGUYỄN THẾ KIỆT
Hà Nội - 2012
2
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU 5
1. Lý do chọn đề tài 5
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài 7
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 10
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 11
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu 11
6. Dự kiến đóng góp mới và ý nghĩa thực tiễn của đề tài 11
7. Kết cấu của luận văn 12
Chương 1. Tầm quan trọng và nội dung của việc giáo dục đạo đức mới cho
sinh viên các trường cao đẳng nghề ở Hà Nội trong xu thế hội nhập quốc tế
hiện nay 12
1.1. Đạo đức mới và tầm quan trọng của việc giáo dục đạo đức mới cho
sinh viên các trường cao đẳng nghề ở Hà Nội trong xu thế hội nhập quốc tế
hiện nay 13
Chương 2. Giáo dục đạo đức mới cho sinh viên trường cao đẳng nghề ở Hà
Nội trong xu thế hội nhập quốc tế hiện nay - thực trạng, nguyên nhân và
những vấn đề đặt ra 60
2.1. Thực trạng giáo dục đạo đức mới cho sinh viên các trường cao đẳng
nghề ở Hà Nội trong xu thế hội nhập quốc tế hiện nay và nguyên nhân của
nó 60
2.2. Một số vấn đề đặt ra đối với việc giáo dục đạo đức mới cho sinh viên
các trường cao đẳng nghề ở Hà Nội trong xu thế hội nhập quốc tế hiện nay . 76
Chương 3. Phương hướng và một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao hiệu
quả giáo dục đạo đức mới cho sinh viên các trường cao đẳng nghề ở Hà Nội
trong xu thế hội nhập quốc tế hiện nay 81
3.1. Phương hướng nhằm nâng cao hiệu quả giáo dục đạo đức mới cho sinh
viên các trường cao đẳng nghề ở Hà Nội trong xu thế hội nhập quốc tế hiện
nay 81
3.2. Một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao hiệu quả giáo dục đạo đức
mới cho sinh viên các trường cao đẳng nghề ở Hà Nội trong xu thế hội
nhập quốc tế hiện nay 91
Kết luận 108
3
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 110
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
PTA: Thỏa thuận thương mại ưu đãi
4
FTA: Khu vực mậu dịch tự do
EFTA : Khu vực mậu dịch tự do Bắc Âu
NAFTA: Khu vực mậu dịch tự do bắc Mỹ
AFTA : Khu vực Mậu dịch tự do ASEAN
CU : Liên minh thuế quan
ASEAN: Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á
EU: Liên minh châu Âu
NATO: Tổ chức Hiệp ước Bắc Đại Tây Dương
CENTO: Tổ chức Hiệp ước Trung tâm
SEATO: Tổ chức Hiệp ước Đông Nam Á
ANZUS: Hiệp ước Liên minh Úc-Niudilân-Mỹ
OAS: Tổ chức thống nhất châu Mỹ
AU: Tổ chức Thống nhất châu phi
PMC: Hội nghị sau Hội nghị Bộ trưởng Ngoại giao
ADMM: Hội nghị Bộ trưởng quốc phòng ASEAN
ADMM+: Hội nghị Bộ trưởng quốc phòng ASEAN mở rộng
EAS: Hội nghị cấp cao Đông Á
5
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Đạo đức là một bộ phận của kiến trúc thượng tầng, của ý thức xã hội, một
mặt bị quy định bởi cở sở hạ tầng, tồn tại xã hội; mặt khác nó cũng có tính độc
lập tương đối và tác động trở lại đối với cơ sở hạ tầng, tồn tại xã hội. Khi cơ sở
hạ tầng thay đổi, nền tảng kinh tế thay đổi, đạo đức xã hội cũng phải thay đổi
theo cho phù hợp và tác động tích cực thúc đẩy phát triển kinh tế. Xu thế hội
nhập quốc tế đã và đang tác động mạnh mẽ đến đạo đức xã hội và ngược lại, để
phát triển nền kinh tế thị trường rất cần xây dựng củng cố, phát triển những
chuẩn mực đạo đức truyền thống trên cơ sở mới và bổ sung những chuẩn mực
đạo đức phù hợp.
Trong quá trình xây dựng nền văn hoá mới, vấn đề hình thành hệ giá trị
và chuẩn mực xã hội mới phù hợp với truyền thống, bản sắc dân tộc và yêu cầu
của thời đại là một trong những vấn đề có ý nghĩa quyết định. Giải quyết vấn đề
này trong lĩnh vực đạo đức chính là làm hình thành hệ giá trị và chuẩn mực đạo
đức mới phù hợp với truyền thống và yêu cầu của thời đại.
Trong các nhà trường nước ta hiện nay luôn coi trọng và quán triệt sâu
sắc, toàn diện việc giáo dục tố chất, lấy giáo dục con người làm gốc, giáo dục
đạo đức là ưu tiên, coi sự nghiệp “trồng người” là nhiệm vụ cơ bản của giáo
dục. Chúng ta phải nỗ lực bồi dưỡng con người phát triển toàn diện đức – trí –
thể – mỹ với phương châm dạy chữ, dạy nghề, dạy làm người.
Nghị quyết của Bộ Chính trị về cải cách giáo dục đã chỉ rõ: Giáo dục thế
hệ trẻ yêu quê hương, Tổ quốc XHCN và tinh thần quốc tế vô sản, ý thức làm
chủ tập thể, tinh thần đoàn kết, thân ái, yêu nhân dân, yêu lao động, yêu khoa
học, có ý thức kỷ luật, tôn trọng và bảo vệ của công, đức tính thật thà, khiêm
tốn, dũng cảm…
6
Trong những năm qua, xu thế hội nhập đã và đang tạo ra những sự
chuyển biến sâu sắc đối với mọi mặt của đời sống xã hội ở nước ta. Việc đi vào
kinh tế thị trường, mở rộng hội nhập quốc tế, chúng ta có nhiều thành tựu to lớn
rất đáng tự hào về phát triển kinh tế - xã hội, văn hóa - giáo dục. Bên cạnh sự
phồn vinh về kinh tế thì về mặt xã hội, trong đó có đạo đức đang nảy sinh ngày
càng nhiều những vấn đề, những tình huống phức tạp, nhức nhối, những mất
mát giá trị truyền thống, những lệch lạc trong định hướng giá trị và lối sống
trong nhiều tấng lớp xã hội, trong đó có thanh niên, sinh viên. Một bộ phận sinh
viên suy thoái về đạo đức, lối sống, thiếu ước mơ và hoài bão, lập thân, lập
nghiệp. Trong thi cử, hiện tượng quay cóp, gian lận đang có xu hướng gia tăng,
ý thức tổ chức kỷ luật kém, tinh thần trách nhiệm, ý thức cộng đồng thấp. Thêm
vào đó, sự du nhập văn hoá phẩm đồi truỵ phản nhân văn thông qua các phương
tiện như phim ảnh, games, mạng Internet… làm ảnh hưởng đến những quan
điểm về tình bạn, tình yêu, ảnh hưởng đến đạo đức trong lứa tuổi thanh thiếu
niên và học sinh hiện nay. Đây là tình huống có vấn đề, là nỗi lo chung của toàn
xã hội. Thực tế đó cho thấy, việc giáo dục đạo đức mới trong xã hội ta, nhất là
đối với thanh niên, sinh viên là nhiệm vụ hết sức cần thiết và cấp bách. Ở đây,
nhấn mạnh đến việc giáo dục đạo đức mới cho sinh viên không chỉ xuất phát từ
tình huống suy thoái đạo đức hiện nay, cần phải cứu chữa mà quan trọng hơn
còn vì định hướng phát triển lâu dài trong tương lai với tầm nhìn và hành động
chiến lược. Bởi vì, sinh viên là tầng lớp xã hội đặc thù, là bộ phận ưu tú, là
nguồn nhân lực chất lượng cao trong tương lai của đất nước. Việc xây dựng đội
ngũ trí thức tương lai đủ đức đủ tài đáp ứng sự nghiệp cách mạng của Đảng, của
dân tộc có tầm quan trọng đặc biệt. Sinh viên các trường cao đẳng nghề ở Hà
Nội cũng nằm trong vấn đề chung đó.
Mặt khác, ở các trường cao đẳng nghề, việc đào tạo ra những kỹ sư thực
hành có tay nghề thành thạo, có khả năng làm việc, không phải qua đào tạo lại
được chú trọng nhiều hơn. Việc giáo dục đạo đức chưa được chú ý đúng mức ở
một số nơi trong các trường cao đẳng nghề. Do vậy, giáo dục đạo đức trong các
7
trường cao đẳng nghề cần phải được chú ý nhiều hơn để đào tạo người kỹ sư
thực hành có tay nghề thành thạo, có đạo đức tốt, đáp ứng yêu cầu của công
cuộc đổi mới.
Xuất phát từ những lý do khách quan, chủ quan như đã phân tích, tôi
chọn đề tài: “Giáo dục đạo đức mới cho sinh viên các trường cao đẳng nghề
ở Hà Nội trong xu thế hội nhập quốc tế hiện nay” làm luận văn tốt nghiệp
thạc sĩ triết học.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Trong thời gian qua đã có nhiều công trình khoa học về vấn đề đạo đức
mới và giáo dục đạo đức mới từ nhiều góc độ khác nhau. Đó là:
+ Quan điểm về đạo đức trong điều kiện kinh tế thị trường của các nhà lý
luận Việt Nam được trình bày trong quyển sách "Mấy vấn đề đạo đức trong
điều kiện kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay" do Nguyễn Trọng Chuẩn và
Nguyễn Văn Phúc (đồng chủ biên) (Nxb. Chính trị quốc gia, 2003). Các tác giả
đã phân tích những vấn đề xung quanh một số vấn đề lý luận, thực trạng và
những phương hướng, giải pháp để xây dựng đạo đức trong điều kiện kinh tế thị
trường ở nước ta hiện nay khá sâu sắc nhưng chưa hệ thống vì đây là tập hợp
những bài viết riêng lẻ của nhiều tác giả với những quan niệm khác nhau.
+ Cuốn “Giáo dục đạo đức mới cho cán bộ, đảng viên trong thời kỳ đẩy
mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước” của Ban Tư tưởng – Văn hóa
Trung ương (Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2004) đã đề cập một cách có hệ
thống nội dung lý luận cũng như thực tiễn đạo đức xã hội của Chủ nghĩa Mác –
Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh; đồng thời đã khái quát một cách cô đọng những
chuẩn mực, truyền thống giá trị đạo đức của dân tộc ta, những nguyên tắc
phương hướng và giải pháp xây dựng đạo đức mới cho đội ngũ cán bộ, đảng
viên nhằm thực hiện thắng lợi đường lối cách mạng Việt Nam.
+ Quyển sách “Đạo đức xã hội ở nước ta hiện nay - Vấn đề và giải pháp”
do Nguyễn Duy Quý chủ biên (Nxb. Chính trị quốc gia, 2006) tìm hiểu vấn đề
đạo đức xã hội dưới tác động, ảnh hưởng của kinh tế, chính trị của nước ta hiện
8
nay và phân tích đạo đức của từng nhóm đối tượng, hoàn cảnh cụ thể đạo đức
của cán bộ, đảng viên và công chức, đạo đức của sinh viên, đạo đức trong lao
động, giao tiếp, đạo đức trong gia đình.
+ Quyển sách “Xây dựng đạo đức mới trong nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa” của Trịnh Duy Huy (Nxb.Chính trị quốc gia, 2009),có
nội dung khá đầy đủ và hệ thống về lý luận, về thực trạng và một số phương
hướng, giải pháp để xây dựng đạo đức mới trong điều kiện kinh tế thị trường ở
nước ta hiện nay. Tác giả cho rằng xây dựng và phát triển đạo đức mới phải dựa
trên cơ sở kế thừa và phát huy các giá trị truyền thống của dân tộc Việt Nam và
chỉ ra những chuẩn mực cơ bản của đạo đức mới đang được xây dựng ở nước ta
bao gồm: chủ nghĩa yêu nước và tinh thần quốc tế trong sáng; tinh thần tập thể,
ý thức cộng đồng; tinh thần lao động tự giác, sáng tạo; tinh thần nhân đạo và
một số giá trị khác như: bình đẳng, công lý, nhân quyền, yêu thiên nhiên, sự
lương thiện, thận trọng, tự giác, tự trọng.
+ Cuốn “Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh với việc nâng cao đạo đức cách
mạng cho cán bộ lãnh đạo, quản lý ở Việt Nam hiện nay” – sách chuyên khảo
của PGS, TS Nguyễn Thế Kiệt (Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011) đã làm
sáng tỏ bản chất và nội dung đạo đức cách mạng Hồ Chí Minh, phân tích thực
trạng và đưa ra một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao đạo đức cách mạng
cho cán bộ lãnh đạo, quản lý ở Việt Nam hiện nay.
Ngoài ra có rất nhiều luận văn, luận án nghiên cứu về vấn đề giáo dục
đạo đức cho sinh viên và thế hệ trẻ ở Việt Nam hiện nay. Đó là:
+ Đề tài “Quan hệ biện chứng giữa truyền thống và hiện đại trong giáo
dục đạo đức cho sinh viên Việt Nam hiện nay” của Lê Thị Hoài Thanh (Luận án
tiến sĩ Triết học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, 2003). Đề tài phân
tích quan hệ biện chứng giữa truyền thống và hiện đại trong giáo dục đạo đức
cho sinh viên. Trên cơ sở đó, đề tài nêu một số giải pháp cụ thể: Kết hợp giáo
dục truyền thống và hiện đại trong gia đình, nhà trường và xã hội, tạo môi
trường giáo dục lành mạnh và thống nhất; kết hợp giáo dục đạo đức với giáo
9
dục pháp luật, tạo môi trường pháp lý cho việc kết hợp truyền thống và hiện đại
trong giáo dục đạo đức; kết hợp các phương pháp giáo dục truyền thống với các
phương pháp giáo dục hiện đại, đổi mới hình thức và phương pháp giáo dục.
+ Đề tài“Đạo đức của sinh viên trong điều kiện kinh tế thị trường hiện
nay ở Việt Nam – thực trạng và giải pháp” của Vũ Thanh Hương (Luận văn
thạc sĩ triết học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội, 2004). Qua
khảo sát một số trường đại học và cao đẳng ở Hà Nội, đề tài phân tích thực
trạng đạo đức sinh viên trong điều kiện hiện nay và nêu ra một số giải pháp
nhằm nâng cao phẩm chất đạo đức cho sinh viên trong điều kiện kinh tế thị
trường ở Việt Nam hiện nay như: Tạo lập môi trường kinh tế - xã hội lành
mạnh, nâng cao ý thức tự giáo dục đạo đức của sinh viên, đổi mới nội dung và
hình thức giáo dục đạo đức cho sinh viên.
+ “Vấn đề giáo dục giá trị đạo đức truyền thống cho sinh viên Việt Nam
hiện nay (qua thực tế một số trường cao đẳng, đại học ở Hà Nội)”, Luận văn
thạc sĩ của Doãn Thị Chín (2004).
+ “Giáo dục giá trị đạo đức truyền thống dân tộc cho học sinh – sinh
viên các trường Trung cấp, Cao đẳng Văn hóa nghệ thuật khu vực đồng bằng
sông Hồng hiện nay”, Luận văn thạc sĩ của Nguyễn Thị Loan (2010).
Một số bài viết trên tạp chí về vấn đề này:
+ “Quan hệ giữa đạo đức và kinh tế trong việc định hướng các giá trị
đạo đức hiện nay” của PGS, TS Nguyễn Thế Kiệt, Tạp chí Triết học, số 6,
1996.
+ “Vấn đề toàn cầu hóa và thế hệ trẻ Việt Nam hiện nay” của Đặng Cảnh
Khanh, Tạp chí Cộng Sản, số 7, 2000.
+ “Kinh tế thị trường đinh hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay và
những biến đổi trong lĩnh vực đạo đức” của Nguyễn Trọng Chuẩn, Tạp chí
Triết học, 2001.
10
+ “Kết hợp chặt chẽ giáo dục lý luận với xây dựng đạo đức mới của
người cán bộ quản lý” của Nguyễn Ngọc Long, Tạp chí lý luận chính trị, số 4,
2001.
+ “Từ chủ nghĩa yêu nước truyền thống đến chủ nghĩa yêu nước Hồ Chí
Minh” của PGS, TS Nguyễn Hùng Hậu, Tạp chí Triết học, số 9, 2005.
+ “Đạo đức mới – đạo đức cách mạng từ các cách tiếp cận khác nhau”
của Trịnh Duy Huy, Tạp chí Triết học, số 1, 2006.
+ “Về tính quy luật của sự hình thành hệ giá trị và chuẩn mực đạo đức
mới” của Nguyễn Văn Phúc, Tạp chí Triết học, số 3, 2007.
+ “Giáo dục đạo đức cách mạng, lối sống cho sinh viên” của Ngô Văn
Thạo, Tạp chí Lý luận chính trị, Số 1, 2010.
Như vậy, vấn đề đạo đức, đạo đức mới và giáo dục đạo đức mới là vấn đề
rất được xã hội quan tâm. Sinh viên các trường cao đẳng nghề là đối tượng có
những nét đặc thù riêng. Vì thế, việc giáo dục đạo đức mới cho đội ngũ này cần
tiếp tục tìm hiểu, lý giải khoa học thêm để có được phương hướng và những giải
pháp hữu hiệu nâng cao hiệu quả giáo dục đạo đức hiện nay trong các trường
cao đẳng nghề ở Hà Nội là vấn đề cấp bách. Những công trình trên là nguồn tài
liệu quý giá để chúng tôi kế thừa và tiếp tục đi sâu nghiên cứu về vấn đề “Giáo
dục đạo đức mới cho sinh viên các trường cao đẳng nghề ở Hà Nội trong xu
thế hội nhập quốc tế hiện nay”
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Phân tích tầm quan trọng, thực trạng, nguyên nhân của giáo dục đạo đức
mới cho sinh viên các trường cao đẳng nghề ở Thành phố Hà Nội trong thời
gian qua, từ đó, đưa ra phương hướng và một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng
cao hiệu quả giáo dục đạo đức mới cho đối tượng này trong xu thế hội nhập
quốc tế hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
11
- Phân tích nội dung và tầm quan trọng của việc giáo dục đạo đức mới
cho sinh viên các trường cao đẳng nghề ở Hà Nội trong xu thế hội nhập quốc tế
ở Việt Nam hiện nay
- Phân tích thực trạng, nguyên nhân và một số vấn đề đặt ra đối với việc
giáo dục đạo đức mới cho sinh viên các trường cao đẳng nghề ở Hà Nội trong
xu thế hội nhập quốc tế ở Việt Nam hiện nay.
- Đưa ra phương hướng và một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao giáo
dục đạo đức mới cho sinh viên các trường cao đẳng nghề ở Hà Nội trong xu thế
hội nhập quốc tế ở Việt Nam hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
- Đạo đức mới và tầm quan trọng của việc giáo dục đạo đức mới trong xu
thế hội nhập quốc tế hiện nay.
- Giáo dục đạo đức mới và hiệu quả của nó đối với sinh viên các trường
cao đẳng nghề ở Hà Nội trong xu thế hội nhập quốc tế ở Việt Nam.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Sinh viên các trường cao đẳng nghề ở Hà Nội và vấn đề giáo dục đạo đức
mới cho sinh viên ở các trường này trong xu thế hội nhập quốc tế hiện nay.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
Vận dụng lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh,
những quan điểm của Đảng về đạo đức, đạo đức mới và giáo dục đạo đức cho
thanh niên, học sinh, sinh viên.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Sử dụng phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ
nghĩa duy vật lịch sử. Đồng thời đề tài sử dụng các phương pháp phân tích –
tổng hợp, lịch sử - logic, so sánh, điều tra xã hội học và thống kê toán học.
6. Dự kiến đóng góp mới và ý nghĩa thực tiễn của đề tài
12
6.1. Dự kiến đóng góp mới của đề tài
Làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn của việc giáo dục đạo đức mới cho sinh
viên các trường cao đẳng nghề ở Hà Nội trong xu thế hội nhập quốc tế ở Việt
Nam hiện nay, từ đó, đưa ra phương hướng và một số giải pháp chủ yếu nhằm
nâng cao hiệu quả của nó.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn của đề tài
Dùng làm tài liệu tham khảo cho các công trình nghiên cứu khoa học, ứng
dụng vào công tác giảng dạy và giáo dục đạo đức trong các trường cao đẳng
nghề cũng như các trường cao đẳng khác trên cả nước đặc biệt là ở khu vực Hà
Nội.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo và phụ lục, đề tài bao
gồm 3 chương, 7 tiết.
Chương 1. Tầm quan trọng và nội dung của việc giáo dục
đạo đức mới cho sinh viên các trường cao đẳng nghề ở Hà Nội
trong xu thế hội nhập quốc tế hiện nay
13
1.1. Đạo đức mới và tầm quan trọng của việc giáo dục đạo đức mới
cho sinh viên các trường cao đẳng nghề ở Hà Nội trong xu thế hội nhập
quốc tế hiện nay
1.1.1. Đạo đức, đạo đức mới và giáo dục đạo đức mới
1.1.1.1. Khái niệm đạo đức
Đạo đức là một trong những hình thái ý thức xã hội, xuất hiện sớm trong
lịch sử loài người và ngày càng đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển, tiến
bộ của xã hội. Cho đến nay, bàn về đạo đức có nhiều hệ thống lý thuyết tiêu
biểu, tiếp cận đạo đức theo các khuynh hướng khác nhau.
Ở phương Đông, theo quan niệm của người Trung Quốc cổ đại, đạo có
nghĩa là con đường, đường đi, là đường sống của con người trong xã hội. Đức
dùng để nói đến nhân đức, đức tính và nhìn chung đức là biểu hiện của đạo, là
đạo nghĩa, là nguyên tắc luân lý. Theo đó, đạo đức chính là những yêu cầu,
những nguyên tắc do cuộc sống đặt ra mà con người phải tuân theo. Ở phương
Tây, danh từ đạo đức bắt nguồn từ tiếng Latinh là mos, moris, nghĩa là phong
tục, tập quán. Như vậy, theo phần gốc của khái niệm khi nói đến đạo đức là nói
đến những thói quen, tập quán hoạt động và ứng xử của con người trong cộng
đồng, trong xã hội.
Trong các học thuyết của Nho giáo, Đạo giáo, Phật giáo đều lấy đạo đức
làm cơ sở trong đối nhân xử thế và đề xuất các quy tắc, các chuẩn mực, những
ràng buộc trong các hoạt động sống của con người. Tư tưởng đạo đức Nho giáo
chủ yếu thể hiện trong quan điểm về “tu thân” và những nguyên tắc đạo đức cơ
bản như: “tam cương” “ngũ thường”,“tam tòng”, “tứ đức”. Đó là những quy tắc
ứng xử với nhau trong quan hệ xã hội giữa vua - tôi, cha - con, chồng - vợ, anh -
em, bạn bè. Tư tưởng đạo đức của Đạo giáo nêu những chuẩn mực đạo đức của
cá nhân như “vô kỷ”, “vô công”, “vô danh”, “bất tranh”, “dĩ đức báo oán”.
Những chuẩn mực này đòi hỏi con người gạt bỏ dục vọng của bản thân mình,
không cậy công, kể công, không ham danh vọng, ứng xử uyển chuyển. Trong
đạo đức Phật giáo, nội dung cơ bản là những yêu cầu đạo trong các mối quan hệ
14
cơ bản của xã hội là quan hệ giữa con cái đối với cha mẹ, quan hệ thầy - trò, vợ
- chồng, bạn bè, quan hệ với bề trên, quan hệ với bề dưới, quan hệ nô bộc với
chủ. Những chuẩn mực được nêu rất cụ thể nhưng nhìn chung khuyên con
người trong bất cứ mối quan hệ nào cũng phải thể hiện tình yêu thương, kính
trọng nhau, chăm sóc giúp đỡ nhau, làm tròn bổn phận của mình. Những trường
phái tư tưởng đạo đức này có những hạn chế nhất định như không thể lý giải
được nguồn gốc, bản chất, những quy luật hình thành, phát sinh, phát triển của
đạo đức và mang tính thoát tục, xa rời hiện thực; nhưng nhìn chung, đó là
những tư tưởng có giá trị lịch sử to lớn, có ảnh hưởng tích cực giúp con người
xây dựng xã hội ngày càng tốt đẹp hơn.
Tư tưởng đạo đức phương Tây thể hiện trong tư tưởng của các nhà triết
học, đạo đức học từ thời cổ đại đến hiện đại với nhiều quan điểm khác nhau
mang hơi thở cuộc sống giúp con người ngày càng hiểu rõ hơn nguồn gốc, bản
chất và những yêu cầu của đạo đức. Trong thời kỳ cổ đại, tư tưởng đạo đức nổi
bật nhất là quan điểm của Socrate và Aristote. Theo Socrate, cái thiện phổ biến
(cái chung) là cơ sở của đạo đức, là tiêu chuẩn của đức hạnh. Muốn tuân theo
cái thiện phổ biến thì phải nắm bắt được nó, hiểu nó. Ông cho rằng đạo đức và
tri thức của con người thống nhất là một. Aristote là người đầu tiên tiếp cận tới
bản chất của đạo đức. Ông quan niệm đức tính của con người là hoạt động thực
tiễn có ích cho xã hội của chính bản thân con người do rèn luyện mà có chứ
không phải là bẩm sinh. Tư tưởng Tây Âu trung cổ chủ yếu là đạo đức Cơ Đốc
giáo và Thiên Chúa giáo. Tư tưởng này tuyên bố rằng mọi người đều bình đẳng
và bác ái là nguyên tắc chủ yếu của đạo đức. Tuy nhiên, sự bình đẳng đó chỉ là
sự bình đẳng trước Chúa không phải là trong hiện thực. Để chống đạo đức khổ
hạnh của Thiên Chúa giáo Tây Âu trung cổ, khôi phục và phát triển những tư
tưởng đạo đức nhân đạo và tiến bộ trong thời cổ đại, tư tưởng đạo đức học Tây
Âu thời kỳ từ thế kỷ XV đến thế kỷ XVIII với những nhà tư tưởng như
Rabelais, Spinoza, Hegel, Feuerbach,… đã bàn về đạo đức trần thế chống lại
đạo đức thần học; bàn về mối quan hệ tự do và tất yếu, tự do và hạnh phúc;
15
hạnh phúc của mỗi cá nhân chỉ có thể đạt được bằng con đường kết hợp lợi ích
cá nhân với lợi ích xã hội,… Họ cho rằng con người không phải sinh ra là đã có
đạo đức mà đạo đức nảy sinh từ tác động của môi trường xã hội, trước hết là
chính trị và pháp luật. Tuy nhiên, những tư tưởng này vẫn chứa đựng những sai
lầm, mâu thuẫn do quan điểm duy tâm về xã hội của các nhà tư tưởng thời kỳ
này.
Khắc phục những sai lầm và mâu thuẫn đó C.Mác, Ph.Ăngghen và
V.I.Lênin đã nghiên cứu vấn đề nguốn gốc, bản chất, vai trò của đạo đức trong
đời sống xã hội, vạch ra mối quan hệ giữa đạo đức và cơ sở kinh tế của nó, phân
tích những quan hệ đạo đức trong xã hội tư bản chủ nghĩa, sự tha hóa con người
trong xã hội đó và chủ trương xây dựng xã hội mới xã hội chủ nghĩa và cộng
sản chủ nghĩa làm nền tảng hình thành và phát triển đạo đức cao đẹp - đạo đức
cộng sản. V.I.Lênin đã nêu giá trị đạo đức được xác định ở chỗ nó phục vụ cho
tiến bộ xã hội vì hạnh phúc của con người.: "Đạo đức giúp cho xã hội loài người
tiến lên trình độ cao hơn, thoát khỏi ách bóc lột lao động" [58, 356].
Nhà nghiên cứu đạo đức học nổi tiếng người Nga là G.Bandzeladze, trên
lập trường duy vật biện chứng của chủ nghĩa Mác – Lênin đã nêu quan niệm:
"Đạo đức là hệ thống những chuẩn mực biểu hiện sự quan tâm tự nguyện, tự
giác của con người trong quan hệ với nhau và trong quan hệ với xã hội nói
chung" [6,104].
Như vậy, theo quan điểm mácxít, đạo đức là một trong những hình thái ý
thức xã hội, một chế định xã hội, nó phản ánh tồn tại xã hội, phản ánh hiện thực
đời sống. Đạo đức là sản phẩm của những điều kiện sinh hoạt vật chất của xã
hội, của cơ sở kinh tế.
Đạo đức có một số chức năng cơ bản sau:
Một là, chức năng điều chỉnh hành vi. Đạo đức là một phương thức điều
chỉnh hành vi. Sự điều chỉnh hành vi làm cá nhân và xã hội cùng tồn tại và phát
triển, bảo đảm quan hệ lợi ích cá nhân và cộng đồng. Loài người sáng tạo ra
nhiều phương thức điều chỉnh hành vi, trong đó có chính trị, pháp quyền và đạo
16
đức… Đạo đức có phương thức điều chỉnh là bằng dư luận xã hội và lương tâm.
Những chuẩn mực đạo đức bao gồm cả chuẩn mực ngăn cấm và cả chuẩn mực
khuyến khích. Mục đích điều chỉnh của đạo đức là bảo đảm sự tồn tại và phát
triển xã hội bằng tạo nên quan hệ lợi ích cộng đồng và cá nhân theo nguyên tắc
hài hòa lợi ích cộng đồng và cá nhân. Đối tượng điều chỉnh của đạo đức là hành
vi cá nhân (trực tiếp) qua đó điều chỉnh quan hệ cá nhân với cộng đồng (gián
tiếp) và cách thức điều chỉnh được biểu hiện thành sự lựa chọn giá trị đạo đức;
xác định chương trình của hành vi bởi lý tưởng đạo đức; xác định phương án
cho hành vi bởi chuẩn mực đạo đức; tạo nên động cơ của hành vi bởi niềm tin,
lý tưởng, tình cảm của đạo đức, kiểm soát uốn nắn hành vi bởi dư luận xã hội.
Hai là, chức năng giáo dục. Con người là sản phẩm của lịch sử, đồng thời
là chủ thể của lịch sử. Con người tạo ra hoàn cảnh đến mức nào thì hoàn cảnh
cũng tạo ra con người đến mức ấy. Con người sinh ra bắt gặp hệ thống đạo đức
của xã hội. Xã hội có giai cấp hình thành và tồn tại nhiều hệ thống đạo đức mà
các cá nhân chịu sự tác động. Ở đây, môi trường đạo đức tác động đến đạo đức
cá nhân bằng nhận thức đạo đức và thực tiễn đạo đức. Nhận thức đạo đức để
chuyển hoá đạo đức xã hội thành ý thức đạo đức cá nhân. Thực tiễn đạo đức là
hiện thực hoá nội dung giáo dục bằng hành vi đạo đức. Các hành vi đạo đức lặp
đi lặp lại trong đời sống xã hội và cá nhân làm cả đạo đức cá nhân và xã hội
được củng cố, phát triển thành thói quen, truyền thống, tập quán đạo đức. Hiệu
quả giáo dục đạo đức phụ thuộc vào điều kiện kinh tế - xã hội, cách thức tổ
chức, giáo dục mức độ tự giác của chủ thể và đối tượng giáo dục trong quá trình
giáo dục. Như vậy, chức năng giáo dục của đạo đức cần được hiểu một mặt
“giáo dục lẫn nhau trong cộng đồng”, giữa cá nhân và cá nhân, giữa cá nhân và
cộng đồng; mặt khác, là sự “ tự giáo dục” ở các cấp độ cá nhân lẫn cấp độ cá
nhân lẫn cấp độ cộng đồng.
Ba là, chức năng nhận thức. Với tư cách là một hình thái ý thức xã hội,
đạo đức có chức năng nhận thức thông qua sự phản ánh tồn tại xã hội. Sự phản
ánh của đạo đức với hiện thực có đặc điểm riêng khác với các hình thái ý thức
17
khác. Đạo đức là phương thức đặc biệt của sự chiếm lĩnh thế giới con người. Sự
nhận thức của đạo đức có đặc điểm: Hành động đạo đức tiếp liền sau nhận thức
giá trị đạo đức. Và đa số trường hợp có sự hòa quyện ý thức đạo đức với hành
động đạo đức. Nhận thức của đạo đức là quá trình vừa hướng ngoại (hướng ra
ngoài) và hướng nội (tự nhận thức – hướng vào chính mình, chính chủ thể).
Nhận thức đạo đức ở hai trình độ: trình độ thông thường và trình độ lý luận.
Nhận thức đạo đức ở trình độ thông thường là ý thức thông thường, những giá
trị riêng lẻ. Nó đáp ứng nhu cầu đạo đức thông thường đủ để chủ thể xử lý kịp
thời trong cuộc sống và sự phát triển bình thường của xã hội. Mọi cá nhân đều
có thể và cần phải ảnh ánh đạo đức ở trình độ này. Nhận thức đạo đức ở trình độ
lý luận là những nhận thức có tính nguyên tắc được chỉ đạo bởi những giá trị
đạo đức có tính tổng quát. Trình độ này đáng ứng những đòi hỏi của sự phát
triển đạo đức và tiến bộ xã hội. Đây là yếu tố không thể thiếu được trong hệ tư
tưởng và hành vi của các giai cấp cầm quyền. Nhận thức đạo đức đưa lại tri thức
đạo đức, ý thức đạo đức. Cá nhân hiểu và tin ở các chuẩn mực, lý tưởng giá trị
đạo đức xã hội trở thành cơ sở để cá nhân điều chỉnh hành vi.
Từ sự phân tích trên chúng ta có thể hiểu đạo đức ở mức độ khái quát
nhất là: “Đạo đức là một hình thái ý thức xã hội, là tập hợp những nguyên tắc,
chuẩn mực xã hội, nhằm điều chỉnh và đánh giá cách ứng xử của con người
trong quan hệ với nhau và quan hệ với xã hội, chúng được thực hiện với niềm
tin cá nhân, bởi truyền thống và sức mạnh của dư luận xã hội” [47; tr.8]
1.1.1.2. Khái niệm đạo đức mới
Đạo đức là hình thái ý thức xã hội, là tổng hợp những nguyên tắc, qui
định, chuẩn mực nhằm định hướng con người tới cái chân, cái thiện, cái mỹ,
chống lại cái giả, cái ác, cái xấu…Đạo đức nảy sinh do nhu cầu đời sống xã hội,
là sản phẩm của lịch sử xã hội, do cơ sở kinh tế - xã hội quyết định.
Trong xã hội cộng sản nguyên thủy, mọi người cùng nhau hái quả, đánh
bắt cá, làm nhà, kỷ luật và quy tắc lao động được duy trì bằng sức mạnh của
phong tục, tập quán, của dư luận xã hội, bằng uy tín và sự tôn kính đối với
18
người đứng đầu thị tộc. Gắn liền với đời sống tinh thần là tôn giáo nguyên thủy,
được sinh ra từ những hiểu biết hết sức mông muội, tối tăm và nguyên thủy của
con người về bản thân họ và về tự nhiên bao quanh họ. Tôn giáo nguyên thủy
can thiệp vào toàn bộ hoạt động của công xã thị tộc và trở thành yếu tố cấu
thành hoạt động thực tiễn và ý thức của người nguyên thủy. Trong những điều
kiện đó, các dấu hiệu đạo đức xuất hiện.Ví dụ: các qui định trong săn bắn (do
kinh nghiệm đã tích lũy được) không những có ý nghĩa đối với nhu cầu sinh
sống, còn đối với các yêu cầu tương trợ, đoàn kết cộng đồng cũng như việc giữ
gìn tình ruột thịt trong thị tộc. Như vậy, đạo đức ra đời rất sớm, xuất phát từ
chính các hoạt động chung của thị tộc với những chế độ tự nhiên của chúng.
Sự xuất hiện của giai cấp dẫn tới sự tan vỡ của ý thức đạo đức thống nhất
trong nội bộ cộng đồng xã hội. Nhưng so với chế độ công xã nguyên thủy, thì
xã hội chiếm hữu nô lệ tiến hơn một bậc. Phù hợp với sức sản xuất tiến bộ hơn
của chế độ chiếm hữu nô lệ là quan hệ sản xuất mới, mà cơ sở là chủ nô chiếm
hữu tư liệu sản xuất và người nô lệ. Loài người đã bắt đầu hình thành một nền
đạo đức mang bản chất giai cấp. Đó là đạo đức của nô lệ và đạo đức của chủ nô,
hai nền đạo đức này đối lập với nhau về cơ bản tạo thành hai mặt của một mâu
thuẫn lớn nhất, tập trung nhất đầu tiên trong văn hóa tinh thần nhân loại.
Chế độ phong kiến dựa trên cơ sở sở hữu ruộng đất lớn. Khác với nô lệ,
người nông dân có công cụ sản xuất riêng và có nền kinh tế riêng dựa vào lao
động cá nhân và đem lại cho họ những điều kiện sinh sống cần thiết. Bọn địa
chủ vẫn có quyền điều nông dân ra khỏi lãnh địa của mình, nhưng không có
quyền giết họ. Đó là một bước tiến của đạo đức xã hội. Ở đây, tồn tại nhiều kiểu
đạo đạo đức, có cả đạo đức của chính giai cấp phong kiến lại có đạo đức của
giai cấp nông dân và nhân dân lao động. Đạo đức thống trị trong xã hội phong
kiến trước hết là đạo đức của giai cấp phong kiến. Yêu cầu chung của đạo đức
thống trị là bầy tôi phải trung với vua, chư hầu phải trung với thiên tử, nông dân
phải trung với địa chủ.
19
Sự thay thế quan hệ sản xuất phong kiến bằng quan hệ sản xuất tư bản
dẫn đến biến đổi cả hệ thống đạo đức xã hội. Chế độ tư bản là một bước tiến của
xã hội, vì nó đập tan xiềng xích của chế độ nông nô, xóa bỏ tình trạng cát cứ của
phong kiến, mở ra thị trường trong nước và thế giới, phát triển sản xuất, thúc
đẩy khoa học kỹ thuật tiến lên. Chủ nghĩa cá nhân tư sản là nguyên tắc cơ bản
của đạo đức tư sản. Quan hệ sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa đã kích thích các
nhà tư bản làm giàu và đã định hướng trong ý thức và hành vi đạo đức của họ.
Họ coi việc làm giàu với mọi cách và mọi giá là hoạt động chính, là mục đích
cao nhất của cuộc sống. Sự hoạt động tích cực của nền kinh tế công nghiệp có
tác động mạnh mẽ đến tính cách cá nhân con người. Lênin nhận xét, trong thời
kỳ thiết lập tư bản chủ nghĩa, con người được giải phóng và phát triển, đó là
một tiến bộ vĩ đại. Nhưng sự bình đẳng ở đây chỉ là sự bình đẳng hình thức chứ
không phải là bình đẳng trong thực tế cuộc sống xã hội. Nhà tư bản bóc lột
người công nhân trên cơ sở bóc lột giá trị thặng dư bằng nhiều thủ đoạn khác
nhau. Đó là lý do dẫn đến tình trạng biệt lập nhân cách, một trạng thái tâm lý
lạnh lẽo, xa lánh nhau, thậm chí trở nên thù ghét nhau. Trái lại, xã hội tư bản đã
làm cho lực lượng sản xuất phát triển nhanh, cùng nền sản xuất nhỏ phân tán
được xã hội hóa ngày càng cao, phân công lao động phát triển, năng suất lao
động có hiệu quả rõ rệt. Ngoài những mặt tích cực đó, giai cấp tư sản đã để lại
cho xã hội không ít những hậu quả tiêu cực: vấn đề công lý và nền đạo đức
trong xã hội không được đảm bảo bình thường, con người trở nên ích kỷ, đạo lý
trong xã hội ngày càng suy giảm.
Đạo đức trong xã hội tư bản bao gồm nhiều kiểu đạo đức khác nhau. Đạo
đức của giai cấp tư sản, đạo đức của giai cấp công nhân, đạo đức của những lực
lượng xã hội khác. Các kiểu đạo đức này thường xâm nhập vào nhau, đan xen
và không ngừng đấu tranh với nhau, tạo nên con đường phát triển xã hội trên cơ
sở khẳng định mặt tích cực, tiến bộ, triệt tiêu mặt lạc hậu, mở rộng khả năng
phát triển đạo đức trong tương lai của một xã hội mới – xã hội xã hội chủ nghĩa.
Khi chủ nghĩa xã hội đã thắng lợi và các giai cấp bóc lột trong xã hội đã bị tiêu
20
diệt, thì đạo đức cộng sản cũng được toàn dân thừa nhận, nó trở thành đạo đức
thống trị. Đạo đức cộng sản là giai đoạn cao nhất trên con đường tiến lên của
đạo đức loài người. So với đạo đức tiên tiến trước đây, đạo đức cộng sản là một
thứ chất mới. Nó biểu hiện những đặc điểm mới vì bộ mặt tinh thần của những
con người đã tiêu diệt thế giới bóc lột và đã lập nên chủ nghĩa cộng sản.
Sự hình thành đạo đức mới trên cơ sở của đạo đức vô sản gắn liền với
cuộc đấu tranh cách mạng của giai cấp vô sản và do đó giải phóng nhân loại ra
khỏi áp bức, bóc lột, bất công. Đây là cuộc cách mạng mà giai cấp bóc lột về cơ
bản bị xóa bỏ, người dân lao động từng bước được giải phóng về mặt kinh tế,
chính trị và xã hội. Cùng với thắng lợi của cách mạng vô sản và thành tựu xây
dựng chủ nghĩa xã hội, đạo đức mới được hình thành và phát triển trên mặt đất
hiện thực. Theo Lênin: “Đạo đức mới, đó là những gì góp phần phá hủy xã hội
cũ của bọn áp bức bóc lột và góp phần đoàn kết tất cả những người lao động
xung quanh giai cấp vô sản đang sáng tạo ra xã hội mới” [60;tr.369].
Vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin nói chung và lý luận đạo đức
Mác - Lênin nói riêng vào thực tiễn cách mạng Việt Nam, chủ tịch Hồ Chí Minh
đã để lại cho chúng ta một di sản tinh thần vô cùng quý giá, trong đó có tư
tưởng đạo đức của Người. Hồ Chí Minh coi đạo đức mới, đạo đức cách mạng là
“gốc”, là “nền tảng” của người cách mạng: “cũng như sông thì có nguồn mới có
nước, không có nguồn thì sông cạn. Cây phải có gốc, không có gốc thì cây héo.
Người cách mạng phải có đạo đức, không có đạo đức thì dù tài giỏi mấy cũng
không lãnh đạo được nhân dân”[76; tr.252, 253].
Hồ Chí Minh quan niệm đạo đức cách mạng: “Không phải là đạo đức thủ
cựu. Nó là đạo đức mới, đạo đức vĩ đại, nó không phải vì danh vọng của các cá
nhân mà vì lợi ích chung của Đảng, của dân tộc và loài người” [76; tr.252]. Tư
tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức là sự kế thừa đạo đức của dân tộc và đạo đức
nhân loại. Người đã thể hiện một thái độ cách mạng khoa học đối với các hệ
thống đạo đức cũ. Trên cơ sở nắm vững phép biện chứng duy vật và thực tiễn
cách mạng Việt Nam, Người đã biết “gạn đục khơi trong” kế thừa những yếu tố
21
tích cực, hợp lý của các hệ thống đạo đức trước góp phần hình thành nên lý luận
về đạo đức mới ở Việt Nam. Đó là đạo đức chiến đấu vì sự nghiệp cách mạng
giải phóng dân tộc, vì sự tiến bộ của nhân loại, vì tự do, hạnh phúc của mỗi
người. Mục đích cuối cùng của nó là góp phần giải phóng triệt để con người,
trước hết là giai cấp công nhân và nhân dân lao động thoát khỏi mọi áp bức, bất
công trong xã hội.
Nội dung đạo đức mới được thể hiện ở: Chủ nghĩa tập thể, lao động cần
cù, sáng tạo, ý thức học tập, rèn luyện vươn lên, chủ nghĩa yêu nước kết hợp với
chủ nghĩa quốc tế và chủ nghĩa nhân đạo xã hội chủ nghĩa Từ những nội dung
cơ bản đó, tùy thuộc vào yêu cầu cơ bản của mỗi giai đoạn khác nhau của cách
mạng, Đảng ta luôn bổ sung và phát triển, cụ thể hóa nội dung đạo đức mới.
Qua sự phân tích trên, chúng ta có thể nói: “Đạo đức mới là đạo đức của
giai cấp công nhân và nhân dân lao động tiến bộ, phản ánh thực tiễn cuộc đấu
tranh cách mạng giải phóng dân tộc và xây dựng chủ nghĩa xã hội, là tổng hòa
các giá trị và chuẩn mực tạo nền tảng nhân cách của con người mới, nó vừa là
mục tiêu vừa là động lực của sự nghiệp cách mạng cải tạo xã hội cũ, xây dựng
thành công chủ nghĩa xã hội” [47; tr.60].
1.1.1.3. Giáo dục đạo đức mới
Giáo dục là một hiện tượng xã hội, là hoạt động có mục đích, có kế hoạch
nhằm tác động đến sự phát triển tinh thần và thể chất của một đối tượng nào đó,
làm cho đối tượng ấy dần dần có được những phẩm chất và năng lực như yêu
cầu đã đặt ra. Giáo dục là một quá trình có tính hai mặt, một mặt nào đó là sự
tác động từ chủ thể giáo dục vào đối tượng giáo dục; mặt khác, thông qua sự tác
động đó mà con người tự giáo dục ngay chính bản thân mình. Không có giáo
dục thì không thể bảo tồn và phát triển được những giá trị chung của loài người,
như các giá trị kinh tế, chính trị, tư tưởng, đạo đức và do đó không thể sáng tạo
ra được những giá trị mới. Trong quá trình tồn tại và phát triển của con người,
có nhiều giá trị trong đó có các giá trị đạo đức được hình thành chủ yếu thông
qua con đường giáo dục.
22
Giáo dục đạo đức là một quá trình hoạt động có mục đích, có tổ chức có
kế hoạch nhằm biến những nhu cầu, chuẩn mực, giá trị đạo đức theo yêu cầu
của xã hội thành những phẩm chất, giá trị đạo đức của cá nhân nhằm góp phần
phát triển nhân cách của mỗi cá nhân và thúc đẩy sự phát triển tiến bộ của xã
hội.
Mục đích của giáo dục đạo đức là nhằm chuyển các quan niệm đạo đức từ
trạng thái nhận thức tự phát sang tự giác, từ bị động sang chủ động, nâng cao
trình độ nhận thức đạo đức, đưa đến cho đối tượng những tri thức đạo đức, và
quan trọng hơn là xây dựng tình cảm đạo đức đúng đắn làm cơ sở cho niềm tin
và hành vi đạo đức đúng đắn.
Giáo dục đạo đức mới là quá trình tác động từ bên ngoài tới ý thức cá
nhân, là hoạt động có định hướng, có tổ chức, có chủ đích của chủ thể giáo dục
nhằm cung cấp tri thức đạo đức, bồi dưỡng tình cảm đạo đức mới cho đối tượng
giáo dục nhằm mục đích hình thành ở họ ý thức đạo đức, tình cảm đạo đức đúng
đắn, hành vi đạo đức phù hợp với các chuẩn mực đạo đức xã hội, giúp cá nhân
điều chỉnh những hành vi lệch chuẩn về đạo đức.
Giáo dục đạo đức mới nhằm góp phần giữ gìn những giá trị đạo đức
truyền thống, góp phần tạo ra những giá trị đạo đức mới, xây dựng những quan
điểm, phẩm chất đạo đức mới, quan niệm sống tích cực cho mỗi đối tượng giáo
dục. Đồng thời, giáo dục đạo đức mới cũng góp phần tích cực vào việc khắc
phục những quan niệm đạo đức lạc hậu, sự lệch chuẩn các giá trị nhân cách,
chống lại các hiện tượng phi đạo đức, tạo ra cơ chế phòng ngừa các hiện tượng
phản giá trị đạo đức, phản giá trị văn hóa trong mỗi nhân cách.
Hiện nay, Việt Nam đang tiến hành công cuộc đổi mới thực hiện mục tiêu
dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh. Ở đây, con người
được đặt vào vị trí trung tâm của sự phát triển. Cho nên, con người cần phải có
những phẩm chất cần thiết cho xã hội hôm nay, những phẩm chất mà Chủ tịch
Hồ Chí Minh thường gọi là “đạo đức mới” hay “đạo đức cách mạng”. Đảng ta
xác định nhiệm vụ xây dựng nền văn hóa mới, con người mới, trong đó có giáo
23
dục đạo đức mới là một trong những nhiệm vụ quan trọng hiện nay. Văn kiện
Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng đã chỉ rõ: “Coi trọng bồi dưỡng
cho học sinh, sinh viên khát vọng mãnh liệt xây dựng đất nước giàu mạnh, gắn
liền lập nghiệp bản thân với tương lai của cộng đồng, của dân tộc, trau dồi cho
học sinh, sinh viên bản lĩnh, phẩm chất và lối sống của thế hệ trẻ Việt Nam hiện
đại” [33, tr.207].
1.1.2. Sinh viên trường cao đẳng nghề và tầm quan trọng của việc
giáo dục đạo đức mới cho đối tượng này trong xu thế hội nhập quốc tế hiện
nay
1.1.2.1 Sinh viên trường cao đẳng nghề và đặc điểm của nó
Sinh viên là tầng lớp xã hội đặc thù, là bộ phận ưu tú của thanh niên Việt
Nam, nguồn nhân lực chất lượng cao trong tương lai của đất nước. Sinh viên
Việt Nam là những công dân có độ tuổi từ 18 đến 30 đang học tập ở các bậc Đại
học, Cao đẳng, đang chuẩn bị những nền tảng tri thức, kỹ năng cần thiết cho các
hoạt động chuyên môn nghề nghiệp sau này. Đảng và nhà nước ta luôn đánh giá
cao vai trò, vị trí của thanh niên nói chung và sinh viên Việt Nam nói riêng:
“Sinh viên là đại biểu của một nhóm xã hội đặc biệt gồm những người đang
trong quá trình chuẩn bị tri thức để trở thành chuyên gia hoạt động lao động
trong lĩnh vực nhất định thuộc các ngành kinh tế, văn hóa, xã hội hoặc sinh viên
là những người đang học tập ở các trường Cao đẳng, Đại học trong và ngoài
nước”[33;tr.13].
Sinh viên các trường cao đẳng nghề mang đầy đủ những nét đặc trưng
chung của sinh viên Việt Nam như:
Thứ nhất, lứa tuổi sinh viên đang có sự hoàn thiện về mọi mặt tâm sinh
lý. Về sinh lý, sinh viên là lứa tuổi sinh viên mà có sự phát triển hoàn thiện về
thể chất. Sự hoàn thiện về thể chất thể hiện ở sự cân đối giữa chiều cao và trọng
lượng, sự hoàn hiện về hệ xương, hệ cơ, hệ tuần hoàn, hệ thần kinh, hệ sinh dục.
Sự trưởng thành về thể chất của sinh viên cho phép họ có đủ sức khoẻ để tiến
hành đồng thời nhiều hoạt động học tập, lao động, thể thao, vui chơi, giải trí và
24
các hoạt động xã hội khác một cách thoải mái. Trong cuộc đời mỗi người,
không có thời kỳ nào đạt được sức sống mạnh mẽ và cơ thể đẹp như ở độ tuổi
này. Về tâm lý, tuổi sinh viên được đặc trưng bởi tính phân hóa sâu của những
phản ứng xúc cảm và những phương thức biểu hiện trạng thái cảm xúc, bởi sự
nâng cao tính tự kiểm tra, tự điều chỉnh. Tâm trạng sinh viên ổn định và có ý
thức hơn nhiều so với các lứa tuổi khác và tương quan với phạm vi xã hội rộng
lớn hơn nhiều.
Thứ hai, nói đến sinh viên là phải nói đến một lứa tuổi với lòng nhiệt tình,
hăng say và ý chí tiến thủ và muốn khẳng định bản thân. Đó là lứa tuổi trong
sáng, đầy hoài bão ước mơ, niềm tin và khát vọng hướng tới những giá trị xã
hội tốt đẹp. Vì vậy, sinh viên luôn là lớp người đi đầu trong sự nghiệp đổi mới
đất nước, họ có thể phát huy trí tuệ tài năng và tích cực của mình nhằm phát
triển nhanh kinh tế - xã hội, hướng tới mục tiêu “Dân giàu, nước mạnh, xã hội
dân chủ, công bằng, văn minh”, góp phần vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc.
Thứ ba, họ có thái độ nhạy cảm, dễ tiếp thu cái mới thông qua các hoạt
động hướng ngoại và giao lưu rộng rãi trong điều kiện nước ta đang trong sự
nghiệp đổi mới đất nước, mở cửa giao lưu hợp tác quốc tế. Trong công cuộc đổi
mới đất nước hiện nay, sinh viên tỏ rõ sự nhạy cảm năng động, chờ đón ủng hộ
nhiệt thành để đi vào các lĩnh vực khoa học – công nghệ, kinh tế mới và đã mau
chóng hội nhập với xu thế của thế giới.
Thứ tư, sinh viên có hoài bão, ước mơ và niềm tin hướng tới tương lai.
Trong quá trình học tập ở các trường Đại học, Cao đẳng việc định hướng tương
lai có ảnh hưởng rất lớn đến cuộc đời sinh viên, nó là động lực thôi thúc suốt
cuộc đời và mọi hành động của tuổi trẻ. Họ sẵn sàng vượt qua mọi khó thử
thách trong cuộc sống hàng ngày để thực hiện được ước mơ hoài bão của mình
vì ngày mai lập thân, lập nghiệp. Đa số sinh viên nhận thức rõ được vai trò trách
nhiệm của mình trong học tập, trong cuộc sống, cố gắng phấn đấu rèn luyện để
trở thành một trí thức trẻ tương lai, có đầy đủ phẩm chất, năng lực và bản lĩnh
25
chính trị với trách nhiệm và nghĩa vụ của mình góp phần vào sự nghiệp công
nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Bên cạnh đó, do đặc điểm lứa tuổi, sinh viên cũng còn một số hạn chế
như:
- Nhạy cảm và dễ tiếp thu cái mới, cái lạ nên tầng lớp sinh viên thường
thiếu cân nhắc, thiếu chọn lọc những trào lưu mang tính hiện đại từ bên ngoài
vào. Trong điều kiện công nghệ thông tin phát triển nhanh như hiện nay, có
những luồng thông tin không phù hợp, lối sống thực dụng phương Tây tuyệt đối
hóa đồng tiền đang tràn vào đã có những ảnh hưởng không nhỏ đến sự hình
thành đạo đức của sinh viên nước ta.
- Vì còn thiếu kinh nghiệm trong cuộc sống họ dễ bị kích động, thiếu tự
chủ, bồng bột, nhẹ dạ, chủ quan. Đặc điểm này khiến cho sinh viên dễ bị kẻ xấu
lợi dụng lôi kéo vào các hoạt động thiếu lành mạnh ảnh hưởng xấu tới bản thân,
gia đình và xã hội. Sinh viên có những hạn chế này vì họ đang ở độ tuổi phát
triển, đang định hình về nhân cách cho nên việc rèn luyện cho sinh viên khắc
phục những mặt hạn chế, yếu kém và phát huy hơn nữa những mặt mạnh trong
học tập và rèn luyện trong đó rèn luyện đạo đức là cần thiết.
Bên cạnh những đặc điểm chung đó, sinh viên các trường cao đẳng nghề
còn có những đặc trưng riêng biệt như:
- Đa số sinh viên các trường cao đẳng nghề có trình độ học vấn và nhận
thức thấp hơn so với sinh viên các trường đại học và cao đẳng khác. Bởi vì đối
tượng tuyển sinh của các trường cao đẳng nghề là những học sinh tốt nghiệp
trung học phổ thông nhưng không có khả năng thi tuyển vào các trường cao
đẳng đại học khác, là những học sinh có trình độ nhận thức và ý thức kém. Một
số trường cao đẳng nghề còn tuyển sinh cả những sinh viên chưa có bẳng tốt
nghiệp trung học phổ thông, khi vào trường sẽ được học bổ túc.
- Chương trình đào tạo của chương trình cao đẳng nghề là một chương
trình đào tạo chính quy dài hạn kéo dài trong 6 học kỳ (được phân bổ từ 2 đến 3
năm học - tùy theo sự thiết kế chương trình của từng trường). Khung chương