Tải bản đầy đủ (.pdf) (111 trang)

Phát huy vai trò nguồn lực con người trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở tỉnh Thái Nguyên

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (734.3 KB, 111 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRUNG TÂM ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG GIẢNG VIÊN LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ






HÀ THỊ THU HẰNG





PHÁT HUY VAI TRÕ NGUỒN LỰC CON NGƯỜI
TRONG SỰ NGHIỆP CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA
Ở TỈNH THÁI NGUYÊN






LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC












HÀ NỘI - 2012

1
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRUNG TÂM ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG GIẢNG VIÊN LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ




HÀ THỊ THU HẰNG




PHÁT HUY VAI TRÕ NGUỒN LỰC CON NGƯỜI
TRONG SỰ NGHIỆP CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HOÁ
Ở TỈNH THÁI NGUYÊN



Chuyên ngành: Triết học
Mã số: 60 22 80


LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC





Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS. NGUYỄN TRỌNG TUẤN








HÀ NỘI - 2012

2
MỤC LỤC

MỞ ĐẦU 1
Chương 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ PHÁT HUY VAI TRÕ NGUỒN
LỰC CON NGƯỜI TRONG SỰ NGHIỆP CÔNG NGHIỆP HOÁ,
HIỆN ĐẠI HOÁ 14
1.1. Nguồn lực con người và vai trò của nó trong sự nghiệp công nghiệp
hóa, hiện đại hóa 14
1.1.1. Nguồn lực con người 14
1.1.2. Vai trò của nguồn lực con người trong sự nghiệp công nghiệp
hóa, hiện đại hoá hiện nay 22
1.2. Thực chất phát huy vai trò nguồn lực con người trong sự nghiệp công
nghiệp hoá, hiện đại hoá 27
1.2.1. Quan niệm về phát huy vai trò nguồn lực con người trong sự
nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá 27

1.2.2. Những yếu tố quy định phát huy vai trò nguồn lực con người
trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa 32
Chương 2. PHÁT HUY VAI TRÕ NGUỒN LỰC CON NGƯỜI TRONG SỰ
NGHIỆP CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA Ở THÁI NGUYÊN -
THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP 41
2.1.
Thực trạng phát huy vai trò nguồn lực con người trong sự nghiệp công
nghiệp hóa, hiện đại hóa ở tỉnh Thái Nguyên
41
2.1.1. Khái quát về điều kiện tự nhiên - xã hội của tỉnh Thái Nguyên 41
2.1.2. Thực trạng phát huy vai trò nguồn lực con người trong sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở tỉnh Thái Nguyên 53
2.1.3. Một số mâu thuẫn đặt ra đối với phát huy vai trò nguồn lực con
người trong sự nghiệp công nghiệp, hiện đại hóa ở tỉnh Thái
Nguyên 67
2.2. Phương hướng cơ bản và một số giải pháp chủ yếu phát huy vai trò
nguồn lực con người trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại
hoá ở tỉnh Thái Nguyên 72

3
2.2.1. Phương hướng cơ bản của việc pháp huy vai trò nguồn lực con
người trong sự nghiệp công nghiệp, hiện đại hoá ở tỉnh Thái
Nguyên 72
2.2.2. Những giải pháp chủ yếu nhằm phát huy vai trò nguồn lực con
người trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở tỉnh Thái
Nguyên 81
KẾT LUẬN 99
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 101
PHỤ LỤC 107


4
MỞ ĐẦU

1.Tính cấp thiết của đề tài
Bước sang thế kỷ XXI bất kỳ quốc gia nào trên thế giới cũng đều quan
tâm đến các nguồn lực nhằm tạo ra sự phát triển bền vững, một trong những
nguồn lực quan trọng đó là con người. Thế nhưng nhân tố con người tự nó
không thể tạo ra được sức mạnh to lớn nếu không được phát huy có hiệu quả.
Phát huy nhân tố con người ở nước ta hiện nay thực chất là phát huy một
trong những thế mạnh của nội lực đất nước trong quá trình công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế.
Trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Đảng ta chú trọng yếu
tố con người, coi con người vừa mục tiêu, vừa là động lực phát triển của xã
hội. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X đã chỉ rõ: “Nội lực có vai trò quyết
định đối với sự phát triển. Có phát huy được nội lực mới thu hút và sử dụng
có hiệu quả ngoại lực. Nội lực được tăng cường mới bảo đảm được độc lập tự
chủ về kinh tế và thực hiện hội nhập kinh tế quốc tế thành công. Phát huy nội
lực trước hết là phát huy nguồn lực con người, nguồn lực của toàn dân tộc,
khai thác có hiệu quả nguồn tài nguyên thiên nhiên và sử dụng tốt nhất các
nguồn lực của Nhà nước” [18, tr.179]. Trong Văn kiện “Chiến lược phát triển
kinh tế - xã hội 2011-2020” (Đại hội XI của Đảng) tiếp tục khẳng định vấn đề
trên một cách sâu sắc hơn: “Phát triển và nâng cao chất lượng nguồn nhân
lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao là một đột phá chiến lược, là yếu
tố quyết định đẩy mạnh phát triển và ứng dụng khoa học, công nghệ, cơ cấu
lại nền kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng trưởng và là lợi thế cạnh tranh quan
trọng nhất, bảo đảm cho phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững” [3, tr.130].
Vì vậy, chăm lo đào tạo, bồi dưỡng và phát huy nguồn lực con người là một
trong những nhiệm vụ trọng tâm trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội

5

giai đoạn 2001 - 2020 của các cấp, các nghành từ trung ương đến địa phương
trong cả nước.
Tỉnh Thái Nguyên có một vị trí chiến lược trong lịch sử cách mạng
Việt Nam. Từng là Thủ đô kháng chiến trong thời kỳ chống thực dân Pháp và
khi cả nước còn đang trong giai đoạn kháng chiến chống đế quốc Mỹ xâm
lược, Chính phủ đã quyết định thành lập thành phố Thái Nguyên (tháng 10-
1962) để biến đây trở thành trung tâm công nghiệp phục vụ cho cả nước. Thái
Nguyên có nhiều tiềm năng về tự nhiên, kinh tế - xã hội và đã thực sự trở
thành trung tâm của Việt Bắc về mặt kinh tế, văn hóa, y tế, giáo dục, đào tạo
v.v… Hiện nay Thái Nguyên là trung tâm đào tạo nguồn nhân lực lớn thứ ba
trong cả nước. Tốc độ gia tăng dân số và lực lượng trong độ tuổi lao động khá
cao và liên tục. Đây là lợi thế lớn trong việc bảo đảm nguồn lao động cho việc
phát triển nền kinh tế của tỉnh.
Thái Nguyên đã xác định yếu tố con người là khâu đột phá mang tính
quyết định nhất trong phát triển kinh tế- xã hội của tỉnh đến năm 2020. Đại
hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ XVIII (tháng 10/2010) đã đưa ra tư tưởng
chủ đạo là: “Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của toàn Đảng bộ,
phát huy dân chủ, tập trung trí tuệ, huy động và sử dụng có hiệu quả các
nguồn lực, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, tạo tiền đề vững chắc để
Thái Nguyên trở thành tỉnh công nghiệp theo hướng hiện đại trước năm 2020,
góp phần thúc đẩy phát triển vùng trung du miền núi Bắc Bộ” [7, tr.23].
Quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Thái Nguyên đã thu được
những thành tựu quan trọng ban đầu, tốc độ tăng trưởng kinh tế (GDP) năm
2010 đạt 11%, cao hơn mức bình quân cả nước; GDP bình quân đầu người
năm 2010 đạt 17,5 triệu đồng/người; năm 2011 đạt 22,3 triệu đồng/người. Với
chính sách mở tạo điều kiện cho các thành phần kinh tế phát triển và đặt biệt
với chính sách thu hút vốn đầu tư nước ngoài đang là những tiền đề giúp Thái
Nguyên có cơ hội phát triển và hòa mình với nhịp độ phát triển chung của cả

6

nước. Tuy nhiên thực trạng phát triển của tỉnh còn chưa tương xứng với tiềm
năng và thế mạnh vốn có. Một trong những nguyên nhân chủ yếu là việc
nguồn lực con người của Thái Nguyên chưa được phát huy và sử dụng có
hiệu quả như: tình trạng thất nghiệp, thiếu việc làm, việc làm không thường
xuyên, việc làm không hiệu quả còn khá phổ biến, hơn nữa nhiều tiềm năng
quan trọng của nhân tố con người như trí tuệ, nền văn hóa truyền thống vẫn
chưa được phát huy tốt trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Từ những thực trạng trên, tác giả lựa chọn vấn đề: “Phát huy vai trò
nguồn lực con người trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở tỉnh
Thái Nguyên” làm đề tài luận văn của mình, góp phần nhỏ vào việc tìm hiểu
nguồn lực con người ở Thái Nguyên và đề xuất những giải pháp nhằm phát
huy vai trò nguồn lực con người trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại
hoá của tỉnh.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Trong những năm gần đây, vấn đề nguồn lực con người và quá trình
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước được rất nhiều các nhà khoa học quan
tâm nghiên cứu. Nhiều công trình đã được xuất bản và phổ biến rộng trong xã
hội, có thể khái quát thành các khuynh hướng chính như sau:
Thứ nhất: Vấn đề con người và vai trò của nguồn lực con người trong
sự nghiệp công hóa, hiện đại hóa. Tiêu biểu cho khuynh hướng này có các
công trình:
"Vấn đề con người trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất
nước", Phạm Minh Hạc chủ biên, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội 1995;
“Nguồn lực con người trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước”, của Đoàn Văn Khái, Nxb. Lý luận chính trị, Hà Nội 1995; “Về vai trò
của nguồn lực con người trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa”,
Phạm Văn Đức, Tạp chí Triết học số 6/ 1998; “Nguồn nhân lực, động lực của
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”, Nguyễn Thế Nghĩa, Tạp chí triết

7

học số 1/1996; “Phát triển con người Việt Nam với tư cách là mục tiêu, là
động lực của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”, Đặng Hữu
Toàn, Tạp chí Khoa học xã hội, số 3/1997; “Phát triển nguồn nhân lực phục
vụ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”, Nguyễn Thanh, Nxb Chính trị
quốc gia, Hà Nội, 2002; “Tài nguyên con người trong quá trình công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước trong thời đại ngày nay”, Nguyễn Quang Du, Tạp
chí Cộng sản số 8/1994; “Nguồn nhân lực trong quá trình công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước ”, Nguyễn Trọng Chuẩn, Tạp chí Triết học số 2/1994;
“Phát huy nhân tố con người trong phát triển lực lượng sản xuất ở Việt Nam
hiện nay”, Phạm Công Nhất, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2007.
Các công trình trên đã đề cập một cách tương đối có hệ thống cơ sở và
lý luận và thực tiễn về vai trò của nguồn lực con người trong sự nghiệp công
nghiệp, hiện đại hóa, phân tích sự tác động qua lại giữa các nguồn lực : nguồn
lực con người, vốn, tài nguyên thiên nhiên, cơ sở vật chất kỹ thuật, vị trí địa
lý trong đó yếu tố quyết định chính là nguồn lực con người.
Vấn đề con người và vai trò của nguồn lực con người trong sự nghiệp
công hóa, hiện đại hóa cũng là đề tài nghiên cứu của một số luận án, luận văn
như : Luận án tiến sĩ “Nguồn lực con người trong quá trình công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước”, của tác giả Đoàn Văn Khái (2000), Luận án tiến sĩ
“Phát huy nguồn lực thanh niên trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại
hóa ở Việt nam hiện nay” của tác giả Nguyễn Thị Tú Oanh (1999); Luận văn
thạc sĩ “Phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao trong sự nghiệp công
nghiệp hóa, hiện đại hóa ở tỉnh Quảng Ninh” của tác giả Vũ Thị Phương Mai
(2004); Luận văn thạc sĩ “Phát triển nguồn lực con người trong sự nghiệp
công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở tỉnh Bến Tre” của tác giả Lê Thị Mai (2005);
Luận văn thạc sĩ “Phát triển nguồn nhân lực các dân tộc thiểu số trong sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở tỉnh Kon Tum” của tác giả Trịnh
Ngọc Dương (2006); Luận văn thạc sĩ “Phát huy vai trò nguồn lực con người

8

trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở tỉnh Lâm Đồng hiện nay”
của tác giả Đinh Xuân Thủy (2009).
Thứ hai: Phát triển giáo dục - đào tạo, khoa học và công nghệ với sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Gồm một số công trình đáng chú ý sau:
“Để cho khoa học và công nghệ trở thành động lực của sự nghiệp công
nghiệp hóa, hiện đại hóa”, Nguyễn Trọng Chuẩn, Tạp chí triết học số 1/1997;
“Phát triể giáo dục đào tạo phục vụ đắc lực cho sự nghiệp công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước”, Đỗ Mười, Tạp chí Nghiên cứu giáo dục, số 2/1996;
“Để giáo dục - đào tạo thực sự trở thành quốc sách hàng đầu”, Phạm Ngọc
Minh, Tạp chí Triết học, số 2/1997; “Nghiên cứu giáo dục con người và
nguồn nhân lực Việt Nam trên con đường phát triển và hội nhập”, Vũ Minh
Chi, Tạp chí Nghiên cứu con người, số 5/2002; “Nguồn lực trí tuệ trong sự
nghiệp đổi mới Việt Nam”, Bùi Thị Ngọc Lan, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà
Nội, 2002; “Vai trò, vị trí của người thầy giáo trong việc nâng cao chất
lượng đào tạo nguồn nhân lực vì sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước”, Báo cáo khoa học thuộc đề tài nghiên cứu khoa học cấp cơ sở, Hà
Nội, 1999; “Phát triển giáo dục đào tạo với tư cách điều kiện tiên quyết để
phát huy nguồn lực con người, thực trạng và giải pháp”, Vũ Thiện Vương,
Tạp chí Khoa học xã hội số 3/2001; “Những quan điểm của chủ nghĩa Mác -
Lênin về tiềm năng con người và phát huy tiềm năng trí tuệ của con người”,
Nguyễn An Ninh, Tạp chí Nghiên cứu lý luận số 9/1996; “Xây dựng và phát
huy nguồn lực trí tuệ Việt Nam phục vụ sự nghiệp chấn hưng đất nước”,
Nguyễn Văn Khánh chủ biên, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2010.
Các tác giả đã tập trung làm rõ vai trò của giáo dục đào tạo đối với việc
phát huy nguồn lực con người phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện
đại hóa ở nước ta. Phân tích rõ vị trí, vai trò, chức năng của nguồn lực trí tuệ,
bộ phận trung tâm, làm nên chất lượng và sức mạnh ngày càng tăng của

9
nguồn lực con người, là tài sản vô giá của mỗi quốc gia, dân tộc và của toàn

nhân loại.
Thứ ba: Công nghiệp hóa, hiện đại hóa với vấn đề xây dựng nền văn
hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, phát triển đời sống tinh thần. Với các
công trình đáng quan tâm như sau:
“Chủ tịch Hồ Chí Minh với sự nghiệp xây dựng con người mới”, Võ
Nguyên Giáp, Tạp chí Cộng sản số 6/1990; “Gắn phát triển con người Việt
Nam hiện đại với giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc”, Đặng Hữu
Toàn, Tạp chí Triết học số 2/2000; “Xây dựng đạo đức, lối sống và chuẩn giá
trị xã hội để phát triển toàn diện con người”, Huỳnh Khái Vinh, Tạp chí
Thông tin lý luận số 3/1999; “Văn hóa và lối sống của con người Việt Nam
trong công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”, Phạm Xuân Hằng, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000.
Các công trình này đều khẳng văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội,
là động lực của sự phát triển. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa phải gắn với nền
tảng, truyền thống văn hóa của dân tộc.
Thứ tư: Công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam và trên thế giới hiện
nay. Các công trình tiêu biểu cho khuynh hướng này là:
“Phát triển nguồn nhân lực - Kinh nghiệm thế giới và thực tiễn nước
ta”, Trần Văn Tùng, Lê ái Lâm (Viện Kinh tế thế giới), Nxb Chính trị quốc
gia, Hà Nội, 1996; “Công nghiệp hóa, hiện đại hóa rút ngắn. Những vấn đề lý
luận và kinh nghiệm thế giới”, Lê Cao Đoàn chủ biên, Nxb Khoa học Xã hội,
Hà Nội, 2008.
Các công trình trên đã giới thiệu khái quát về quá trình công nghiệp
hóa, hiện đại hóa của một số nước trên thế giới, nhấn mạnh vai trò của nguồn
lực con người trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa trên thế giới và
ở Việt Nam hiện nay.

10
Ngoài ra, nhiều nhà khoa học, nhà quản lý đã có những công trình, bài
viết về vấn đề nguồn lực con người đăng tải trên các tạp chí, các kỷ yếu khoa

học Có thể nói đây là đề tài đã được nghiên cứu ở những mức độ khác nhau
trên cả bình diện lý luận và thực tiễn. Tuy nhiên đề tài này luôn hàm chứa
những vấn đề mới cần bổ sung và phát triển. Cho đến thời điểm này chưa có
công trình nào nghiên cứu trực tiếp về việc phát huy vai trò nguồn lực con
người trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở tỉnh Thái Nguyên dưới
dạng một luận văn khoa học. Do vậy, trong luận văn này, tác giả kế thừa
những kết quả đã đạt được của những công trình nêu trên, nhằm tổng kết,
đánh giá đúng thực trạng phát huy vai trò nguồn lực con người trong sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa của tỉnh; làm rõ những vấn đề đang đặt
ra, tìm hướng giải quyết, đồng thời đưa ra một số giải pháp có tính định
hướng để phát huy vai trò nguồn lực con người trong sự nghiệp công nghiệp
hóa, hiện đại hóa của tỉnh Thái Nguyên.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
* Mục đích:
Trên cơ sở phân tích thực chất phát huy vai trò nguồn lực con người
trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, luận văn đánh giá thực trạng
và đề xuất những giải pháp chủ yếu nhằm phát huy vai trò nguồn lực con
người thúc đẩy tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Thái Nguyên.
* Nhiệm vụ:
Để đạt được mục đích trên, nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn là:
- Luận giải và làm rõ những vấn đề lý luận cơ bản về nguồn lực con
người và phát huy vai trò của nó trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại
hóa.
- Phân tích, đánh giá thực trạng phát huy vai trò nguồn lực con người
trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở tỉnh Thái Nguyên.

11
- Đề xuất phương hướng và giải pháp chủ yếu có tính định hướng cho
việc phát huy vai trò nguồn lực con người trong sự nghiệp công nghiệp hoá,
hiện đại hoá ở tỉnh Thái Nguyên.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
* Đối tượng nghiên cứu:
Vấn đề phát huy vai trò nguồn lực con người trong sự nghiệp công
nghiệp hoá, hiện đại hoá ở tỉnh Thái Nguyên hiện nay.
* Phạm vi nghiên cứu:
Đề tài tập trung nghiên cứu nội dung phát huy vai trò nguồn lực con
người trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở tỉnh Thái Nguyên trong
mối quan hệ với đặc điểm tự nhiên, kinh tế, văn hoá, xã hội của tỉnh và với
nguồn lực con người của cả nước.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
* Cơ sở lý luận:
Luận văn được triển khai trên nền tảng lý luận của chủ nghĩa Mác-
Lênin (chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử), tư tưởng
Hồ Chí Minh về vấn đề con người; các quan điểm cơ bản của Đảng Cộng sản
Việt Nam về nguồn lực con người. Ngoài ra những công trình nghiên cứu gần
đây về nguồn lực này được tác giả quan tâm, coi trọng nghiên cứu và kế thừa.
* Phương pháp nghiên cứu:
Luận văn được thực hiện trên cơ sở sử dụng phương pháp luận luận biện
chứng duy vật và các phương pháp cụ thể khác như: phân tích, tổng hợp, thống
kê, điều tra, khảo sát, kết hợp lôgíc với lịch sử.
6. Đóng góp của luận văn
* Đóng góp mới của luận văn:
- Đánh giá tổng quát thực trạng phát huy vai trò nguồn lực con người
trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở tỉnh Thái Nguyên.

12
- Nêu ra phương hướng và giải pháp chủ yếu có tính định hướng cho
việc phát huy vai trò nguồn lực con người trong sự nghiệp công nghiệp hoá,
hiện đại hoá ở tỉnh Thái Nguyên.
* Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn:

Luận văn có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo phục vụ cho
những người làm công tác nghiên cứu, giảng dạy bộ môn Mác-Lênin.
Những kết quả đạt được của luận văn có thể là cơ sở thực tiễn đáng tin
cậy để các cấp lãnh đạo, các ngành của tỉnh Thái Nguyên tham khảo trong
quá trình hoạch định các chủ trương, chính sách phát huy vai trò nguồn lực
con người của tỉnh trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,
luận văn được kết cấu gồm 2 chương, 4 tiết.
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về phát huy vai trò nguồn lực con
người trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Chương 2: Phát huy vai trò nguồn lực con người trong sự nghiệp công
nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Thái Nguyên - Thực trạng và giải pháp.



13
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ PHÁT HUY VAI TRÕ NGUỒN LỰC
CON NGƯỜI TRONG SỰ NGHIỆP CÔNG NGHIỆP HOÁ, HIỆN ĐẠI HOÁ

1.1. Nguồn lực con người và vai trò của nó trong sự nghiệp công
nghiệp hóa, hiện đại hóa
1.1.1. Nguồn lực con người
Việt Nam đang trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội và thực hiện
quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Quá trình này chỉ thành
công khi chúng ta huy động sức mạnh của tất cả các nguồn lực: Đất đai, tài
nguyên thiên nhiên, cơ sở hạ tầng, vốn, khoa học và công nghệ, nguồn lực
con người; văn hóa, truyền thống dân tộc, thể chế chính trị… nhằm tạo nên
sức mạnh tổng hợp thúc đẩy quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Trong

các nguồn lực, nguồn lực con người với những tính năng riêng biệt luôn giữ
vị trí trung tâm và quyết định đến việc phát huy sức mạnh của các nguồn
khác. Do đó, việc nhận thức đúng vai trò quan trọng của nguồn lực con người
có ý nghĩa vô cùng to lớn đối với công cuộc phát triển đất nước.
Muốn hiểu được khái niệm “nguồn lực con người” và vai trò của nó
như thế nào trước tiên phải tìm hiểu khái niệm nguồn lực là gì? Hiện nay,
chưa có tài liệu chính thức nào đưa ra định nghĩa và khái niệm nguồn lực, mà
chỉ đưa ra quan niệm dưới dạng tổng quát, “nguồn lực” là toàn bộ các yếu tố
cả vật chất và tinh thần đã, đang và sẽ tạo ra sức mạnh góp phần thúc đẩy cho
sự tăng trưởng và phát triển kinh tế - xã hội và chính trị của quốc gia đó. Khi
nói đến nguồn lực không chỉ nói đến sức mạnh, năng lực đã được bộc lộ và
đang phát huy tác dụng, mà cả những sức mạnh, năng lực tồn tại ở dạng tiềm
ẩn, tiếp tục nảy sinh và sẽ được khơi dậy, khai thác, sử dụng trong quá trình
phát triển khi gặp điều kiện thuận lợi.

14
Cách phân loại nguồn lực tùy thuộc vào việc xác định các tiêu chí và
xem xét chúng trong các quan hệ xác định: nguồn lực vật chất và nguồn lực
tinh thần; nguồn lực kinh tế và nguồn lực văn hoá; nguồn lực trong nước và
nguồn lực ngoài nước, nguồn lực chủ quan và nguồn lực khách quan Nhìn
chung, cho đến nay, để khẳng định vai trò của nguồn lực đối với sự phát triển
của mỗi quốc gia, dân tộc, người ta chia nguồn lực thành các loại cơ bản sau
đây: nguồn nhân lực (nguồn lực con người); nguồn lực tài nguyên thiên nhiên;
nguồn lực do vị trí địa lý thuận lợi; nguồn vốn tài chính và cơ sở vật chất - kỹ
thuật; các nguồn lực bên ngoài Các tiêu chí để phân loại nguồn lực cũng rất
đa dạng, do vậy các nguồn lực cũng rất phong phú. Trong đó, nguồn lực con
người là quan trọng nhất, là nhân tố chủ động, có khả năng định hướng và gắn
kết các nguồn lực khác vì mục tiêu phát triển đất nước.
“Nguồn lực con người” hay “nguồn nhân lực” là khái niệm được hình
thành trong quá trình nghiên cứu, xem xét con người với tư cách là một nguồn

lực, là động lực của sự phát triển. Các công trình nghiên cứu trên thế giới và
trong nước gần đây đề cập đến khái niệm nguồn lực con người với các góc độ
khác nhau.
Khái niệm “nguồn lực con người” đã được nhiều nước phương Tây và
một số nước châu Á sử dụng từ những năm 60 của thế kỷ XX dựa trên quan
niệm mới về vai trò vị trí con người trong sự phát triển. Ở Việt Nam, khái niệm
này được sử dụng tương đối rộng rãi kể từ đầu thập niên 90 của thế kỷ XX. Nói
đến nguồn lực con người là đề cập tới yếu tố quan trọng nhất, năng động nhất
của việc tăng trưởng và phát triển kinh tế - xã hội. Nguồn lực con người cùng
với hoạt động có tính sáng tạo, tác động và làm biến đổi giới tự nhiên, trên cơ
sở đó hình thành nên các quy luật lao động và mối quan hệ xã hội.
Lý luận hình thái kinh tế - xã hội chỉ ra, mỗi hình thái kinh tế - xã hội
có một lực lượng sản xuất của nó, trong đó con người được coi là lực lượng
sản xuất hàng đầu, yếu tố quan trọng nhất, quyết định toàn bộ quá trình sản

15
xuất xã hội, Lênin đã khẳng định: “Lực lượng sản xuất hàng đầu của toàn thể
nhân loại là công nhân, là người lao động” [42, tr.430]. Trải qua lịch sử lâu dài
chinh phục giới tự nhiên, con người càng hiểu rõ hơn sức mạnh của mình. Thông
qua hoạt động thực tiễn, con người cải tạo giới tự nhiên, sáng tạo ra lịch sử và
từng bước hoàn thiện bản thân mình.
Trong lý thuyết về tăng trưởng kinh tế, con người được nhìn nhận như
một phương tiện bảo đảm tốc độ tăng trưởng. Bản thân nguồn lực con người
tự nó đã là một nguồn lực để tăng trưởng và phát triển kinh tế. Đồng thời
nguồn lực con người là nguồn lực duy nhất để khai thác và sử dụng các nguồn
lực khác. Trong thời đại ngày nay khi khoa học đã trở thành lực lượng sản
xuất trực tiếp, thì vai trò của nguồn lực con người ngày càng rõ nét và quan
trọng hơn. Tăng trưởng kinh tế nhanh tạo nhiều công ăn việc làm, giảm thất
nghiệp và ngược lại, người lao động có việc làm tăng thu nhập, tăng tiêu dùng
sẽ góp phần làm tăng trưởng kinh tế.

Ngân hàng thế giới cho rằng, nguồn lực con người được hiểu như toàn bộ
"vốn" người. Khái niệm "vốn" được hiểu là giá trị mang lại lợi ích kinh tế - xã
hội để chỉ ra tầm quan trọng của việc đầu tư vào phát triển con người thông qua
giáo dục - đào tạo, chăm sóc sức khoẻ nhằm tạo ra những người lao động có tri
thức, có khả năng nhận thức và tiếp thu kiến thức, có kỹ năng nghề nghiệp và có
sức khoẻ, đáp ứng được những đòi hỏi ngày càng cao của công việc.
Ở nước ta, một số nhà khoa học tham gia chương trình khoa học - công
nghệ cấp nhà nước mang mã số KX - 07: “Con người Việt Nam - mục tiêu và
động lực của sự phát triển kinh tế - xã hội” cho rằng nguồn lực con người được
hiểu là dân số và chất lượng con người, bao gồm cả thể chất và tinh thần, sức
khoẻ và trí tuệ, năng lực và phẩm chất, thái độ và phong cách làm việc. GS.
Phạm Minh Hạc cho rằng: “Nguồn nhân lực là tổng thể các tiềm năng lao động
của một nước hay một địa phương, tức là nguồn lao động được chuẩn bị (ở
các mức độ khác nhau) sẵn sàng tham gia một công việc lao động nào đó”

16
16, tr.269. GS. TS Hoàng Chí Bảo rút ra kết luận: “Nguồn lực con người là
sự kết hợp thể lực và trí lực, cho thấy khả năng sáng tạo, chất lượng hiệu quả
và triển vọng mới phát triển của con người ” [1, tr.14]. Từ quan niệm nêu trên
ta thấy, nguồn lực con người không chỉ đơn thuần là lực lượng lao động đã có
và sẽ có, mà còn bao gồm sức mạnh của thể chất, trí tuệ, tinh thần của các cá
nhân trong một cộng đồng, một quốc gia được đem ra hoặc có khả năng đem
ra sử dụng vào quá trình phát triển xã hội.
PGS. TS Phạm Công Nhất đưa ra quan niệm: “Nhân tố con người là
tổng thể các yếu tố có liên quan đến con người, là sự thống nhất biện chứng
giữa các mặt chủ quan và khách quan để tạo nên năng lực, phẩm chất và trí tuệ
của con người được hình thành và phát huy tác dụng vào trong thực tiễn sản
xuất vật chất hay quá trình phát triển kinh tế - xã hội của mỗi cộng đồng, quốc
gia trong những giai đoạn lịch sử nhất định” [10, tr.25]. Cũng bàn về vấn đề
này PGS.TS Đoàn Văn Khái cho rằng, khái niệm “nguồn nhân lực” ngoài

nghĩa rộng được hiểu như “nguồn lực con người” còn được hiểu theo nghĩa hẹp
là nguồn lao động, có khi được hiểu là lực lượng lao động. “Nguồn lực con
người là khái niệm chỉ số dân, cơ cấu dân số và nhất là chất lượng con người
với tất cả đặc điểm và sức mạnh của nó trong sự phát triển xã hội” [43, tr.62].
Như vậy, qua một số cách tiếp cận về nguồn lực con người và về nguồn
nhân lực nói trên, dưới dạng tổng quát ta có thể hiểu nguồn lực con người là
tổng thể những yếu tố thuộc về thể chất và tinh thần, đạo đức, phẩm chất,
trình độ tri thức, vị thế xã hội tạo thành năng lực của con người và của
cộng đồng người. Năng lực đó khi được sử dụng, phát huy sẽ góp phần thúc
đẩy sự phát triển của xã hội.
Nguồn lực con người là sự thống nhất của ba yếu tố cơ bản: Số lượng
nguồn lực con người; chất lượng nguồn lực con người; cơ cấu nguồn lực con
người. Trong đó chất lượng nguồn lực con người là yếu tố cơ bản, đóng vai

17
trò quyết định nhất, đặc biệt là trong bối cảnh khoa học - công nghệ phát triển
mạnh mẽ như hiện nay.
Về mặt số lượng nguồn lực con người: Đó chính là tổng số lao động đã
và đang được đào tạo, đang và sẵn sàng tham gia vào quá trình phát triển kinh
tế - xã hội, nó được quy định bởi quy mô dân số. Trong đó số dân trong độ
tuổi lao động là chỉ số phản ánh rõ nhất về số lượng nguồn lực con người. Số
lượng nguồn lực con người đóng vai trò quan trọng đối với sự phát triển kinh
tế - xã hội. Theo số liệu thống kê trong những năm gần đây, tốc độ tăng dân
số và lực lượng lao động ở nước ta tăng khá cao và liên tục nên nguồn lao
động ở nước ta rất dồi dào, tạo điều kiện để mở rộng và phát triển sản xuất.
Theo kế quả tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009 Việt Nam là quốc gia có
số lượng dân số đông (xếp thứ 13/189 quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế
giới). Hàng năm, lực lượng lao động tăng thêm trên 1 triệu người và tính đến
thời điểm 01/4/2009 dân số trong độ tuổi lao động ở nước ta là 55.029.500
người (chiếm 51,2% dân số cả nước). Lao động trẻ có sức bật nhanh, thuận

lợi cho sự phát triển chuyên môn, kỹ thuật đáp ứng sự đòi hỏi của công
nghiệp hoá, hiện đại hóa. Tuy nhiên, đối với một quốc gia chậm phát triển
như nước ta thì điều này cũng tạo ra khó khăn cho nền sản xuất xã hội do
không giải quyết được đủ việc làm cho người lao động.
Về mặt chất lượng nguồn lực con người: Chất lượng nguồn lực con
người giữ vai trò quyết định sức mạnh của nguồn lực con người. Nó bao gồm
những yếu tố cơ bản như: thể lực, trí tuệ, kỹ năng lao động, phẩm chất đạo
đức, văn hóa, tâm lý, tư tưởng, tình cảm, tính cách, lối sống, trình độ chuyên
môn của người lao động
Trong các yếu tố trên, trí tuệ là yếu tố quan trọng nhất quyết định chất
lượng của nguồn lao động, bởi vì tất cả những gì thúc đẩy con người hành
động đều phải thông qua đầu óc của họ - tức là thông qua trí tuệ. Thuật ngữ
“trí tuệ” có từ gốc tiếng La tinh là “intellectucs” - trí tuệ, lý trí, lý tính. Trí tuệ

18
là tổng hợp năng lực nhận thức và khả năng thích nghi của con người với môi
trường xung quanh. Theo PGS. TS Đỗ Minh Hợp: “Nguồn lực trí tuệ trước
hết có liên quan đến lĩnh vực nhận thức lý luận, biểu thị trình độ phát triển
của hoạt động tư duy với tư cách phương tiện đem lại những tri thức mới và
sử dụng có hiệu quả chúng trong quá trình hoạt động sống. Nói cách khác
nguồn lực trí tuệ là năng lực tiến hành quá trình nhận thức và giải quyết hữu
hiệu những vấn đề nảy sinh trong hoạt động dựa trên kết quả nhận thức ấy”
[3, tr.105]. Với hoạt động có mục đích và sáng tạo, con người bằng trí tuệ và
lao động của mình để chế tạo ra các công cụ sản xuất, đưa xã hội loài người
phát triển từ thấp lên cao. Có thể nói trí tuệ là tài sản vô giá, nguồn lực vô tận
của con người, của xã hội.
Cùng với trí tuệ, những phẩm chất đạo đức và năng lực chuyên môn là
yếu tố cơ bản không thể tách khỏi chất lượng nguồn lực con người. Đạo đức
được xem là cái gốc, là cơ sở của sự hình thành và phát triển thế giới quan
và nhân sinh quan cách mạng của mỗi người. Chủ tịch Hồ Chí Minh cho

rằng đức và tài luôn gắn bó với nhau. Đức là đạo đức cách mạng, đó là cái gốc
rất quan trọng, nếu không có đạo đức cách mạng thì có tài cũng vô dụng; có đức
mà không có tài như "ông bụt" ngồi trong chùa không làm hại ai nhưng cũng
chẳng giúp ích gì. Do vậy phát triển nguồn lực con người phải chú ý cả hai yếu
tố tài và đức. Những phẩm chất đạo đức sẽ thúc đẩy tính tích cực và làm gia
tăng hiệu quả hoạt động của con người. Con người Việt Nam có truyền thống
yêu nước, cần cù, hiếu học, chịu đựng khó khăn gian khổ, có tư chất thông
minh và sáng tạo, thích ứng nhanh với hoàn cảnh. Ngoài ra người Việt Nam
còn có ý thức dân tộc cao, phương thức ứng xử mềm mỏng, không cực đoan
thái quá; có lối sống nhân ái, trọng đạo lý, nghĩa tình… Đây chính là những
thế mạnh của con người Việt Nam trong lao động sản xuất cũng như trong sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Năng lực chuyên môn,
là khả năng hoạt động nhận thức và thực tiễn của cá nhân (như năng lực trí tuệ, ý

19
chí, kỹ năng, kỹ xảo, thao tác ). Năng lực chuyên môn mang tính tương đối ổn
định. Nhờ có khả năng nhận thức tốt mà người lao động nhanh chóng phát
hiện và lý giải được những vấn đề lý luận và thực tiễn mới nảy sinh, giúp họ
đi sâu nghiên cứu và thực hiện công việc chuyên môn có hiệu quả.
Chất lượng nguồn lực con người còn phụ thuộc vào các yếu tố như: thể
lực, giáo dục đào tạo, văn hóa truyền thống dân tộc, tác phong và tinh thần
làm việc, tính kỷ luật trong lao động…
Thể lực là tình trạng sức khỏe của con người, biểu hiện ở sự phát triển
sinh học, không có bệnh tật, có khả năng lao động trong hình thái lao động
ngành nghề nào đó, có sức khỏe để học tập, làm việc lâu dài, thể lực yếu sẽ
hạn chế rất lớn đến sự phát triển trí lực của cá nhân và cộng đồng xã hội nói
chung. Sự phát triển kinh tế - xã hội tạo điều kiện thuận lợi cho việc chăm sóc
sức khỏe của con người, góp phần nâng cao chất lượng nguồn lực con người.
Nhờ có thể lực tốt mà con người có thể tiếp thu nhanh chóng những kiến thức,
kỹ năng kỹ xảo trong quá trình giáo dục. Giáo dục đào tạo chính là phương

tiện đắc lực để phát triển trí tuệ, trang bị kiến thức chuyên môn nghề nghiệp
cho người lao động, tạo ra nguồn lao động có chất lượng cao phục vụ sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Đảng và Nhà nước ta đã coi,
giáo dục và đào tạo là “quốc sách hàng đầu, nhằm nâng cao dân trí, đào tạo
nhân lực, bồi dưỡng nhân tài”. Việc nâng cao chất lượng nguồn lực con người
không thể tách khỏi yếu tố văn hóa truyền thống dân tộc, tác phong, tinh thần
làm việc và tính kỷ luật trong lao động. Văn hóa truyền thống dân tộc là
những nét văn hóa đặc trưng có tác động rất lớn đến hành vi ứng xử của con
người trong cuộc sống và công việc. Vì vậy cần phải giữ gìn, phát huy những
giá trị quý báu của của truyền thống văn hóa dân tộc, kết hợp tiếp thu những
tinh hoa văn hóa của nhân loại, đồng thời phải cải tạo, khắc phục và xóa bỏ
những di sản tiêu cực có ảnh hưởng đến chất lượng nguồn lực con người Việt
Nam. Với tư cách là chủ thể của hoạt động lao động sản xuất, đòi hỏi người

20
lao động phải có tác phong làm việc khẩn trương, có ý thức trách nhiệm cao
đối với công việc, với cộng đồng, có tinh thần dám nghĩ, dám làm, chấp hành
nghiêm kỷ luật lao động, pháp luật của Nhà nước.
Về cơ cấu nguồn lực con người: Cơ cấu nguồn lực con người được
phản ánh thông qua cơ cấu dân cư, cơ cấu lao động trong các ngành, cơ cấu
lao động đã qua đào tạo trong các lĩnh vực và các khu vực kinh tế, cơ cấu
trình độ lao động, cơ cấu độ tuổi trong lực lượng lao động
Ở nước ta hiện nay, cơ cấu dân cư và lao động đang có sự dịch chuyển
tích cực. Tỷ trọng lao động trong ngành nông - lâm - ngư nghiệp có xu hướng
giảm, lao động trong nghành công nghiệp, xây dựng và dịch vụ tăng. Nhìn
chung lực lượng lao động ở nước ta trẻ, hàng năm có thêm 1,2 triệu người
bước vào độ tuổi lao động. Tuy nhiên bất hợp lý trong cơ cấu trình độ lao
động cũng như trong phân bố lao động giữa các ngành, các vùng chính là
những hạn chế cơ bản này đó làm giảm chất lượng nguồn lực con người Việt
Nam hiện nay.

Nguồn lực con người, tuỳ theo cách tiếp cận mà có sự phân chia khác
nhau. Căn cứ vào khả năng và mức độ tham gia hoạt động kinh tế thì nguồn
lực con người bao gồm:
Nguồn lực con người trong độ tuổi lao động là toàn bộ những người
trong độ tuổi lao động và có khả năng lao động, được quy định rõ trong luật
pháp của mỗi quốc gia.
Nguồn lực con người tham gia hoạt động kinh tế (lực lượng lao động)
là bộ phận năng động nhất trong nguồn lực con người. Nó được tính trong
phạm vi quốc gia, vùng, địa phương. Bộ phận này rất phong phú, gồm có
những người trong và trên độ tuổi lao động đang làm việc, những người trong
và độ tuổi lao động nhưng không có làm việc hay đang tìm việc làm.
Nguồn lực con người dự trữ là một phần của nguồn lực con người trong
độ tuổi lao động nhưng hiện tại chưa tham gia hoạt kinh tế và khi cần có thể

21
huy động được như : người trong độ tuổi lao động nhưng đang đi học, người
nghỉ hưu sớm, người trong lực lượng vũ trang, người làm công việc nội trợ
Căn cứ vào vị trí, nguồn lực con người có thể chia thành ba loại:
Nguồn nhân lực chính đây là nguồn nhân lực có số lượng lớn nhất, nằm
trong độ tuổi lao động, đảm nhiệm chủ yếu các quá trình hoạt động kinh tế -
xó hội của đất nước.
Nguồn nhân lực phụ là bộ phận dân cư nằm ngoài độ tuổi lao động, có
thể tuỳ theo sức của mình để tham gia vào các hoạt động kinh tế với thời gian
nhất định.
Nguồn nhân lực bổ sung là nguồn lực con người được bổ sung từ
những người sẵn sàng tham gia làm việc như người trong độ tuổi lao động tốt
nghiệp ra trường, người hết nghĩa vụ quân sự, người lao động từ nước ngoài
trở về
1.1.2. Vai trò của nguồn lực con người trong sự nghiệp công nghiệp
hóa, hiện đại hoá hiện nay

Nguồn lực con người đóng vai trò quyết định của đối với sự nghiệp công
nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Đảng ta đã khẳng định: Con người là nguồn
lực quý báu nhất, có vai trò quyết định đối với sự phát triển của đất nước, nhất là
khi nguồn lực tài chính và nguồn lực vật chất còn hạn hẹp. Con người phát triển
về trí tuệ, cường tráng về thể chất, phong phú về tinh thần, trong sáng về đạo đức
là động lực của sự nghiệp xây dựng xã hội mới, đồng thời là mục tiêu của chủ
nghĩa xã hội. Việt Nam bước vào thực hiện quá trình công nghiệp hoá, hiện
đại hoá khi mà lợi thế về các nguồn lực, vốn, công nghệ không không bằng
các quốc gia đi trước. Thế nhưng, chúng ta lại có một lợi thế lớn về nguồn lực
con người, với một số lượng dân số xếp thứ 13 trên thế giới và đa số đang ở
trong trong độ tuổi lao động. Đây là nguồn tài nguyên vô cùng quý báu cho
phép Việt Nam tận dụng lợi thế để phát huy vào trong sự nghiệp công nghiệp
hoá, hiện đại hoá hiện nay.

22
Xem xét vai trò nguồn lực con người phải dựa trên quan điểm toàn diện
của phương pháp luận duy vật biện chứng, nghĩa là trong khi nhấn mạnh vai trò
quyết định của nguồn lực con người, chúng ta không bao giờ được tuyệt đối
hoá nó, không đặt nguồn lực con người ở bên ngoài những điều kiện lịch sử -
hiện thực, không tách rời nguồn lực con người khỏi mối liên hệ hữu cơ với
các nguồn lực khác. Nguồn lực con người, đặc biệt là nguồn lực trí tuệ chỉ có
thể phát huy vai trò, sức mạnh trong thực tế, khi dựa trên cơ sở của những
nguồn lực khác, lấy đó làm điều kiện, tiền đề cho mọi hoạt động và phát triển
của con người trong thực tiễn. Đồng thời, phải đặt công nghiệp hóa, hiện đại
hóa trong bối cảnh hiện nay - bối cảnh của cuộc cách mạng khoa học - công
nghệ đang phát triển như vũ bão; lao động trí tuệ ngày càng gia tăng và trở
thành yêu cầu khách quan, xu thế phổ biến của nhân loại; khi công nghiệp hóa
gắn với hiện đại hóa mà cốt lõi là hiện đại hóa lực lượng sản xuất. Bên cạnh
đó, cần phải đặt công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện hội nhập quốc
tế ngày càng sâu rộng hiện nay.

Vai trò của nguồn lực con người đối với sự nghiệp công nghiệp hóa,
hiện đại hóa được biểu hiện ở những điểm cơ bản sau:
Một là, trong quan hệ so sánh với các nguồn lực khác, nguồn lực con
người là chủ thể trực tiếp, quyết định toàn bộ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện
đại hóa. Con người với sức lực và trí tuệ của mình là nhân tố quyết định hiệu
quả của việc khai thác, sử dụng nguồn lực tự nhiên và các nguồn lực khác.
Đồng thời, việc khai thác và sử dụng các nguồn lực đó một cách có hiệu quả
sẽ đem lại, nhân lên sức mạnh của nguồn lực con người. Trong quan niệm của
các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác, con người không chỉ là chủ thể của hoạt
động sản xuất, là yếu tố hàng đầu đóng vai trò quyết định trong lực lượng sản
xuất của xã hội mà nó còn là chủ thể hoạt động của mọi quá trình lịch sử xã
hội. Bằng hoạt động thực tiễn của mình, con người đó không ngừng chinh
phục thế giới khách quan, phát triển lực lượng sản xuất đồng thời hoàn thiện

23
và phát triển chính bản thân mình. Hồ Chí Minh từng nói: “Nhân nghĩa là
nhân dân. Trong bầu trời không gì quý bằng nhân dân”; “cán bộ là gốc của
công việc”; “muôn việc thành công hay thất bại đều do cán bộ tốt hoặc kém.
Người luôn đặt nhân dân vào địa vị cao nhất, địa vị làm chủ trong những vấn
đề quan trọng nhất của cách mạng và xã hội: lợi ích, quyền hạn, công việc,
trách nhiệm, chính quyền, đoàn thể (tức là Đảng), quyền hành và lực lượng
đều nhằm vào mục tiêu: của dân, do dân, vỡ dân Theo Hồ Chí Minh, đấu
tranh giải phóng dân tộc, thống nhất nước nhà, xây dựng đời sống mới, tiến
lên xã hội chủ nghĩa đều phải bắt đầu từ vốn con người, từ việc phát huy nhân
tố con người. Như vậy, trong tư tưởng Hồ Chí Minh, con người đóng vai trò
là động lực to lớn, quyết định đối với mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam.
Trong thời đại ngày nay, nguồn lực con người vẫn đóng một vai trò quan
trọng, quyết định quá trình sản xuất, tăng trưởng và phát triển kinh tế xã hội.
Hiện nay thế giới đang có xu hướng chuyển từ nền kinh tế dựa vào sự giàu có
của các nguồn tài nguyên sang nền kinh tế tri thức. Như vậy con người là

nguồn lực chủ yếu, vững chắc, lâu bền trong sự phát triển, là chủ thể sáng tạo,
là nguồn lực của mọi nguồn lực.
Hai là, con người đồng thời cũng là khách thể được khai thác triệt để
trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, là đối tượng duy nhất mà
chính sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa phải hướng vào phục vụ.
Trước đây, quá trình công nghiệp hoá, hiện đại tập trung khai thác
nguồn lực tự nhiên thì giờ đây quá trình này lại hướng vào việc khai thác con
người. Nguồn lực tự nhiên dù có phong phú và giàu có đến mấy thì cũng sẽ bị
cạn kiệt trước sự khai thác của con người và chỉ có nguồn lực con người mới
là nguồn tài nguyên vô tận. Trong điều kiện cách mạng khoa học - công nghệ
hiện đại phát triển mạnh mẽ như hiện nay, lao động trí tuệ đang trở thành xu
thế phổ biến thì cái cần được tập trung khai thác ở con người cho quá trình
công nghiệp hóa, hiện đại hóa chính là tiềm năng trí tuệ. Vì vậy, việc nuôi

24
dưỡng, phát triển, khai thác, sử dụng có hiệu quả sức lao động, nhất là trí lực
trở thành yêu cầu cấp bách và quan trọng hàng đầu trong toàn bộ sự nghiệp
công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Con người là đối tượng duy nhất mà sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện
đại hóa phải hướng vào phục vụ. Trong quá trình thực hiện công nghiệp hóa,
hiện đại hóa, con người phải được hưởng thụ ngay những thành quả mà công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đem lại để nâng cao chất lượng nguồn lực con người.
Vì vậy, mọi chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước đều
quán triệt tư tưởng chăm lo bồi dưỡng và phát huy nhân tố con người, hướng
tới mục tiêu phát triển toàn diện con người Việt Nam. Sự nghiệp công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước của nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng, trong
thời gian qua đã thu được nhiều thành tựu to lớn, từng bước đưa đất nước
thoát ra khỏi khủng hoảng, đạt tốc độ tăng trưởng kinh tế tương đối cao và ổn
định, đời sống nhân dân từng bước được cải thiện, bộ mặt xã hội có những
thay đổi đáng kể.

Thứ ba, nguồn lực con người, đặc biệt là năng lực trí tuệ có vai trò to lớn
trong sự phát triển của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Trí
tuệ, nguồn “chất xám” của con người có tiềm năng vô tận, càng sử dụng thì
càng phát triển. Nhờ vậy, con người từng bước làm chủ tự nhiên, ngày càng
khám phá ra những tài nguyên thiên nhiên mới hoặc sáng tạo ra những nguồn
tài nguyên vốn không có sẵn trong tự nhiên. Con người với trí tuệ và lao động
của mình đó chế tạo ra các thế hệ công cụ sản xuất mới nhằm tác động vào tự
nhiên có hiệu quả hơn. Chính sự phát triển không ngừng của công cụ sản xuất
đó đưa xã hội loài người chuyển qua các nền văn minh từ thấp lên cao. Trí tuệ
của con người có sức mạnh vô cùng to lớn một khi nó được vật thể hóa, trở
thành lực lượng sản xuất trực tiếp. Bằng chính sức mạnh trí tuệ của mình, con
người đã tạo ra những biến đổi thần kỳ trong lịch sử phát triển của nhân loại.
Trong điều kiện hiện nay, trí tuệ đó thực sự trở thành nền tảng sức mạnh của

×