Tải bản đầy đủ (.pdf) (116 trang)

Phát triển thị trường du lịch Hà Nội Luận văn ThS. Kinh tế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.13 MB, 116 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRUNG TÂM ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG GIẢNG VIÊN LÍ LUẬN CHÍNH TRỊ





NGUYỄN THỊ CẨM THÚY




PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG DU LỊCH HÀ NỘI


LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ CHÍNH TRỊ










Hà Nội – 2012

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRUNG TÂM ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG GIẢNG VIÊN LÍ LUẬN CHÍNH TRỊ






NGUYỄN THỊ CẨM THÚY




PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG DU LỊCH HÀ NỘI


Luận văn thạc sĩ chuyên ngành: Kinh tế chính trị
Mã số: 60 31 01



Người hướng dẫn khoa học: TS. NGUYỄN THỊ KIM CHI







1
MỤC LỤC

Danh mục chữ cái viết tắt 4
Mở đầu 5

Chƣơng 1: thị trƣờng du lịch, những nhân tố thúc đẩy và cản trở sự phát triển
của thị trƣờng du lịch. 10
1.1. Một số nhận thức chung về thị trƣờng du lịch: 10
1.1.1. Quan niệm về thị trường du lịch 10
1.1.2. Thị trường du lịch và những đặc trưng của thị trường du lịch 11
1.1.3. Các yếu tố cơ bản của thị trường du lịch 18
1.2. Những nhân tố ảnh hƣởng đến sự phát triển của thị trƣờng du lịch 28
1.2.1. Những nhân tố thúc đẩy sự phát triển thị trường du lịch 31
1.2.2. Những nhân tố cản trở sự phát triển thị trường du lịch 35
1.3. Kinh nghiệm thị trƣờng du lịch một số Tỉnh, Thành 37
1.3.1. Kinh nghiệm phát triển thị trường du lịch của một số Tỉnh, Thành phố
trong nước. 37
1.3.2. Những bài học vận dụng để phát triển thị trường du lịch Hà Nội 42
Chƣơng 2: Thực trạng phát triển thị trƣờng du lịch Hà Nội (giai đoạn 2008-
2010). 45
2.1. Các nhân tố tác động đến thị trƣờng du lịch Hà Nội. 45
2.1.1. Tài nguyên du lịch. 45
2.1.2. Dân cư và điều kiện kinh tế xã hội 53
2.1.3. Hệ thống kết cấu hạ tầng. 54
2.2. Thực trạng phát triển thị trƣờng du lịch Hà Nội. 55


2
2.2.1. Thực trạng thị trường khách du lịch Hà Nội. 55
2.2.2. Thực trạng phát triển sản phẩm hàng hoá dịch vụ và hệ thống kinh doanh
du lịch ở Hà Nội. 57
2.2.3. Về công tác quy hoạch và đầu tư phát triển: 59
2.2.4. Về lực lượng doanh nghiệp hoạt động kinh doanh du lịch và cơ sở vật chất
kỹ thuật du lịch 62
2.2.5. Các loại hình, sản phẩm du lịch chủ yếu du lịch của Hà Nội 67

2.2.6. Về nguồn nhân lực du lịch 66
2.2.7. Về tuyên truyền quảng bá, xúc tiến du lịch 70
2.2.8. Về quản lý nhà nước đối với thị trường du lịch ở Hà Nội. 72
2.3. Đánh giá chung về thị trƣờng du lich Hà Nội. 75
2.3.1. Những thành tựu đạt được. 75
2.3.2. Những hạn chế. 110
2.3.3. Nguyên nhân của những hạn chế. 79
Chƣơng 3: Định hƣớng và giải pháp phát triển thị trƣờng du lịch Hà Nội. 115
3.1. Định hƣớng phát triển thị trƣờng du lịch Hà Nội. 115
3.1.1. Quan điểm phát triển thị trường du lịch Hà Nội. 115
3.1.2. Định hướng phát triển thị trường du lịch Hà Nội. 86
3.1.3. Dự báo các chỉ tiêu cụ thể 127
3.2. Các giải pháp cơ bản phát triển thị trƣờng du lịch Hà Nội. 130
3.2.1. Nâng cao nhận thức và quan tâm đầu tư đúng mức tới phát triển thị trường
du lịch, hạn chế những tác động tiêu cực của kinh tế thị trường. 130
3.2.2. Xây dựng chiến lược phát triển thị trường du lịch. Nâng cao tính hấp dẫn
và tạo dựng hình ảnh của sản phẩm du lịch trên thị trường du lịch Hà Nội 134


3
3.2.3. Tăng cường vốn đầu tư xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật, tăng cường hợp
tác quốc tế mở rộng liên kết thị trường du lịch nội địa và thị trường du lịch quốc
tế 135
3.2.4. Phát triển du lịch đáp ứng yêu cầu phát triển thị trường, đào tạo nguồn
nhân lực du lịch và nghiên cứu ứng dụng khoa học công nghệ 97
3.2.5. Nâng cao vai trò, hiệu lực quản lý nhà nước đối với thị trường du lịch Hà
Nội 138
3.2.6. Một số giải pháp khác 100
Kết luận 143
Danh mục tài liệu tham khảo 146

Phụ lục 150



4
ANH MỤC CHỮ CÁI VIẾT TẮT
D
ASEAN
Hiệp hội các quốc gia Đông Nam á
CPTA
Hội đồng xúc tiến du lịch châuá
WTO
Tổ chức thương mại thế giới
PATA
Tổ chức du lịch châu á Thái Bình Dương
TPO
Hội đồng xúc tiến du lịch châu á Thái Bình Dương
MICE
Loại hình du lịch thông qua tổ chức hội nghị- triển lãm-
hội thảo.



5
MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Cùng với sự phát triển của nền kinh tế xã hội, đời sống của con người ngày
càng được nâng cao cả về vật chất và tinh thần. Khi nhu cầu về vật chất tương đối
được thoả mãn thì nhu cầu về tinh thần cũng được đề cao. Một trong những nhu cầu

đó là đi du lịch. Do vậy, du lịch đã, đang và sẽ là ngành có khả năng phát triển
mạnh mẽ trong tương lai.
Thị trường du lịch Việt Nam trong những năm gần đây có xu hướng tăng
trưởng nhanh chóng, tài nguyên thiên nhiên, nhân văn phong phú, vị trí địa lý thuận
lợi đã góp phần cho ngành du lịch phát triển, đem lại lợi nhuận cao trong nền kinh tế.
Hà Nội là thủ đô, đồng thời cũng là trung tâm chính trị, văn hoá và du lịch
quan trọng của Việt Nam. Hà Nội là thành phố có quá trình lịch sử lâu dài, truyền
thống văn hoá đa dạng và giàu bản sắc, là nơi được thiên nhiên ưu đãi có nhiều
danh lam thắng cảnh, là một trong những nơi thu hút khách quốc tế lớn nhất Việt
Nam bởi dáng vẻ cổ kính, trầm mặc, thanh lịch và vẻ đẹp tiềm ẩn ở thành phố ngàn
năm văn hiến. Quy mô của Hà Nội đã được mở rộng (từ 1/8/2008 đến nay toàn bộ
Tỉnh Hà Tây và một phần nhỏ của Tỉnh Hoà Bình được sáp nhập vào Hà Nội) với
hơn 3.300 Km
2
, dân số trên 6,4 triệu người, thì tự nó đã hình thành nên một thị
trường du lịch nội địa hấp dẫn, với các địa danh nổi tiếng và nền văn hoá xứ Đoài
đã và sẽ thu hút ngày càng nhiều khách du lịch đến với Hà Nội.
Tuy nhiên, là thị trường mới phát triển, thị trường du lịch Hà Nội hiện không
tránh khỏi những hạn chế, kết cấu hạ tầng, cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch chưa đáp
ứng yêu cầu phát triển, nguồn nhân lực du lịch còn yếu về trình độ chuyên môn, sản
phẩm du lịch chưa thật phong phú, đa dạng với chất lượng còn thấp, chưa khắc phục
được tính mùa vụ, chưa tạo ra được nhiều sản phẩm du lịch độc đáo, đặc sắc. Công
tác thị trường, xúc tiến du lịch chưa được đẩy mạnh, năng lực cạnh tranh của doanh
nghiệp, của sản phẩm du lịch ở cấp vùng, quốc gia, quốc tế chưa cao, quan hệ cung
- cầu, giá cả hàng hoá, dịch vụ chưa ổn định. Quản lý nhà nước chưa theo kịp để
hướng dẫn, giám sát huy động thị trường, chưa phát huy hết mặt tích cực và hạn chế


6
tính tiêu cực của cơ chế thị trường Do vậy, lượng khách du lịch tới Hà Nội trong

thời gian qua chưa thực sự tương xứng với tiềm năng to lớn của thủ đô.
Những mặt hạn chế đó cần sớm có giải pháp khắc phục để phát triển thị
trường du lịch Hà Nội theo đúng định hướng XHCN trong quá trình hội nhập kinh
tế quốc tế. Xuất phát từ mục đích đó, việc đánh giá thực trạng của thị trường du lịch
ở Hà Nội trong thời gian qua và tìm ra giải pháp thích hợp để phát triển thị trường
này trong thời gian tới là việc làm cần thiết, có ý nghĩa thiết thực và mang tính ứng
dụng cao. Vì vậy, đề tài “Phát triển thị trƣờng du lịch Hà Nội” được tác giả lựa
chọn làm luận văn tốt nghiệp.
Đây là vấn đề có ý nghĩa về mặt lý luận và thực tiễn, cung cấp một số luận cứ khoa
học về du lịch cũng như thực trạng phát triển thi trường du lịch thủ đô với những mặt
mạnh và yếu của nó cho các nhà quản lý và những người quan tâm.
2. Tình hình nghiên cứu
Ở nước ngoài, du lịch và thị trường du lịch đã trở thành đối tượng nghiên cứu
kinh tế có hệ thống từ sau chiến tranh thế giới thứ II. Trên thế giới hiện đã có nhiều
công trình nghiên cứu khoa học về các vấn đề du lịch. Trong đó, một số công trình
đã được dịch ra tiếng việt như:
- “Kinh tế du lịch” của Robert Lanquar, cuốn sách giới thiệu các mốc lịch sử
của ngành du lịch và đi sâu phân tích những ảnh hưởng của du lịch đến kinh tế,
những công cụ và phương tiện phân tích kinh tế học du lịch và kinh doanh du lịch.
- “Maketing du lịch” của Robert Lanquar và Robert Hollier, sách giới thiệu
những mốc lịch sử của maketing du lịch, các định nghĩa và quan niệm về maketing
du lịch; phân tích cung, cầu du lịch và phát triển du lịch.
- “Kinh tế du lịch và du lịch học” của Đổng Minh Ngọc, Vƣơng Lôi Đình, là
công trình nghiên cứu khoa học có hệ thống về hoạt động du lịch từ thực tiễn của Trung
Quốc, nêu lên nhiều mặt tương đối phù hợp với điều kiện Việt Nam.
Đó là những kết quả nghiên cứu về vấn đề lý luận của thị trường du lịch được
khái quát từ thực tiễn của những nền kinh tế có đặc thù và định hướng chính trị -xã
hội khác nền kinh tế Việt Nam, nên các công trình này không thể được vận dụng



7
trực tiếp vào nền kinh tế đang hình thành và phát triển đồng bộ các loại thị trường,
mà cần có sự nghiên cứu cụ thể hoá và nghiên cứu mới.
Cùng với sự phát triển chung của thế giới, từ cuối những năm 80 trở lại đây
nhiều sách chuyên khảo viết về du lịch và thị trường du lịch đã được xuất bản, nhiều
đề tài nghiên cứu, luận án liên quan đã được thực hiện như:
- “Nhập môn khoa học du lịch” của Tác giả Trần Đức Thanh, cuốn sách này
đã đưa ra những vấn đề lý luận cơ bản về du lịch chứ chưa đề cập đến những giải
pháp để phát triển du lịch.
- “Thị trường du lịch” của tác giả PTS Nguyễn Văn Lƣu đã nêu lên những
vấn đề tổng quan về thị trường du lịch: khái niệm và đặc điểm của thị trường du lịch,
phân loại thị trường du lịch, phân tích một số yếu tố cơ bản trên thị trường du lịch nói
chung mà không đi sâu vào một thị trường cụ thể nào.
- “Nhu cầu của du khách trong quá trình du lịch” của Đinh Thị Lâm Chi.
- “Du lịch và kinh doanh du lịch” của tác giả Trần Mạnh.
- “Du lịch khách sạn” của tác giả Sơn Hồng Đức lại tập trung nghiên cứu về
du lịch nói chung và những vấn đề liên quan đến khách sạn trong du lịch nói riêng.
- “Kinh tế du lịch” của TS Nguyễn Hồng Giáp nghiên cứu du lịch dưới góc
độ kinh tế.
Ngoài ra, một số luận án tiến sĩ kinh tế như: “Những giải pháp chủ yếu nhằm
phát triển kinh doanh du lịch lữ hành trên địa bàn Hà Nội” của Tiến sĩ Nguyễn
Văn Mạnh, luận án đã phân tích lý luận về kinh doanh lữ hành, thực trạng kinh
doanh lữ hành ở Hà Nội và đề xuất phương hướng, các giải pháp phát triển kinh
doanh lữ hành trên địa bàn Hà Nội.
“Khai thác và mở rộng thị trường du lịch quốc tế của các doanh nghiệp lữ hành
trên địa bàn Hà Nội”, Luận án TS của Phạm Hồng Chung đã phân tích cơ sở lý
luận về khai thác và mở rộng thị trường du lịch quốc tế của các doanh nghiệp lữ hành.
Nghiên cứu thực trạng khai thác và mở rộng thị trường du lịch quốc tế của các doanh
nghiệp lữ hành trên địa bàn Hà Nội, đồng thời đề xuất hệ thống các quan điểm và giải
pháp phát triển thị trường du lịch quốc tế của doanh nghiệp lữ hành Hà Nội.



8
Ngoài ra, một số bài báo, tạp chí chuyên ngành cùng nhiều đề tài khoa học…
nghiên cứu về du lịch cũng đăng tải khá nhiều nội dung tiếp cận vấn đề thị trường
du lịch trên các góc độ khác nhau. Tuy đã đề cập đến một vài khía cạnh liên quan
đến thị trường du lịch, song chưa có bài viết, công trình nào (qua tìm hiểu của tác
giả) đi sâu nghiên cứu, đánh giá toàn diện, cập nhật về thị trường du lịch của Hà
Nội trong xu thế hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực hiện nay. Do vậy, đề tài “
Phát triển thị trƣờng du lịch Hà Nội” sẽ được tác giả lựa chọn làm luận văn tốt
nghiệp trên cơ sở lĩnh hội các kiến thức, các công trình nghiên cứu của các học giả
trong và ngoài nước về du lịch, thị trường du lịch. Để đi sâu phân tích thực trạng thị
trường du lịch Hà Nội trong những năm gần đây cùng những cơ hội, thách thức, định
hướng, chiến lược và giải pháp nhằm phát triển thị trường du lịch Hà Nội trong những
năm tới với mong muốn giúp cho thị trường du lịch Hà Nội ngày càng phát triển, thu hút
được nhiều khách du lịch trong nước và quốc tế khi Việt Nam đã chính thức trở thành
thành viên của tổ chức WTO, và hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu.
3.1. Mục đích nghiên cứu:
Đi sâu, phân tích, làm rõ thực trạng thị trường du lịch Hà Nội, tìm ra những
nhân tố thúc đẩy và cản trở sự phát triển của thị trường du lịch Hà Nội. Trên cơ sở
đó đề xuất các giải pháp nhằm phát triển thị trường này trong những năm tới.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu:
- Khái quát một số vấn đề lý luận và thực tiễn về thị trường du lịch Hà Nội.
- Đưa ra một số kinh nghiệm thị trường du lịch ở một số Tỉnh, Thành trong nước.
- Phân tích những điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội, những nội lực, ngoại lực
để phát triển thị trường du lịch Hà Nội.
- Làm rõ thực trạng du lịch Hà Nội trong những năm gần đây.
- Tìm ra những điểm mạnh, điểm yếu, cơ hội và thách thức của thị trường du
lịch Hà Nội.

- Đề xuất các giải pháp và các định hướng cơ bản nhằm phát triển thị trường
du lịch Hà Nội đến năm 2020.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu


9
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn tập trung đi sâu nghiên cứu sự phát triển thị trường du lịch Hà Nội
4.2. Phạm vi nghiên cứu:
- Về không gian: Đề tài giới hạn nghiên cứu thị trường du lịch Hà Nội, thông qua việc
khảo sát hoạt động du lịch tại một số điểm du lịch của Thành phố. Không nghiên cứu rộng
hết các điểm du lịch của Hà Nội theo địa giới hành chính.
- Về mặt thời gian: Đề tài tập trung nghiên cứu thực trạng thị trường du lịch Hà Nội
từ năm 2008 đến 2010 và định hướng giải pháp phát triển đến năm 2020
5. Phƣơng pháp nghiên cứu:
Luận văn sử dụng các phương pháp sau:
- Phương pháp luận cơ bản của chủ nghĩa Mác- Lênin là chủ nghĩa duy vật
biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử.
- Phương pháp trừu tượng hoá khoa học để tìm hiểu bản chất bên trong của các
hiện tượng trên thị trường du lịch.
- Phương pháp lôgíc kết hợp chặt chẽ với phương pháp lịch sử để vạch ra
những quy luật kinh tế chi phối thị trường.
- Phương pháp tổng hợp, phân tích tài liệu, phương pháp thống kê, phương
pháp so sánh, phương pháp phân tích dự báo, phương pháp phỏng vấn và một số
phương pháp khác.
6. Đóng góp mới của luận văn:
- Hệ thống hoá một số vấn đề lý luận và thực tiễn về thị trường du lịch Hà nội.
- Phân tích tiềm năng, lợi thế, thực trạng thị trường du lịch Hà Nội, chỉ ra
điểm mạnh, yếu, cơ hội, thách thức của thị trường du lịch Hà Nội, so sánh với một
số thị trường du lịch của các Tỉnh, Thành phố khác.

- Đề xuất một số giải pháp phát triển thị trường du lịch Hà Nội theo hướng
tăng trưởng, nhằm thu hút nhiều khách du lịch đến đây.
7. Kết cấu của luận văn:
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, luận
văn gồm 3 chương:


10
Chương 1: Thị trường du lịch, những nhân tố thúc đẩy và cản trở sự phát triển
thị trường du lịch.
Chương 2: Thực trạng phát triển thị trường du lịch Hà Nội (giai đoạn 2008-
2010)
Chương 3: Định hướng và giải pháp phát triển thị trường du lịch Hà Nội.

CHƢƠNG 1
THỊ TRƢỜNG DU LỊCH, NHỮNG NHÂN TỐ THÚC ĐẨY VÀ CẢN TRỞ
SỰ PHÁT TRIỂN CỦA THỊ TRƢỜNG DU LỊCH.

1.1. Một số nhận thức chung về thị trƣờng du lịch:
1.1.1. Quan niệm về thị trường du lịch
Ngay từ rất sớm, hoạt động du lịch được hiểu là việc con người rời khỏi nơi cư
trú thường xuyên để đến một nơi xa lạ vì nhiều mục đích khác nhau (ngoại trừ mục
đích kiếm việc làm) và ở đó họ phải tiêu tiền mà họ kiếm được từ nơi khác. Từ giữa
thế kỷ XIX, du lịch thực sự trở thành hiện tượng đại chúng và ngày càng mở rộng.
Lý thuyết du lịch lần đầu tiên được đưa ra do các giáo sư người Thuỵ sỹ là
Hunziker và Krapf “Du lịch là tổng hợp các mối quan hệ và hiện tượng bắt nguồn
từ cuộc hành trình và lưu trú tạm thời của các cá nhân tại nơi không phải là nơi ở
và nơi làm việc của họ”.
(26.Tr 13)
Theo nhiều chuyên gia thuộc tổ chức du lịch thế giới, hoạt động du lịch mới

chỉ bắt đầu từ thế kỷ XX. Các hoạt động du lịch gắn bó, phối hợp với nhau tạo
thành một hệ thống mở rộng ra nhiều vùng trên phạm vi toàn cầu. Ngày nay du lịch
đã trở nên hiện tượng phổ biến, một nhu cầu không thể thiếu được trong đời sống
văn hoá - xã hội của con người. Từ hoạt động du lịch đã góp phần làm phong phú
thêm cuộc sống và nhận thức của con người. Điều 4, Luật du lịch Việt Nam năm
2005, thuật ngữ “Du lịch” được giải thích: “Du lịch là các hoạt động có liên quan
đến chuyến đi của con người ngoài nơi cư trú thường xuyên của mình nhằm đáp


11
ứng nhu cầu tham quan, tìm hiểu, nghỉ dưỡng trong một khoảng thời gian nhất
định.” (27, Tr.3)

Trên góc độ kinh tế, Du lịch là hoạt động phản ánh mối quan hệ về lợi ích,
không chỉ đơn thuần giữa người kinh doanh với du khách, mà còn là lợi ích của chính
quyền địa phương, dân cư và các đối tượng tham gia mua bán sản phẩm du lịch. Du
lịch mang bản chất kinh tế riêng biệt, thể hiện ở chỗ nó sản xuất và cung ứng những
hàng hoá nhằm thoả mãn nhu cầu vật chất và tinh thần của khách du lịch. Từ đó mà
ngành du lịch đã ra đời và một thị trường mới được mở ra là thị trường du lịch.
Qua nghiên cứu một số quan niệm về du lịch có thể rút ra điểm chung nhất: Du
lịch là một phạm trù phản ánh hoạt động của con người rời khỏi nơi lưu trú thường
xuyên không nhằm mục đích sản xuất mà nhằm thoả mãn nhu cầu vật chất và tinh thần
thông qua các hoạt động tham quan, nghỉ dưỡng, giải trí
Ngày nay, xu hướng đi du lịch ngày càng tăng đã mở ra cơ hội kinh doanh rất lớn.
Hoạt động kinh doanh du lịch ngày càng mở rộng và cần có sự quan tâm đầu tư của
nhiều ngành chức năng để thị trường du lịch có thể phát triển.
1.1.2. Thị trường du lịch và những đặc trưng của thị trường du lịch
1.1.2.1. Khái niệm và phân loại thị trường du lịch
- Khái niệm thị trƣờng du lịch.
Thị trường là một phạm trù của nền sản xuất và lưu thông hàng hoá. Theo

Lênin “Hễ ở đâu, khi nào có phân công lao động xã hội và sản xuất hàng hoá, thì ở
đó và khi ấy cũng có thị trường”. Thị trường được coi là điều kiện để thực hiện trao
đổi hàng hoá, dịch vụ, nơi tập trung cung và cầu về mọi hàng hoá và dịch vụ. Thị
trường phản ánh toàn bộ quan hệ trao đổi giữa người mua và người bán, giữa cung –
cầu và toàn bộ các mối quan hệ như kỹ thuật, thông tin, kinh tế nảy sinh từ những
mối quan hệ đó.
So với thị trường hàng hoá thông thường thì thị trường du lịch ra đời khá
muộn, được hình thành khi du lịch trở thành hiện tượng kinh tế xã hội phổ biến. Thị
trường du lịch ra đời nhằm đáp ứng nhu cầu của con người, được thể hiện ở việc các
sản phẩm hàng hoá du lịch được kinh doanh, mua bán, trao đổi dễ dàng giữa người


12
mua và người bán. Từ đó các sản phẩm du lịch mới thực hiện được đầy đủ chức
năng của nó với đúng nghĩa là hàng hoá trên thị trường. Tại đây người mua và
người bán tác động qua lại, xác định giá cả và số lượng hàng hoá đang lưu thông.
Thị trường du lịch trở thành một bộ phận của thị trường hàng hoá, bao gồm toàn bộ
các mối quan hệ và cơ chế kinh tế liên quan đến địa điểm, thời gian, điều kiện và
phạm vi thực hiện các hàng hoá du lịch. Các mối quan hệ và cơ chế kinh tế được
hình thành trên cơ sở các quy luật đặc trưng cho từng hình thái kinh tế- xã hội nhất
định.
Qua phân tích có thể đưa ra khái niệm về thị trường du lịch như sau: Thị
trường du lịch là một phạm trù kinh tế phản ánh mối quan hệ giữa người với người
trong quá trình trao đổi, mua bán hàng hoá dịch vụ du lịch dưới tác động của các
quy luật thị trường.
Cùng với sự phát triển chung của nền kinh tế thế giới, thị trường du lịch
không ngừng được mở rộng, thị trường du lịch trong nước và quốc tế có sự kết hợp
chặt chẽ trong quá trình hoạt động, từ đó thực hiện đầy đủ những chức năng của nó.
Thông thường, thị trường du lịch cũng giống như các thị trường hàng hoá khác có
các chức năng cơ bản sau:

Chức năng thực hiện. Thông qua thị trường du lịch, các hoạt động mua bán và
trao đổi sản phẩm hàng hoá du lịch và dịch vụ du lịch được thực hiện. Điều đó có
nghĩa là thông qua thị trường, nơi diễn ra cạnh tranh giữa các hoạt động mua bán,
giá trị và giá trị sử dụng của các hàng hoá du lịch được thực hiện, từ đó mối quan hệ
lợi ích kinh tế giữa các nhà cung cấp hàng hoá du lịch và khách du lịch được thực
hiện. Những sản phẩm du lịch không phù hợp sẽ không thực hiện được giá trị của
nó. Xét về tổng thể, sự thực hiện của thị trường du lịch là sự thực hiện tổng khối
lượng hàng hoá, dịch vụ du lịch cung ứng ra thị trường trong thời gian nhất định với
cơ cấu và quan hệ cung cầu thích hợp. Chức năng thực hiện diễn ra một cách khách
quan dưới tác động của quy luật giá trị, quy luật cung cầu.
Chức năng điều tiết. Thị trường du lịch điều tiết các mối quan hệ kinh tế, góp
phần mở rộng hay thu hẹp sản xuất và tiêu dùng du lịch. Các tổ chức kinh doanh du


13
lịch luôn có xu hướng đầu tư vào lĩnh vực mang lại lợi nhuận cao. Trong quá trình
kinh doanh, họ có thể tăng thêm hoặc giảm bớt các dịch vụ và hàng hoá cho có lợi
nhất, phát triển những sản phẩm mới đáp ứng nhu cầu du khách. Khách du lịch luôn
hướng tới các sản phẩm có giá rẻ hơn mà vẫn thoả mãn nhu cầu du lịch của họ. Thị
trường sẽ kích thích nhu cầu đi du lịch, giúp du khách có thể thay đổi việc sử dụng
hàng hoá, dịch vụ du lịch cho phù hợp với khả năng thanh toán.
Chức năng thông tin. Thị trường du lịch cung cấp thông tin về cung- cầu, giá
cả… những thông tin này là căn cứ quan trọng giúp các doanh nghiệp kinh doanh
đưa ra các quyết định về chiến lược kinh doanh có hiệu quả cao và tối đa hoá lợi nhuận.
Khách du lịch cần các thông tin về địa điểm du lịch, giá cả và phương tiện phục vụ để họ
lựa chọn được những chuyến đi thích hợp nhất, sử dụng những hàng hoá dịch vụ ưa thích
nhất và có thể chủ động về thời gian đi du lịch.
Quan trọng nhất là phải có thể chế cơ chế thị trường ở mức cao, có hệ thống
chính sách phù hợp, môi trường pháp lý đầy đủ, chi tiết, quy định quyền hạn, trách
nhiệm và chế tài đối với các vi phạm nhằm đảm bảo tính lành mạnh và trong sạch

của thị trường mới đảm bảo những chức năng trên của thị trường du lịch được tiến
hành một cách tốt nhất.
- Phân loại thị trƣờng du lịch.
Mục đích của các cuộc hành trình của du khách rất phong phú và đa dạng. Để
có thể nắm bắt được nhu cầu và thị hiếu của khách, từ đó xây dựng cơ sở vật chất
kỹ thuật chuyên ngành, tổ chức bộ máy sản xuất kinh doanh hợp lý, xây dựng cơ
chế quản lý phù hợp để thoả mãn đầy đủ nhất nhu cầu của khách và đạt được hiệu
quả kinh tế cao đòi hỏi phải phân biệt các loại thị trường du lịch. Có nhiều cách
phân loại thị trường du lịch, căn cứ vào những tiêu chuẩn và đặc điểm nhất định,
dưới đây là một số cách phân loại chủ yếu:
+ Căn cứ vào vị trí địa lý và biên giới lãnh thổ, thị trường du lịch chia làm hai
loại là thị trường du lịch quốc gia và thị trường du lịch quốc tế. Thị trường du lịch
quốc gia hay thị trường du lịch nội địa là thị trường du lịch ở đó có cung và cầu du
lịch đều nằm trong biên giới lãnh thổ quốc gia. Thị trường du lịch quốc tế là thị


14
trường mà ở đó, cung thuộc một quốc gia còn cầu thuộc một quốc gia khác. Đặc
trưng về mặt kinh tế của thị trường du lịch quốc tế là sự thanh toán và sử dụng
ngoại tệ. Điều này có nghĩa thị trường du lịch quốc tế sẽ làm biến đổi cán cân thu
chi của quốc gia.
+ Căn cứ vào đặc điểm không gian của cung và cầu có thể chia thành thị
trường nhận khách và thị trường gửi khách. Thị trường nhận khách là thị trường
cung sản phẩm du lịch, nơi có điều kiện sẵn sàng cung ứng các dịch vụ du lịch, đáp
ứng nhu cầu du lịch của du khách. Thị trường gửi khách là thị trường về cầu du lịch,
tức là nơi du khách xuất phát để đến nơi khách tiêu dùng sản phẩm du lịch.
+ Căn cứ vào tình hình thực tế và tiềm năng, thị trường du lịch được phân
thành hai loại là thị trường du lịch thực tế và thị trường du lịch tiềm năng. Thị tr-
ường du lịch thực tế là thị trường mà hàng hoá, dịch vụ du lịch đã được thực hiện
hoặc có đủ điều kiện để thực hiện. Thị trường du lịch tiềm năng là thị trường du lịch

ở đó đang cần một số điều kiện mới có thể thực hiện được hàng hoá, dịch vụ du
lịch, trong đó có thể có cả ở cung và cầu du lịch. Do thiếu một số điều kiện cần thiết
mà cung và cầu không thể gặp nhau.
+ Căn cứ vào tính thời vụ trên thị trường du lịch có thị trường du lịch thời vụ
và thị trường du lịch quanh năm. Thị trường du lịch quanh năm là thị trường tại đó,
hoạt động du lịch không bị gián đoạn, các giao dịch mua, bán sản phẩm du lịch diễn
ra liên tục trong năm. Thị trường du lịch thời vụ là thị trường du lịch tại đó, hoạt
động du lịch bị gián đoạn theo mùa. Cung hoặc cầu du lịch chỉ xuất hiện vào một
thời gian nhất định trong năm.
+ Căn cứ vào đặc thù của hàng hoá dịch vụ du lịch có thể chia thành các loại
thị trường để gắn với việc tạo ra và tiêu thụ các sản phẩm đó. Theo cách phân chia
này, có bao nhiêu loại hàng hóa dịch vụ du lịch sẽ có từng đó loại thị trường du lịch
như: Du lịch khách sạn, du lịch văn hoá, du lịch thiên nhiên, du lịch Motel (khách
sạn cạnh đường), du lịch Bungalow (nhà gỗ), du lịch camping (cắm trại), du lịch
nhà trọ thanh niên, làng du lịch


15
+ Căn cứ vào đặc điểm địa lý của điểm du lịch có các loại thị trường: Du lịch
miền biển, du lịch núi, du lịch đô thị, du lịch thôn quê
+ Căn cứ vào phương tiện giao thông có các loại hình: Du lịch đi bộ, du lịch
xe đạp, du lịch ô tô, du lịch tàu hoả, du lịch tàu thuỷ, du lịch máy bay
Mỗi loại thị trường đều có vai trò độc lập tương đối, đồng thời chúng có mối
quan hệ chặt chẽ, phụ thuộc nhau, bổ sung cho nhau. Việc hình hành, phát triển,
biến động hoặc triệt tiêu một loại thị trường sẽ gây tác động đến một loại thị trường
khác. Do đó, khi phát triển một loại thị trường bao giờ cũng phải chú ý đến sự tác
động của nó tới các thị trường khác. Dưới tác động của cuộc cách mạng khoa học
công nghệ, cầu về sản phẩm du lịch tăng lên, đồng thời làm cho mối quan hệ giữa
các thị trường du lịch trở nên phức tạp và đa dạng. Trong từng loại và giữa các loại
thị trường du lịch xuất hiện xu hướng vừa cạnh tranh, vừa hợp tác. Xu thế hợp tác

và cạnh tranh đã dẫn đến quá trình quốc tế hoá trên thị trường du lịch, hình thành thị
trường du lịch chung thu hút và phục vụ khách đến khu vực mình. Phân tích các loại
thị trường du lịch và mối quan hệ giữa chúng nhằm làm căn cứ để định ra các
hướng chiến lược và mở rộng từng loại thị trường và tổng thể thị trường du lịch,
biến ngành du lich của một địa phương, một quốc gia thành một ngành kinh tế để
tăng trưởng tổng sản phẩm quốc dân. Trên mỗi địa bàn, thị trường du lịch có tính
độc lập tương đối, đồng thời có mối quan hệ chặt chẽ, phụ thuộc nhau, bổ sung cho
nhau. Sự thay đổi một thị trường nào đó sẽ gây tác động tới những thị trường khác.
1.1.2.2. Đặc trưng của thị trường du lịch
Thị trường du lịch là một bộ phận của thị trường hàng hoá nói chung, song nó
có một số đặc điểm riêng. Tính độc lập tương đối của thị trường du lịch được thể
hiện ở một số đặc trưng cơ bản sau.
- Thị trường du lịch gắn liền với khách du lịch. Khách du lịch là tất cả những
công dân rời khỏi nơi ở thường xuyên của họ đến một nơi khác với mục đích không
phải là kiếm tiền hoặc học tập, làm việc lâu dài. Mỗi loại khách du lịch có sự khác
biệt lớn về mục đích và nhu cầu du lịch. Sự gắn kết chặt chẽ khách du lịch với thị
trường du lịch là cơ sở cho sự phân loại thị trường du lịch dựa trên tiêu chí chủ yếu


16
là khách du lịch. Vai trò tương đối đặc biệt của khách du lịch trên thị trường là đặc
điểm riêng có của thị trường du lịch. Khách du lịch là khách hàng cuối cùng tiêu
dùng trực tiếp sản phẩm du lịch. Khách du lịch có vai trò quyết định tới tính chất và
phạm vi của thị trường, là nhân vật trọng tâm làm nảy sinh các hoạt động và các
mối quan hệ để trên cơ sở đó thoả mãn mục đích của các chủ thể tham gia vào các
hoạt động và các mối quan hệ đó trên thị trường.
- Trên thị trường du lịch về cơ bản không có sự dịch chuyển khối lượng hàng
hoá. Để thực hiện việc trao đổi, mua bán sản phẩm du lịch thì người tiêu dùng phải
di chuyển đến với sản phẩm du lịch. Đây là điểm khác biệt cơ bản giữa tiêu dùng
hàng hoá du lịch và tiêu dùng hàng hoá khác trên thị trường. Để thực hiện tiêu dùng

sản phẩm, người mua hàng được đưa đến nơi sản xuất và tiêu dùng tại chỗ. Đây
chính là lý do không thể so sánh giá của sản phẩm du lịch này với giá của sản phẩm
du lịch khác một cách tuỳ tiện.
- Thị trường du lịch mang tính thời vụ rõ nét. Điều đó thể hiện ở chỗ cung
hoặc cầu xuất hiện trong một thời gian nhất định của một năm. Thời gian và cường
độ thời vụ du lịch không phải luôn cố định mà chúng biến đổi dưới tác động của
nhiều yếu tố. Độ dài thời gian và cường độ của mùa vụ du lịch không bằng nhau đối
với từng sản phẩm sản phẩm du lịch. Tính thời vụ của thị trường du lịch do các yếu
tố khách quan cũng như chủ quan quyết định và vấn đề khó tìm ra lời giải chung
cho mọi vùng cũng như hoạt động của thị trường du lịch với thị trường khác. Đặc
điểm này của thị trường du lịch thể hiện rất rõ đối với các nước có ngành du lịch
phát triển đi sau.
- Thị trường du lịch hình thành ở cả nơi khách đến và nơi xuất phát của du
khách Quan hệ thị trường nảy sinh giữa người mua và người bán bắt đầu ngay từ
khi khách quyết định mua hàng đến khi khách trở về nơi cư trú. Trong quá trình hoạt
động kinh doanh, các doanh nghiệp đã tìm đến nơi ở của du khách để quảng cáo. Giới
thiệu những thông tin về sản phẩm, về giá cả, thời gian, không gian, địa điểm, phương
tiện phục vụ chuyến du lịch, giúp khách du lịch hiểu rõ các điều kiện tham gia du lịch, từ
đó họ có thể lựa chọn, trả giá cho một chuyến đi (tour) du lịch ngay từ nơi xuất phát. Nơi


17
đến du lịch là các điểm du lịch đã được tổ chức những dịch vụ, hàng hoá để sẵn sàng bán
cho khách du lịch.
- Đối tượng trao đổi chủ yếu trên thị trường du lịch là dịch vụ, hàng hoá
chiếm tỷ trọng nhỏ. Đặc điểm này do đặc điểm của sản phẩm du lịch chủ yếu dưới
dạng dịch vụ quy định. Trên thị trường du lịch, các yếu tố đầu vào và đầu ra kết
hợp, tác động với nhau rất năng động, gắn bó với nhau chặt chẽ. Nói một cách khác,
trên cơ sở tài nguyên du lịch, các chủ thể kinh doanh du lịch sản xuất ra những sản
phẩm vật thể hoặc phi vật thể đáp ứng nhu cầu của khách du lịch. Chất lượng của

các sản phẩm du lịch được xác định dựa vào sự chênh lệch giữa kỳ vọng và mức độ
cảm nhận về chất lượng khách du lịch. Điều này mang tính chủ quan, phụ thuộc vào
nhu cầu, thị hiếu, mức độ thoả mãn của du khách đến đâu. Các dịch vụ vận tải, lưu
trú, giải trí, là những đối tượng được mua bán nhiều nhất trên thị trường du lịch.
Hàng hoá lưu niệm là đối tượng đặc biệt và chủ yếu được thực hiện trên thị trường
du lịch.
- Cung, cầu trên thị trường du lịch có sự tách biệt cả về không gian và thời
gian. Cung du lịch là những điểm đã xác định, tồn tại với thời gian cả năm, còn cầu
du lịch do con người quyết định lại có mặt ở khắp nơi và chỉ xuất hiện khi con
người có đủ điều kiện về thời gian và khả năng thanh toán. Đối với khách sử dụng
các tour du lịch chọn gói, dịch vụ cơ bản và sản phẩm lớn dịch vụ bổ sung đã được
khách quyết định mua từ trước khi hành trình bắt đầu tại thị trường gửi khách. Các
dịnh vụ này được cung ứng dần trong suốt hành trình, từ nơi xuẫt phát đến địa điểm
du lịch và ngược lại.
Quan hệ thị trường giữa người mua và người bán kéo dài hơn so với trao đổi
hàng hoá thông thường. Khi thực hiện chuyến du lịch, quá trình này người mua
được phục vụ từ khi bắt đầu đi du lịch cho đến khi kết thúc chuyến đi. Lúc này
hàng hoá và dịch vụ du lịch mới thực hiện được giá trị. Đây là một đặc thù khác
hẳn so với thị trường hàng hoá khác. Trên thị trường hàng hoá chung, quan hệ thị
trường sẽ chấm dứt khi khách mua trả tiền, nhận hàng, nếu có kéo dài cũng chỉ
thêm thời gian bảo hành.


18
Những nét đặc trưng trên tác động trực tiếp đến cơ chế hoạt động trên thị
trường du lịch, chúng tác động mạnh đến hiệu quả kinh doanh du lịch.
1.1.3. Các yếu tố cơ bản của thị trường du lịch
Thị trường du lịch được hình thành từ nhiều yếu tố. Những yếu tố cơ bản nhất
là cung du lịch, cầu du lịch, giá cả sản phẩm du lịch, cạnh tranh và quản lý nhà nước
đối với thị trường du lịch.

1.1.3.1. Cung trên thị trường du lịch
Trên thị trường du lịch, cung xuất hiện trong mối quan hệ hàng hoá và tiền tệ về
du lịch. Đây là sự đáp ứng mọi nhu cầu về hàng hoá và dịch vụ du lịch cho thị trường.
Đó là khả năng cung ứng mọi hàng hoá, dịch vụ khác nhau nhằm đáp ứng nhu cầu của
du khách ở các mức giá khác nhau tại các thời kỳ và địa điểm khác nhau.
Cung du lịch là toàn bộ các hàng hoá, dịch vụ du lịch được người bán đưa ra
thị trường nhằm thoả mãn nhu cầu có khả năng thanh toán của khách du lịch trong
một thời gian nhất định.
Cung du lịch là đại lượng có thực được xác định về số lượng và chất lượng. Số
lượng của cung du lịch trên thị trường du lịch được xác định bởi các yếu tố tài
nguyên du lịch, khả năng cơ sở vật chất kỹ thuật chuyên ngành và kết cấu hạ tầng
để tạo ra dịch vụ, hàng hoá. Cung du lịch chỉ bao gồm số lượng hàng hoá mà người
bán có khả năng và sẵn sàng bán ở những mức giá chấp nhận trong một thời gian và
không gian nhất định trên thị trường. Trong du lịch, tỷ trọng sản phẩm du lịch tiêu
dùng không qua thị trường so với cung du lịch nói chung rất nhỏ. Chất lượng của
cung du lịch là toàn bộ các mối quan hệ phức tạp giữa người mua và người bán, thông
qua giá cả dịch vụ, hàng hoá trên thị trường du lịch. Nó còn phụ thuộc vào quyền lợi
người bán, tỷ trọng chiếm lĩnh thị trường, các động lực kinh tế như lãi suất, lợi nhuận,
tỷ giá
Phần lớn những đặc điểm của cung du lịch trên thị trường du lịch đều bắt
nguồn từ những đặc điểm của cầu du lịch và thể hiện ở những mặt sau:
Cung chủ yếu không ở dạng hiện vật mà thông qua các dịch vụ. Mặc dù cung
du lịch là đại lượng được xác định nhưng chúng phần lớn không tồn tại ở dạng hiện


19
vật, không thể đem trưng bày một cách trực tiếp như hiện vật cụ thể, chỉ thông qua
thông tin mới biết khả năng cung cấp sản phẩm du lịch trên thị trường. Tính không
hiện hữu này làm cho cung du lịch là cung gián tiếp, gắn với các doanh nghiệp sản
xuất ra chúng và thông qua các thông tin về chúng.

Cung chủ yếu không có tính mềm dẻo cao. Phần lớn các bộ phận trong cung du
lịch thường cố định về vị trí và sức chứa. Cung du lịch rất khó thay đổi tương ứng
với những biến động của thị trường du lịch. Nguyên nhân chủ yếu là do sản xuất và
tiêu dùng du lịch diễn ra đồng thời tại điểm du lịch nên khi có biến đổi về số cầu,
không thể nhập sản phẩm du lịch từ nơi khác về hay điều chỉnh công suất để đáp
ứng tính thời vụ rất cao của cầu. Mặt khác, dịch vụ du lịch không thể tồn kho hay
dự trữ khi cầu du lịch giảm, giá thấp để đến khi có điều kiện thuận lợi hơn đem bán.
Trong quá trình tạo ra sản phẩm du lịch trên thị trường, tỷ trọng vốn cố định cao
hơn vốn lưu động. Để tạo cung, các doanh nghiệp kinh doanh cần phải tạo ra lượng
vốn đầu tư lớn, vì vậy tỷ trọng vốn đầu tư cơ bản trong giá thành của sản phẩm du
lịch thường cao hơn so với các ngành khác, làm cho cung du lịch khó thay đổi khi
có sự biến động của cầu và giá cả trên thị trường du lịch.
Tính độc lập trong hoạt động và sự phụ thuộc lẫn nhau tạo thành sản phẩm
chung của các thành phần trong cung du lịch. Phần lớn các doanh nghiệp, tổ chức
cung cấp hàng hoá du lịch hoạt động tương đối độc lập với nhau. Tuy nhiên, do nhu
cầu du lịch là nhu cầu tổng hợp, nên sản phẩm du lịch là nhu cầu tổng hợp của tất cả
các hàng hoá dịch vụ du lịch mà du khách đã đã tiêu dùng trong chuyến đi của
mình. Do đó, nếu một dịch vụ nào đó yếu kém sẽ ảnh hưởng chung đến toàn bộ sản
phẩm du lịch. Xu hướng liên kết của các nhà cung cấp hàng hoá, dịch vụ du lịch và
vai trò của các công ty lữ hành sẽ khắc phục sự yếu kém này của cung du lịch. Sự
phối hợp chặt chẽ giữa các khâu sẽ tạo thành một chương trình du lịch hoàn chỉnh.
Cung du lịch hạn chế về số lượng và thường được tổ chức một cách thống
nhất trên thị trường. Lượng cung sản phẩm du lịch chủ yếu trên thị trường từ nguồn
tài nguyên du lịch là đại lượng hữu hạn do điều kiện tự nhiên và sản phẩm lịch sử
quy định nên chúng không thể dễ dàng để sản xuất và tái sản xuất ra được tại một


20
địa điểm hoặc một doanh nghiệp. Đầu tư kinh doanh du lịch đòi hỏi khối lượng vốn
lớn nên thường số lượng các doanh nghiệp kinh doanh hạn chế trong một thời điểm

nhất định. Trong quá trình hoạt động kinh doanh, để đạt được hiệu quả cao, các
doanh nghiệp cần có những thông tin về nhau, cần có sự phối hợp giữa các doanh
nghiệp kinh doanh du lịch, vì vậy mà cung trên thị trường du lịch thường được tổ
chức một cách thống nhất.
Cung trên thị trường du lịch có tính chuyên môn hoá cao. Cung du lịch bao
gồm những dịch vụ và hàng hoá rất khác nhau như dịch vụ vận chuyển, lưu trú, ăn
uống, vui chơi giải trí Mỗi loại dịch vụ lại có chuyên môn hoá cao. Mỗi loại này
lại có những cơ sở vật chất chuyên ngành, công nghệ và đội ngũ lao động có chuyên
môn khác nhau đáp ứng, do đó không dễ dàng tái sản xuất như các hàng hoá dịch vụ
thông thường. Tính chuyên môn hoá của của cung hàng hoá du lịch rất phong phú,
đa dạng tạo điều kiện cho du khách du lịch có thể lựa chọn các điểm du lịch khác
nhau và cơ hội để thực hiện sản phẩm trên thị trường du lịch càng lớn. Do vậy, tính
chuyên môn hoá của cung được coi là yếu tố để mở rộng thị trường.
1.1.3.2. Cầu trên thị trường du lịch
Để thực hiện được nhu cầu du lịch, con người phải có điều kiện vật chất để
biến nhu cầu đó thành nhu cầu có khả năng thanh toán tức là cầu du lịch. Cầu du
lịch được thoả mãn trong điều kiện của nền kinh tế hàng hoá, là mắt xích trung gian
đặc biệt giữa nhu cầu du lịch và tiêu dùng sản phẩm du lịch.
Cầu du lịch là bộ phận nhu cầu xã hội có khả năng thanh toán về dịch vụ hàng
hoá, đảm bảo sự đi lại, lưu trú tạm thời của du khách ngoài nơi ở thường xuyên của
họ nhằm mục đích du lịch. Đây là tổng số lượng sản phẩm du lịch mà du khách có
khả năng và sẵn sàng mua với các mức giá khác nhau trong một khoảng thời gian
nhất định.
Cầu du lịch là bộ phận chủ yếu có tính quyết định trên thị trường du lịch. Xét
cấu thành từ sản phẩm thì cầu du lịch gồm hai nhóm là cầu về dịch vụ du lịch và
cầu về hàng hoá vật chất tiêu dùng trong thời gian đi du lịch. Hệ thống nhu cầu của
khách du lịch rất phong phú. Cầu về dịch vụ chính (dịch vụ cơ bản thiết yếu) gồm


21

cầu về du lịch vận chuyển và đảm bảo sự lưu trú, ăn uống. Cầu về dịch vụ đặc trưng
là cầu về những dịch vụ cảm thụ, thưởng thức những giá trị vô hình mà vì chúng, du
khách sẵn sàng chi trả cho chuyến du lịch. Chúng thường là nguyên nhân và mục
đích chuyến đi. Cầu về hàng hoá, dịch vụ bổ sung phục vụ các yêu cầu rất đa dạng
phát sinh trong chuyến đi của du khách như các dịch vụ thông tin liên lạc, chăm sóc
sức khoẻ, vui chơi giải trí, mua hàng lưu niệm… Phần lớn cầu về dịch vụ bổ sung
tại các thời du lịch cần được đáp ứng trong thời gian ngắn. Việc phân loại cầu chỉ
mang tính chất tương đối, tỷ trọng giữa các hàng hoá, dịch vụ trên phụ thuộc vào
động cơ du lịch, vào mức sống của du khách, vào sở thích về kiểu loại, chất lượng
và sự chênh lệch về giá cả của các loại hàng hoá này so với nơi ở của họ và đặc
điểm tâm lý xã hội của khách.
Đặc điểm của cầu du lịch xuất phát từ đặc thù của sản phẩm du lịch trên thị
trường, thể hiện ở những điểm sau:
Cầu du lịch rất phức tạp và đa dạng, nhưng chủ yếu là cầu dịch vụ. Trong quá
trình du lịch, nhu cầu của du khách thường không tách bạch mà đan xen nhau trong
suốt chuyến đi, nhu cầu lưu trú gắn liền với cầu thưởng thức thiên nhiên, nhu cầu về
ăn uống hoà quện với cầu văn hoá tạo nên tính phức tạp và phong phú của cầu
trên thị trường du lịch. Khách du lịch vốn rất đa dạng, họ khác nhau về trình độ văn
hoá, lứa tuổi, thu nhập, tính cách, động cơ du lịch Những khác biệt đó tạo nên tính
phong phú, đa dạng của nhu cầu du lịch. Các nhà kinh doanh du lịch đều tìm mọi
cách để đáp ứng mọi nhu cầu của khách du lịch (nếu không bị pháp luật cấm)
Tính tổng hợp của cầu. Cầu du lịch có thể khái quát là tổng hợp tất cả nhu cầu
hàng ngày cộng thêm nhu cầu phát sinh nhằm thoả mãn động cơ đi du lịch. Tính chất
tổng hợp này của cầu đòi hỏi sự phối hợp có hiệu quả sản phẩm của các nhà cung cấp
hàng hoá và dịch vụ du lịch vốn tồn tại tương đối độc lập.
Cầu du lịch có tính linh hoạt cao (tính dễ bị tổn thương của cầu). Trên thị
trường du lịch luôn thay đổi cầu về dịch vụ và cầu về hàng hoá, luôn bị ảnh hưởng
bởi các yếu tố chủ quan và khách quan. Trong cầu du lịch, cầu về một loại dịch vụ
hàng hoá du lịch cũng có thể được thay đổi bởi cầu về một loại hàng hoá dịch vụ



22
khác như thay đổi phương tiện đi lại, điều kiện và thời gian lưu trú Nguyên nhân
cơ bản làm cho cầu trên thị trường du lịch có tính linh hoạt cao là do cầu về du lịch
không phải là nhu cầu thiết yếu của con người (trừ du lịch chữa bệnh) nên dễ thay
đổi, chuyển hướng. Mặt khác, khách mua sản phẩm du lịch từ khi còn ở nơi cư trú,
khi chưa nhìn thấy sản phẩm nên chưa ấn định được cụ thể những gì họ sẽ mua,
việc thay đổi các chương trình du lịch là hầu như không có hạn chế.
Cầu du lịch mang tính chu kỳ. Cầu về du lịch mang tính chu kỳ bởi lẽ cầu về
du lịch được quy định bởi mối quan hệ với thời gian rỗi của con người, trước hết là
các kỳ nghỉ phép hàng năm và khả năng thu nhập, tích luỹ tài chính cũng như thói
quen và tâm lý đi du lịch của họ. Thời gian rỗi, đặc biệt là các kỳ nghỉ thường mang
tính định kỳ hành chính do luật quy định hoặc do tổ chức, nơi người chuẩn bị đi du
lịch làm việc. Khả năng thu nhập và tích luỹ tài chính của người đi du lịch chịu sự
chi phối của yếu tố đầu vào của ngân sách gia đình, tình hình phân chia ngân sách
gia đình cho tích luỹ và tiêu dùng. Thói quen và tâm lý đi du lịch được hình thành
do truyền thống như lễ hội và thời tiết, khí hậu hoặc do hiện tượng tâm lý.
Cầu du lịch phân tán rộng khắp và cách xa nguồn cung về không gian. Trong
du lịch, cầu có ở mọi nơi, không phân biệt địa phương, lãnh thổ. Nơi đâu có dân cư
hoặc các nhóm dân cư có khả năng thanh toán, thì ở đó sẽ có cầu du lịch. Trong khi
đó, cung lại ở vị trí được xác định từ trước, thường nằm cách xa cầu. Khoảng cách
này một mặt làm tăng chi phí đi lại của khách du lịch nhưng mặt khác cũng tạo ra
sức hút, lôi cuốn mạnh mẽ hơn. Điều này gây khó khăn cho sự gặp gỡ của cung và
cầu, đồng thời càng làm tăng tính mềm dẻo, linh hoạt của cầu, đòi hỏi cầu phải
mang tính chủ động hoàn toàn.
Tính thời vụ của cầu. Cầu du lịch thay đổi rất lớn theo các mùa trong năm. Các
nhà cung cấp dịch vụ du lịch thường chịu sức ép lớn khi hoạt động hết công suất
vào thời vụ du lịch, trong khi đó ngoài thời vụ du lịch chỉ đạt công suất khoảng
30%. Do vậy, đối với các nhà cung cấp tại các điểm du lịch đều phải áp dụng các
biện pháp khuyến mại nhằm kéo dài thời vụ du lịch.

1.1.3.3. Quan hệ cung cầu, giá cả và cạnh tranh trên thị trường du lịch


23
- Quan hệ cung- cầu và giá cả
Theo cơ chế tương tác trên thị trường du lịch, đây là nơi cung và cầu du lịch
phù hợp về chủng loại, chất lượng, số lượng, thời gian và nhịp độ cung cấp sản
phẩm du lịch các loại. Thị trường du lịch được coi là tổng thể các mối quan hệ kinh
tế hình thành giữa du khách và nhà kinh doanh, trong đó lao động xã hội hao phí để
sản xuất ra hàng hoá dịch vụ du lịch được xã hội công nhận là lao động xã hội cần
thiết thông qua sự tương tác giữa cung và cầu, được thể hiện ở giá cả thị trường.
Trên thị trường du lịch, bên cầu gồm tất cả các du khách, người tiêu dùng các
sản phẩm du lịch tạo nên một sức mạnh kinh tế. Bên cung gồm tất cả những người
sản xuất du lịch và các môi giới trung gian tạo nên một sức mạnh đối lập. Về bản
chất, đây là hai khối sức mạnh kinh tế hoàn toàn khác nhau về mục tiêu và lợi ích
kinh tế, đôi lúc có thể trái ngược nhau, nhưng tuỳ thuộc vào nhau. Bên bán cần bên
mua và bên mua không có bên bán thì không thể thực hiện được lợi ích của mình.
Nếu tổng lượng cầu về các sản phẩm du lịch cao thì giá cả thị trường tăng và
ngược lại. Nếu cùng một lượng vốn như nhau, đầu tư vào ngành du lịch mà thu
được lợi nhuận cao hơn, tức là tỷ suất lợi nhuận trong ngành du lịch cao hơn tỷ suất
lợi nhuận bình quân sẽ diễn ra quá trình di chuyển tư liệu sản xuất và lao động vào
kinh doanh du lịch và cung du lịch sẽ tăng lên. Kinh doanh du lịch mang tính thời
vụ, do đó nếu đầu tư vào các cơ sở du lịch theo mùa quá mức cần thiết thì hiệu quả
kinh tế thấp. Nhìn chung thị trường du lịch tuy có đặc thù, song vẫn vận động theo
sự điều tiết của quy luật thị trường. Khi số lượng người sản xuất tăng lên đến độ
giới hạn làm cho cung du lịch tăng lên vượt xa quá cầu du lịch sẽ dẫn đến giảm giá
sản phẩm. Tình trạng này kéo dài sẽ xuất hiện khủng hoảng thừa hàng hoá du lịch,
sản xuất hàng hoá du lịch sẽ bị đình đốn, buộc người sản xuất phải chuyển hướng
đầu tư hoặc bị phá sản, kéo theo việc giảm cung du lịch thường ổn định trong thời
gian khá dài, trong khi đó nhu cầu của khách thì thường xuyên biến đổi làm nảy

sinh chênh lệch giữa cung và cầu.
Sự tác động giữa cung và cầu trên thị trường du lịch hình thành nên giá cả thị
trường. Sự biến đổi của tương quan cung- cầu du lịch sẽ dẫn đến sự lên xuống của

×