Tải bản đầy đủ (.pdf) (171 trang)

CHUYÊN ĐỀ ÔN THI THPT QUỐC GIA MÔN NGỮ VĂN_TẬP 2

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (21.11 MB, 171 trang )















































TÀI LIỆU BAO GỒM 15 BÀI GIẢNG VĂN LỚP 12
(DO CÔ NGUYỄN THANH MAI BIÊN SOẠN)


1. TÂY TIẾN (Quang Dũng)
2. VIỆT BẮC (Tố Hữu)
3. TIẾNG HÁT CON TÀU (Chế Lan Viên)
4. ĐẤT NƯỚC ( Nguyễn Khoa Điềm )
5. SÓNG (Xuân Quỳnh )
6. ĐÀN GHITA CỦA LORCA (Thanh Thảo)
7. VỢ CHỒNG A PHỦ (Tô Hoài)
8. VỢ NHẶT (Kim Lân)
9. RỪNG XÀ NU (Nguyễn Trung Thành)
10. NHỮNG ĐỨA CON TRONG GIA ĐÌNH (Nguyễn Thi)
11. CHIẾC THUYỀN NGOÀI XA (Nguyễn Minh Châu)
12. MỘT NGƯỜI HÀ NỘI (Nguyễn Khải)

13. HỒN TRƯƠNG BA , DA HÀNG THỊT (Lưu Quang Vũ)
14. NGƯỜI LÁI ĐÒ SÔNG ĐÀ (Nguyễn Tuân)
15. AI ĐÃ ĐẶT TÊN CHO DÒNG SÔNG (Hoàng Phủ Ngọc Tường)

MOON.VN
KHÓA CHUYÊN ĐỀ LTĐH – Cô NGUYỄN THANH MAI

- hotline: 04.32.99.98.98




I/ Tìm hiểu chung
1/ Tác giả (1921- 1988)
- Sinh ra ở Hà Tây, sống chủ yếu và mất ở Hà Nội.
- Rất mực tài hoa: làm thơ vẽ tranh, viết văn, làm thơ, soạn nhạc… nhưng thành công nhất vẫn là thơ
ca.
- Tham gia kháng chiến, từng làm đại đội trưởng đoàn quân Tây Tiến .
- Tác phẩm tiêu biểu :
+ Truyện: “Mùa hoa gạo, rừng biển quê hương ”
+ Thơ: “Mây đầu ô …”, “Tuyển tập thơ văn Quang Dũng”.
Nhưng tên tuổi của Quang Dũng có lẽ đã gắn liền với bài thơ Tây Tiến. Bài thơ ra đời vào năm 1948
in trong tập “Mây đầu ô” là bài thơ tiêu biểu nhất của thơ ca kháng chiến chống Pháp.
2/ Hoàn cảnh sáng tác
- Tây Tiến là một phân hiệu bộ đội được thành lập đầu năm 1947, Quang Dũng làm đại đội trưởng .
Thành phần chủ yếu của đơn vị là thanh niên trí thức Hà Nội. Nhiệm vụ của họ là phối hợp với bộ
đội Lào bảo vệ biên giới phía Tây. Cuối 1947, Tây Tiến giải thể để thành lập trung đoàn 52. Quang
Dũng cũng chuyển sang đơn vị khác ở Phù Lưu Chanh, nhớ đơn vị cũ sáng tác bài thơ, ban đầu có
tên “Nhớ Tây Tiến”, sau đổi là “Tây Tiến”.
3/ Chủ đề :

Bài thơ thể hiện nỗi nhớ của tác giả về cuộc sống chiến đấu gian khổ hào hùng của nguời lính Tây
Tiến, qua đó ca ngợi phẩm chất anh hùng, tinh thần yêu nước, giàu lòng hi sinh của những người
chiến sĩ CM.
4/ Bố cục:
Đoạn 1: Bao trùm là nỗi nhớ Tây Tiến, hình ảnh thiên nhiên Tây Bắc hùng vĩ dữ dội khác thường, và
hình tượng người lính với những chặng đường hành quân gian khổ sâu nặng nghĩa tình quân dân. Bút
pháp nghệ thuật lãng mạn với những nét vẽ chắc khỏe gân guốc dựng lên bức tranh thiên nhiên
hoành tráng. Sử dụng biện pháp đối lập tương phản.
Đoạn 2: Nỗi nhớ về những cảnh sinh hoạt của người lính với đêm liên hoan văn nghệ, vẻ đẹp của
sông nước Tây Bắc hiện thực mà huyền ảo. Tác giả sử dụng nghệ thuật hài hòa với những nét vẽ
mềm mại tinh tế, tạo nên bức tranh lụa mượt mà. Cảm xúc lãng mạn thể hiện qua việc hướng tới
những màu sắc có tính chất xứ lạ phương xa (man điệu, nhạc về Viên Chăn)
Đoạn 3: Trực tiếp dựng tượng đài lãng mạn và bi tráng về hình tượng người lính (vẻ đẹp lãng mạn -
bi tráng thể hiện qua 4 nội dung). Bút pháp nghệ thuật lãng mạn: trên cơ sở hiện thực mà lãng mạn,
sử dụng nghệ thuật đối lập tương phản.
Đoạn cuối: Nhớ lời thề trước buổi lên đường thể hiện vẻ đẹp tư thế lên đường một đi không về dù ở
đâu tâm hồn cũng trở về với đoàn quân Tây Tiến.
II/ Đọc hiểu tác phẩm
1/ Hai dòng thơ đầu: nỗi nhớ Tây Tiến da diết trong tâm tưởng nhà thơ :
Mở đầu bài thơ là nỗi nhớ mênh mang, da diết, hai câu thơ mang cảm xúc chủ đạo của toàn bài:
Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi
Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi
TÂY TIẾN – QUANG DŨNG (tiết 1)

MOON.VN
KHÓA CHUYÊN ĐỀ LTĐH – Cô NGUYỄN THANH MAI

- hotline: 04.32.99.98.98
Đối tượng của nỗi nhớ là con Sông Mã, con sông gắn liền với chặng đường hành quân của người
lính. Đối tượng nhớ thứ hai là nhớ Tây Tiến, nhớ đồng đội, nhớ bao gương mặt một thời chinh chiến.

Nỗi nhớ ấy được bật lên thành tiếng gọi tha thiết “Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi” gợi lên bao nỗi niềm
lâng lâng khó tả. Đối tượng thứ ba của nỗi nhớ đó là “nhớ về rừng núi” . Rừng núi là địa bàn hoạt
động của Tây Tiến với bao gian nguy, vất vả nhưng cũng thật trữ tình, lãng mạn. Nhưng nay, tất cả
đã “xa rồi”. “Xa rồi” nên mới nhớ da diết như thế. Điệp từ nhớ được nhắc lại hai lần như khắc sâu
thêm nỗi lòng của nhà thơ. Đặc biệt tình cảm ấy được Quang Dũng thể hiện bằng ba từ “Nhớ chơi
vơi”, cùng với cách hiệp vần “ơi” ở câu thơ trên làm nổi bật một nét nghĩa mới: “Chơi vơi” là trạng
thái trơ trọi giữa khoảng không rộng, không thể bấu víu vào đâu cả. “Nhớ chơi vơi” có thể hiểu là
một mình giữa thế giới hoài niệm mênh mông, bề bộn, không đầu, không cuối, không thứ tự thời
gian, không gian. Đó là nỗi nhớ da diết, miên man, bồi hồi, bâng khuâng, sâu lắng làm cho con người
có cảm giác đứng ngồi không yên.
Câu cảm thán , cách gọi thân thương “ Tây Tiến ơi ”; điệp từ “ nhớ ”: nhấn mạnh nỗi nhớ
- Cụm từ “ nhớ chơi vơi” : nỗi nhớ cồn cào, ám ảnh khôn nguôi…
2/ Sáu dòng thơ tiếp theo là nỗi nhớ về rừng núi Tây Bắc hiểm trở, hoang sơ, hùng vĩ, con
đường hành quân giữa núi rừng miền Tây vừa hùng vĩ, hiểm trở lại vừa thơ mộng trữ tình được
cảm nhận bằng cảm hứng lãng mạn và tâm hồn lãng mạn hào hoa:
Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi
Mường Lát hoa về trong đêm hơi
Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây súng ngửi trời
Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi
a. Thiên nhiên hùng vĩ, dữ dội, hiểm nguy nhưng không ngăn nổi bước chân người lính:
- Thiên nhiên khắc nghiệt: “Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi”. Trên đỉnh Sài Khao, sương dày đến
độ “lấp” cả đoàn quân. Đoàn binh hành quân trong sương lạnh giữa núi rừng trùng điệp. Chữ “mỏi”
làm hiện lên trước mắt ta hình ảnh của một đoàn quân rã rời.
- Dưới ngòi bút của Quang Dũng, con đường hành quân mở ra với biết bao nhiêu khó khăn gian khổ.
Đường đi toàn dốc cao, vực thẳm được diễn tả với nhiều từ láy tạo hình: “khúc khuỷu” (quanh co
khó đi), “thăm thẳm” (diễn tả độ cao, độ sâu), “heo hút” (xa cách cuộc sống con người). Câu thơ sử
dụng nhiều thanh trắc đi liền nhau “dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm” (bảy chữ mà đã có tới năm
chữ là thanh trắc) khiến khi đọc lên ta có cảm giác trúc trắc, mệt mỏi như đang cùng hành quân với

đoàn binh vậy. Có thể hình dung người lính Tây Tiến vừa leo lên được đỉnh dốc đã mệt mỏi lắm rồi
lại phải đổ xuống một con dốc khác và cứ thế cuộc hành quân kéo dài với dốc cao vực thẳm.
- Câu thơ “Heo hút cồn mây súng ngửi trời” sử dụng phép nhân hóa “súng ngửi trời” làm hiện lên
hình ảnh: núi cao heo hút, mây nổi thành cồn trên đỉnh núi, người lính đi trên đỉnh núi mà như đi trên
mây. Mũi súng đeo sau vai như chạm đến trời xanh “ngửi trời”. Thật là một hình ảnh ngạo nghễ có
chút gì rất hóm hỉnh đùa vui kiểu lính. Chính vì chất lính trẻ trung ấy mà trước thiên nhiên dữ dội
người lính Tây Tiến không bị mờ đi mà nổi lên đầy thách thức.
- Thiên nhiên không còn là đối tượng để thưởng thức ngắm nhìn nữa mà là đối thủ: “Ngàn thước lên
cao, ngàn thước xuống”. Hết lên lại xuống, xuống thấp lại lên cao, đèo nối đèo, dốc tiếp dốc, không
dứt. Câu thơ được tạo thành hai vế tiểu đối: “Ngàn thước lên cao // ngàn thước xuống” như bị bẻ đôi,
diễn tả con dốc với chiều cao, sâu rợn ngợp: nhìn lên cao chót vót, nhìn xuống sâu thăm thẳm. Cuộc
sống hành quân vất vả , hi sinh nhưng họ không hề nản chí.
+ Hàng loạt địa danh được dùng theo lối liệt kê: Sài Khao , Mường Lát , Pha Luông → gợi sự xa
xôi, hẻo lánh, hoang dã.
MOON.VN
KHÓA CHUYÊN ĐỀ LTĐH – Cô NGUYỄN THANH MAI

- hotline: 04.32.99.98.98
+ Âm ơi cùng thanh bằng cuối câu: gợi không khí mông lung như lạc vào chốn phiêu lưu mạo
hiểm.
+ Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm: phác họa cảnh núi rừng hiểm trở, gập ghềnh .
Điệp từ “dốc” + thanh trắc + từ láy → diễn tả cuộc chuyển quân đầy nguy hiểm, vất vả, núi rừng
Tây Bắc hiểm trở, hoang vu…
→ Bút pháp tả thực, đầy chất thơ, giàu chất gợi hình, gợi chiều cao, chiều rộng, tô đậm sự gian khổ.
+ Vận dụng thủ pháp đối lập (núi cao, dốc thẳm, ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống …)
→ Tạo cảm giác rợn người .
+ Thanh điệu biến hóa linh hoạt + thanh trắc
→ Miêu tả cảnh hùng vĩ, nên thơ của Tây Bắc, tạo vẻ độc đáo riêng .
+ Từ ngữ rất Quang Dũng, rất lính “súng ngửi trời”
+ Dựng khung cảnh ma thiêng, nước độc: oai linh thác gầm thét, cọp trêu nguời…

+ Nhớ sự hi sinh của người lính Tây Tiến với cảm hứng bi tráng “bỏ quên đời”: xem cái chết nhẹ tựa
lông hồng.
 Bút pháp tả thực và lãng mạn đan xen mô tả sự khốc liệt, dữ dội nhưng rất đỗi thơ mộng, trữ tình .
b. Thiên nhiên Tây Bắc với những nét vẽ mơ mộng trữ tình
- Có cảnh đoàn quân đi qua bản Mường Lát vào ban đêm và phát hiện ra vẻ đẹp trữ tình “hoa về
trong đêm hơi”. “Hoa về” nghĩa là hoa nở. “Đêm hơi” là đêm sương. Hai hình ảnh ấy đặt cạnh nhau
tạo nên một không gian thơ mộng. Có thể hiểu người lính hành quân trong gian khổ nhưng tâm hồn
lúc nào cũng luôn lạc quan, yêu đời làm bạn với hoa rừng, sương núi.
- Có cảnh đoàn quân đi trong mưa vừa hùng vĩ lại rất nên thơ: “Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”. Câu
thơ được dệt bởi những thanh bằng liên tiếp, gợi tả sự êm dịu, tươi mát của tâm hồn những người
lính trẻ, trong gian khổ vẫn lạc quan yêu đời. Nhịp thơ cũng chậm lại, âm điệu nhẹ nhàng như phút
nghỉ chân hiếm hoi của người lính. Trong màn mưa rừng, tầm nhìn của người chiến binh Tây Tiến
vẫn hướng về những bản mường, những mái nhà dân hiền lành và yêu thương. Tất cả nhạt nhòa
trong màn mưa rừng dày đặc. Bức tranh mang cái lãng mạn của núi rừng miền Tây, vừa có cái dữ dội
hiểm nguy nhưng lại có cái trữ tình đáng nhớ.
3. Bốn câu thơ tiếp theo nhà thơ miêu tả sự hi sinh gian khổ của người lính đồng thời tô đậm
thêm sự dữ dội của chốn đại ngàn:
- Sự dữ dội của núi rừng cũng vắt kiệt sức người, Quang Dũng không hề né tránh hiện thực: “Anh
bạn dãi dầu không bước nữa/ Gục lên súng mũ bỏ quên đời”. Người lính Tây Tiến trong cuộc hành
quân gian khổ ấy đã có người ngã xuống vì kiệt sức. “Dãi dầu” là dầm mưa dãi nắng, vất vả khó
nhọc. “Không bước nữa” là kiệt sức. “Gục lên súng mũ” là ngã xuống. “Bỏ quên đời” là hi sinh, mất
mát. Nghệ thuật nói giảm nói tránh đã làm cho câu thơ giảm đi đau thương mà thay vào đó là sự bi
tráng, hào hùng. Người lính ra đi mà như đi vào giấc ngủ bởi họ đã khoác lên mình đôi cánh của lý
tưởng “Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh”.
- Gian khổ không chỉ là núi cao dốc thẳm, không chỉ là mưa lũ thác ngàn mà còn có tiếng gầm của
cọp beo nơi rừng thiêng nước độc, nơi đại ngàn hoang vu:
Chiều chiều oai linh thác gầm thét
Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người
“Chiều chiều” rồi “đêm đêm” (thời gian gợi sự hiểm nguy rình rập). Những âm thanh ấy, “thác gầm
thét”, “cọp trêu người”, luôn khẳng định cái bí mật, cái uy lực khủng khiếp ngàn đời của chốn rừng

thiêng nước độc.
4. Hai dòng thơ cuối: Sau chặng đường dài hành quân mỏi mệt, các chiến sĩ có dịp dừng chân lại ở
một bản làng có tên gọi rất đỗi yêu thương – Mai Châu. Hai câu cuối đoạn thơ, cảm xúc bồi hồi tha
thiết: Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói/Mai Châu mùa em thơm nếp xôi
MOON.VN
KHÓA CHUYÊN ĐỀ LTĐH – Cô NGUYỄN THANH MAI

- hotline: 04.32.99.98.98
- “Nhớ ôi!” từ cảm thán mang tình cảm dạt dào. Khung cảnh đậm đà tình quân dân. Sau một thời
gian dài hành quân vất vả giữa núi rừng phải chịu đói, chịu khát. Nay các anh được đồng bào tiếp
đón bằng “cơm lên khói” cùng mùi hương “thơm nếp xôi” thật là ấm lòng. Chính nơi đây, mọi khó
khăn gian khổ như bị đẩy lùi mà thay vào đó là niềm lạc quan và tình thơ đong đầy.
5. Nghệ thuật: Đoạn thơ để lại một dấu ấn đẹp đẽ về thơ ca kháng chiến mà sự thành công là kết hợp
hài hòa giữa khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn. Bên cạnh đó còn có các yếu tố nghệ thuật:
Sử dụng nhiều từ láy tạo hình, cách sử dụng thanh trắc, điệp từ, nhân hóa, đối lập…tất cả đã tạo nên
một đoạn thơ hay và giàu giá trị.


MOON.VN
KHÓA CHUYÊN ĐỀ LTĐH – Cô NGUYỄN THANH MAI

- hotline: 04.32.99.98.98




2. Phân tích đoạn 2
(8 câu thơ tiếp: "Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa"):
Cảnh đêm liên hoan văn nghệ và cảnh sông nước miền Tây.


2.1. Bốn dòng thơ đầu: Cảnh đêm liên hoan văn nghệ
Nếu ở đoạn 1 là cảnh thiên nhiên Tây Bắc hùng vĩ dữ dội khác thường thì đến đoạn 2 là một
bức tranh thiên nhiên Tây Bắc với vẻ đẹp mĩ lệ và thơ mộng. Những nét vẽ bạo khoẻ gân guốc để
vẽ nên một bức tranh thiên nhiên Tây Bắc hiện thực vừa huyền ảo, thực mà vẫn đậm chất lãng mạn:
"Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa
Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ "
Khi đêm liên hoan văn nghệ bắt đầu thì tất cả bừng lên trong ánh sáng của lửa đuốc liên hoan.
Con người và cảnh vật như ngất ngây trong những điệu múa điệu xoè, trong âm thanh rạo rực của
tiếng khèn. Đêm liên hoan văn nghệ đẹp như hội hoa đăng.
- Bốn câu thơ viết về cảnh đêm liên hoan văn nghệ có hai cách hiểu: Có người cho rằng đây là
đêm liên hoan văn nghệ của bộ đội có đồng bào địa phương đến góp vui. Nhưng lại có người cho
rằng đây là những người lính Tây Tiến đóng giả hoá trang thành những cô gái để cùng múa vui trong
đêm liên hoan văn nghệ nhằm vợi bớt đi những gian khổ hi sinh của cuộc đời người lính. Dù hiểu
theo cách nào thì câu thơ vẫn ngời lên vẻ đẹp tâm hồn lạc quan cách mạng của người lính Tây Tiến.
Hai chữ "Kìa em" thể hiện tâm trạng ngạc nhiên, sung sướng vừa như ngắm nhìn vừa như thốt
lên lời trầm trồ sung sướng khi chợt nhận ra vẻ đẹp của những dáng hồng sơn cước, vẻ đẹp của
những thiếu nữ Tây Bắc vừa lộng lẫy, rực rỡ với xiêm áo, những màu sắc vừa dịu dàng kín đáo với
dáng điệu nàng e ấp. Đằng sau hai chữ "kìa em" ta như thấy cả những nụ cười, những ánh nhìn tinh
nghịch của những chàng lính trẻ hồn nhiên, yêu đời.
Tâm hồn lãng mạn của những chiến binh Tây Tiến thể hiện qua cảm hứng lãng mạn hướng về
những màu sắc có tính chất xứ lạ phương xa và những nhu cầu văn hoá tinh thần. Họ thật sự ngạc
nhiên, ngưỡng mộ trước những điệu múa của người dân tộc (man điệu). Họ thực sự thích thú trước
âm thanh tiếng khèn gửi về những miền đất xa xôi (nhạc về Viêng Chăn). Những người lính vốn
xuất thân từ học sinh, sinh viên đâu chỉ mang theo cuộc đời người lính những vũ khí, những súng
ống, gươm đao mà còn mang cả những nhu cầu văn hoá tinh thần. Họ tổ chức những đêm liên hoan
văn nghệ. Họ ngất ngây trong âm thanh của tiếng khèn, họ biết thưởng thức những vũ điệu của người
dân tộc. Hình ảnh những cô gái Tây Bắc, nghệ thuật múa, nghệ thuật âm nhạc đã xây nên bao hồn
thơ ở những người lính Tây Tiến.
2.2. Bốn dòng thơ sau: Cảnh sông nước Tây Bắc mênh mang thơ mộng, huyền ảo
- Nếu cảnh đêm liên hoan văn nghệ đem đến cho người đọc cảm giác mê say, ngất ngây thì

cảnh sông nước Tây Bắc lại gợi lên vẻ đẹp mênh mang thơ mộng, huyền ảo:
"Người đi Châu Mộc chiều sương ấy
Có thấy hồn lau nẻo bến bờ
Có nhớ dáng người trên độc mộc
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa".
TÂY TIẾN – QUANG DŨNG (tiết 2)

MOON.VN
KHÓA CHUYÊN ĐỀ LTĐH – Cô NGUYỄN THANH MAI

- hotline: 04.32.99.98.98
Thiên nhiên mang vẻ đẹp huyền ảo với không gian và thời gian. Thời gian là buổi chiều tĩnh
lặng đã lùi dần và khuất hẳn, cảnh Tây Bắc hoang sơ và huyền bí với
"Chiều chiều oai linh thác gầm thét
Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người"
giờ chỉ còn lại một Tây Bắc với vẻ đẹp thơ mộng, không gian là cảnh sông nước với đôi bờ
sương giăng, đôi bờ phơ phất ngàn lau. Dòng sông như chảy từ thời tiền sử, như mang nỗi niềm cổ
tích của ngàn xưa.
Tác giả không miêu tả cụ thể, tỉ mỉ mà chỉ loáng thoáng vài nét gợi nhưng đã vẽ nên một bức
tranh lụa mượt mà. Tất cả đều thoáng nhẹ chiều sương, ngàn lau phơ phất mang cái hồn của cảnh
vật. Con thuyền độc mộc và con người cũng một dáng vẻ thanh thoát. Nét bút thoáng nhẹ này rất phù
hợp với cảnh thiên nhiên hư ảo, phù hợp với nỗi nhớ trong hoài niệm.
Nổi bật bên trên dòng sông như nỗi niềm cổ tích là hình ảnh những thiếu nữ Tây Bắc với vẻ
đẹp duyên dáng trên những con thuyền độc mộc. Họ đẹp như những bông hoa rừng trong chiều
sương. Hai chữ "đong đưa" chứ không phải đung đưa đã biến những bông hoa thành những sinh thể
có hồn.
Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa"
Hoa cũng như người dường như đang làm duyên, soi mình trên sông nước chòng chành.
Những thiếu nữ Tây Bắc đẹp như những bông hoa rừng, cũng đã hoá tâm hồn với những người

lính trẻ giờ đã trở thành kỉ niệm, là hành trang tinh thần không thể thiếu để họ mang theo suốt cuộc
đời người lính. Đoạn thơ giầu chất nhạc, chất hoạ. Nhạc điệu cất lên từ âm thanh của tiếng khèn, từ
tâm trạng rạo rực của người lính. Hình ảnh được tạo dựng bởi những nét vẽ tài hoa có màu sắc của
xiêm áo có đường nét của những điệu múa điệu xoè, có hình ảnh, dáng người trên con thuyền độc
mộc. Tâm hồn lãng mạn của người lính Tây Tiến đã được xây dựng bằng chất nhạc chất hoạ và chất
thơ.
3. Phân tích đoạn 3: Hình tượng người lính
. Hình tượng người lính là hình tượng nổi bật của thơ ca, văn học hai cuộc kháng chiến chống Pháp
và Mỹ. Viết về anh bộ đội cụ Hồ, các tác giả đều có chung một cảm xúc yêu mến tự hào. Tuy nhiên,
bên cạnh những vẻ đẹp chung, hình tượng người lính trong thơ ca còn có vẻ đẹp riêng. Nhớ về giai
đoạn đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp, có hai kiểu hình tượng người lính được phản ánh trong
thơ ca. Có hình tượng người lính mang vẻ đẹp chân thực mộc mạc qua cảm hứng và bút pháp hiện
thực như Đồng chí của Chính Hữu, Nhớ của Hồng Nguyên, lại có hình tượng người lính mang vẻ
đẹp lãng mạn như hình tượng người lính trong TâyTiến của Quang Dũng.
- Khi dựng lên tượng đài người lính Tây Tiến, Quang Dũng đã sử dụng bút pháp nghệ thuật lãng
mạn đem đến cho vẻ đẹp này một vẻ đẹp bi tráng.
Vẻ đẹp lãng mạn bi tráng của người lính được thể hiện qua dáng vẻ và tinh thần.
3.1. Những chiến sĩ Tây Tiến mang dáng vẻ oai phong lẫm liệt:
Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc/ Quân xanh màu lá dữ oai hùm.
Viết về người lính Quang Dũng không né tránh những gian khổ hy sinh chỉ có điều hiện thực
không được miêu tả một cách trần trụi mà được nhìn qua cảm hứng lãng mạn. Cũng như nhiều tác
giả khác Quang Dũng cũng nói tới bệnh sốt rét hiểm nghèo từng hành hạ người lính từng gây nên tử
vong. Tuy nhiên các tác giả khác thường sử dụng bút pháp hiện thực còn Quang Dũng thì sử dụng
bút pháp lãng mạn. Bệnh sốt rét hiểm nghèo được gọi đúng tên của nó trong bài thơ Đồng chí của
Chính Hữu :
Tôi với anh biết từng cơn ớn lạnh.
Sốt run người vầng trán ướt mồ hôi
MOON.VN
KHÓA CHUYÊN ĐỀ LTĐH – Cô NGUYỄN THANH MAI


- hotline: 04.32.99.98.98
Bài thơ của Tố Hữu thì trên gương mặt của anh vệ quốc quân vẫn còn lưu lại dấu vết của bệnh
sốt rét hiểm nghèo, chứng tích của căn bệnh quái ác vẫn còn in hằn trên má anh vệ quốc.
Giọt giọt mồ hôi rơi / Trên má anh vàng nghệ
Quang Dũng cũng nói về bệnh sốt rét, về gian khổ hy sinh của những chiến binh Tây Tiến nhưng
trên cơ sở lãng mạn hoá hiện thực. Sự thực là do bệnh sốt rét nên người lính không mọc tóc trở lại,
có cách hiểu khác không mọc tóc là không cho mọc tóc để thuận tiện trong đánh giáp lá cà, nhưng
qua cái nhìn lãng mạn thì mái đầu không tóc của anh “vệ trọc” đã gợi lên vẻ đẹp oai phong lạ
thường. Sự thực là do bệnh sốt rét lại thiếu ăn mất ngủ nên da dẻ người lính xanh xao nhưng qua cảm
hứng lãng mạn thì màu xanh ấy lại hoà lẫn với lá nguỵ trang với rừng đại ngàn. Qua cái nhìn lãng
mạn người lính hiện lên như mãnh hổ ngự trị giữa chốn rừng thiêng đúng là người lính ốm mà không
yếu, sức mạnh tinh thần của họ vẫn làm cho kẻ thù phải khiếp sợ.
3.2. Tâm hồn người lính cũng mang một vẻ đẹp lãng mạn
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm
Lính Tây Tiến phần đông xuất thân từ học sinh, sinh viên, có người lại ra đi từ Hà Nội - “Người
Tràng an” là người Thủ đô thanh lịch. Chính vì vậy mà trong cuộc sống kháng chiến gian khổ những
con người ra đi từ trường xưa phố cũ trong tâm hồn vẫn mang nhiều mộng và mơ. Họ mộng chiến
công truy kích giặc qua biên giới Việt - Lào “Mắt trừng” là để hướng về phía kẻ thù mài sắc tinh
thần cảnh giác, quyết tâm chiến đấu. Tâm hồn người lính không chỉ mang nhiều mộng mà còn nhiều
mơ. Họ mơ về một đôi mắt huyền, một mái tóc thề, một tà áo trắng, một dáng kiều thơm. Họ mơ về
Hà Nội “Dáng kiều thơm” là để tâm hồn về với người thương nơi Hà Thành hào hoa thanh lịch, chữ
“ thơm” trong câu thơ là đồng nghĩa với sắc nước hương trời.
Những người nông dân mặc áo lính trong bài thơ Đồng chí - của Chính Hữu, Nhớ - của Hồng
Nguyên, tâm hồn chân thành mộc mạc như ca dao tục ngữ họ có nhớ về kỷ niệm là nhớ về Giếng
nước gốc đa, gian nhà tranh gió lung lay, Nhớ về bạn thân cày Nhớ - Hồng Nguyên, còn lính Tây
Tiến của Quang Dũng lại thắp sáng tâm hồn mình bằng mộng và mơ.
Cách diễn đạt của tác giả có phần sách vở khi dùng hình ảnh dáng kiều thơm để nói về người
phụ nữ đẹp dễ thương, điều này lại có tác dụng phản ánh những người lính vốn xuất thân từ học
sinh, sinh viên, cách nói “Dáng kiều thơm" chứng tỏ tâm hồn họ thấm nhuần vẻ đẹp của những áng

Kiều, Chinh Phụ Ngâm, Hoa Tiên mà đã một thời họ được học khi ngồi trên ghế nhà trường.
3.3. Vẻ đẹp lãng mạn và bi tráng của người lính Tây Tiến còn được thể hiện qua tư thế lên
đường vì lý tưởng và sự hy sinh cao đẹp.
- Tư thế lên đường: Người lính lên đường chiến đấu hy sinh vì lý tưởng trong Tây Tiến với tư thế
chiến đấu coi cái chết nhẹ tựa lông hồng:
Rải rác biên cương mồ viễn xứ/ Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
Lại một lần nữa khi viết về người lính, về chiến tranh, Quang Dũng không né tránh những hy
sinh mất mát, cái bi thương được gợi lên qua hình ảnh những nấm mồ hoang nơi rừng sâu biên giới.
Những nấm mồ nơi rừng sâu không người hương khói, ít người qua lại gợi lên sự bùi ngùi thương
cảm xót xa. Tuy nhiên cứ mỗi khi chìm vào trong đau thương thì cảm xúc thơ của Quang Dũng được
nâng lên đôi cánh lý tưởng của cảm hứng lãng mạn.
Cái bi thương dường như được vợi đi bởi câu thơ xuất hiện nhiều từ Hán Việt mang sắc thái
trang trọng cổ kính “Biên cương mồ viễn xứ” đã biến những nấm mồ hoang nơi rừng sâu biên giới
thành những mồ chí tôn nghiêm vĩnh hằng.
Cái bi thương bị át đi bởi vẻ đẹp lý tưởng: Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
Hai chữ “chẳng tiếc” đặt giữa câu thơ nói lên thái độ thanh thản dứt khoát, hoàn toàn tự nguyện
của những con người quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh. Đời xanh gợi tuổi trẻ với bao hoa mộng, hy
MOON.VN
KHÓA CHUYÊN ĐỀ LTĐH – Cô NGUYỄN THANH MAI

- hotline: 04.32.99.98.98
vọng nhiều là thế đẹp là thế đáng yêu là thế mà sẵn sàng hiến dâng cho Tổ quốc, hỏi có sự hy sinh
nào cao đẹp hơn thế?
- Cái chết của người lính được bao phủ bởi hào quang của cảm hứng lãng mạn và bi tráng:
áo bào thay chiếu khúc độc hành
Nếu bằng cái nhìn hiện thực trần trụi đơn thuần thì cái chết của người lính gợi lên bao niềm
thương cảm xót xa khi các anh về nơi an nghỉ cuối cùng một manh chiếu che thi thể cũng không có,
vẫn có một cách hiểu khác về câu thơ áo bào thay chiếu (là có chiếu mà không có áo bào) nhưng qua
cái nhìn lãng mạn thì chiếc áo người lính bạc vì mưa nắng, rách vì bom đạn đã trở thành chiếc áo bào
sang trọng.

Người lính ra đi dẫu không có tiếng kèn đưa tiễn của đám quân nhạc thì đã có khúc độc hành của
dòng sông Mã, với chữ “gầm”, sông Mã đã gầm lên, tác giả đã trao cho con sông khúc nhạc hồn tử sĩ
vừa đau thương vừa uất hận. Dường như cả đất trời, cả quê hương đang nghiêng mình tiễn đưa người
lính về nơi an nghỉ cuối cùng.
Nghệ thuật nói giảm “Anh về đất" vừa làm vơi đi nỗi đau thương vừa vĩnh viễn hoá sự hy sinh
cao đẹp. Đối với người lính Tây Tiến chết chưa phải là hết, các anh về đất là về với Đất Mẹ hiền Tổ
quốc đang giơ tay âu yếm đón người con thân yêu trở về sau khi hoàn thành nghiã vụ lớn lao, “Các
anh về đất” là để hoá thân vào sông núi, để vĩnh viễn với núi sông này để:
Ôi đất nước sau bốn nghìn năm đi đâu ta cũng thấy
Những cuộc đời đã hoá núi sông ta.
Cái chết của người lính có gợi lên sự bi thương nhưng không bi luỵ trái lại vẫn mang vẻ đẹp hào
hùng tráng lệ.
III/ Kết luận;
Thơ ca kháng chiến chống Pháp có nhiều bài hay viết về người lính, đó là các bài Đồng chí của
Chính Hữu, Nhớ của Hồng Nguyên, Viếng bạn của Hoàng Lộc, Lên Tây Bắc, Hoan hô chiến sĩ
Điện biên của Tố Hữu Với bài thơ Tây Tiến Quang Dũng đã góp vào viện bảo tàng bức tượng đài
người chiến sĩ với vẻ đẹp độc đáo - vẻ đẹp lãng mạn và bi tráng.


MOON.VN
KHÓA CHUYÊN ĐỀ LTĐH – Cô NGUYỄN THANH MAI

- hotline: 04.32.99.98.98




IV. LUYỆN TẬP
ĐỀ 1.
Phân tích vẻ đẹp lãng mạn và bi tráng qua hình tượng thiên nhiên và hình tượng người lính.

* Mở bài: Tây Tiến là bài thơ hay nổi tiếng của Quang Dũng, đồng thời là thành tựu nghệ
thuật xuất sắc của thơ ca kháng chiến chống Pháp. Tác giả sáng tác bài thơ này sau khi đã xa đơn vị
Tây Tiến một thời gian nhưng những kỉ niệm về đoàn quân Tây Tiến vẫn sống trong tâm khảm nhà
thơ. Vốn là người lính của binh đoàn Tây Tiến, sau đó chuyển công tác, một lần ngồi ở Phù Lưu
Chanh - một địa danh của Hà Đông cũ, nhớ lại kỉ niệm Tây Tiến, Quang Dũng xúc động viết bài thơ
này. Bài thơ có hai nét đặc sắc nổi bật là thể hiện qua hình tượng thiên nhiên Tây Bắc và hiện hình
tượng người lính Tây Tiến.
* Thân bài:
- Nhắc lại hoàn cảnh ra đời (Phần dưới) và kết cấu bài thơ:
- Trước hết, cần hiểu cảm hứng lãng mạn và tinh thần bi tráng là gỡ?
1. Lãng mạn Nói đến cảm hứng lãng mạn là nói đến một thế giới giàu cảm xúc, giàu trí tưởng
tượng trên cơ sở hiện thực mà lãng mạn hóa hiện thực. Ở đó, người ta hay hướng tới cái cao cả, phi
thường cái lí tưởng hơn là cái bình thường, bình dị đời thường. Để làm rõ cảm hứng lãng mạn, các
nhà thơ sử dụng rộng rãi thủ pháp nghệ thuật đối lập tương phản.
2. Bi tráng : tinh thần bi tráng là không né tránh cái đau thương dám nhìn thẳng vào hi sinh
mất mát. Bi thương nhưng không bi lụy, trái lại đem đến cho cái bi vẻ đẹp hào hùng tráng lệ . Với
Tây Tiến, cảm hứng lãng mạn và tinh thần bi tráng là nột đặc sắc chính làm nên vẻ đẹp và giá trị
của bài thơ. Điều đó thể hiện chủ yếu qua hình tượng thiên nhiên miền Tây và hiện hình tượng người
lính Tây Tiến.
3. Hình tượng thiên nhiên:
- Hùng vĩ dữ dội khác thường (phần phân tích đoạn đầu )
- Vẻ đẹp mĩ lệ thơ mộng (phần phân tích chủ yếu ở đoạn 2)
4. Hình tượng người lính : vẻ đẹp lãng mạn và bi tráng .
- Dáng vẻ oai phong lẫm liệt khác thường: Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc .
- Tâm hồn lãng mạn.
+ Những nhu cầu văn hóa tinh thần (đoạn nói về đêm liên hoan văn nghệ).
+ Tâm hồn nhiều mộng và mơ ( Mắt trừng gửi mộng qua biên giới )
- Tư thế lên đường vì lí tưởng :
+ Vẻ đẹp thanh thản trước những khó khăn gian khổ, sự hi sinh ( Anh bạn dãi dầu không bước
nữa

+ Vẻ đẹp lí tưởng cao đẹp coi cái chết nhẹ tựa lông hồng.( Rải rác biên cương mồ viễn xứ )
- Sự hi sinh cao đẹp: áo bào thay chiếu anh về đất
5. Lý giải vì sao bài thơ có vẻ đẹp lãng mạn và bi tráng
- Hoàn cảnh sáng tác gợi lên cảm hứng lãng mạn. Bài thơ được viết sau khi tác giả đã rời xa
đơn vị Tây Tiến một thời gian nhưng những kỉ niệm về đoàn quân Tây Tiến vẫn sống trong tâm
khảm của nhà thơ. Trước đây Quang Dũng đã từng làm đại đội trưởng đoàn quân Tây Tiến nhưng
sau đó chuyển sang đơn vị khác. Một lần tại đại hội chiến sĩ thi đua toàn quân ở Phù Lưu chanh (một
TÂY TIẾN – QUANG DŨNG (tiết 3)

MOON.VN
KHÓA CHUYÊN ĐỀ LTĐH – Cô NGUYỄN THANH MAI

- hotline: 04.32.99.98.98
địa danh cũ của tỉnh Hà Đông ) tác giả nhớ lại đơn vị Tây Tiến và cảm xúc viết bài thơ này. Bài thơ
ban đầu có tên: Nhớ Tây Tiến, sau đó tác giả bỏ đi từ Nhớ còn lại hai chữ Tây Tiến.
- Đối tượng cảm xúc thẩm mĩ gợi lên cảm hứng lãng mạn: Đối tượng cảm xúc thẩm mĩ là
những người lính Tây Tiến, có đặc điểm: Phần lớn xuất thân từ học sinh, sinh viên, những người ra
đi từ thành đo Hà Nội, cho nên mang vẻ đẹp hào hoa lãng mạn.
- Địa bàn chiến đấu của người lính Tây Tiến là núi rừng Tây Bắc cũng gợi lên cảm hứng lãng
mạn:. Thiên Tây Bắc vừa hùng vĩ dữ dội vừa mĩ lệ thơ mộng. Cuộc sống của những chiến binh Tây
Tiến đầy gian khổ, hi sinh, bệnh tật nhất là bệnh sốt rét rừng hiểm nghèo gây nhiều tử vong. Nhưng
những người lính Tây Tiến mang trong mình lí tưởng cao đẹp cho nên tư thế vẫn hiên ngang coi cái
chết nhẹ tựa lông hồng. Chính đối tượng là những người lính ấy đã gợi lên cảm hứng lãng mạn rất
phù hợp với hồn thơ lãng mạn và bút pháp lãng mạn của Quang Dũng.
- Hoàn cảnh lịch sử thời kỡ đầu cuộc kháng chiến chống Pháp rực lửa anh hùng làm nền cho
cảm xúc lóng mạn và tinh thần bi tráng.
Đề 2: Bình giảng khổ thơ đầu trong bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng: "Sông Mã …nếp xôi".
Sự hùng vĩ dữ dội huyền bí của thiên nhiên Tây Bắc không chỉ được mở ra trong chiều không
gian mà còn được gợi lên theo chiều thời gian:
" Chiều chiều oai linh thác gầm thét

Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người"
Thời gian ở những thời điểm "chiều chiều, đêm đêm" vùng rừng núi đây là thời điểm chứa đầy
sự huyền bí, sự khủng khiếp đối với đời sống con người. Hai chữ Mường Hịch với dấu nặng đọc lên
nghe nặng trịch vừa gợi lên một địa danh xa xôi vừa như thấy có cả tiếng chân cọp đi trong đêm
khuya. Tuy nhiên động từ trêu lại đem đến sự cảm nhận huyền bí chỉ là thử thách đối với con người.
Tiếng thác gầm thét, tiếng cọp trêu người giữa đêm khuya cũng không hù doạ được người chiến sĩ
Tây Tiến. Những người chiến sĩ Tây Tiến dũng cảm yêu đời này với khí phách hiên ngang đã vượt
lên trên hoàn cảnh, chiến thắng hoàn cảnh.
Đoạn thơ khép lại cũng với nỗi nhớ Tây Tiến nhưng không phải là cảnh núi rừng hoang vu mà
cảnh sống sinh hoạt của con người:
" Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói
Mai Châu mùa em thơm nếp xôi"
Câu thơ ghi lại một sự thực trên đường hành quân nhưng vẫn tràn đầy cảm hứng lãng mạn. Sau
những chặng đường hành quân vất vả người lính Tây Tiến dừng chân bên bản làng có vườn tược có
tình người, họ được sống trong tình thương yêu đùm bọc của nhân dân. Cơm nếp thơm mà cũng là sự
thơm thảo của tình người. Nhớ ôi không phải là sự lạ hoá về ngôn từ mà là sự tăng cường cho nỗi
nhớ. Câu thơ "Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói" giàu tính tạo hình. Nó gợi hình ảnh những làn khói
đang bốc lên quanh những mái đầu dầu dãi như nghe thấy cả tiếng xuýt xoa cảm động của những
người lính.
*. Kết luận:
Đoạn thơ mở đầu là một trong những đoạn thơ hay đặc sắc của bài thơ Tây Tiến, phản ánh
được vẻ đẹp lãng mạn của hồn thơ Quang Dũng. Những câu thơ giàu chất hoạ và chất nhạc. Chất hoạ
gợi lên từ những đường nét hình ảnh, chất nhạc lại đằm thắm trong tâm hồn những người lính trẻ
phơi phới niềm yêu đời. Người xưa khi nói về nhưng câu thơ hay, đoạn thơ hay thường nói " Thi
trung hữu hoạ , "Thi duyên tình"( Trong thơ có duyên với tình cảm, thơ bộc lộ tình cảm), có thể dùng
những lời khen ấy để nói về đoạn thơ bình giảng nói riêng và bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng nói
chung.
MOON.VN
KHÓA CHUYÊN ĐỀ LTĐH – Cô NGUYỄN THANH MAI


- hotline: 04.32.99.98.98
* Bài thơ Tây Tiến có phảng phất những nét buồn những nét đau thương nhưng đó là cái buồn
bi tráng chứ không bi luỵ. Vả lại tả cái bi để làm nổi cái tráng cũng là một cách vẽ mây để nảy ra
trăng trong hoạ trong thơ trong nghệ thuật nói chung.
Đề 3: * Phân tích vẻ đẹp của hình tượng người lính trong bài thơ Tây Tiến
1- để khắc hoạ hình tượng người lính tác giả đã gợi lên bối cảnh mang vẻ đẹp lãng mạn - Bối cảnh tự
nhiên: Hùng vĩ dữ dội (Bốn câu thơ như một bức tranh hoành tráng về Tây Tiến - Tây Bắc). Mỹ lệ
thơ mộng (ngắn gọn những câu thơ về cảnh sông nước).
2- Trên bối cảnh thiên nhiên mang vẻ đẹp lãng mạn người lính xứng đáng với tầm vóc của họ,
mang vẻ đẹp lãng mạn và bi tráng .
a- Dáng vẻ oai phong lẫm liệt khác thường.
b- Tâm hồn mang vẻ đẹp lãng mạn.
c- Tư thế lên đường vì lý tưởng coi cái chết nhẹ tựa lông hồng :
d- Cái chết mang vẻ đẹp lãng mạn và bi tráng
 Kiến thức chung về nội dung yêu nước trong một tác phẩm văn học
Lòng yêu nước phản ánh trong văn học rất phong phú đa dạng, mỗi
thời đại mỗi tác giả bên cạnh nét chung vẫn có cách cảm nhận riêng, cách thể hiện riêng khi viết về
Đất nước. Nhìn chung lòng yêu nước được thể hiện qua những nội dung chính sau:
Yêu mến gắn bó với mảnh đất quê hương – là ý thức độc lập dân tộc quyền làm chủ Đất nước.
Niềm tự hào trước quyền thống dân tộc (Đất nước Nguyễn Đình Thi )
Truyền thống yêu nước bất khuất (Đất nước - Nguyễn Đình Thi, Nguyễn Khoa Điềm ).
Tuyền thống nhân đạo : Nhân ái , Nghĩa tình của người Việt Nam ( Việt Bắc- Đất nước của Nguyễn
khoa Điềm.
Niềm tự hào về Văn hoá dân tộc (Đất nước của Nguyễn Khoa Điềm hội tụ Bên kia sông Đuống -
Hoàng Cầm ).
Lòng căm thù giặc, quyết tâm chiến đấu tiêu diệt kẻ thù, giải phóng độc lập Đất nước
Niềm hy vọng tin tưởng vào tương lai Đất nước (Rừng Xà Nu , Mảnh trăng cuối rừng )
Lưu ý : Lòng yêu nước có thể còn biểu hiện qua những nội dung khác
như tình yêu thiên nhiên Đất nước, sự gắn bó giữa người dân và Đất nước Đất nước của Nguyễn
Đình Thi, Nguyễn Khoa Điềm.

Một tác phẩm có thể bao hàm đầy đủ những nội dung trên nhưng đồng thời cũng có thể đi sâu vào
nội dung nào đó. Lòng yêu nước trong văn học Cách mạng ( Đất nước – Nguyễn Đình Thi, Việt Bắc
của Tố Hữu ).
=======================================




MOON.VN
KHÓA CHUYÊN ĐỀ LTĐH – Cô NGUYỄN THANH MAI

- hotline: 04.32.99.98.98




Lời mở: Trong cuốn hồi ký mang tên “Giữ trong nguồn sáng” xuất bản năm 2008 tại Mỹ viết về ông
Morrison và chuyến thăm “để đời” của gia đình đến Việt Nam, bà Ann Welsh Morrison (En wers
mo ri sừn) đã ghi lại những cảm xúc về cuộc gặp với nhà thơ Tố Hữu, trong đó có chi tiết "nhà thơ
Tố Hữu rất xúc động, lấy một trang giấy gấp tư trong túi ngực, trong đó ghi một bài thơ viết tay và
đọc tặng gia đình Morrison:
Tạm biệt
“Xin tạm biệt đời yêu quý nhất
Còn mấy vần thơ một nắm tro
Thơ gửi bạn đường, tro gửi đất,
Sống là cho và chết cũng là cho”
Phải chăng, đó cũng là tâm nguyện của một người trọn đời đã hiến dâng cho tổ quốc, cho Đảng và
nhân dân? Từ những vần thơ đầu tiên của Tố Hữu các em được đọc thời tiểu học- bài tập đọc lớp 3
tiếng ru: Con ong làm mật yêu hoa… đến hình ảnh đáng yêu của chú bé Lượm (lớp 6); cảm giác ngột
ngạt của người chiến sĩ khi bị giam cầm: Khi con tu hú (lớp 8); rồi đến giây phút cảm động trong Từ

ấy, nỗi cô đơn và khao khát trong Nhớ đồng (lớp 11) (5 bài)…ta vẫn gặp một điệu tâm hồn ấy với
những ngọt ngào thương mến, những tha thiết ân tình với đất nước nhân dân, những hờn căm nóng
bỏng trước quân thù. Ngày 9-12-2002, con người mà cuộc đời là sống cũng là cho và chết cũng là
cho đã ra đi trong niềm tiếc thương của đất nước. Chỉ vài ngày sau khi Tố Hữu mất, trên báo Văn
nghệ số 50 (2239) Nguyễn Đình Thi đã nhận định về thơ anh:
"Trọn đời, Tố Hữu là một chiến sĩ cách mạng làm thơ và là nhà thơ của cách mạng { }. Và trong lửa
của thơ anh, có biết bao thương yêu dịu dàng đối với đất nước quê hương và những con người của
đất nước quê hương. Từ cuộc sống hiện đại, thơ anh ngày càng bắt nguồn trở lại vào tâm hồn thơ cổ
điển của dân tộc".
TIẾT 1
I. Tìm hiểu chung
1. Tác giả (2002-2012)
Trong suốt nhiều thập kỉ từ những năm 1930 – 1970, Tố Hữu luôn được coi là lá cờ đầu của
thơ ca cách mạng Việt Nam. Tố Hữu sáng tác đều đặn, rất thành công và có thể coi là bám sát nhất
những nhiệm vụ cách mạng của dân tộc ta và cũng là nhà thơ được đón đợi, mến mộ nhất trong thời
gian ấy. Với 5 tập thơ tương ứng với những giai đoạn cách mạng quan trọng của dân tộc ta: Từ ấy,
Việt Bắc, Gió lộng, Ra trận, Máu và hoa, thơ
2. Tác phẩm
2.1. Thể thơ : truyền thống của dân tộc: lục bát, gồm 92/150 câu.
2.2. Hoàn cảnh sáng tác
- Việt Bắc là khu căn cứ của cách mạng Việt Nam trong kháng chiến chống Pháp.
- Chiến dịch Điện Biên Phủ kết thúc thắng lợi. Tháng 7/ 1954 , hiệp định Giơ-ne-vơ về Đông
Dương được kí kết. Hòa bình lập lại, miền Bắc được giải phóng và đi lên xây dựng CNXH một
trang sử mới của đất nước mở ra.
- Tháng 10/ 1954 , TW Đảng và Chính phủ rời Việt Bắc về Hà Nội, những người kháng chiến
(trong đó có Tác giả Tố Hữu) từ căn cứ miền núi về miền xuôi chia tay Việt Bắc, chia tay khu căn
cứ Cách mạng trong kháng chiến.
Nhân sự kiện có tính lịch sử này Tố Hữu sáng tác bài thơ “Việt Bắc” Bài thơ “Việt Bắc” là đỉnh cao
của thơ ca kháng chiến chống Pháp.
VIỆT BẮC – TỐ HỮU (tiết 1)


MOON.VN
KHÓA CHUYÊN ĐỀ LTĐH – Cô NGUYỄN THANH MAI

- hotline: 04.32.99.98.98
2.3. Nội dung chính
- Tái hiện những kỉ niệm Cách mạng, kháng chiến. Khẳng định, ca ngợi vẻ đẹp của thiên nhiên,
con người Việt Bắc trong kháng chiến chống Pháp.
+ Thiên nhiên Việt Bắc vừa nên thơ, trữ tình vừa hùng vĩ, tráng lệ.
+ Con người Việt Bắc hăng say lao động, sâu nặng ân tình với cách mạng, kháng chiến.
- Gợi viễn cảnh tươi sáng của đất nước, ca ngợi công lao của Đảng và Bác Hồ trong kháng chiến
chống Pháp.
- Thể hiện tình cảm của Tố Hữu đối với quê hương Cách mạng Việt Bắc: yêu mến, gắn bó, tự hào
về truyền thống cao đẹp của dân tộc, đất nước.
Việt Bắc là khúc hùng ca, tình ca về Cách mạng, về kháng chiến, về những con người trong kháng
chiến chống Pháp.
2.3. Kết cấu bài thơ: theo khuôn mẫu của lối đối đáp trong ca dao.
II. Đọc hiểu văn bản
Đoạn 1: Cảnh chia tay giữa “mình” và “ta”
“Mình và Ta không phải dùng cho ngôi thứ nhất hay thứ hai, không phải một từ chỉ chủ thể, một từ
chỉ khách thể, mà cả hai đều chỉ chủ thể. Tôi nhắc lại: mình và ta đều chỉ chủ thể. Mình ấy ta ấy là
một phần đời sống mà thi sĩ đã trải qua bao nhiêu năm ở Việt Bắc. Phần đời này trò chuyện quyến
luyến với phần đời kia. Cho nên cuộc chia tay không diễn ra bình thường mà diễn ra trong máu thịt,
trong tâm hồn nhà thơ. Sự chia li bản thân mình là một sự chia li khó khăn nhất và tha thiết nhất,
đắm đuối nhất” (Tác giả nói về tác phẩm- NXB Trẻ- 2000, tr147)
- Bài thơ mở ra cảnh chia tay với tâm trạng bịn rịn, bâng khuâng, lưu luyến của hai người từng gắn
bó sâu nặng, bền lâu. Người ở lại lên tiếng trước…
- Lời hỏi của người ở lại đã khơi dậy cả quá khứ đầy ắp nhớ thương gắn liền với những kỉ
niệm…Người ra đi cũng có tâm trạng như người ở lại nên nỗi nhớ không chỉ hướng về người ở lại
mà còn là nỗi nhớ về chính mình. Bằng việc sáng tạo một tình huống trữ tình đặc biệt để bộc lộ cảm

xúc, tình cảm dạt dào, bằng kết cấu theo lối quen thuộc của ca dao, dân ca, Tố Hữu đã dẫn người đọc
vào không khí của ân tình ân nghĩa, của hồi tưởng và hoài niệm, của ước vọng và tin tưởng.
Mình về mình có nhớ ta Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay
* Bốn câu thơ mở đầu là lời người ở lại
- Đoạn thơ thể hiện rõ tình cảm của “ta” khi đưa tiễn. Người ở lại hỏi người cách mạng về xuôi:
Mình về mình có nhớ ta Mình về mình có nhớ không
- Trong “Ta” (người ở lại) ở đây như có ảnh hình người Việt Bắc, một cô gái Việt Bắc, có thể là
đồng bào Việt Bắc’; “mình” ở đây là người cán bộ Cách mạng, là anh bộ đội Cụ Hồ.
- Bốn câu thơ mở đầu cất lên thật tha thiết bồi hồi, cảm xúc được nén lại trong lòng bỗng ùa dậy và
trào lên. “Ta” hỏi “mình” hay ta đang hỏi lòng ta trong buổi phân li ấy. Lời hỏi da diết của người ở
lại gợi lại trong lòng người ở, người đi kỉ niệm 15 năm gắn bó. Tình nghĩa giữa “ta” với “ mình”
không phải là ngày một ngày hai mà đã giao hòa, gắn kết “ thiết tha”, “mặn nồng” trong suốt 15 năm
trời kể từ ngày khởi nghĩa Bắc Sơn (năm 1940 ) đến ngày miền Bắc hoàn toàn giải phóng (năm
1954).
- Lời hỏi tha thiết của người ở lại cũng chính là lời gợi nhớ những kỉ niệm giữa Việt Bắc và người
Cách mạng trong 15 năm qua. 15 năm trong kháng chiến nhiều gian lao, vất vả càng sâu nặng ân
tình.
Cảnh còn đấy nhưng người đã đi xa, người cách mạng phải về xuôi theo yêu cầu của nhiệm vụ ,
người ở lại nhớ nhung tha thiết, Câu hỏi tu từ của người ở khi đưa tiễn người đi mở ra một chân trời
thương nhớ. Suy cho cùng, cảm xúc nhớ nhung da diết ấy chính là biểu hiện của tình cảm sâu nặng
mà người Việt Bắc dành cho người Cách mạng.
* Bốn câu thơ tiếp theo gợi tả không gian nghệ thuật, tâm trạng của người đi kẻ ở trong buổi
chia tay.
- Tiếng hát của ai tha thiết cất lên bên cồn hay chính tiếng lòng tha thiết của người Việt Bắc làm cho
người ra đi thật sự xúc động.
Tiếng ai tha thiết bên cồn
Bâng khuâng trong dạ bồn chồn bước đi
MOON.VN
KHÓA CHUYÊN ĐỀ LTĐH – Cô NGUYỄN THANH MAI


- hotline: 04.32.99.98.98
Tố Hữu thật tài tình, khéo léo khi sử dụng hai từ láy diễn tả tâm trạng trong một câu thơ : bâng
khuâng, bồn chồn. Tình cảm của người Cách mạng và người Việt Bắc trong 15 năm kháng chiến thật
sâu sắc, vì thế khi chia tay càng bịn rịn, luyến lưu. Người cách mạng phải về xuôi vì nhiệm vụ mới
khi cuộc chiến kết thúc, nhưng chia tay Việt Bắc sao mà khó đến thế! Chân bước đi mà lòng không
muốn đi.
- Cảnh chia tay giữa người Việt Bắc và người Cách mạng được tác giả tái hiện lại thật xúc động qua
hai câu:
Áo chàm đưa buổi phân li
Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay
Áo chàm là hình ảnh hoán dụ , chỉ người Việt Bắc. “Áo chàm đưa buổi phân li” là người Việt Bắc đi
đưa tiễn người cách mạng. Trong giờ khắc chia ta đầy lưu luyến, bịn rịn , tấm chân tình của kẻ ở
người đi gửi qua cái bắt tay, bắt tay để chia tay. Họ “Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay ” , họ không
biết nói gì không phải không có gì để nói, phải chăng điều muốn nói quá nhiều, kỉ niệm quá nhiều,
ân tình sâu sắc quá nên không thể nào nói hết, diễn tả hết.Vì thế mà họ chỉ biết gửi tất cả qua cái bắt
tay mà lòng nghẹn ngào.
Cảnh chia tay thật bịn rịn, lưu luyến thể hiện tình cảm sâu nặng giữa người cách mạng và người Việt
Bắc.
- Đoạn thơ còn là thành công của tác giả ở nghệ thuật thể hiện:
+ Thể thơ lục bát của dân tộc rất phù hợp với việc diễn tả tình cảm .
+ Lời thơ là lời hỏi – gợi nhớ với giọng điệu tha thiết, tâm tình.
+ Cách xưng hô ta – mình thân thiết, gần gũi , đậm phong vị ca dao.
+ Điệp từ “ nhớ” nhằm nhấn mạnh nỗi nhớ thể hiện tình cảm sâu nặng.
Đoạn thơ mở đầu đã diễn tả thành công cảnh chia tay thật bịn rịn, lưu luyến giữa người Việt Bắc và
người cách mạng. Cái tài của Tố Hữu là chuyện ân tình cách mạng được tác giả khéo léo thể hiện
như chuyện tình cảm lứa đôi. Chính vì thế mà thơ Tố Hữu là thơ chính trị nhưng rất đỗi trữ tình, đi
sâu vào lòng người.
Đoạn thơ chỉ có tám câu ngắn gọn nhưng mở ra một trời thương nhớ, một ân tình sâu nặng giữa
những người Cách mạng và quê hương cách mạng trong kháng chiến chống Pháp.
Thực ra, đối đáp chỉ là một thủ pháp khơi gợi, bộc lộ tâm trạng, tạo ra sự đồng vọng của tình cảm,

còn thực chất là sự thống nhất của tình cảm, cảm xúc trong một tiếng nói chung. Hai nhân vật mình-
ta là sự phân thân của cái tôi trữ tình thống nhất của chính nhà thơ, của những người tham gia kháng
chiến. Lời đáp không chỉ nhằm trả lời cho những điều người hỏi đặt ra mà còn là sự tán đồng, mở
rộng, đồng tình với những ý tình trong lời người hỏi. Tất cả ngân vang những tình cảm chung.
Chuyện ân tình cách mạng được khéo léo thể hiện như tình yêu đôi lứa.
Cuộc chia tay cũng đầy bịn rịn nhớ thương nhưng không buồn, không đẫm lệ như những
cuộc chia tay trong văn học cổ. Bởi lẽ đây là cuộc chia tay của những con người vừa làm nên chiến
thắng. Đó là cuộc chia tay trong nhớ thương và cả trong niềm vui, niềm tin tưởng của ngày gặp lại.
MOON.VN
KHÓA CHUYÊN ĐỀ LTĐH – Cô NGUYỄN THANH MAI

- hotline: 04.32.99.98.98




2. Vẻ đẹp của cảnh và người Việt Bắc qua hồi tưởng của chủ thể trữ tình
2.1. Vẻ đẹp của cảnh thiên nhiên Việt Bắc
- Thiên nhiên hiện ra trong nhiều thời điểm (sương sớm, mây chiều, đêm trăng, ngày nắng…) và
mang vẻ đẹp phong phú, sống động, thay đổi qua mỗi mùa: vừa hoang sơ, hùng vĩ (những mây cùng
mù, hắt hiu lau xám); vừa rực rỡ, thắm tình (bức tranh tứ bình); vừa mang nét đặc trưng của núi rừng
Việt Bắc (ngòi, suối, khe, rừng), đọng lại thật sâu trong nỗi nhớ của người đi (nhớ gì…nhớ từng…)
nên đường nét cụ thể, màu sắc tươi sáng, ấm áp như ở ngay trước mắt…; có lúc làm nền tôn lên hình
ảnh con người, có lúc lại quyện hòa gắn bó; có lúc thật cụ thể rõ nét, có lúc lại huyền ảo mơ màng…
- Nhớ mùa đông Việt Bắc:
“Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi
Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng”
- Nhớ mùa đông là nhớ màu xanh của núi rừng Việt Bắc, nhớ màu đỏ của hoa chuối như những ngọn
lửa thắp sáng rừng xanh, sắc đỏ tươi của hoa chuối giữa sắc xanh của núi rừng làm cho núi rừng Việt
Bắc mùa đông không lạnh lẽo, không úa tàn mà ấm áp, tươi tắn vô cùng. Cái tài của Tố Hữu là sử

dụng gam màu nóng để vẽ bức tranh thiên nhiên Việt Bắc mùa đông thật đẹp và không thể quên.
- Nhớ mùa đông Việt Bắc còn nhớ người đi nương rẫy “dao gài thắt lưng” trong tư thế mạnh mẽ hào
hùng đứng trên đèo cao “nắng ánh “, con dao của người đi nương rẫy phản quang rất gợi cảm.
Màu “xanh” của rừng, màu “đỏ” của hoa chuối, màu sáng lấp lánh của “nắng ánh” từ con dao, màu
sắc hòa hợp làm bật sức sống tiềm tàng, mãnh liệt của thiên nhiên và con người Việt Bắc. Con người
Việt Bắc trong tư thế làm chủ thiên nhiên, làm chủ cuộc đời trong kháng chiến.
- Nhớ ngày xuân Việt Bắc:
Ngày xuân mơ nở trắng rừng
Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang
- Nhớ ngày xuân Việt Bắc là nhớ hoa mơ “nở trắng rừng”, câu thơ miêu tả độc đáo của tác giả gợi
một thế giới hoa mơ bao phủ mọi cánh rừng Việt Bắc, sắc trắng tinh khiết của hoa mơ mở ra một
không gian bao la, thoáng mát và tràn đầy sức sống. Cách dùng từ tài hoa của Tố Hữu gợi nhớ câu
thơ tả mùa xuân khá độc đáo của đại thi hào Nguyễn Du:
“Cỏ non xanh tận chân trời
Cành lê trắng điểm một vài bông hoa”
- Nhớ người thợ thủ công cần mẫn, khéo léo “Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang” . “ Chuốt “
là làm bóng sợi giang mỏng manh. Có khéo léo, cần mẫn, tỉ mỉ thì mới có thể “chuốt từng sợi giang”
để đan thành những chiếc nón, chiếc mũ phục vụ kháng chiến, để anh bộ đội đi chiến dịch có “ ánh
sao đầu súng bạn cùng mũ nan”. Người đan nón được nhà thơ nói đến tiêu biểu cho vẻ đẹp tài hoa,
sáng tạo của đồng bào Việt Bắc.
- Nhớ mùa hè Việt Bắc : Nhớ mùa hè Việt Bắc với tiếng ve kêu làm nên khúc nhạc rừng, nhớ màu
vàng của rừng phách , nhớ cô thiếu nữ đi hái măng một mình,
Ve kêu rừng phách đổ vàng
Nhớ cô em gái hái măng một mình
- Một chữ “đổ” tài tình, tiếng ve kêu như trút xuống, “đổ” xuống thúc giục ngày hè trôi nhanh, làm
cho rừng phách thêm vàng thiên nhiên Việt Bắc ngày hè thật tươi đẹp, sinh động .
VIỆT BẮC – TỐ HỮU (tiết 2)

MOON.VN
KHÓA CHUYÊN ĐỀ LTĐH – Cô NGUYỄN THANH MAI


- hotline: 04.32.99.98.98
- Nhớ con người Việt Bắc, nhớ cô gái đi hái măng một mình “Nhớ cô em gái hái măng một mình”.
Câu thơ độc đáo, giàu vần điệu, thanh điệu, giàu chất nhạc, chất thơ tạo một không gian nghệ thuật
đẹp và vui, đầy màu sắc và âm thanh. Cô gái đi hái măng một mình nhưng vẫn không lẻ loi bởi cô
gái ấy đang lao động giữa khúc nhạc rừng, hái măng để góp phần nuôi quân phục vụ kháng chiến.
Hình ảnh cô gái hái mămg gợi nét đẹp trẻ trung, yêu đời và hết lòng phục vụ cách mạng, phục vụ
kháng chiến của con người Việt Bắc.
- Nhớ mùa thu Việt Bắc : Nhớ mùa hè rồi nhớ mùa thu Việt Bắc, nhớ khôn nguôi ánh trăng ngà,
tiếng hát ,
Rừng thu răng rọi hòa bình
Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung.
- Trăng Việt Bắc trong thơ Bác Hồ là “Trăng lồng cổ thụ bóng lồng hoa”. Trăng Việt Bắc trong thơ
Tố Hữu là “trăng rọi hòa bình”. Người Cách mạng về xuôi nhớ trăng Việt Bắc giữa rừng thu, trăng
rọi qua tán lá rừng xanh, trăng dịu mát nên thơ, trữ tình , khiến lòng người ngây ngất.
- Nhớ người Việt Bắc : “Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung” . “Ai” là đại từ nhân xưng phiếm chỉ,
“nhớ ai” là nhớ về tất cả, về người dân Việt Bắc giàu tình nghĩa thủy chung đã hy sinh quên mình
cho cách mạng, cho kháng chiến.
Đoạn thơ mang vẻ đẹp của một bức tranh tứ bình đặc sắc, đậm đà phong cách dân tộc. Mở đầu cuộc
kháng chiến chống Pháp là mùa đông năm 1946, đến mùa thu tháng 10 năm 1954 thủ đô Hà nội được
giải phóng. Tố Hữu thể hiện nỗi nhớ Việt Bắc qua bốn mùa đông – xuân- hè – thu theo dòng chảy
lịch sử. Mỗi mùa ở Việt Bắc có một nét đẹp riêng dạt dào sức sống: màu xanh của rừng, màu đỏ tươi
của hoa chuối, màu trắng của hoa mơ, màu vàng của rừng phách, màu trăng xanh hòa bình.
2.2. Vẻ đẹp của con người Việt Bắc
- Những con người lao động bình dị, lặng thầm trong những công việc đời thường…
- Ẩn chứa bao vẻ đẹp: cần cù, chịu thương chịu khó, khéo léo, tài hoa trong lao động, thủy chung son
sắt trong nghĩa tình cách mạng, Họ trở thành điểm tựa cho kháng chiến, cho dân tộc…
- Nhà thơ gọi họ bằng những từ ngữ phiếm chỉ: người đan nón, cô em gái, ai…có vẻ như là những
bóng hình thoáng qua, những con người tình cờ thoáng gặp, trên bất cứ nẻo đường nào của quê
hương VB, ta đều thấy họ gần gũi yêu thương…

Thiên nhiên Việt Bắc thật nên thơ, hữu tình và mang màu sắc cổ điển qua nét bút tài hoa của Tố
Hữu. Con người Việt Bắc được tác giả nhắc đến không phải là ngư, tiều, canh, mục mà là người đi
nương rẫy, người đan nón, người đi hái măng ,… mà là những con người toả sáng nét đẹp cao quý
trong lao động và kháng chiến: cần cù, làm chủ thiên nhiên và làm chủ cuộc đời trong lao động, khéo
léo, tài hoa, trẻ trung, yêu đời,… và hết lòng phục vụ cách mạng, phục vụ kháng chiến.
* Đoạn thơ là thành công của tác giả ở nghệ thuật thể hiện:
+ Thể thơ lục bát của dân tộc
+ Lời thơ là lời hỏi – gợi nhớ với giọng điệu ngọt ngào, tha thiết, tâm tình.
+ Cách xưng hô ta – mình thân thiết, gần gũi , đậm phong vị ca dao.
+ Điệp từ “ nhớ” nhằm nhấn mạnh nỗi nhớ thể hiện tình cảm sâu nặng.
+ Bút pháp miêu tả đặc sắc: kết hợp hình ảnh, màu sắc, âm thanh ,…
+ Câu trúc đoạn thơ cân xứng hài hòa: một câu tả cảnh, một câu tả người và cả đoạn thơ là bức tranh
về thiên nhiên và con người Việt Bắc.
Đoạn thơ dạt dào tình thương mến, nỗi thiết tha bổi hồi như thấm sâu vào cảnh và người, kẻ ở người
về thì “ mình nhớ ta”, “ta nhớ mình” . Tình cảm ấy vô cùng sâu nặng, biết bao ân tình thủy chung.
Năm tháng đi qua nhưng ân tình cách mạng giữa Việt Bắc và người về xuôi vẫn mãi mãi như một
dấu son đỏ thắm in đậm trong hồn người.
MOON.VN
KHÓA CHUYÊN ĐỀ LTĐH – Cô NGUYỄN THANH MAI

- hotline: 04.32.99.98.98
Đoạn thơ là lời ngợi ca quê hương Việt Bắc trong kháng chiến chống Pháp. Qua đó thể hiện tình cảm
của Tố Hữu với Việt Bắc, với Cách mạng: yêu mến, tự hào, biết ơn. Đoạn thơ gợi lên trong lòng
người đọc tình mến yêu Việt Bắc, tự hào về đất nước và con người Việt Nam.
3. Khung cảnh hùng tráng của Việt Bắc trong chiến đấu, vai trò của Việt Bắc trong cách mạng
và kháng chiến
3.1. Khung cảnh Việt Bắc kháng chiến
(Đoạn: Nhớ khi giặc đến giặc lùng Nhớ từ Cao – Lạng , nhớ sang Nhị Hà)
* Mở đầu đoạn thơ là nỗi nhớ của người cách mạng. Nhớ những ngày thực dân Pháp đến quê hương
Việt Bắc và Việt Bắc ra trận đánh Tây.

Nhớ khi giặc đến giặc lùng Rừng che bộ đội, rừng vây quân thù
Với bút pháp nhân hóa cả Việt Bắc ra trận : “Rừng cây núi đá ta cùng đánh Tây” - Cả Việt Bắc phối
hợp tạo nên sức mạnh chống Pháp. Núi biết giăng thành lũy sắt dày để ngăn cản quân thù, để bảo vệ
cho quân dân Việt Bắc. Rừng Việt Bắc biết che bộ đội và biết vây bắt quân thù.
Những câu thơ đậm khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn tái hiện được khí thế ra trận của
quân dân Việt Bắc trong kháng chiến chống Pháp.
Quân dân Việt Bắc ra trận với tinh thần đoàn kết:
Mênh mông bốn mặt sương mù
Đất trời ta cả chiến khu một lòng
Sức mạnh của tinh thần đoàn kết sẽ làm nên những chiến thắng khải hoàn trong kháng chiến chống
Pháp. Người cách mạng nhớ những tháng ngày xung trận chống Pháp. Nhớ quá khứ hào hùng đáng
trân trọng, tự hào của dân tộc.
Ai về ai có nhớ không?
Ta về ta nhớ Phủ Thông, đèo Giàng.
Nhớ sông Lô, nhớ phố Ràng.
Nhớ từ Cao – Lạng , nhớ sang Nhị Hà
* Bốn câu thơ tiếp theo là lời hỏi đáp giữa mình với ta, giữa kẻ ở và người về .
- Ai về ai có nhớ không ? câu hỏi phiếm chỉ, hình như không hỏi riêng một người nào mà hỏi tất cả,
hỏi nhà thơ, hỏi người cán bộ cách mạng, hỏi anh bộ đội từng gắn bó với Việt Bắc trong kháng chiến
chống Pháp. Một câu hỏi gợi nhiều lưu luyến bâng khuâng, đậm đà nghĩa tình giữa người đi người ở.
- Sau câu hỏi “Ai về ai có nhớ không?” là câu trả lời “Ta về ta nhớ …” Nỗi nhớ tha thiết của người
về xuôi khi chia xa Việt Bắc:
Ta về ta nhớ Phủ Thông, đèo Giàng.
Nhớ sông Lô, nhớ phố Ràng.
Nhớ từ Cao – Lạng , nhớ sang Nhị Hà
Chỉ một chữ “nhớ” trong câu hỏi mà có đến năm chữ “nhớ” thiết tha trả lời. Nỗi nhớ bao trùm tất cả,
nhớ đèo, nhớ sông, nhớ phố, nhớ những trận đánh đẫm máu, nhớ những chiến công oai hùng một
thời oanh liệt. Nhớ Phủ Thông, đèo Giàng với lưỡi mác và ngọn giáo, anh bộ đội cụ Hồ trong tư thế
dũng sĩ lẫm liệt đã làm cho giặc Pháp bạt vía kinh hồn. “ Nhớ sông Lô” là nhớ chiến thắng Việt Bắc
thu đông năm 1947 , tàu giặc Pháp bị đắm sông Lô. “Nhớ phố Ràng” là nhớ trận chiến có pháo binh

tham gia vào cuối năm 1949 , đánh dấu bước trưởng thành trong khói lửa của quân đội ta để từ đó
tiến lên đánh lớn và thắng lớn trong chiến dịch Biên giới giải phóng Cao Bằng, Lạng Sơn: “Nhớ từ
Cao Lạng nhớ sang Nhị Hà…”. “Nhớ từ” …nhớ sang” gợi nỗi nhớ dạt dào, mênh mông, da diết,…
Đoạn thơ với hàng loạt các địa danh cụ thể của Việt Bắc như những trang kí sự chiến trường nối tiếp
xuất hiện để lại bao tự hào trong lòng người đọc. Có biết bao máu đổ xương rơi, biết bao anh hùng
ngã xuống mới có thể đưa tên núi, tên sông, tên đèo nơi Việt Bắc vào lịch sử, vào thơ ca và tạc vào
MOON.VN
KHÓA CHUYÊN ĐỀ LTĐH – Cô NGUYỄN THANH MAI

- hotline: 04.32.99.98.98
lòng dân tộc nỗi nhớ mênh mang ấy.
Đoạn thơ là thành công của tác giả ở nghệ thuật thể hiện:
+ Thể thơ lục bát truyền thống của dân tộc.
+ Điệp từ “ nhớ” và liệt kê hàng loạt các trận đánh lớn của Việt Bắc trong kháng chiến chống Pháp.
Đoạn thơ là nỗi nhớ Việt Bắc trong những trận đánh lớn và thắng lớn. Lời ngợi ca Việt Bắc anh hùng
trong kháng chiến và niềm tự hào của tác giả, của người cách mạng về quê hương cách mạng.
3.2. Hình ảnh Việt Bắc ra trận kháng chiến và chiến thắng.
(Đoạn: Những đường Việt Bắc của ta Vui lên Việt Bắc, đèo De, núi Hồng)
Bao trùm đoạn thơ là những nỗi nhớ với tất cả niềm tự hào, nhớ những con đường chiến dịch, nhớ
đoàn quân, nhớ dân công,…, nhớ chiến dịch, nhớ đèn pha ra trận,…Qua đó tác giả ngợi ca sức sống
mãnh liệt của đất nước, con người Việt Nam trong máu lửa chiến tranh.
* Tám câu thơ tiếp theo tái hiện lại con đường Việt Bắc trong những năm kháng chiến chống Pháp
với những nẻo đừơng hành quân, nẻo đường chiến dịch,…
- Các từ láy “đêm đêm”, “rầm rập”, “điệp điệp”, “trùng trùng” cùng lối so sánh “như là đất rung” đã
gợi tả thật hay, thật hào hùng âm vang cuộc kháng chiến thần thánh và sức mạnh nhân nghĩa 4000
năm của dân tộc. Khí thế chiến đấu thần kì của quân dân Việt Bắc làm rung đất chuyển trời mà
không một thế lực tàn bạo nào có thể ngăn cản được.
- Cả dân tộc ra trận chống Pháp với sức mạnh không gì ngăn được:
Quân đi điệp điệp trùng trùng Bước chân nát đá, muôn tàn lửa bay
Những câu thơ đậm khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn tái hiện lại khí thế kháng chiến, ra

trận của quân ta. Đoàn quân ra trận đông đảo, người người lớp lớp như sóng cuộn “ điệp điệp trùng
trùng” .
+ Câu thơ “Ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan” là một tứ thơ sáng tạo, vừa thực vừa ảo . “Ánh sao
đầu súng” là ánh sao đêm phản chiếu vào nòng súng thép, ánh sao của bầu trời Việt Bắc, ánh sao lí
tưởng chiến đấu vì độc lập tự do như soi sáng nẻo đường hành quân ra trận cho anh bộ đội cụ Hồ.
+ Tác giả thành công ở bút pháp cường điệu trong câu “Bước chân nát đá …” , bút pháp cường điệu
tạo nên âm điệu anh hùng ca, gợi tả sức mạnh Việt Nam trong kháng chiến chống Pháp. Quân ta
càng đánh càng mạnh, càng mạnh thì càng thắng lớn.
- Những năm đầu kháng chiến, quân và dân ta chỉ có ngọn tầm vông, giáo mác, vũ khí thô sơ. Ta
càng đánh càng mạnh, lực lượng kháng chiến ngày thêm hùng hậu. Quân đội ta đã phát triển thành
những binh đoàn, có pháo binh, có đoàn xe kéo pháo chở súng đạn, chở binh lương ra tiền tuyến:
“Nghìn đêm thăm thẳm sương dày Đèn pha bật sáng như ngày mai lên”
Ngọn đèn pha của đoàn xe kéo pháo , của đoàn xe vận tải “ bật sáng” phá tan những lớp sương dày ,
đẩy lùi những thiếu thốn, khó khăn, soi sáng con đường kháng chiến để “ ngày mai lên”. Hình ảnh
thơ mang ý nghĩa tượng trưng cho một tương lai tưoi sáng của đất nước Con đường Việt Bắc, con
đường ra trận đầy máu lửa và chiến công và đó cũng là con đường đi tới ngày mai huy hoàng tráng lệ
của đất nước, của dân tộc.
* Bốn câu thơ cuối đoạn thể hiện niềm vui chiến thắng lớn của quân dân Việt Bắc, của dân tộc Việt
Nam trong kháng chiến chống Pháp.
Tin vui chiến thắng trăm miền Vui lên Việt Bắc, đèo De, núi Hồng.
- Một lần nữa Tố Hữu gọi tên các địa danh “chiến thắng trăm miền” trên đất nước thân yêu : Hòa
Bình, Tây Bắc , Điện Biên, Đồng Tháp,…Mỗi địa danh ghi lại một chiến công.Tác giả gọi tên địa
danh với niềm hân hoan , tự hào chiến thắng.
- Cách nói của tác giả khá độc đáo, khá hay : “ Tin vui…vui về …vui từ …vui lên”. Chiến thắng
không phải chỉ một vài nơi rời rạc mà trăm miền, điệp từ “ vui” diễn tả niềm vui lớn, tiếng reo mừng
MOON.VN
KHÓA CHUYÊN ĐỀ LTĐH – Cô NGUYỄN THANH MAI

- hotline: 04.32.99.98.98
chiến thắng cất lên từ trái tim của hàng triệu con người Việt Nam từ Bắc chí Nam.

* Đoạn thơ là thành công của Tố Hữu ở nghệ thuật thể hiện:
+ Thể thơ lục bát truyền thống của dân tộc.
+ Sử dụng từ ngữ và các phép điệp tạo giọng điệu mạnh mẽ, mang âm điệu anh hùng ca.
+ Đậm khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn
Nghệ thuật thể hiện đậm tính dân tộc. Đây là đoạn thơ hay và đẹp trong bài thơ “ Việt Bắc”. Đoạn
thơ vang lên như một khúc ca thắng trận của quân dân Việt Bắc trong kháng chiến chống Pháp.
Khẳng định, ngợi ca, tự hào về quê hưong Việt Bắc “Quê hương cách mạng dựng nên cộng hòa” .
Đoạn thơ tỏa sáng hồn ta ngọn lửa Điện Biên thần kì và chấn động lòng ta nỗi nhớ vè một tình yêu
lớn – yêu Việt Bắc, yêu Cách mạng và yêu quê hương đất nước Việt Nam. Đoạn thơ thể hiện sự gắn
bó ân tình sâu nặng của Tố Hữu với Việt Bắc, với Cách mạng .
3.3. Vai trò của Việt Bắc trong cách mạng và kháng chiến (Xem tư liệu tham khảo)
4. Nghệ thuật
- Sử dụng thể thơ truyền thống của dân tộc : thơ lục bát.
- Cách xưng hô ta – mình, mình – mình thân mật, gần gũi, đậm phong vị ca dao.
- Lối đối đáp trữ tình của ca dao Việt Nam.
- Giọng thơ tâm tình , ngọt ngào như âm hưởng lời ru.
- Sử dụng thành công các biện pháp tu từ : so sánh, nhân hóa, cường điệu , điệp,
- Sử dụng lời ăn tiếng nói của nhân dân rất giản dị, mộc mạc nhưng sinh động, hấp dẫn.
- Đậm khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn.
Nghệ thuật đậm tính dân tộc


MOON.VN
KHÓA CHUYÊN ĐỀ LTĐH – Cô NGUYỄN THANH MAI

- hotline: 04.32.99.98.98





III. Tổng kết
1. Nội dung: Tố Hữu đã thành công khi kết hợp nhuần nhuyễn nội dung chính trị và cảm xúc trữ
tình.
2. Hình thức nghệ thuật đậm đà tính dân tộc.
3. Việt Bắc tiêu biểu cho phong cách thơ Tố Hữu
- Tính trữ tình – chính trị : Việt Bắc là khúc hát ân tình thuỷ chung của những người cách mạng với
lãnh tụ, với Đảng và cuộc kháng chiến.
- Giọng thơ tâm tình ngọt ngào tha thiết.
- Nghệ thuật biểu hiện giàu tính dân tộc: Thể hiện ở thể thơ lục bát, kết cấu đối đáp, nghệ thuật sử
dụng hình ảnh và hịên pháp so sánh, ẩn dụ quen thuộc của ca dao.
“Điều kì lạ và tài tình nhất ở Việt Bắc là ở chỗ, nhà thơ đã kết hợp những cái tưởng như không thể:
mới mẻ và truyền thống; nội dung cách mạng và phong vị dân gian, khái quát lớn lao và lời ăn tiếng
nói hàng ngày quen thuộc” (Đỗ Kim Hồi)
IV. Luyện tập
Dạng đề 1: Cảm nhận, phân tích đoạn thơ (Dành cho tất cả các bài kiểm tra)
Đoạn 1: “Nhớ gì như nhớ người yêu…”
I. Mở bài
- Giới thiệu ngắn gọn hoàn cảnh sáng tác của bài thơ.
- Đoạn thơ
“ Nhớ gì như nhớ người yêu
……
Mình đây , ta đó đắng cay ngọt bùi
thuộc phần hai của trích đoạn thơ Việt Bắc- Sau bối cảnh phân li là lời đối đáp của kẻ ở người đi :
người ở lại nhắn nhủ người ra đi mười hai dòng lục bát. Còn người đi đáp lại người ở lại những 72
dòng. Trong 72 dòng ấy, nỗi nhớ được khơi ra chồng chất; và một trong nhiều nỗi nhớ ấy có nỗi
nhớ da diết “ như nhớ người yêu” của người đi.
.II. Thân bài:
1. Trước hết, ở hai câu đầu của đoạn thơ :
“Nhớ gì như nhớ người yêu
Trăng lên đầu núi , nắng chiều lưng nương”

- Tố Hữu đã lấy thước đo giá trị của nỗi nhớ trong tình yêu để cắt nghĩa, lý giải cho tình cảm của
cán bộ đối với nhân dân. Không phải là nỗi nhớ của ý thức, của nghĩa vụ mà nhớ bằng cả trái tim
yêu thương chân thành và da diết.
- Câu thơ “Trăng lên đầu núi…” như được phân ra làm 2 nửa thời gian: vế đầu là hình ảnh gợi
tả đêm trăng hò hẹn của tình yêu; vế sau là hình ảnh gợi không gian của buổi chiều lao động
trên nương rẫy. Thời gian như chảy ngược - nỗi nhớ như đi từ gần tới xa, thăm thẳm trong quá khứ.
Tình yêu gắn liền với lao động; lao động nảy sinh ra tình yêu. Câu thơ cùng lúc thể hiện hai không
gian của tình yêu và lao động, tạo nên sự hài hoà giữa nghĩa vụ và tình cảm.
2. Đến hai câu thơ tiếp, tình yêu như chuyển thành nỗi nhớ trong tình cảm gia đình. Toàn không
gian núi rừng Việt Bắc được gói gọn trong không khí gia đình ấm áp tình thương.
VIỆT BẮC – TỐ HỮU (tiết 3)

MOON.VN
KHÓA CHUYÊN ĐỀ LTĐH – Cô NGUYỄN THANH MAI

- hotline: 04.32.99.98.98
“Nhớ từng bản khói cùng sương
Sớm khuya bếp lửa người thương đi về”
- Nỗi nhớ không còn mông lung, mơ mộng nữa mà đã cụ thể trong những bản làng, những mái
nhà thấp thoáng trong những làn khói sương hư ảo. Hình ảnh khói sương là đặc điểm của cuộc sống
Việt Bắc, vừa là khói sương của thiên nhiên, đồng thời như làm nổi lên hơi ấm của tình đời, tình
người. Có hình ảnh của ai đó đang chờ đợi bên bếp lửa suốt đêm dài thao thức. Quan hệ giữa cán bộ
và nhân dân như tụ họp ở ngọn lửa thiêng liêng bất diệt. Nhớ đến một người để nhớ mọi người. Tố
Hữu đá làm riêng cả mối tình chung.
3. Kết thúc khổ thơ , tình cảm lại toả ra tràn ngập cả núi rừng Việt Bác. Những kỷ niệm chung và
riêng đan xen nhau, lần lượt hiện ra trong tưởng tượng của người đi :
“Nhớ từng rừng nứa bờ tre
Ngòi Thia, sông Đáy suối Lê vơi đầy
Ta đi ta nhớ những ngày,
Mình đây ta đó, đắng cay ngọt bùi”

- Bằng phép liệt kê làm cho những kỷ niệm khơi ra tầng tầng lớp lớp, hết hình ảnh này, đến hình
ảnh khác.
+ Những hình ảnh “rừng nứa bờ tre” chính là nơi hẹn hò, gặp gỡ cái thở ban đầu, lúc mới quen
nhau. Đây cũng là những danh từ chung mô tả đặc điểm của không gian Việt Bắc với bao nét đẹp mơ
mộng.
+ Còn “Ngòi Thia , sông Đáy , suối Lê … là những địa danh lịch sử, đã từng khắc ghi trong
lịch sử Cách mạng- nơi đã diễn ra nhiều chiến công oanh liệt .
 Những gắn bó gian khổ, ngọt bùi đã trở thành những kỷ niệm da diết trong trái tim người đi
khó có thể quên được.
III. Kết :
- Đoạn thơ là những hồi ức và nỗi nhớ thương da diết của người đi với Việt Bắc > Tấm lòng
của CBKC với Việt Bắc sâu đậm ân tình.
- Đoạn thơ còn là sự thể hiện thành công phong cách thơ Tố Hữu : ngọt ngào tha thiết và đậm đà
tính dân tộc.

Đề 3 : Phân tích đoạn thơ sau đây trong bài thơ “Việt Bắc” của Tố Hữu :
“ Những đường Việt Bắc của ta
Vui lên Việt Bắc, đèo De, núi Hồng”.
( Theo Văn học 12- tập một).
* Định hướng
I. Mở bài
II. Thân bài
- Đoạn thơ ghi lại cảnh tượng hào hùng, sôi động, đầy khí thế của cuộc kháng chiến
chống Pháp. Cảnh tượng ấy được đặc tả qua :
1. Hai câu đầu : Hình ảnh con đường Việt Bắc trong đêm kháng chiến.
2. 6 câu tiếp : Sức mạnh từ sự hợp lực của quân dân và niềm lạc quan, niềm tin của
quân dân trong cuộc kháng chiến gian khổ.
3.4 câu tiếp : Niềm vui chiến thắng trên khắp mọi miền của Tổ quốc.
*Nội dung trên được nhà thơ biểu đạt qua các phương tiện nghệ thuật đặc sắc:
1. Cách chọn lọc những từ ngữ , hình ảnh gợi tả, gợi cảm (rầm rập; điệp điệp trùng trùng; ánh

sao đầu súng; bước chân nát đá…).
2. Sử dụng linh hoạt các biện pháp tu từ (phép điệp; so sánh; cường điệu, liệt kê…).
MOON.VN
KHÓA CHUYÊN ĐỀ LTĐH – Cô NGUYỄN THANH MAI

- hotline: 04.32.99.98.98
3. Gịong thơ sôi nổi, hào hùng thể hiện khí thế ra trận của dân tộc trong kháng chiến chống
Pháp.
=> Đoạn thơ thể hiện sâu sắc khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn .
Phân tích cụ thể:
Những đường Việt Bắc của ta Vui lên Việt Bắc, đèo De, núi Hồng.
Bao trùm đoạn thơ là những nỗi nhớ với tất cả niềm tự hào, nhớ những con đường chiến dịch, nhớ
đoàn quân, nhớ dân công,…, nhớ chiến dịch, nhớ đèn pha ra trận,…Qua đó tác giả ngợi ca sức sống
mãnh liệt của đất nước , con người Việt Nam trong máu lửa chiến tranh.
* Tám câu thơ tiếp theo tái hiện lại con đường Việt Bắc trong những năm kháng chiến chống Pháp
với những nẻo đừơng hành quân, nẻo đường chiến dịch,…
- Các từ láy “ đêm đêm”, “rầm rập”, “điệp điệp”, “ trùng trùng” cùng lối so sánh “ như là đất rung “
đã gợi tả thật hay, thật hào hùng âm vang cuộc kháng chiến thần thánh và sức mạnh nhân nghĩa 4000
năm của dân tộc. Khí thế chiến đấu thần kì của quân dân Việt Bắc làm rung đất chuyển trời mà
không một thế lực tàn bạo nào có thể ngăn cản được.
- Cả dân tộc ra trận chống Pháp với sức mạnh không gì ngăn được:
Quân đi điệp điệp trùng trùng Bước chân nát đá, muôn tàn lửa bay
Những câu thơ đậm khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn tái hiện lại khí thế kháng chiến, ra
trận của quân ta. Đoàn quân ra trận đông đảo , người người lớp lớp như sóng cuộn “ điệp điệp trùng
trùng” .
+ Câu thơ “ Ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan” là một tứ thơ sáng tạo, vừa thực vừa ảo . “ Ánh sao
đầu súng” là ánh sao đêm phản chiếu vào nòng súng thép, ánh sao của bầu trời Việt Bắc , ánh sao lí
tưởng chiến đấu vì độc lập tự do như soi sáng nẻo đường hành quân ra trận cho anh bộ đội cụ Hồ.
+ Tác giả thành công ở bút pháp cường điệu trong câu “ Bước chân nát đá …” , bút pháp cường điệu
tạo nên âm điệu anh hùng ca , gợi tả sức mạnh Việt Nam trong kháng chiến chống Pháp. Quân ta

càng đánh càng mạnh, càng mạnh thì càng thắng lớn.
- Những năm đầu kháng chiến , quân và dân ta chỉ có ngọn tầm vông, giáo mác,vũ khí thô sơ. Ta
càng đánh càng mạnh,lực lượng kháng chiến ngày thêm hùng hậu . Quân đội ta đã phát triển thành
những binh đoàn, có pháo binh, có đoàn xe kéo pháo chở súng đạn, chở binh lương ra tiền tuyến:
“ Nghìn đêm thăm thẳm sương dày Đèn pha bật sáng như ngày mai lên”
Ngọn đèn pha của đoàn xe kéo pháo , của đoàn xe vận tải “ bật sáng” phá tan những lớp sương dày ,
đẩy lùi những thiếu thốn, khó khăn, soi sáng con đường kháng chiến để “ ngày mai lên”. Hình ảnh
thơ mang ý nghĩa tượng trưng cho một tương lai tưoi sáng của đất nước Con đường Việt Bắc, con
đường ra trận đầy máu lửa và chiến công và đó cũng là con đường đi tới ngày mai huy hoàng tráng lệ
của đất nước, của dân tộc.
* Bốn câu thơ cuối đoạn thể hiện niềm vui chiến thắng lớn của quân dân Việt Bắc, của dân tộc Việt
Nam trong kháng chiến chống Pháp.
Tin vui chiến thắng trăm miền Vui lên Việt Bắc, đèo De, núi Hồng.
- Một lần nữa Tố Hữu gọi tên các địa danh “ chiến thắng trăm miền” trên đất nước thân yêu : Hòa
Bình, Tây Bắc , Điện Biên, Đồng Tháp,…Mỗi địa danh ghi lại một chiến công.Tác giả gọi tên địa
danh với niềm hân hoan , tự hào chiến thắng.
- Cách nói của tác giả khá độc đáo , khá hay : “ Tin vui…vui về …vui từ …vui lên”. Chiến
thắng không phải chỉ một vài nơi rời rạc mà trăm miền, điệp từ “ vui” diễn tả niềm vui lớn, tiếng
reo mừng chiến thắng cất lên từ trái tim của hàng triệu con người Việt Nam từ Bắc chí Nam.
* Đoạn thơ là thành công của Tố Hữu ở nghệ thuật thể hiện:
+ Thể thơ lục bát truyền thống của dân tộc.
MOON.VN
KHÓA CHUYÊN ĐỀ LTĐH – Cô NGUYỄN THANH MAI

- hotline: 04.32.99.98.98
+ Sử dụng từ ngữ và các phép điệp tạo giọng điệu mạnh mẽ, mang âm điệu anh hùng ca.
+ Đậm khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn
Nghệ thuật thể hiện đậm tính dân tộc.
Đây là đoạn thơ hay và đẹp trong bài thơ “ Việt Bắc”. Đoạn thơ vang lên như một khúc ca thắng
trận của quân dân Việt Bắc trong kháng chiến chống Pháp Khẳng định, ngợi ca, tự hào về quê

hưong Việt Bắc “ Quê hương cách mạng dựng nên cộng hòa” . Đoạn thơ tỏa sáng hồn ta ngọn lửa
Điện Biên thần kì và chấn động lòng ta nỗi nhớ vè một tình yêu lớn – yêu Việt Bắc, yêu Cách mạng
và yêu quê hương đất nước Việt Nam.
Đoạn thơ thể hiện sự gắn bó ân tình sâu nặng của Tố Hữu với Việt Bắc, với Cách mạng
Dạng đề 2- Dạng liên kết (Dành cho kì thi cuối khóa)
Cảm nhận về hai đoạn thơ sau:
"Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
…Sông Mã gầm lên khúc độc hành".
(“Tây Tiến”- Quang Dũng, Ngữ văn Nâng cao 12
Tập một, NXB Giáo dục, 2008, tr 69)
"Những đường Việt Bắc của ta
Đèn pha bật sáng như ngày mai lên"
(“Việt Bắc”- Tố Hữu, Ngữ văn Nâng cao 12, Tập
một,
NXB Giáo dục, 2008, tr 85)
Các em tham khảo đáp án sau:

Cảm nhận của anh/chị về hai đoạn thơ sau trong bài thơ Tây Tiến của Quang
Dũng và Việt Bắc của Tố Hữu
5
1
Giới thiệu về tác giả, tác phẩm và hai đoạn thơ
(0,25)
2
Đoạn thơ trong bài Tây Tiến
- Vị trí của đoạn thơ: là đoạn (khổ) ba của bài thơ. Sau khi khắc hoạ hình tuợng người
lính trên con đường hành quân, nhà thơ đã khắc họa tượng đài tập thể của những người
lính Tây Tiến.
- Đặc điểm của hình tượng:
+ Hình tượng người lính Tây Tiến hiện lên trong đoạn thơ mang vẻ đẹp vừa hào hùng

vừa hào hoa:
Vẻ đẹp hào hùng chủ yếu thể hiện ở các chi tiết tả thực: “không mọc tóc”,“ quân xanh
màu lá”, mắt trừng” và chi tiết “dữ oai hùm”.
Vẻ đẹp lãng mạn hào hoa chủ yếu thể hiện trong nỗi nhớ “đêm mơ Hà Nội dáng kiều
thơm”
+ Hình tượng người lính Tây Tiến trong đoạn thơ còn mang vẻ đẹp đậm chất bi tráng qua
các chi tiết nói về cái chết, sự hi sinh (Các từ Hán Việt cổ kính trang trọng: biên cương,
viễn xứ, cách nói mang phong cách khẩu ngữ thể hiện lí tưởng tự nguyện xả thân của
người lính “Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh” , từ ngữ Hán Việt áo bào, khúc độc
hành, cách nói tránh “về đất” và hình ảnh “Sông Mã gầm lên khúc độc hành”)
+ Cảm xúc: tiếc thương, đau đớn nhưng vẫn tràn đầy niềm tự hào.
- Nghệ thuật biểu hiện: sắc thái cổ điển với thể hành, hình ảnh ước lệ, từ Hán Việt, màu
sắc lãng mạn và bi tráng.

(0,25)


(1.25)














(0.25)
3
Đoạn thơ trong bài Việt Bắc
- Vị trí của đoạn: là lời người ra đi đáp lại người ở lại, thể hiện nỗi nhớ Việt bắc trong

(0,25)

×