Tải bản đầy đủ (.pdf) (118 trang)

Vấn đề kế thừa và phát huy giá trị đạo đức truyền thống của phụ nữ Việt Nam ở phụ nữ tỉnh Thái Nguyên

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.41 MB, 118 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRUNG TÂM ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG GIẢNG VIÊN LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ



LÊ THỊ QUỲNH TRANG

VẤN ĐỀ KẾ THỪA VÀ PHÁT HUY GIÁ TRỊ
ĐẠO ĐỨC TRUYỀN THỐNG CỦA PHỤ NỮ VIỆT NAM
Ở PHỤ NỮ TỈNH THÁI NGUYÊN HIỆN NAY

LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC

HÀ NỘI - 2012


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRUNG TÂM ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG GIẢNG VIÊN LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ



LÊ THỊ QUỲNH TRANG

VẤN ĐỀ KẾ THỪA VÀ PHÁT HUY GIÁ TRỊ
ĐẠO ĐỨC TRUYỀN THỐNG CỦA PHỤ NỮ VIỆT NAM
Ở PHỤ NỮ TỈNH THÁI NGUYÊN HIỆN NAY

LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC

Chuyên ngành: Triết học
Mã số:



60 22 80

Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS. TRẦN SỸ PHÁN

HÀ NỘI - 2012


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ............................................................................................................. 1

Chương 1. GIÁ TRỊ ĐẠO ĐỨC TRUYỀN THỐNG CỦA PHỤ NỮ VIỆT NAM
VÀ NGUYÊN TẮC KẾ THỪA, PHÁT HUY CÁC GIÁ TRỊ ĐÓ
TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY ........................................................ 7

1.1.

Giá trị đạo đức truyền thống của phụ nữ Việt Nam ..........................7
1.1.1. Đạo đức và giá trị đạo đức truyền thống - Mấy vấn đề lý luận ..........7
1.1.2. Những nhân tố ảnh hưởng đến đặc điểm đạo đức của người phụ
nữ Việt Nam ................................................................................... 18
1.1.3. Những giá trị đạo đức truyền thống cơ bản của phụ nữ Việt
Nam ................................................................................................ 26

1.2.

Những nhân tố ảnh hưởng và những nguyên tắc cơ bản của quá
trình kế thừa và phát huy những giá trị đạo đức truyền thống
của phụ nữ Việt Nam hiện nay ....................................................... 43
1.2.1. Kế thừa là quy luật tất yếu của việc giữ gìn và phát huy các giá

trị đạo đức truyền thống .................................................................. 43
1.2.2. Những nhân tố ảnh hưởng đến quá trình kế thừa và phát huy giá
trị đạo đức truyền thống của phụ nữ Việt Nam hiện nay ................. 49
1.2.3. Một số nguyên tắc cơ bản trong quá trình kế thừa và phát huy
giá trị đạo đức truyền thống của phụ nữ Việt Nam hiện nay ............ 58

Chương 2. VẤN ĐỀ KẾ THỪA VÀ PHÁT HUY NHỮNG GIÁ TRỊ ĐẠO ĐỨC
TRUYỀN THỐNG CỦA PHỤ NỮ VIỆT NAM Ở PHỤ NỮ TỈNH
THÁI NGUYÊN HIỆN NAY- THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP ............. 68


2.1.

Thực trạng và những vấn đề đặt ra trong việc kế thừa và phát
huy những giá trị đạo đức truyền thống của phụ nữ Việt Nam ở
phụ nữ Thái Nguyên hiện nay.......................................................... 68
2.1.1. Thực trạng việc kế thừa và phát huy những giá trị đạo đức
truyền thống của phụ nữ Việt Nam ở phụ nữ tỉnh Thái Nguyên
thời gian qua ................................................................................... 70
2.1.2. Những vấn đề đặt ra trong việc kế thừa và phát huy những giá
trị đạo đức truyền thống của phụ nữ Việt Nam ở phụ nữ tỉnh
Thái Nguyên hiện nay .................................................................... 85

2.2.

Một số giải pháp cơ bản nhằm nâng cao chất lượng và hiệu quả
việc kế thừa và phát huy giá trị đạo đức truyền thống của phụ
nữ Việt Nam ở phụ nữ tỉnh Thái Nguyên hiện nay ......................... 96
2.2.1. Đẩy mạnh giáo dục giá trị đạo đức truyền thống người phụ nữ
Việt Nam cho phụ nữ tỉnh Thái Nguyên với nội dung và hình

thức phù hợp .................................................................................. 97
2.2.2. Phát huy vai trò của Hội liên hiệp phụ nữ tỉnh .............................. 100
2.2.3. Đẩy mạnh giáo dục về bình đẳng giới, tăng quyền năng cho phụ
nữ. Xây dựng người phụ nữ có sức khoẻ, tri thức, kỹ năng nghề
nghiệp, năng động, sáng tạo .......................................................... 102

KẾT LUẬN ...................................................................................................... 107
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................... 109


BẢNG QUY ƯỚC CHỮ VIẾT TẮT

CNH, HĐH

:

Cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa

ĐHĐB

:

Đại hội đại biểu

LHPN

:

Liên hiệp phụ nữ


XHCN

:

Xã hội chủ nghĩa

WTO

:

Tổ chức Thương mại Thế giới


MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Thực tế chứng tỏ rằng, trong bất cứ giai đoạn lịch sử nào, phụ nữ bao giờ cũng
đóng một vai trị hết sức quan trọng. Trải qua quá trình dựng nước và giữ nước, họ đã
góp phần sáng tạo ra của cải vật chất và tinh thần, đã tích cực tham gia các cuộc đấu
tranh chống áp bức bóc lột, nhất là đấu tranh chống giặc ngoại xâm, đã đảm đang nuôi
dạy con cái, góp phần bảo vệ những truyền thống tốt đẹp của ông cha. Trong sự
nghiệp xây dựng CNXH, họ cũng là lực lượng xã hội có những đóng góp hết sức to
lớn. Tại Hội nghị cán bộ thảo luận dự thảo Luật Hơn nhân và gia đình (ngày 10-101959) Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Nói phụ nữ là nói phân nửa xã hội. Nếu khơng
giải phóng phụ nữ thì khơng giải phóng một nửa lồi người. Nếu khơng giải phóng
phụ nữ là xây dựng chủ nghĩa xã hội chỉ một nửa” và ngày 19-10-1966, phát biểu tại
Lễ kỷ niệm lần thứ 20 ngày thành lập Liên Hiệp phụ nữ Việt Nam, một lần nữa, Chủ
tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh: “Như thế là từ xưa đến nay, từ Nam đến Bắc, từ trẻ đến
già, phụ nữ Việt Nam ta thật là anh hùng”.
Nhìn lại lịch sử từ xưa đến nay, phụ nữ Việt Nam luôn luôn giữ vị trí quan
trọng trong sự nghiệp đấu tranh dựng nước và giữ nước cũng như trong cuộc sống đời

thường, truyền thống và phẩm giá của người phụ nữ Việt Nam được hình thành qua
hàng nghìn năm lịch sử. Đó là lịng u nước, đức hy sinh, lịng nhân ái, trí thơng
minh, năng động, sáng tạo, có lối sống văn hố, quan tâm đến đời sống xã hội và cộng
đồng, góp phần xứng đáng vào công cuộc xây dựng đất nước theo định hướng xã hội
chủ nghĩa.
Trong q trình đổi mới tồn diện đất nước, bên cạnh những thành tựu to lớn
mà nhân dân ta đã và đang đạt được trên tất cả các lĩnh vực: kinh tế, chính trị, văn hố
- xã hội, quốc phịng- an ninh, ngoại giao… thì q trình đó cũng làm bộc lộ nhiều
vấn đề bức xúc cần phải giải quyết, trong đó có sự suy thối đạo đức chạy theo lối
sống thực dụng, xa rời cội nguồn dân tộc trong một bộ phận nhân dân nói chung, phụ

1


nữ nói riêng… điều đó đã ảnh hưởng khơng nhỏ đến việc phát huy nguồn lực con
người trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đứng trước nhiệm vụ của giai
đoạn cách mạng mới, đòi hỏi người phụ nữ Thái Nguyên phải phấn đấu vươn lên đáp
ứng yêu cầu ngày càng cao của cuộc sống hiện đại, với đầy đủ những phẩm chất: yêu
nước, có tri thức, có sức khỏe, năng động, sáng tạo, có lối sống văn hóa, có lịng nhân
hậu, quan tâm đến lợi ích xã hội và cộng đồng; xây dựng gia đình ấm no, bình đẳng,
tiến bộ, hạnh phúc. “Người phụ nữ mới” là sản phẩm của quá trình lịch sử, được lịch
sử hun đúc nên, kết hợp hài hòa yếu tố truyền thống với hiện đại.
Trong những năm qua, Đảng bộ và chính quyền tỉnh luôn quan tâm động viên,
bồi dưỡng lực lượng và khả năng của người phụ nữ, phát huy truyền thống của phụ nữ
Thái Nguyên, tạo mọi điều kiện thuận lợi vì sự tiến bộ của phụ nữ. Trong bối cảnh đó,
phụ nữ Thái Nguyên đã có những bước tiến đáng kể so với trước đây.
Thái Nguyên là một trong những tỉnh đóng vai trị là trung tâm kinh tế, văn
hóa, chính trị của miền núi phía bắc, lại là cái nơi văn hóa truyền thống cách mạng.
Trước Cách mạng tháng Tám năm 1945, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt
Nam, trực tiếp là các cơ sở Đảng trong tỉnh, phụ nữ Thái Nguyên đã phát huy truyền

thống yêu nước và cách mạng của quê hương, tích cực tham gia các phong trào đánh
Pháp, đuổi Nhật. Trong 9 năm kháng chiến chống Pháp trường kỳ anh dũng của dân
tộc, dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh, các tổ chức tập hợp chị em phụ nữ thuộc các
tầng lớp, thành phần, dân tộc trong tỉnh lần lượt được ra đời. Trong kháng chiến
chống Mỹ, cứu nước, ngoài việc tham gia tích cực các phong trào hàng ngàn chị em
phụ nữ Thái Nguyên đã có mặt ở những nơi “đầu sóng, ngọn gió” trực tiếp chiến đấu
góp phần rất lớn vào thắng lợi vĩ đại của dân tộc... Những điều đó đã ảnh hưởng
khơng nhỏ đến đời sống nhân dân Thái Nguyên sau này nói chung, người phụ nữ Thái
Nguyên nói riêng, nhất là việc kế thừa, phát huy những giá trị đạo đức truyền thống
trong điều kiện mới. Có thể nói trong xu thế hội nhập và giao lưu quốc tế, sự phát
triển của nền kinh tế thị trường với những mặt trái của nó đã tác động mạnh mẽ đến
các tầng lớp xã hội đặc biệt là phụ nữ. Vấn đề việc làm, sự đói nghèo, trình độ học

2


vấn, sự hưởng thụ văn hóa; tệ nạn xã hội, buôn lậu, ma túy, mại dâm, hiện tượng bạo
lực đối với phụ nữ đang là những vấn đề bức bách, nhất là ở những vùng trung du
miền núi phía bắc trong đó có Thái Nguyên. Một bộ phận phụ nữ có đạo đức, lối sống
khơng lành mạnh, thiếu thủy chung, vơ trách nhiệm với gia đình, đi ngược lại giá trị
đạo đức truyền thống của người phụ nữ Việt Nam. Những tồn tại trên đã và đang làm
mai một dần giá trị đạo đức của phụ nữ Thái Nguyên nói riêng và đạo đức người phụ
nữ Việt Nam nói chung. Giải quyết vấn đề này là trách nhiệm của tất cả các cấp,
ngành, trách nhiệm của mọi tầng lớp xã hội, đặc biệt là của chính các thế hệ phụ nữ
Thái Nguyên hôm nay và mai sau. Do vậy nhận thức đúng đắn Vấn đề kế thừa và phát
huy giá trị đạo đức truyền thống của phụ nữ Việt Nam ở phụ nữ tỉnh Thái Nguyên
hiện nay là vấn đề cần thiết và cấp bách, có ý nghĩa lý luận và thực tiễn đối với sự
nghiệp giải phóng phụ nữ, xây dựng người phụ nữ mới đáp ứng yêu cầu sự nghiệp
CNH, HĐH đất nước trên quê hương Thái Nguyên.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài

Cho đến nay vấn đề kế thừa và phát huy các giá trị đạo đức truyền thống dân
tộc nói chung, giá trị đạo đức truyền thống phụ nữ nói riêng đã được nhiều học giả,
nhiều nhà khoa học trong và ngoài nước nghiên cứu. Trong đó, có thể kể đến các cơng
trình sau:
- “Đạo đức mới” GS. Vũ Khiêu chủ biên, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1974.
- “Ba cuộc cách mạng với vấn đề giải phóng phụ nữ” của Dương Hoa, Nxb Phụ
nữ, Hà Nội, 1976. Trong cơng trình này, tác giả phân tích vị trí xã hội của người phụ
nữ ở nông thôn, tập thể các tác giả phân tích tầm quan trọng của việc đề ra và thực
hiện các chính sách xã hội đối với phụ nữ.
- “Giá trị tinh thần truyền thống của dân tộc Việt Nam” của GS.Trần Văn Giàu,
Nxb Khoa học Xã hội,1980.
- “Đến hiện đại từ truyền thống” của GS. Trần Đình Hượu, Nxb Văn hóa, Hà
Nội, 1996.

3


Trong các cơng trình trên các nhà nghiên cứu đã đưa ra những giá trị truyền
thống dân tộc nói chung được hình thành trong lịch sử dựng nước và giữ nước của dân
tộc Việt Nam.
- “Sự biến đổi của thang giá trị đạo đức truyền thống xã hội ta hiện nay và việc
nâng cao phẩm chất đạo đức của cán bộ” của PGS.TS Nguyễn Chí Mỳ và Nguyễn
Thế Kiệt, Tạp chí Cộng sản, số 15/1998.
- Truyền thống phụ nữ Việt Nam của GS Trần Quốc Vượng, Nxb Văn hóa Dân tộc, Hà Nội, 2000.
- “Kế thừa và phát huy giá trị đạo đức truyền thống của phụ nữ Việt Nam trong
tình hình hiện nay”, Luận văn thạc sĩ Triết học, Hà Nội, 2000 của Lê Thị Minh Hiệp
đã đưa ra một cách nhìn khái quát về các giá trị đạo đức truyền thống của người phụ
nữ Việt Nam cũng như chỉ ra những yêu cầu trong việc kế thừa và phát huy các giá trị
đạo đức truyền thống ấy trong xã hội Việt Nam đương đại.
- “Phát huy giá trị đạo đức truyền thống dân tộc trong việc xây dựng đạo đức

mới cho người phụ nữ Việt Nam hiện nay” của Nguyễn Thị Lan, Luận văn thạc sĩ
Triết học, Hà Nội, 2001.
- “Vấn đề kế thừa giá trị đạo đức truyền thống của phụ nữ tỉnh Bến Tre hiện
nay”, Luận văn thạc sỹ Triết học, Hà Nội, 2005 của Nguyễn Trúc Hạnh.
Tuy nhiên, cho đến nay vẫn chưa có cơng trình nào nghiên cứu: Vấn đề kế
thừa và phát huy giá trị đạo đức truyền thống của phụ nữ Việt nam ở phụ nữ tỉnh
Thái Ngun hiện nay. Chính vì vậy, tơi lấy đó làm đề tài nghiên cứu cho bản luận
văn thạc sỹ của mình.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
* Mục đích của luận văn
Trên cơ sở phân tích thực trạng của việc kế thừa và phát huy những giá trị đạo
đức truyền thống của phụ nữ Việt Nam ở phụ nữ tỉnh Thái Nguyên, đề xuất một số giải
pháp có tính định hướng nhằm phát huy có hiệu quả các giá trị đạo đức truyền thống của
phụ nữ Việt Nam ở người phụ nữ tỉnh Thái Nguyên trong giai đoạn hiện nay.

4


* Nhiệm vụ của luận văn
Để thực hiện mục đích trên luận văn phải thực hiện các nhiệm vụ cơ bản sau:
- Làm rõ các giá trị đạo đức truyền thống của phụ nữ Việt Nam, tầm quan
trọng, nội dung, yêu cầu của việc phát huy chúng trong tình hình hiện nay.
- Làm sáng tỏ nét đặc thù cũng như tính tất yếu của việc kế thừa và phát huy
những giá trị đạo đức truyền thống của phụ nữ Việt Nam ở người phụ nữ tỉnh Thái
Nguyên trong giai đoạn hiện nay.
- Phân tích thực trạng của việc phát huy các giá trị đạo đức truyền thống của phụ
nữ Việt Nam ở người phụ nữ tỉnh Thái Nguyên và nguyên nhân của thực trạng trên; từ
đó rút ra những vấn đề cần giải quyết để thực hiện việc kế thừa và phát huy những giá
trị đạo đức truyền thống ở người phụ nữ Thái Nguyên trong giai đoạn hiện nay.
- Đề xuất một số giải pháp cơ bản để kế thừa và phát huy những giá trị đạo đức

truyền thống của phụ nữ Việt Nam ở người phụ nữ tỉnh Thái Nguyên hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Vấn đề kế thừa và phát huy những giá trị đạo đức truyền thống của phụ nữ Việt
Nam ở người phụ nữ tỉnh Thái Nguyên hiện nay.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
* Cơ sở lý luận
Luận văn được thực hiện dựa trên cơ sở hệ thống những quan điểm cơ bản của
chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm, đường lối, chính sách của
Đảng Cộng sản Việt Nam về đạo đức, về phụ nữ, nhất là về vấn đề kế thừa và phát
huy những giá trị đạo đức truyền thống của phụ nữ Việt Nam. Đồng thời kế thừa một
số kết quả lý luận đã đạt được của một số tác giả có liên quan trực tiếp đến đề tài.
* Phương pháp nghiên cứu của luận văn
Luận văn được thực hiện dựa trên cơ sở vận dụng phương pháp luận của chủ
nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, phương pháp lịch sử, phương
pháp logíc, phân tích - tổng hợp, diễn dịch - quy nạp, khảo sát- điều tra xã hội học.

5


6. Đóng góp của luận văn
* Đóng góp về khoa học của luận văn
- Khái quát những giá trị đạo đức truyền thống của phụ nữ Việt Nam cần được
kế thừa và phát huy.
- Đề xuất những giải pháp có tính định hướng để kế thừa và phát huy những giá
trị đạo đức truyền thống của phụ nữ Việt Nam trong việc xây dựng người phụ nữ mới
ở tỉnh Thái Nguyên hiện nay.
* Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
- Luận văn góp phần nhận thức đúng đắn tầm quan trọng của việc kế thừa và
phát huy những giá trị đạo đức truyền thống của phụ nữ tỉnh Thái Nguyên.
- Luận văn có thể làm tài liệu tham khảo cho các cấp uỷ Đảng, chính quyền địa

phương của tỉnh Thái Nguyên trong việc xây dựng chiến lược, kế hoạch phát huy giá
trị đạo đức truyền thống của phụ nữ nói chung, đạo đức truyền thống ở người phụ nữ
tỉnh Thái Nguyên nói riêng.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phục lục, luận
văn gồm 2 chương, 4 tiết.
Chương 1: Giá trị đạo đức truyền thống của phụ nữ Việt Nam và nguyên tắc
kế thừa, phát huy chúng trong giai đoạn hiện nay.
Chương 2: Vấn đề kế thừa và phát huy những giá trị đạo đức truyền thống của
phụ nữ Việt Nam ở phụ nữ tỉnh Thái nguyên hiện nay - Thực trạng và giải pháp.

6


Chương 1
GIÁ TRỊ ĐẠO ĐỨC TRUYỀN THỐNG CỦA PHỤ NỮ VIỆT NAM
VÀ NGUYÊN TẮC KẾ THỪA, PHÁT HUY CÁC GIÁ TRỊ ĐÓ
TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY

1.1. Giá trị đạo đức truyền thống của phụ nữ Việt Nam
1.1.1. Đạo đức và giá trị đạo đức truyền thống - Mấy vấn đề lý luận
+ Từ xưa đến nay, “đạo đức” luôn luôn thu hút sự quan tâm, chú ý của toàn
nhân loại. Dù là phương Đông hay phương Tây, dù cổ đại hay hiện đại, không bao giờ
và không lúc nào lại vắng bóng hay thiếu sự hiện diện của đạo đức. Với vị trí và tầm
quan trọng đó, đạo đức ln luôn là tâm điểm của mọi nghiên cứu của khoa học xã hội
và nhân văn: Trong từ điển triết học do tập thể các nhà triết học Liên Xô (cũ) biên
soạn do M.RƠ-DEN-TAN và P.I-U-ĐIN chủ biên(bản tiếng Việt) có định nghĩa:
“Đạo đức là quy tắc của sinh hoạt chung trong xã hội và của hành vi của con người,
quy định những nghĩa vụ của người này đối với người khác và đối với xã hội”.
Trong từ điển Xã hội học (Nxb Thế giới, Hà Nội 1994) tác giả Nguyễn Khắc

Viện định nghĩa: “Đạo đức là bao gồm những chuẩn mực hành vi xã hội của con
người theo hướng thiện, tránh hướng ác. Đạo đức là thể chế xã hội khơng có quy tắc
bắt buộc và thường khơng có văn bản quy định. Các quan hệ đạo đức được điều tiết
bằng hai yếu tố: dư luận (khách quan) và lương tâm (chủ quan)” [64, tr.28].
Theo giáo trình đạo đức học “Đạo đức là một hình thái ý thức xã hội đặc biệt,
bao gồm một hệ thống những quan điểm, quan niệm, những quy tắc, nguyên tắc,
chuẩn mực xã hội. Nó ra đời, tồn tại và biến đổi từ nhu cầu xã hội. Nhờ đó, con người
tự giác điều chỉnh hành vi của mình cho phù hợp với lợi ích, hạnh phúc của con người
và sự tiến bộ của xã hội trong mối quan hệ giữa con người với con người, giữa cá
nhân và xã hội” [29, tr.12]. G.Bandzeladze coi “đạo đức là hệ thống những chuẩn mực
biểu hiện sự quan tâm tự nguyện, tự giác của những con người trong quan hệ với nhau
và trong quan hệ với xã hội nói chung” [2, tr.104].

7


Theo giáo trình triết học Mác-Lênin: “Đạo đức là tồn bộ những quan niệm về
thiện, ác, tốt, xấu, lương tâm, trách nhiệm, hạnh phúc , công bằng… và về những quy
tắc đánh giá, điều chỉnh hành vi ứng xử giữa cá nhân với xã hội, giữa cá nhân với cá
nhân trong xã hội” [15, tr.590].
Có thể nói: Những quan niệm về đạo đức cùng những quy tắc điều chỉnh hành vi
đạo đức của con người được hình thành rất sớm trong xã hội nguyên thủy. Khi xã hội
có giai cấp ra đời, đạo đức được hình thành và phát triển như một hình thái ý thức xã
hội riêng. Đạo đức ra đời và tồn tại một cách khách quan, sự ra đời và tồn tại của nó
nhằm điều chỉnh ý thức và hành vi của con người.
Xét về phương diện xã hội cũng như phương diện hành vi của mỗi cá nhân, đạo
đức là sự thể hiện quan hệ ứng xử hành vi của con người và mục đích là đem lại lợi
ích cho người khác và cho xã hội. Đạo đức không phát triển tách rời với sự phát triển
của xã hội. Đạo đức phản ánh tồn tại xã hội dưới dạng các quy tắc điều chỉnh hành vi
của con người. Sự ý thức về lương tâm, danh dự và lòng tự trọng phản ánh khả năng

tự chủ của con người và sức mạnh đặc biệt của đạo đức. Đạo đức bao gồm hệ thống
tri thức về giá trị và định hướng giá trị đạo đức, tình cảm và lý tưởng đạo đức, trong
đó tình cảm đạo đức là yếu tố quan trọng nhất, nếu thiếu nó thì những khái niệm,
phạm trù đạo đức và mọi tri thức đạo đức thu nhận được bằng con đường lý tính
khơng thể chuyển hóa thành hành vi đạo đức.
Trong tiến trình phát triển của xã hội đã hình thành những giá trị đạo đức mang
tính tồn nhân loại, tồn tại trong mội xã hội và ở các hệ thống đạo đức khác nhau. Đó
là những quy tắc đơn giản nhằm điều chỉnh hành vi của con người, cần thiết cho việc
giữ gìn trật tự xã hội chung và sinh hoạt thường ngày của mọi người.
Sự phân tích trên đây cho phép chúng ta rút ra kết luận: Đạo đức với tư cách là
một hình thái ý thức xã hội, bao gồm một hệ thống các quy tắc, các chuẩn mực nhằm
điều chỉnh hành vi và cách đánh giá ứng xử của con người trong quan hệ với nhau và
quan hệ với xã hội, chúng được thực hiện bởi niềm tin các nhân, bởi truyền thống dân
tộc và sức mạnh dư luận xã hội.

8


Như vậy trong quá trình phát triển, mối quan hệ xã hội ngày càng trở nên phức
tạp, con người cần có những quy tắc, chuẩn mực nhằm điều chỉnh hành vi của mình
sao cho phù hợp với những yêu cầu của xã hội, đảm bảo cho xã hội phát triển trong sự
ổn định. Với tư cách là “hình thái ý thức xã hội” đạo đức thuộc về lĩnh vực tinh thần
của xã hội. Nhưng lĩnh vực tinh thần này lại phản ánh tồn tại xã hội về mặt đạo đức.
- Ở mức độ khái quát nhất, cấu trúc đạo đức bao gồm: Ý thức đạo đức và thực
tiễn đạo đức.
- Ý thức đạo đức được hình thành và xuất hiện rất sớm trong lịch sử nhân loại,
nó là mặt tinh thần của đời sống xã hội, bao gồm: các giá trị, chuẩn mực, nguyên tắc
đạo đức, là sự thể hiện thái độ các trạng thái xúc cảm tâm lý chung của các cộng đồng
người về các giá trị và về các quy tắc đánh giá, điều chỉnh hành vi ứng xử giữa cá
nhân với xã hội, giữa cá nhân với cá nhân trong xã hội.

- Ý thức đạo đức là sự phản ánh tồn tại xã hội về mặt đạo đức. Ph.Ăngghen cho
rằng: “Xét cho đến cùng, mọi học thuyết đạo đức đã có từ trước đến nay đều là sản
phẩm của tình hình kinh tế của xã hội lúc bấy giờ”. Tình hình kinh tế xã hội như thế
nào thì thường thường ý thức đạo đức - cái phản ánh đời sống kinh tế xã hội cũng như
thế đó. Điều này đã được chứng minh bằng sự vận động và phát triển của ý thức đạo
đức của xã hội loài người, từ xã hội cộng sản nguyên thủy cho đến ngày nay. Tất cả
đó chứng tỏ rằng: “Cơ sở kinh tế thay đổi thì tồn bộ cái kiến trúc thượng tầng đồ sộ
cũng bị đảo lộn ít nhiều nhanh chóng” (C.Mác).
Nếu xem xét ý thức đạo đức theo trình độ phát triển của nó có ý thức đạo đức
thơng thường và có ý thức đạo đức lý luận.
Ý thức đạo đức thông thường là những tri thức, quan niệm, tình cảm đạo đức
hình thành trực tiếp từ cuộc sống hàng ngày của con người, chúng phản ánh sinh động
nhiều mặt và thường xuyên biến đổi của đời sống đạo đức xã hội.
Ý thức đạo đức lý luận là những tư tưởng, quan điểm đạo đức được hệ thống
hóa, khái quát hóa dưới dạng phạm trù (thiện, ác, lương tâm, nghĩa vụ đạo đức) v.v.

9


Thực tiễn đạo đức là hành động của con người được chỉ đạo bởi ý thức đạo
đức, là hệ thống các hành vi đạo đức của con người nảy sinh trên cơ sơ ý thức đạo
đức. Nói cách khác thực tiễn đạo đức là q trình hiện thực hóa ý thức đạo đức của
con người, của chủ thể đạo đức.
Các giá trị đạo đức phổ quát của xã hội được nhận thức bằng các khái niệm cơ
bản như cái thiện (đối lập với cái ác), khái niệm ý nghĩa cuộc sống, hạnh phúc, lương
tâm, danh dự và lẽ sống.
Đạo đức học mácxít bác bỏ quan điểm duy tâm đi tìm nguồn gốc đạo đức ở
ngoài đời sống xã hội, đồng thời cũng bác bỏ quan điểm siêu hình xem những quy tắc
đạo đức như những chân lý vĩnh cửu, bất biến. Ý thức đạo đức phản ảnh thực tiễn đạo
đức của xã hội, nên nó cũng biến đổi và phát triển cùng với sự phát triển của xã hội.

Trong xã hội có đối kháng giai cấp, mỗi giai cấp có những quan niệm đạo đức phù
hợp với lợi ích của mình. Về vấn đề này trong tác phẩm “Chống Duy rinh”
Ph.Ăngghen khẳng định: “xét cho đến cùng, mọi học thuyết về đạo đức đã có từ trước
đến nay đều là sản phẩm của tình hình kinh tế của xã hội lúc bấy giờ. Và vì cho tới
nay xã hội đã vận động trong những sự đối lập giai cấp, cho nên đạo đức cũng luôn
luôn là đạo đức của giai cấp: hoặc là nó biện hộ cho sự thống trị và lợi ích của giai cấp
thống trị, hoặc là, khi giai cấp bị trị đã trở nên khá mạnh thì nó tiêu biểu cho sự nổi
dậy chống lại sự thống trị nói trên và tiêu biểu cho lợi ích tương lai của những người
bị áp bức” [43, tr.137].
Điều đó khơng có nghĩa là khơng có những giá trị đạo đức mang tính phổ qt
tồn nhân loại, khơng có những quy tắc đạo đức tồn tại trong mọi xã hội và trong các
hệ thống đạo đức khác nhau của một xã hội. Song những yếu tố đạo đức mang tính
phổ quát tồn nhân loại tồn tại thơng qua cái đặc thù và các khái niệm đạo đức cũng
không ngừng phát triển.
Trong xã hội phong kiến, định hướng giá trị của các khái niệm danh dự và
nghĩa vụ được thể hiện bởi những quy tắc phù hợp với những quan hệ đẳng cấp của xã
hội phong kiến. Đến xã hội tư bản, định hướng giá trị đó đã thay đổi, những quy tắc

10


đạo đức cũng biến đổi phù hợp với những nguyên tắc trao đổi kiểu trao đổi hàng hóa
“tiền trao cháo múc”. Ngay trong quan niệm về cái thiện và cái ác cũng không ngừng
phát triển gắn liền với quan niệm về tiến bộ xã hội. Trong quan niệm biện chứng của
Hêghen, cái ác không đơn thuần là lực lượng phá hoại mà nó cịn là hình thức biểu
hiện động lực phát triển của lịch sử. Điều đó cũng giúp ta cắt nghĩa mâu thuẫn của sự
phát triển đạo đức trong xã hội có đối kháng giai cấp là: tiến bộ của đạo đức, nói
chung thơng qua những bước thụt lùi tương đối. Đương nhiên, các giá trị đạo đức phổ
biến của nhân loại vẫn không ngừng được sáng tạo và phát triển qua mọi thời đại. Nó
chỉ thể hiện đầy đủ và sẽ được kế thừa trong đạo đức cộng sản, một nền đạo đức mang

tính nhân loại phổ biến của xã hội tương lai.
Trong xã hội xã hội chủ nghĩa, đạo đức mới phát triển mạnh mẽ trên cơ sở quan
hệ xã hội chủ nghĩa. Trong đó chủ nghĩa tập thể là nền tảng tư tưởng là nguyên tắc cơ
bản của đạo đức mới.
Đạo đức xã hội chủ nghĩa chống lại mọi biểu hiện của chủ nghĩa sô vanh nước lớn
và chủ nghĩa dân tộc hẹp hịi, bởi nó khơng chỉ làm tổn hại đến lợi ích của các dân tộc
khác mà cịn đi ngược lại với lợi ích cơ bản của chính dân tộc mình.
Đạo đức là tiêu chuẩn trong các giá trị của đời sống con người. Thực hiện hành
vi đạo đức sẽ làm cho con người loại bỏ sự thấp hèn, vị kỷ, đê tiện, xấu xa, hướng con
người đi tới cái chân, thiện, mỹ.
Những người có đạo đức là những người sống vì xã hội, vì hạnh phúc của
người khác, sống để cống hiến và đem lại nhiều lợi ích cho xã hội trong đó có lợi ích
của bản thân. Đạo đức cịn đem lại cho con người niềm lạc quan yêu đời, nó phát huy
và khơi dậy ở con người tính tích cực, tự giác, kiên nhẫn khắc phục khó khăn, khát
khao vươn tới cuộc sống cao thượng.
Từ xưa đến nay lịch sử đã chứng minh rằng đạo đức có vai trị to lớn trong đời
sống xã hội, nó là động lực thơi thúc con người đấu tranh chống lại cái ác, cái xấu đi
ngược lại lợi ích xã hội, nó giữ gìn phát huy cái tốt, cái thiện, làm cho xã hội ngày
càng phát triển. Trong thời đại ngày nay, đạo đức còn đóng vai trị quan trọng trong

11


cuộc đấu tranh chung của nhân loại vì hịa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã
hội. Đạo đức đang tham gia tích cực vào cuộc đấu tranh vì quyền con người, chống lại
tư tưởng vơ nhân đạo, bảo vệ mơi trường, chống nghèo đói, tạo ra mọi khả năng và
điều kiện thuận lợi cho mọi người thực hiện quyền con người của mình.
- Giá trị đạo đức truyền thống.
Trước thế kỷ XIX, những kiến thức về giá trị học đã gắn liền với những tri thức
triết học. Đến đầu thế kỷ XX, giá trị học mới bắt đầu hình thành như một khoa học

độc lập. Khái niệm “giá trị” trở thành trung tâm của giá trị học. Ngồi ra nó cịn được
sử dụng trong các lĩnh vực như: triết học, xã hội học, tâm lý học, đạo đức học, kinh tế
học… với những nội dung rộng, hẹp khác nhau. Xung quanh khái niệm “giá trị” cũng
có nhiều cách hiểu khác nhau do xuất phát từ góc độ tiếp cận và nhằm những mục
đích khơng giống nhau. Song, có thể thấy những điểm chung được đề cập đến trong
quan niệm giá trị, đó là:
Thứ nhất, giá trị là ý nghĩa của những hiện tượng vật chất hay tinh thần có khả
năng thỏa mãn nhu cầu tích cực của con người, là những thành tựu góp phần vào sự
phát triển của xã hội. Như vậy, việc khẳng định nội dung của giá trị đã bao hàm trong
nó sự phân biệt với các sự vật, hiện tượng mà ta gọi là “phản giá trị”, “vô giá trị” tức
là những gì đi ngược lại sự phát triển của lịch sử, ngăn cản sự tiến bộ của xã hội.
Thứ hai, giá trị có tính lịch sử - khách quan, nghĩa là sự xuất hiện, tồn tại hay
mất đi của một giá trị nào đó khơng phụ thuộc vào ý thức của con người, mà do yêu
cầu của từng thời đại lịch sử, trong đó có con người sống và hoạt động.
Thứ ba, giá trị chứa đựng các yếu tố nhận thức, tình cảm, hành vi của chủ thể
trong quan hệ với sự vật, hiện tượng mang giá trị, thể hiện sự đánh giá, lựa chọn của
chủ thể đối với sự vật, hiện tượng ấy.
Thứ tư, giá trị được xác định trong mối quan hệ thực tiễn với con người, được
xác định bởi sự đánh giá đúng đắn của con người, xuất phát từ thực tiễn và được kiểm
tra bằng thực tiễn. Thực tiễn “vừa là tiêu chuẩn của chân lý về bản chất của khách thể,
vừa là tiêu chuẩn chân lý về giá trị của khách thể” [31, tr.29]

12


Sự đánh giá đúng đắn của một giá trị không chỉ căn cứ vào nhu cầu, lợi ích của
chủ thể đánh giá mà còn phải căn cứ vào hiệu quả xã hội của họat động, của chủ thể
theo đuổi những giá trị nhất định.
Thứ năm, giá trị đóng vai trị quan trọng trong cuộc sống của con người. Nó là
cái mà con người dựa vào để xác định mục đích và phương hướng cho hoạt động của

mình, là cái mà con người mong muốn được theo đuổi. Giá trị là cơ sở của các chuẩn
mực, quy tắc xác định, cách thức hành động của con người. Nói cách khác, cách thức
và hành động của con người trong xã hội được chỉ đạo bởi các giá trị, người ta dựa
vào các giá trị được xã hội chấp nhận để lựa chọn cách thức suy nghĩ và hành động
phù hợp nhất. Giá trị là động cơ thúc đẩy hoạt động của con người vì các nguyện vọng
và mục đích của các cá nhân đều được đối chiếu với các giá trị nằm trong cấu trúc của
nhân cách. Các giá trị, nhất là các giá trị chung, phổ biến, được coi như phương tiện
cơ bản để tạo nên sự liên kết, hợp tác của mọi thành viên trong nhóm, cộng đồng.
Như vậy, “nói đến giá trị là muốn khẳng định mặt tích cực, mặt chính diện,
nghĩa là bao hàm quan điểm coi giá trị gắn liền với cái đúng, cái tốt, cái hay, cái đẹp;
là nói đến cái có khả năng thơi thúc con người hành động và nỗ lực vươn tới” [4,
tr.16-19].
Trong việc nghiên cứu giá trị, tùy theo mục đích tiếp cận mà người ta phân loại
giá trị theo cách riêng của mình. Căn cứ vào sự thỏa mãn nhu cầu vật chất hay nhu
cầu tinh thần của con người, người ta chia thành giá trị vật chất và giá trị tinh thần.
Những gì đáp ứng cuộc sống sinh thể và thực tại, bảo đảm nhu cầu vật chất cho
cuộc sống, tạo nên các giá trị vật chất. Tất nhiên trong nghĩa rộng, giá trị vật chất
trong nhiều trường hợp cũng tồn tại cả bên ngoài quan hệ sinh tồn và thực tại của con
người. Nhưng cái khác biệt ở con người so với mn lồi là khơng chỉ biết sống,
khơng chỉ sống cho hiện tại mà còn sống đẹp, sống cho ngày mai, sống vượt lên trên
nhu cầu vật chất- đó là cuộc sống tinh thần hết sức thiêng liêng. Những gì thỏa mãn
cho cuộc sống tinh thần đó, thỏa mãn những mong muốn, hy vọng về tương lai sẽ
hình thành nên các giá trị tinh thần.

13


Giá trị vật chất thể hiện rõ nét nhất trong đời sống kinh tế - nơi gắn bó trực tiếp
với tồn tại xã hội, quyết định sự tồn tại xã hội lồi người. Chúng có liên quan chặt chẽ
tới các lĩnh vực chính trị, pháp quyền, các thiết chế xã hội

Giá trị tinh thần “vượt thốt” hiện thực, nhưng khơng phải là xa rời hiện thực,
mà là phản ánh hiện thực nhằm vươn tới một xã hội nhân văn, xã hội mà lồi người
chân chính thường vươn tới. Kant đã từng nói: Khơng phải là một thế giới hiện có, mà
là một thế giới cần phải có, thế giới của các giá trị.
Như vậy, từ khía cạnh nhân văn, có thể nói, giá trị tinh thần cao hơn giá trị vật
chất. Vì chúng là những biểu hiện tích cực mà con người thuộc các thời đại ln ln
tìm tịi, sáng tạo vì một cuộc sống mới ngày càng tốt đẹp hơn. Giá trị tinh thần thực
chất là những phẩm chất đặc biệt về trí tuệ (trí thơng minh, óc sáng tạo, năng lực về tư
duy,…); về tình cảm (tình yêu thương, lòng căm thù,nỗi buồn vui, năng lực cảm
thụ,…); về ý chí (đức tính cần cù, lịng can đảm, đức hy sinh, lòng quyết tâm,…).
Những phẩm chất ấy ăn sâu vào đời sống tâm linh, thể hiện thành phong tục, tập quán,
lối sống. Và khi chúng trở thành ý thức, tư tưởng và hệ tư tưởng thì sự biểu hiện các
sắc thái riêng của các giá trị càng nét và đậm đà. Chúng trở thành những chuẩn mực
để con người đánh giá phân biệt cái đúng, cái sai, cái xấu, cái đẹp trong đời sống hàng
ngày, trong quan hệ giữa con người với con người, con người với xã hội.
Giá trị đạo đức là một bộ phận trong hệ giá trị tinh thần của đời sống xã hội và
được con người lựa chọn, đánh giá như việc làm có ý nghĩa tích cực nhằm điều chỉnh
và đánh giá hành vi ứng xử giữa con người với con người, con người với xã hội,
chúng được thực hiện bởi niềm tin cá nhân, bởi truyền thống và sức mạnh của dư luận
xã hội.
Thực ra, sự phân chia giá trị như trên chỉ có ý nghĩa tương đối, vì các giá trị có
liên quan chặt chẽ tới nhau. Chẳng hạn quyền công dân là một giá trị chính trị nhưng
cũng mang giá trị đạo đức. Giá trị đạo đức và giá trị thẩm mỹ có khác biệt nhau: giá
trị đạo đức có quan hệ trực tiếp với những lợi ích xã hội nên bản chất xã hội của nó
bộc lộ một cách trực tiếp và rõ nét hơn giá trị thẩm mỹ, giá trị đạo đức là cơ sở của

14


các chuẩn mực điều tiết hành vi của con người còn các giá trị thẩm mỹ thỏa mãn nhu

cầu hưởng thụ cái đẹp, đem lại cho con người những khoái cảm tinh thần, giá trị đạo
đức thể hiện rõ rệt trong các chuẩn mực đạo đức, còn các giá trị thẩm mỹ thể hiện tập
trung trong các hình tượng nghệ thuật… Tuy nhiên, giữa chúng có sự thống nhất với
nhau, vì chúng có chung nguồn gốc từ lao động, đều phản ánh tồn tại xã hội và có vai
trị to lớn trong việc hình thành nhân cách, lối sống, văn hóa, đạo đức của con người.
Bản thân giá trị đạo đức, xét về mặt thời gian có thể chia thành giá trị đạo đức
truyền thống và giá trị đạo đức hiện đại. Mỗi dân tộc đều có truyền thống của mình do
lịch sử tạo nên. Truyền thống là phức hợp những tình cảm, tư tưởng, tập qn, thói
quen, những phong tục, lối sống, cách ứng xử… của một cộng đồng người, của một dân
tộc được hình thành trong lịch sử và trở nên ổn định, chúng được lưu truyền từ thế hệ
này sang thế hệ khác. Truyền thống có thể tích cực cũng có thể tiêu cực. Truyền thống
có cái tốt, cái xấu, vì thế C.Mác cho rằng: “Truyền thống của tất cả các thế hệ đã chết
đè nặng như quả núi lên đầu óc những người đang sống” [41, tr.145]. Còn Ph.Ăngghen
coi “Truyền thống (lạc hậu) còn là thế lực trong khoa học tự nhiên nữa” [25, tr.468].
Với Hồ Chí Minh, “Thói quen và truyền thống lạc hậu là kẻ địch to, nó ngấm ngầm
ngăn trở cách mạng tiến bộ. Chúng ta lại khơng thể trấn áp nó, mà phải cải tạo nó một
cách rất cẩn thận, rất chịu khó, rất lâu dài” [45, tr.287]. Nhưng khi nói đến “Giá trị
truyền thống” người ta chỉ muốn nói đến cái tốt, bởi lẽ trong ý nghĩa đích thực của nó
chỉ những cái tốt, cái đẹp mới được gọi là giá trị truyền thống. Song, không phải mọi
cái tốt đều gọi là giá trị truyền thống mà phải là những cái phổ biến cơ bản có nhiều tác
dụng tích cực cho đạo đức luân lý, có cả tác dụng hướng dẫn sự nhận định và hành
động của con người chúng được lưu truyền từ thế hệ này qua thế hệ khác.
Giá trị đạo đức truyền thống là một bộ phận trong hệ giá trị tinh thần của dân
tộc. Nó là yếu tố cốt lõi và chiếm vị trí nổi bật của hệ giá trị tinh thần truyền thống
Việt Nam, thể hiện nét đặc thù của đạo đức Việt Nam với những phẩm chất tốt đẹp đã
hình thành và lưu truyền qua nhiều thế hệ. Các giá trị đạo đức truyền thống là kết quả
của các mối quan hệ giữa người với người, của những điều kiện sinh hoạt vật chất

15



nhất định. Mỗi giá trị đều góp phần vào việc tạo nên nét riêng biệt của con người Việt
Nam, bản sắc Việt Nam. Trong suốt mấy nghìn năm dựng nước và giữ nước, dân tộc
Việt Nam đã trải qua biết bao thử thách, hy sinh và đấu tranh cho sự tồn tại và phát
triển của mình. Đất nước Việt Nam khơng chỉ là nơi ở, nơi sinh sống mà cịn là thành
quả kết tinh từ mồ hôi, nước mắt, xương máu của biết bao thế hệ người Việt Nam. Nó
thăng hoa trong tâm thức người Việt Nam thành Tổ quốc thiêng liêng, thành quê
hương yêu dấu. Những điều kiện lịch sử - xã hội ấy là cơ sở cho sự hình thành và phát
triển các giá trị đạo đức truyền thống mang bản sắc Việt Nam. Lòng yêu quê hương
đất nước của con người Việt Nam được bắt nguồn từ đó; tinh thần cố kết cộng đồng,
lối sống tình nghĩa của dân tộc Việt Nam cũng bắt đầu xuất phát từ đây… Đó là
những giá trị đạo đức truyền thống bền vững, trường tồn của dân tộc Việt Nam. Nó
ln ln được bồi đắp thêm những tinh hoa văn hóa của nhân loại, nhất là khi có sự
du nhập của Chủ nghĩa Mác-Lênin, sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Với ý nghĩa đó, từ lâu giá trị đạo đức truyền thống Việt Nam đã thu hút sự quan tâm
của nhiều nhà khoa học trong và ngoài nước.
Giáo sư Vũ Khiêu cho rằng, giá trị đạo đức truyền thống cao đẹp của dân tộc ta
bao gồm: lòng yêu nước, truyền thống đoàn kết, lao động cần cù và sáng tạo, tinh thần
nhân đạo, lòng yêu thương và quý trọng con người, trong đó yêu nước là bậc thang
cao nhất trong hệ thống giá trị đạo đức của dân tộc.
Giáo sư Trần Văn Giàu cho rằng: Giá trị tinh thần truyền thống của dân tộc là
những nguyên lý đạo đức lớn mà con người trong nước thuộc các thời đại, các giai
đoạn lịch sử đều dựa vào để phân biệt phải trái, để nhận định nên chăng nhằm xây
dựng độc lập tự do và tiến bộ của dân tộc đó. Cũng là những nguyên lý đạo đức đã
tàng ẩn trong tâm trí sâu xa của mỗi người dân trong nước, khiến họ tự dưng phản ứng
đúng với lẽ phải, đúng với quyền lợi và danh dự dân tộc khi phải động chạm một sự
cố nào [16, tr.50-51].

16



Và giáo sư khẳng định: Dù trải qua bao vật đổi sao dời, từ thời Văn Lang xa
xưa cho đến thời hiện đại, hễ nói đến giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc ta là
nói: yêu nước, cần cù, anh hùng, sáng tạo, lạc quan, thương người,vì nghĩa.
Theo giáo sư Nguyễn Hồng Phong, tính cách dân tộc gần như là tất cả nội dung
của giá trị đạo đức truyền thống, bao gồm: tính tập thể - cộng đồng; trọng đạo đức;
cần kiệm, giản dị, thực tiễn; tinh thần u nước bất khuất và lịng u chuộng hịa
bình, nhân đạo; lạc quan [53, tr.453-454].
Ngoài ra, giá trị đạo đức truyền thống dân tộc cũng được đề cập nhiều trong các
tác phẩm của Chủ tịch Hồ Chí Minh và một số văn kiện của Đảng. Nghị quyết hội
nghị lần thứ V Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa VIII về xây dựng và phát triển
nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc có khẳng định: “Bản sắc dân
tộc bao gồm những giá trị bề vững, những tinh hoa của cộng đồng các dân tộc Việt
Nam, được vun đắp lên qua lịch sử hàng ngàn năm đấu tranh dựng nước và giữ nước.
Đó là lịng u nước nồng nàn, ý chí tự cường của dân tộc, tinh thần đồn kết, ý chí
cộng đồng gắn kết cá nhân - gia đình - làng xã - Tổ quốc, lịng nhân ái, khoan dung,
trọng tình nghĩa, đạo lý, đức tính cần cù, sáng tạo trong lao động, sự tinh tế trong ứng
xử, tính giản dị trong lối sống…” [12, tr.56].
Trong lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc, phụ nữ Việt Nam luôn thể
hiện những phẩm chất truyền thống tốt đẹp: lòng yêu nước, tinh thần quật cường
chống giặc ngoại xâm; cần cù, thông minh, sáng tạo trong lao động sản xuất; có lịng
nhân hậu, giàu tình yêu thương và đức hy sinh.
Ngày nay, phụ nữ Việt Nam một mặt tiếp tục kế thừa và phát huy truyền thống
đạo đức quý báu, những giá trị văn hóa, tinh thần vô giá mà các thế hệ trước đã để lại,
mặt khác khơng ngừng hình thành, phát triển những phẩm chất tiên tiến phù hợp với
các yêu cầu của sự nghiệp đổi mới đất nước trong bối cảnh hội nhập quốc tế, từng
bước góp phần tạo dựng hình ảnh người phụ nữ Việt Nam hiện đại… Trong đó, yêu
nước là giá trị cốt lõi, giá trị hàng đầu của bậc thang giá trị đạo đức truyền thống dân

17



tộc. Nó là tiêu điểm của các tiêu điểm, là sợi chỉ đỏ xuyên qua toàn bộ lịch sử dân tộc,
là động lực tình cảm lớn nhất trong đời sống của mỗi người dân Việt Nam.
1.1.2. Những nhân tố ảnh hưởng đến đặc điểm đạo đức của người phụ nữ
Việt Nam
Phụ nữ bao giờ cũng là một bộ phận quan trọng trong đội ngũ đông đảo những
người lao động trong xã hội. Suốt chiều dài lịch sử dựng nước và giữ nước, người phụ
nữ Việt Nam có vai trị hết sức quan trọng. Dù trong hoàn cảnh nào, thời đại nào,
người phụ nữ cũng luôn vừa là hậu phương, vừa là tiền tuyến vững chắc. Ngày nay,
đất nước đang thời kỳ đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa (CNH, HĐH) đất
nước, trong bối cảnh đó khơng thể thiếu vắng vai trò của người phụ nữ.
Trong buổi tiếp các trưởng đoàn dự cuộc họp Mạng lưới lãnh đạo nữ lần thứ 11
(WLN) của diễn đàn hợp tác kinh tế châu Á - Thái Bình Dương (APEC) diễn ra vào
tháng 9 - 2006 tại Hà Nội, nguyên Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết khẳng định,
Ðảng, Nhà nước và nhân dân Việt Nam nhận thức rõ về vai trò của phụ nữ trong phát
triển và hội nhập quốc tế. Chủ tịch nêu rõ: "Ở Việt Nam, vai trò của phụ nữ rất quan
trọng. Trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, phụ nữ tham gia rất tích cực trong
nhiều hoạt động. Trong thời kỳ hịa bình và xây dựng đất nước, phụ nữ giữ cương vị
lãnh đạo ở mọi lĩnh vực kinh tế, văn hóa, khoa học - kỹ thuật... Vai trị của phụ nữ
hoàn toàn xứng đáng với tám chữ vàng mà Ðảng, Nhà nước và nhân dân dành tặng:
Anh hùng, bất khuất, trung hậu, đảm đang". Bằng lao động sáng tạo của mình, phụ nữ
đã góp phần làm giàu cho xã hội, làm phong phú cuộc sống con người. Phụ nữ ln
thể hiện vai trị khơng thể thiếu của mình trong các lĩnh vực đời sống xã hội, cụ thể là:
- Vai trò của người phụ nữ trong lao động sản xuất.
Hoạt động sản xuất vật chất là đặc trưng riêng của con người và xã hội lồi
người trong đó sản xuất vật chất là cơ sở quyết định sự tồn tại và phát triển của xã hội
loài người; trong đó phụ nữ đóng vai trị to lớn.
Trong xã hội cộng sản nguyên thủy, sức sản xuất thấp kém con người chỉ có thể
tồn tại và phát triển được khi cùng lao động chung gắn liền với cộng đồng: cùng sản


18


xuất, săn bắt, hái lượm; tuy nhiên săn bắt với kỹ thuật nguyên thủy không phù hợp với
phụ nữ nên hái lượm chủ yếu do những người phụ nữ đảm nhiệm còn săn bắt dần trở
thành chức nghiệp của đàn ông. Sự phân công lao động theo giới tính phát sinh và
phát triển dần trong lòng xã hội nguyên thủy.
Nghề săn bắt mng thú ngày càng gặp nhiều khó khăn, đơi khi người đàn ơng
khơng tìm được thức ăn cho cộng đồng. Khi đó việc hái lượm lại do những người phụ
nữ đảm nhiệm nguồn thức ăn thường xuyên và quan trọng về số lượng cho các tập
đoàn người nguyên thủy. Ngay từ buổi đầu, vai trò này đã thể hiện tinh thần sẵn sàng
gánh vác công việc chung của người phụ nữ
Đồng thời họ còn thể hiện vai trò quan trọng của mình đối với sự sinh tồn của
cộng đồng người nguyên thủy trong việc phát sinh nghề đánh cá, nghề chăn nuôi,
nghề gốm và nghề nông nguyên thủy. Nhiều cơng trình nghiên cứu đã chứng minh,
Việt Nam là một trong những nơi có nghề trồng lúa nước sớm nhất. Khác với hái lượm, nền nông nghiệp nguyên thủy là một nền kinh tế sản xuất, cung cấp nguồn thức
ăn thường xuyên và ổn định cho con người. Dưới con mắt và bàn tay chăm sóc, đảm
nhiệm của người phụ nữ nguyên thủy nông nghiệp dần dần phát triển. Đặc biệt, nghề
gốm ra đời đã đánh dấu bước phát triển, nhiều loại lúa hoang đã trở thành tổ tiên của
các giống lúa ngày nay, nó thể hiện sự khéo léo, sáng tạo của người phụ nữ Việt Nam.
Đây là sự kiện có ý nghĩa quan trọng về mặt kinh tế, xã hội, nghệ thuật... Và trong khi
nâng cao toàn bộ nền kinh tế nguyên thủy, văn hóa nguyên thủy, con người ngun
thủy, nó cũng nâng cao vai trị, địa vị của người phụ nữ lên.
Vai trò của người phụ nữ Việt Nam càng quan trọng hơn trong nền kinh tế
nông nghiệp. Trồng lúa nước là một hoạt động sản xuất bao gồm nhiều lao động liên
hồn, phức tạp, địi hỏi nhiều nhân cơng, nhân lực, trong đó có những cơng việc địi
hỏi sự mềm mại, dẻo dai cần cù, tỉ mỉ đặc biệt. Thể chất và thiên tính của người phụ
nữ có thể đáp ứng với những khâu lao động nơng nghiệp trồng lúa đó. Những hoạt
động sản xuất và trồng trọt, từ việc vỡ đất đến việc đặt cây, gieo, tỉa, chăm sóc và thu

hoạch cũng có thể thích hợp với những bản năng về mặt lao động của phụ nữ. Thêm

19


vào đó, đất nước ln ln bị giặc ngoại xâm, phần lớn đàn ông đi đánh giặc bỏ ruộng
đất, cày bừa lại cho phụ nữ. Sức lao động tập trung vào các cơng trình quốc phịng và
dân dụng, hoặc vào các cơng trình xa xỉ của bọn thống trị liên tục trong mấy nghìn
năm lịch sử, đều khiến cho xã hội nông thôn mất đi một nguồn nhân công nông
nghiệp lớn từ nam giới.
Như thế là trong điều kiện của lịch sử hàng nghìn năm qua, ngồi nhu cầu lớn
về nhân công mà bản thân việc trồng lúa nước yêu cầu, cịn có những ngun nhân xã
hội địi hỏi người phụ nữ phải tích cực tham gia vào những khâu quan trọng, chủ yếu
của nền sản xuất nông nghiệp. Sẵn có truyền thống cần cù, đảm đang sáng tạo trong
sản xuất, người phụ nữ Việt Nam trong các thời kỳ đã kế thừa và phát huy truyền
thống của mình, để liên tục đảm đang việc sản xuất nông nghiệp trong những điều
kiện và hoàn cảnh mới, trên những nhu cầu và địi hỏi mới của lịch sử.
Sự tham gia tích cực của người phụ nữ vào nền kinh tế nông nghiệp cũng đồng
thời biểu lộ và chứng minh những phẩm chất tinh thần của họ. Sẵn sàng gánh vác
công việc chung, sẵn sàng vì mọi người mà làm việc, đây là điểm nhận thấy đầu tiên
trong đức tính truyền thống của người phụ nữ Việt Nam, vì họ tham gia tích cực vào
lao động sản xuất trong các xã hội cũ. Chính vì tinh thần làm chủ và ý thức cộng đồng
như thế, mà các thế hệ phụ nữ Việt Nam xa đã biểu lộ một tinh thần dũng cảm tuyệt
vời trong khi đảm nhiệm những công việc lao động sản xuất của mình.
Bên cạnh tinh thần dũng cảm đó là tinh thần cần cù nhẫn nại, mềm mại dẻo dai
được hình thành từ trong những điều kiện sản xuất khó nhọc. Chính nhờ tinh thần đó
mà người phụ nữ có vai trị quan trọng đặc biệt trong hoạt động sản xuất nông nghiệp.
Như vậy, qua việc thực hiện vai trò quan trọng của người phụ nữ Việt Nam
trong nền sản xuất nơng nghiệp theo chiều dài lịch sử, hình thành nên những phẩm
chất đạo đức đặc sắc của người phụ nữ Việt Nam: Dũng cảm, đảm đang, sáng tạo và

cần cù nhẫn nại,chịu thương chịu khó, tinh thần làm chủ, ý thức cộng đồng... Những
phẩm chất, những giá trị đó được kế thừa và phát huy mãi mãi đến ngày nay trở thành

20


×