Tải bản đầy đủ (.pdf) (109 trang)

Tác động của khu công nghiệp đối với sự phát triển kinh tế xã hội ở tỉnh Hải Dương

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.24 MB, 109 trang )


1

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRUNG TÂM ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG GIẢNG VIÊN LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ






NGUYỄN THỊ HUYỀN TRANG



TÁC ĐỘNG CỦA KHU CÔNG NGHIỆP
ĐỐI VỚI SỰ PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ
HỘI
Ở TỈNH HẢI DƯƠNG



LUẬN VĂN THẠC SĨ CHUYÊN NGÀNH KINH TẾ CHÍNH TRỊ










HÀ NỘI - 2012

2

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRUNG TÂM ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG GIẢNG VIÊN LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ





NGUYỄN THỊ HUYỀN TRANG



TÁC ĐỘNG CỦA KHU CÔNG NGHIỆP
ĐỐI VỚI SỰ PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ
HỘI
Ở TỈNH HẢI DƯƠNG

Luận văn thạc sĩ chuyên ngành: Kinh tế chính trị
Mã số: 60 31 01



Người hướng dẫn khoa học: GS.TS NGUYỄN ĐÌNH KHÁNG








HÀ NỘI - 2012

5

MỤC LỤC

Trang
MỞ ĐẦU
1
Chƣơng 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ TÁC ĐỘNG CỦA CÁC
KHU CÔNG NGHIỆP ĐỐI VỚI SỰ PHÁT TRIỂN KINH TẾ -
XÃ HỘI
6
1.1. Khu công nghiệp và tác động của nó đối với sự phát triển kinh tế -
xã hội
6
1.2. Những nhân tố chủ yếu chi phối tác động của khu công nghiệp
đối với sự phát triển kinh tế - xã hội
25
1.3. Kinh nghiệm của một số tỉnh về xử lý tác động tiêu cực trong
phát triển khu công nghiệp
33
Chƣơng 2: THỰC TRẠNG TÁC ĐỘNG CỦA CÁC KHU CÔNG NGHIỆP
ĐỐI VỚI SỰ PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI CỦA TỈNH
HẢI DƯƠNG
43

2.1. Sự ra đời và phát triển các khu công nghiệp ở tỉnh Hải Dƣơng
43
2.2. Đánh giá những tác động của các khu công nghiệp đối với sự phát
triển kinh tế - xã hội ở tỉnh Hải Dƣơng
56
Chƣơng 3: PHƢƠNG HƢỚNG VÀ GIẢI PHÁP PHÁT HUY TÁC ĐỘNG
TÍCH CỰC VÀ HẠN CHẾ TÁC ĐỘNG TIÊU CỰC CỦA KHU
CÔNG NGHIỆP VỚI SỰ PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI Ở
TỈNH HẢI DƢƠNG
74
3.1. Phƣơng hƣớng phát triển các khu công nghiệp ở tỉnh Hải Dƣơng
74
3.2. Giải pháp nhằm phát huy tác động tích cực và hạn chế tiêu cực
của các khu công nghiệp đối với sự phát triển kinh tế - xã hội ở
tỉnh Hải Dƣơng
82
KẾT LUẬN
97
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
98


6


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN


CNH, HĐH : Công nghiệp hóa, hiện đại hóa
CNXH : Chủ nghĩa xã hội

CTCP : Công ty cổ phần
KCN : Khu công nghiệp
KCNC : Khu công nghệ cao
KCX : Khu chế xuất
KH - CN : Khoa học - Công nghệ
KT - XH : Kinh tế - Xã hội
NĐ : Nghị định
NQ : Nghị quyết
TU : Tỉnh ủy
UBND : Ủy ban nhân dân

7


DANH MỤC CÁC BẢNG


Trang
Bảng 1.1: Các KCN tỉnh Đồng Nai
35
Bảng 2.1: Một số khoáng sản chủ yếu của tỉnh Hải Dƣơng
46
Bảng 2.2: Các khu công nghiệp phát triển giai đoạn 2010 - 2020
48
Bảng 2.3: Tổng hợp một số chỉ tiêu sản xuất kinh doanh của các
doanh nghiệp trong KCN
60
Bảng 2.4: Một số mặt hàng xuất khẩu chủ yếu của KCN
64
Bảng 2.5: Hiện trạng môi trƣờng không khí tại 4 điểm của tỉnh Hải Dƣơng

68
Bảng 3.1: Dự báo tốc độ tăng trƣởng GDP và cơ cấu khu vực kinh tế
76
Bảng 3.2: Dự báo giá trị sản xuất công nghiệp
77








1

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Phát triển khu công nghiệp là một giải pháp quan trọng nhằm thu hút
vốn đầu tƣ thúc đẩy công nghiệp phục vụ nhu cầu trong nƣớc và xuất khẩu,
đồng thời tạo điều kiện bảo vệ môi trƣờng sinh thái bảo đảm phát triển bền
vững. Ở nƣớc ta, năm 1991, Đảng và Nhà nƣớc có chủ trƣơng triển khai thí
điểm việc thực hiện giải pháp quan trọng này. Từ đó đến nay, cả nƣớc đã có
gần 200 khu công nghiệp với các quy mô, loại hình đƣợc phân bổ hầu khắp
các tỉnh, thành phố. Sự phát triển các khu công nghiệp đã góp phần to lớn vào
việc thực hiện các mục tiêu kinh tế - xã hội của đất nƣớc. Các khu công
nghiệp trở thành điểm thu hút các nguồn đầu tƣ nƣớc ngoài, đón nhận các tiến
bộ khoa học kỹ thuật và tạo ra những nhân tố quan trọng thúc đẩy công
nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập kinh tế quốc tế.
Hải Dƣơng là tỉnh mới đƣợc tái lập từ 1/1/1997, thuộc một trong 8 tỉnh

của vùng kinh tế trọng điểm ở đồng bằng Bắc Bộ với hệ thống giao thông
thuỷ, bộ, đƣờng sắt thuận lợi. Hải Dƣơng trở thành địa bàn cung cấp hàng hoá
quan trọng đồng thời tham gia trung chuyển hàng hoá giữa hệ thống cảng biển
với các tỉnh và thành phố lớn ở phía Bắc. Trong tƣơng lai, Hải Dƣơng là trọng
điểm thu hút, phát triển công nghiệp, du lịch, thƣơng mại và trở thành một
trong các đô thị lớn trong vùng. Trong xu thế phát triển chung của cả nƣớc,
tỉnh Hải Dƣơng đã có 10 khu công nghiệp với diện tich 2.087 ha. Sự phát
triển khu công nghiệp ở Hải Dƣơng trong thời gian qua đã góp phần quan
trọng vào việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hƣớng tiến bộ, giải quyết việc
làm, tăng thu nhập cho ngƣời lao động, thu hút vốn và công nghệ hiện đại,
kinh nghiệm quản lý tiến bộ của nhiều nƣớc trên thế giới. Đồng thời, sự phát
triển khu công nghiệp đã tạo điều kiện cho sự ra đời các khu đô thị, nâng cao
chất lƣợng đời sống dân cƣ. Tuy nhiên, trong gần 20 năm qua, sự phát triển

2

các khu công nghiệp ở tỉnh Hải Dƣơng đã bộc lộ những bất cập trong giải
quyết vấn đề môi trƣờng sinh thái, việc làm, thu nhập của ngƣời dân mất đất,
sự quá tải của hệ thống kết cấu hạ tầng Những bất cập đó đang là lực cản
cho việc phát huy vai trò của các khu công nghiệp đối với sự phát triển kinh tế
- xã hội trên địa bàn, gây ra những bức xúc trong xã hội.
Nhằm góp phần vào giải quyết những bức xúc này, đề tài “Tác động
của khu công nghiệp đối với sự phát triển kinh tế - xã hội ở tỉnh Hải
Dương” đã đƣợc lựa chọn làm luận văn thạc sĩ chuyên ngành kinh tế chính
trị, đề tài này vừa có ý nghĩa về mặt lý luận vừa có ý nghĩa thực tiễn không
chỉ đối với tỉnh Hải Dƣơng mà còn đối với nhiều tỉnh, vùng trong cả nƣớc.
2. Tình hình nghiên cứu
Kể từ khi Đảng, Nhà nƣớc ta có chủ trƣơng xây dựng và phát triển các
khu công nghiệp đến nay đã có một số công trình nghiên cứu về vấn đề này,
tiêu biểu là:

- Nguyễn Mạnh Đức, Lê Quang Anh (2000), “Hướng dẫn đầu tư vào
các khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao ở Việt Nam”, Nxb
Thống kê.
- Bộ kế hoạch và đầu tƣ (2004), “Kinh nghiệm thế giới về phát triển
khu công nghiệp, khu chế xuất và đặc khu kinh tế”
- Trƣơng Thị Minh Sâm (2005), “Các giải pháp nhằm nâng cao vai
trò và hiệu quả quản lý nhà nước, bảo vệ môi trường ở các khu công nghiệp,
khu chế xuất”, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội
- Vũ Huy Hoàng (2007), “Tổng quan về hoạt động của các khu công
nghiệp”, kỷ yếu khu công nghiệp, khu chế xuất Việt Nam, Nxb Thành phố
Hồ Chí Minh
- GS,TS Trần Văn Chử (2006), “Tài nguyên thiên nhiên môi trường và
phát triển bền vững ở Việt Nam”, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

3

- TS Nguyễn Thị Hƣờng (2009), “Chính sách thương mại và công
nghiệp nhằm phát triển bền vững công nghiệp Việt Nam”, Báo cáo tổng hợp
kết quả nghiên cứu đề tài khoa học cấp Bộ, Học viện Chính trị - Hành chính
quốc gia Hồ Chí Minh.
Một số đề tài dƣới dạng luận án tiến sĩ và luận văn thạc sĩ nghiên cứu
vấn đề này nhƣ:
- Nguyễn Xuân Hinh (2005), “Quy hoạch xây dựng và phát triển khu
công nghiệp Việt Nam trong thời kỳ đổi mới”, Luận án tiến sĩ kinh tế tại
trƣờng Đại học Kinh tế quốc dân
- Trần Văn Phùng (2009), “Nâng cao hiệu quả kinh tế - xã hội các khu
công nghiệp miền Nam”, Luận án tiến sĩ kinh tế tại Học viện chính trị quốc
gia Hồ Chí Minh
- Lê Hồng Yến (2008), “Hoàn thiện chính sách cơ chế quản lý Nhà nước
đối với các khu công nghiệp ở Việt Nam hiện nay (qua thực tiễn khu công nghiệp

các tỉnh phía Bắc)”, Luận án tiến sĩ tại trƣờng Đại học Thƣơng Mại.
- Hà Thị Thúy (2010), “ Các khu công nghiệp với sự phát triển kinh tế
- xã hội ở Bắc Giang”, Luận văn thạc sĩ kinh tế tại Học viện Chính trị quốc
gia Hồ Chí Minh.
- Đinh Hoàng Dũng (2009), “Phát triển khu công nghiệp tỉnh Bắc Ninh
theo hướng bền vững”, Luận văn thạc sĩ kinh tế, Học viện chính trị quốc gia
Hồ Chí Minh.
Tuy nhiên, các nghiên cứu trên tập trung vào những vấn đề chung trên
phạm vi tổng thể cả nƣớc hoặc trên địa bàn một vùng, một tỉnh khác, trong đó
chủ yếu nghiên cứu dƣới góc độ quản lý kinh tế, kinh tế phát triển và có một
số đề tài nghiên cứu kinh tế chính trị nhƣng lại trên địa bàn tỉnh khác. Đến
nay, ở Hải Dƣơng chƣa có công trình khoa học nào dƣới góc độ kinh tế chính
trị nghiên cứu về tác động của khu công nghiệp với sự phát triển kinh tế - xã
hội của địa phƣơng. Đề tài mà học viên lựa chọn nghiên cứu không trùng với
các công trình khoa học đã công bố.

4

3. Mục đích, nhiệm vụ của luận văn
- Mục đích:
Trên cơ sở hệ thống hóa một số vấn đề cơ bản, luận văn đánh giá tác
động của khu công nghiệp (bao gồm các khu công nghiệp, khu chế xuất và
cụm công nghiệp) để đề xuất phƣơng hƣớng và giải pháp nhằm phát huy mặt
tích cực và ngăn ngừa những tiêu cực trong quá trình phát triển kinh tế - xã
hội ở tỉnh Hải Dƣơng
- Nhiệm vụ:
+ Hệ thống hoá cơ sở lý luận, thực tiễn về tác động của các khu công
nghiệp với quá trình phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn một tỉnh.
+ Đánh giá thực trạng tác động của các khu công nghiệp đối với sự phát
triển kinh tế - xã hội ở tỉnh Hải Dƣơng.

+ Đề xuất phƣơng hƣớng và giải pháp nhằm phát huy tốt mặt tích cực
và ngăn ngừa, hạn chế những tác động tiêu cực có thể xảy ra trong quá trình
phát triển các khu công nghiệp này.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu:
Đề tài tập trung nghiên cứu tác động của các khu công nghiệp (gồm
khu công nghiệp, khu chế xuất và cụm công nghiệp) đối với sự phát triển kinh
tế - xã hội ở tỉnh Hải Dƣơng .
- Phạm vi nghiên cứu:
+ Về không gian: địa bàn tỉnh Hải Dƣơng
+ Về thời gian: từ khi triển khai xây dựng và phát triển các khu công
nghiệp ở tỉnh Hải Dƣơng (từ 1997 đến nay).
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
- Luận văn đƣợc nghiên cứu dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa
Mác - Lênin, tƣ tƣởng Hồ Chí Minh, quan điểm đổi mới của Đảng Cộng

5

sản Việt Nam và những lý thuyết về công nghiệp hoá và đầu tƣ trong nền
kinh tế thị trƣờng.
- Luận văn sử dụng phƣơng pháp nghiên cứu của kinh tế chính trị học
trong đó coi trọng phƣơng pháp phân tích, tổng hợp, so sánh, thống kê từ tƣ
liệu thực tiễn.
6. Những đóng góp mới của luận văn
- Khái quát cơ sở lý luận về tác động của các khu công nghiệp đối với
sự phát triển kinh tế - xã hội.
- Phân tích, đánh giá thực trạng tác động của các khu công nghiệp đối với
sự phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn tỉnh Hải Dƣơng từ năm 1997 đến nay.
- Đề xuất phƣơng hƣớng, giải pháp nhằm phát huy mặt tích cực, khắc
phục ngăn ngừa những tiêu cực trong quá trình phát triển khu công nghiệp ở

Hải Dƣơng.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo; luận văn
đƣợc kết cấu gồm 3 chƣơng, 7 tiết.
Chương 1: Cơ sở lí luận và thực tiễn về tác động của các khu công
nghiệp đối với sự phát triển kinh tế - xã hội
Chương 2: Thực trạng tác động của các khu công nghiệp đối với sự
phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh Hải Dương
Chương 3: Phương hướng và giải pháp phát huy tác động tích cực và
hạn chế tác động tiêu cực của khu công nghiệp với sự phát triển kinh tế - xã
hội ở tỉnh Hải Dương



6

Chƣơng 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ TÁC ĐỘNG CỦA
CÁC KHU CÔNG NGHIỆP ĐỐI VỚI SỰ PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI
1.1. Khu công nghiệp và tác động của nó đối với sự phát triển kinh
tế - xã hội
1.1.1. Khu công nghiệp
Vào những năm cuối thế kỷ XIX, KCN đã đƣợc hình thành ở một số
nƣớc tƣ bản phát triển. Năm 1896, xuất hiện KCN đầu tiên ở Traffort Park
thành phố Manchester nƣớc Anh. Sau đó, KCN lần lƣợt đƣợc thành lập ở các
nƣớc khác nhƣ Mỹ năm 1899, Italia năm 1904, và kể từ những năm 50 của
thế kỷ XX thì KCN thực sự bùng nổ, trở thành phổ biến ở các nƣớc. Trong
quá trình phát triển đó, KCN đã đem lại nhiều lợi ích thiết thực nên nó đƣợc
coi là một công cụ để phát triển kinh tế.
Ngày nay, KCN xuất hiện ở hầu hết các quốc gia trên thế giới. Mặc dù

thuật ngữ KCN đƣợc sử dụng khá phổ biến nhƣng bản thân nó lại bao hàm
nhiều hình thức tổ chức và tính chất hoạt động khác nhau.
Theo nghĩa thông thƣờng, KCN là khu vực có tính chất độc lập tập
trung nhiều doanh nghiệp sản xuất công nghiệp. Các KCN ra đời là kết quả
của việc xây dựng các doanh nghiệp công nghiệp riêng rẽ. Xen lẫn với các
doanh nghiệp công nghiệp là khu dân cƣ hoặc các cơ quan hành chính sự
nghiệp các doanh nghiệp thuộc ngành khác… nghĩa là KCN chuyên sản xuất
hàng dành cho xuất khẩu. Ở đó, chính quyền đã áp dụng nhiều chính sách ƣu
đãi nhƣ miễn thuế và tự do mua bán. Tuy nhiên, đến nay ở các nƣớc khác
nhau có những quan niệm khác nhau về KCN. Có quan niệm cho rằng, KCN
là một vùng đất đƣợc phân chia và phát triển hệ thống theo một kế hoạch tổng
thể nhằm cung cấp địa điểm cho các ngành công nghiệp tƣơng hợp với hạ
tầng cơ sở, các tiện ích công cộng, các dịch vụ phục vụ và hỗ trợ [14, tr.15].

7

Ở Thái Lan và Philippin, KCN đƣợc quan niệm nhƣ một thành phố
công nghiệp và thực tế nó là một cộng đồng tƣơng đối độc lập. Ngoài việc
cung cấp kết cấu hạ tầng, các tiện nghi, tiện ích công cộng hoàn chỉnh và xử
lý chất thải, KCN cũng bao gồm khu thƣơng mại, dịch vụ ngân hàng, trƣờng
học, bệnh viện, các khu vui chơi, giải trí, khu nhà ở cho công nhân… Các KCN
ở Thái Lan và Inđônêxia thƣờng có 3 bộ phận chủ yếu: Khu sản xuất hàng tiêu
thụ nội địa, khu sản xuất hàng xuất khẩu và khu thƣơng mại dịch vụ.
Có quan niệm lại cho rằng, KCN là một khu vực phụ, không nhất thiết
phải có sự ngăn cách biệt lập bởi trên thực tế có nhiều tập đoàn và tổ hợp
công nghiệp với một chuỗi đồ sộ các xí nghiệp, nhà máy liên kết với nhau
trên một khu vực rộng lớn. Việc bố trí mặt hàng các khu sản xuất trên quy mô
lớn nhƣ quy mô đặc thù. [27, tr.30-31, 33].
Theo quan điểm của Tổ chức phát triển công nghiệp Liên hợp quốc
(UNIDO) trong tài liệu KCX ở các nƣớc đang phát triển công bố năm 1990,

thì KCN là khu vực tƣơng đối nhỏ, phân cách về mặt địa lý trong một quốc
gia nhằm mục tiêu thu hút đầu tƣ vào các ngành công nghiệp hƣớng về xuất
khẩu bằng cách cung cấp cho các ngành công nghiệp này những điều kiện về
đầu tƣ mậu dịch thuận lợi đặc biệt so với phần lãnh thổ còn lại của nƣớc chủ
nhà. Trong đó đặc biệt là KCX cho phép nhập khẩu hàng hoá dùng cho sản
xuất để xuất khẩu miễn thuế [43, tr.18].
Tuy những quan niệm trên có một số khác nhau về nội hàm KCN,
KCX, song về cơ bản đều thống nhất ở những đặc trƣng sau:
Thứ nhất, KCN là nơi hội tụ và thích ứng với nhau về mặt lợi ích và
mục tiêu xác định giữa chủ đầu tƣ và nƣớc chủ nhà. KCN là nơi có môi
trƣờng kinh doanh đặc biệt phù hợp, đƣợc hƣởng những quy chế tự do, các
chính sách ƣu đãi kinh tế (đặc biệt là thuế quan) so với các vùng khác ở nội
địa. Chúng là nơi có vị trí thuận lợi cho việc phát triển sản xuất, thƣơng mại,
đầu tƣ trên cơ sở chính sách ƣu đãi về kết cấu hạ tầng, cơ chế pháp lý, thủ tục
hải quan, thủ tục hành chính, chính sách tài chính tiền tệ, môi trƣờng đầu tƣ…

8

Thứ hai, KCN là bộ phận không thể thiếu và không thể tách rời trong
sự phát triển kinh tế của một quốc gia. Nó thƣờng là những khu vực có vị trí
địa lý riêng biệt thích hợp, có hàng rào xung quanh, giới hạn với các vùng
lãnh thổ còn lại của nƣớc sở tại và đƣợc Chính phủ nƣớc đó cho phép hoặc rút
phép xây dựng và phát triển.
Thứ ba, KCN là nơi thực hiện mục tiêu hàng đầu về ƣu tiên chính sách
hƣớng ngoại, thu hút chủ yếu vốn đầu tƣ nƣớc ngoài vào phát triển các loại
hình sản xuất kinh doanh phục vụ xuất khẩu. Đây là mô hình thu nhỏ về chính
sách KT - XH mở cửa của một nƣớc.
Ở Việt Nam, khái niệm về KCN đƣợc ghi trong Nghị định 192/CP ngày
15/12/1994 của Chính phủ về quy chế KCN. Các KCN đƣợc định nghĩa là
khu vực công nghiệp tập trung, đƣợc thành lập do quyết định của Chính phủ

với các ranh giới đƣợc xác định, cung ứng các dịch vụ hỗ trợ sản xuất và
không có dân cƣ.
Có thể thấy rằng KCN là những địa bàn sản xuất công nghiệp gồm
nhiều doanh nghiệp vừa và nhỏ, không có dân cƣ sinh sống, có ranh giới pháp
lý riêng, có Ban quản lý riêng do Chính phủ thành lập. Về kết cấu hạ tầng,
KCN đƣợc cung cấp đầy đủ các yếu tố hạ tầng kỹ thuật hiện đại, đạt các tiêu
chuẩn quy định phục vụ trực tiếp cho hoạt động các doanh nghiệp công
nghiệp. Về cơ cấu ngành, trong KCN có cả các ngành truyền thống mà trong
nƣớc có lợi thế so sánh và cả các ngành công nghiệp mới nhƣ điện tử, công
nghệ thông tin, công nghệ lắp ráp…So với KCX, KCN thƣờng có phạm vi
hoạt động rộng lớn hơn. Nó không chỉ bao gồm các doanh nghiệp sản xuất
hàng hoá và dịch vụ cho xuất khẩu mà còn mở ra cho tất cả các ngành công
nghiệp bao gồm cả sản xuất hàng xuất khẩu và tiêu thụ trong nƣớc.
Các doanh nghiệp 100% vốn trong nƣớc có thể đƣợc hoạt động tại
KCN, khác với KCX chỉ liên kết với các công ty có vốn nƣớc ngoài. Các ƣu
đãi từ phía Chính phủ cũng đƣợc thực hiện đối với doanh nghiệp trong KCN

9

chú trọng tới việc sản xuất hàng xuất khẩu, do đó những doanh nghiệp này sẽ
đƣợc hƣởng chế độ ƣu đãi nhƣ trong KCX và cũng sẽ đƣợc hƣởng ƣu đãi nhƣ
trong KCN. KCX là khu vực thu hút các dự án đầu tƣ nƣớc ngoài để xuất
khẩu. Quan hệ giữa các doanh nghiệp chế xuất với thị trƣờng nội địa là quan
hệ ngoại thƣơng cũng giống nhƣ quan hệ giữa thị trƣờng trong nƣớc và thị
trƣờng nƣớc ngoài. KCX là khu thƣơng mại tự do, bởi vì hàng hoá từ KCX ra
nƣớc ngoài và từ nƣớc ngoài vào KCX không phải chịu thuế xuất nhập khẩu
và ít bị ràng buộc bởi hàng rào phi thuế quan. Còn quan hệ giữa các doanh
nghiệp KCN với thị trƣờng nội địa là quan hệ nội thƣơng (trừ doanh nghiệp
chế xuất trong KCN đƣợc hƣởng ƣu đãi nhƣ doanh nghiệp trong KCX). KCN
không phải là khu thƣơng mại tự do mà là khu sản xuất tập trung.

Đối với nƣớc sở tại, thì KCX có nhiều mặt lợi hơn so với KCN. Điều
này có thể lý giải bởi các lý do sau đây:
- Doanh nghiệp chế xuất không đƣợc trực tiếp sử dụng thị trƣờng nội
địa nên nhìn chung là không cạnh tranh với sản xuất trong nƣớc.
- Nhà nƣớc không lo cân đối ngoại tệ cho doanh nghiệp mà ngƣợc lại,
nguồn ngoại tệ của xã hội lại tăng lên nhanh chóng nhờ hoạt động của KCX.
- Thúc đẩy việc mở cửa thị trƣờng nội địa nhanh hơn, phù hợp với chủ
trƣơng xây dựng nền kinh tế mở hƣớng mạnh về xuất khẩu.
Tuy nhiên những gì đƣợc coi là có lợi cho nƣớc sở tại thì ngƣợc lại là
bất lợi cho nhà đầu tƣ. Để có thể xuất khẩu đƣợc 100% sản phẩm, việc tổ
chức sản xuất phải đạt chất lƣợng cao, đồng đều, giá cả hợp lý, phù hợp với
điều kiện cạnh tranh của thị trƣờng quốc tế. Do các bất lợi trên mà nhà đầu tƣ
nƣớc ngoài thƣờng quan tâm đến hình thức KCN, nhằm tận dụng lợi thế về thị
trƣờng nội địa. Điều này nghĩa là việc xây dựng thành công các KCX thƣờng
gặp khó khăn hơn là KCN. Việc các nhà đầu tƣ nƣớc ngoài coi trọng mô hình
KCN là có căn nguyên riêng của nó, nhƣng cần phải thấy đƣợc một vấn đề là
nếu một quốc gia có quá nhiều KCN hoạt động sẽ có hàng nghìn doanh

10

nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng chủ yếu do nƣớc ngoài đầu tƣ. Điều này sẽ tạo
ra hiện tƣợng cạnh tranh gay gắt không cần thiết trên thị trƣờng nội địa.
Để khuyến khích đầu tƣ vào KCX, cần rà soát lại toàn bộ hệ thống
chính sách kinh tế vĩ mô của nhà nƣớc theo tinh thần khuyến khích mạnh hơn,
ƣu đãi nhiều hơn cho KCX, làm cho nó có sức hấp dẫn cao hơn đối với các
nhà đầu tƣ so với KCN. Việc xây dựng kết cấu hạ tầng của các KCN và KCX
là không ít khó khăn, nhƣng việc kêu gọi các doanh nghiệp đầu tƣ vào địa bàn
này là khó khăn hơn nhiều. Chất lƣợng của một KCN hay KCX phụ thuộc
nhiều vào chất lƣợng của các dự án đã thu hút đƣợc.
Nhƣ vậy, KCN và KCX có những đặc điểm khác nhau xuất phát từ sự

khác nhau về mục đích, đối tƣợng tham gia hay mối liên kết của chúng đối
với nền kinh tế. KCN thƣờng đƣợc nhận một sự ƣu tiên nhất định từ phia
chính quyền địa phƣơng và Chính phủ với vai trò thúc đẩy phát triển kinh tế
vùng (địa phƣơng), KCN bao gồm những doanh nghiệp trong nƣớc và doanh
nghiệp nƣớc ngoài. KCX cũng đƣợc xác định là KCN nhƣng tập trung những
doanh nghiệp chuyên sản xuất chế biến các hàng xuất khẩu, đƣợc sự ƣu tiên
đặc biệt của Chính phủ, có vai trò then chốt trong việc chuyển từ nền kinh tế
khép kín sang nền kinh tế mở.
Theo Nghị định 36/CP của Chính phủ về khái niệm KCN thì “KCN là
khu tập trung các doanh nghiệp công nghiệp chuyên sản xuất hàng công
nghiệp và thực hiện các dịch vụ cho sản xuất công nghiệp, có ranh giới địa lý
xác định, không có dân cư sinh sống, do Chính phủ quyết định thành lập”.
Đây là một khái niệm động gắn liền với điều kiện cụ thể nơi nó hình thành.
Tuy vậy, có thể coi khái niệm mà chúng ta sử dụng là khái niệm hẹp và chỉ
quan tâm chủ yếu đến phần diện tích dành cho việc xây dựng kết cấu hạ tầng
để cho thuê, còn việc xây dựng các công trình phúc lợi xã hội không nằm
trong phạm vi quy định. Quan niệm này dẫn đến một thực tế là khi xây dựng
KCN, ngƣời ta không quan tâm đến tính đồng bộ của nó theo nghĩa rộng nên

11

ảnh hƣởng lớn đến hiệu quả KT - XH của KCN. Cho nên việc quy hoạch phát
triển sản xuất nhất thiết phải đi kèm quy hoạch phát triển kết cấu hạ tầng xã
hội. Hiện nay ở nƣớc ta đã xuất hiện hàng trăm các KCN vừa và nhỏ do
Trung ƣơng thành lập và các cụm CN ở các địa phƣơng của chính quyền địa
phƣơng (cấp tỉnh, thành phố). Mặc dù có một số đặc điểm đặc thù nhƣ quy
mô thƣờng nhỏ hơn, ảnh hƣởng hẹp hơn nhƣng về bản chất không có sự khác
biệt so với các KCN của Trung ƣơng. Trong đề tài, khái niệm KCN đƣợc hiểu
bao gồm cả KCN do Trung ƣơng thành lập, quản lý và cả các cụm CN do
chính quyền địa phƣơng thành lập.

Nói tóm lại, sự ra đời của các KCN nhằm mục đích cung cấp các điều
kiện về kết cấu hạ tầng tốt nhất cho việc xây dựng và vận hành của các cơ sở
sản xuất công nghiệp đặc biệt là hỗ trợ các nhà đầu tƣ nƣớc ngoài khi đầu tƣ
vào nƣớc sở tại sẽ có đƣợc đầy đủ điều kiện mặt bằng, đƣờng sá, hệ thống
cung cấp điện nƣớc, hệ thống xử lý nƣớc thải…để sản xuất kinh doanh mang
lại lợi ích cho cả hai phía.
1.1.2. Tác động của khu công nghiệp với sự phát triển kinh tế - xã
hội hiện nay
KCN ở Việt Nam ra đời cùng với chính sách đổi mới mở cửa do Đại
hội Đảng lần thứ VI khởi xƣớng. Hoạt động của các KCN trong thời gian qua
đã đóng góp một vai trò hết sức quan trọng trong quá trình phát triển kinh tế
của đất nƣớc. Đối với những nƣớc thuần nông nhƣ Việt Nam thì việc phát
triển KCN trƣớc hết tạo tiền đề cho đô thị hóa nông thôn, tạo bƣớc chuyển
dịch cơ cấu kinh tế mới theo hƣớng phát triển công nghiệp, giải quyết việc
làm cho lao động khu vực nông thôn. KCN cũng chính là cầu nối giữa nƣớc ta
với thế giới bên ngoài, đóng vai trò tiên phong trong việc chuyển từ nền kinh
tế khép kín sang nền kinh tế mở cửa.
Tuy nhiên sự phát triển của KCN trong thời gian qua cũng đang phá vỡ
kết cấu xã hội nông thôn truyền thống, bộc lộ những bất cập trong giải quyết

12

vấn đề môi trƣờng sinh thái, việc làm và thu nhập của ngƣời dân mất đất, sự
quá tải của hệ thống kết cấu hạ tầng
1.1.2.1. Những tác động tích cực của các khu công nghiệp đối với sự
phát triển kinh tế - xã hội của nước ta hiện nay
Việt Nam đang trong giai đoạn đẩy mạnh việc thực hiện công cuộc
CNH, HĐH nhằm thực hiện mục tiêu xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật cho
CNXH. CNH, HĐH đƣợc xác định là nhiệm vụ trung tâm trong suốt thời kỳ
quá độ lên CNXH. Quá trình CNH, HĐH đƣợc thực hiện trên cơ sở giải

phóng sức sản xuất trong nƣớc, phát huy cao độ các nguồn lực trong nƣớc
đồng thời tìm cách thu hút nguồn lực bên ngoài. Việc phát triển các KCN,
KCX, KCN cao có ý nghĩa quan trọng nhằm tạo ra những điều kiện, thể chế,
môi trƣờng thuận lợi cho quá trình thu hút, sử dụng nguồn lực từ bên ngoài
nhƣ vốn đầu tƣ, công nghệ tiên tiến, phƣơng thức quản lý hiện đại, trên cơ sở
đó đẩy nhanh tiến trình CNH, HĐH.
Việc phát triển KCN có những tác động tích cực sau:
Một là, KCN là một địa điểm quan trọng để thu hút vốn đầu tư, đặc biệt
là đầu tư nước ngoài, tập trung các doanh nghiệp công nghiệp vào một khu
vực địa lý.
Do có kết cấu hạ tầng hiện đại hơn và cơ chế quản lý thông thoáng hơn
so với bên ngoài nên KCN trở thành một địa điểm để tập trung các doanh
nghiệp sản xuất, chế biến công nghiệp, thu hút vốn đầu tƣ nƣớc ngoài và trong
nƣớc. Qua đó, tạo cơ hội đƣa nhanh kỹ thuật mới vào sản xuất, thúc đẩy tiến bộ
khoa học và công nghệ: xây dựng các ngành công nghiệp mũi nhọn, nâng cao vị
trí chủ đạo của công nghiệp trong nền kinh tế, bảo đảm tốc độ tăng trƣởng kinh
tế nhanh và bền vững. Trong điều kiện kết cấu hạ tầng của nền kinh tế còn thấp
kém, đầu tƣ chƣa hoàn thiện thì việc xây dựng, phát triển KCN là phƣơng thức
phù hợp nhằm tập trung đầu tƣ cho một số khu vực có ƣu thế hơn, giảm một
cách đáng kể chi phí về vốn và khó khăn cho nhà đầu tƣ.

13

KCN với những ƣu đãi đặc biệt về thủ tục hành chính, cơ chế quản lý,
tài chính, thuế quan so với sản xuất ở bên ngoài, nên nó trở thành môi
trƣờng đầu tƣ hấp dẫn các nhà đầu tƣ nƣớc ngoài, thu hút đƣợc nguồn vốn đầu
tƣ cả trong và ngoài nƣớc. Kết cấu hạ tầng trong KCN sẵn có và những chính
sách ƣu đãi cùng với cơ chế quản lý đặc biệt, thủ tục đầu tƣ ngày càng đơn
giản, thuận tiện hơn so với bên ngoài KCN sẽ giúp nhà đầu tƣ nhanh chóng
triển khai dự án, tránh bỏ lỡ cơ hội kinh doanh. Hơn nữa, trong nền kinh tế thị

trƣờng, các doanh nghiệp tìm mọi cách tối thiểu hóa chi phí để đạt đƣợc giá
thành rẻ nhất. KCN là địa bàn mà doanh nghiệp có thể thực hiện đƣợc điều
đó. KCN đƣợc xây dựng tập trung theo chiều dọc, là nơi có nhiều đất trống,
gần cảng, giao thông thuận lợi cho xe tải trọng lƣợng lớn ra vào, có mạng lƣới
điện để cho nhà đầu tƣ có thể xây dựng và vận hành các nhà máy. KCN còn
đƣợc trang bị kết cấu hạ tầng đầy đủ nên khi đầu tƣ vào thì các nhà đầu tƣ sản
xuất sẽ giảm đƣợc rất nhiều chi phí nhƣ chi phí mua đất xây dựng nhà máy
với giá cao, chi phí xây dựng hệ thống đƣờng dây tải điện, đƣờng giao thông
vận tải vào nhà máy, thiết lập hệ thống thông tin liên lạc Việc bố trí các nhà
máy theo chiều dọc (sản phẩm của nhà máy này là nguyên liệu của nhà máy
khác) và tập trung vào một khu vực nên các doanh nghiệp dễ dàng giải quyết
đầu vào và đầu ra với chi phí thấp nhất. Do đó, các doanh nghiệp KCN có
điều kiện thuận lợi hơn để đạt mục tiêu lợi nhuận các doanh nghiệp bên ngoài
KCN nên KCN thƣờng hấp dẫn nhà đầu tƣ.
Thực tế ở nƣớc ta cho thấy, KCN có vai trò tích cực vào việc thu hút
vốn đầu tƣ đặc biệt là vốn FDI. Số dự án đầu tƣ cả trong và ngoài nƣớc vào
các KCN chiếm một tỷ trọng khá lớn. Sự gia tăng vốn đầu tƣ vào các KCN
góp phần quan trọng vào việc tăng tổng vốn đầu tƣ của toàn xã hội, đóng góp
trực tiếp vàp việc tăng trƣởng và chuyển dịch cơ cấu của nền kinh tế. Mặt
khác còn tác động, kích thích tăng đầu tƣ mới ở các doanh nghiệp ngoài KCN.
Theo Bộ Kế hoạch và Đầu tƣ, riêng năm 2009, các KCN trên cả nƣớc đã thu

14

hút đƣợc gần 9,4 tỷ USD vốn đầu tƣ nƣớc ngoài, trong đó có 271 dự án mới
với tổng số vốn đầu tƣ đăng ký đạt gần 7,5 tỷ USD và 236 lƣợt dự án tăng vốn
với số vốn tăng thêm đạt trên 1,6 tỷ USD.
Tính đến nay, các KCN cả nƣớc đã thu hút đƣợc 3325 dự án có vốn đầu
tƣ nƣớc ngoài với tổng vốn đầu tƣ gần 39,3 tỷ USD.
Tỷ lệ lấp đầy diện tích đất công nghiệp có thể cho thuê của các KCN

trên cả nƣớc đạt gần 50%, riêng các KCN đã vận hành đạt tỷ lệ lấp đầy gần
74% [49].
Bên cạnh đó, việc tập trung các doanh nghiệp vào một khu vực địa lý
hình thành KCN tập trung là một vấn đề không kém phần quan trọng bởi
trong KCN tập trung, các doanh nghiệp dùng chung công trình hạ tầng nên
giảm đƣợc chi phí trên một đơn vị diện tích và một đơn vị sản phẩm, thực
hiện phát triển công nghiệp theo một quy hoạch thống nhất, kết hợp quy
hoạch ngành với quy hoạch lãnh thổ. Hơn nữa, việc tập trung các doanh
nghiệp trong KCN tạo điều kiện dễ dàng hơn trong xử lý chất thải công
nghiệp, bảo vệ môi trƣờng sinh thái, nâng cao hiệu quả sử dụng đất. Các
doanh nghiệp công nghiệp có điều kiện thuận lợi hợp tác với nhau trong đổi
mới công nghệ, nâng cao hiệu quả hoạt động và sức cạnh tranh.
Hai là, tạo việc làm và thu nhập
Sự hình thành và phát triển KCN không chỉ thu hút lao động vào các
doanh nghiệp bên trong mà còn kích thích các hoạt động dịch vụ phát triển và
thu hút vào các hoạt động này một số lớn các lao động khác. Số lao động này
đƣợc tiếp xúc với công nghệ sản xuất hiện đại, phƣơng thức quản lý tiên tiến.
Đây là điều kiện quan trọng để xây dựng đội ngũ lao động có kỷ luật, kỹ năng
và năng suất lao động cao đáp ứng nhu cầu của công cuộc CNH, HĐH đất
nƣớc. Hơn nữa, để đáp ứng nhu cầu tuyển dụng của doanh nghiệp, nhiều
KCN, KCX đã mở các cơ sở đào tạo nghề, nâng cao chất lƣợng nguồn nhân
lực trong KCN, KCX. Ở các địa phƣơng có KCN, tỷ lệ thất nghiệp giảm rõ

15

rệt, điều đó có tác động tích cực đến xóa đói, giảm nghèo, góp phần làm giảm
các tệ nạn xã hội do thất nghiệp gây ra.
Ba là, KCN là địa bàn để tiếp nhận chuyển giao công nghệ hiện đại và
phương pháp quản lý tiên tiến của các nước phát triển.
Cùng với việc thu hút vốn đầu tƣ nƣớc ngoài, việc tiếp thu công nghệ

hiện đại và các phƣơng pháp quản lý tiên tiến của các nhà đầu tƣ đƣợc thực
hiện tốt thông qua các KCN. Mặc dù trong những giai đoạn đầu hoạt động của
các KCN, đầu tƣ nƣớc ngoài chủ yếu tập trung vào các ngành nhƣ dệt may,
giày da, lắp ráp điện tử, nhƣng càng về sau thì việc đầu tƣ vào các lĩnh vực
công nghệ hiện đại nhƣ đúc chính xác, sản xuất cơ khí, cáp điện, linh kiện
điện tử… ngày càng tăng và chiếm tỷ trọng lớn cả về sản phẩm và kim ngạch
xuất khẩu. Quá trình chuyển giao diễn ra dƣới nhiều hình thức: đào tạo công
nhân nƣớc chủ nhà để sử dụng máy móc, thiết bị công nghệ… Bên cạnh đó,
các doanh nghiệp KCN còn thu hút một lƣợng lớn ngƣời lao động Việt Nam
vào các vị trí quản lý doanh nghiệp quan trọng, đội ngũ lao động này đƣợc
tiếp xúc với phƣơng thức quản lý tiên tiến, kỹ năng marketing, quản lý tài
chính, tổ chức nhân sự… Đội ngũ này khi chuyển đi làm việc tại các doanh
nghiệp sẽ vừa áp dụng đƣợc phƣơng pháp quản lý tiên tiến đã tiếp thu đƣợc
vào hoạt động của doanh nghiệp mình, vừa nâng cao hiệu quả hoạt động của
doanh nghiệp và truyền đạt những kiến thức quản lý cho ngƣời lao động Việt
Nam khác.
Bốn là, góp phần chuyển dịch cơ cấu theo hướng hiện đại, hợp lý và
hiệu quả.
Xây dựng cơ cấu kinh tế hợp lý là một nội dung cơ bản trong quá trình
CNH, HĐH ở nƣớc ta bởi nó tạo điều kiện cho nền kinh tế vận động phù hợp
với các quy luật khách quan, thúc đẩy phân công lao động xã hội, gắn sản
xuất với nhu cầu thị trƣờng trong nƣớc và xu hƣớng toàn cầu hoá, khu vực
hoá, mở cửa và hội nhập kinh tế, giúp khai thác tối đa mọi nguồn lực, tiềm

16

năng của đất nƣớc, của ngành, của doanh nghiệp cả về chiều rộng lẫn chiều
sâu. Đảng ta xác định xây dựng cơ cấu kinh tế hiện đại, hợp lý theo ngành,
lĩnh vực và lãnh thổ trong đó giảm chi phí trung gian, nâng cao năng suất lao
động của tất cả các ngành, lĩnh vực nhất là các ngành và lĩnh vực có sức cạnh

tranh cao.
KCN là nơi tập trung các doanh nghiệp công nghiệp và dịch vụ công
nghiệp. Một mặt, KCN góp phần nâng cao tỷ trọng ngành công nghiệp trong
tổng số GDP của các ngành kinh tế tạo ra trên cả nƣớc. Mặt khác, KCN thu
hút những dự án có hàm lƣợng vốn lớn, công nghệ cao. Mặc dù số lƣợng các
dự án này trong KCN còn ít nhƣng cũng góp phần phát triển ngành nghề mới,
đa dạng hoá ngành nghề công nghiệp. Các dự án đầu tƣ vào KCN tập trung
chủ yếu vào các ngành công nghiệp nhẹ nhƣ dệt may, giầy da, công nghệ chế
biến thực phẩm. Đây là các dự án thu hút nhiều lao động và có tỷ lệ xuất khẩu
cao. Các ngành công nghiệp nhẹ, chế biến thực phẩm là những ngành truyền
thống có từ lâu đời ở nƣớc ta nhƣng các dự án trong KCN đã góp phần nâng
cấp các ngành này về dây truyền công nghệ và chất lƣợng sản phẩm.
Năm là, tạo điều kiện thuận lợi cho việc xử lý ô nhiễm môi trường, bảo
vệ môi trường sinh thái cho phát triển bền vững.
Bảo vệ môi trƣờng sinh thái là một nhiệm vụ cơ bản của phát triển bền
vững. Các nƣớc đang phát triển thực hiện CNH, HĐH thƣờng phải chú ý đến
sự phát triển cân bằng cả về kinh tế, xã hội, môi trƣờng. Vấn đề môi trƣờng là
một yếu tố quan trọng mà bất cứ một doanh nghiệp nào cũng phải giải quyết.
Với mục tiêu chỉnh trang các đô thị theo hƣớng hiện đại, văn minh và bảo vệ
môi trƣờng, việc di dời nhà máy, các xí nghiệp sản xuất công nghiệp trong các
đô thị ra vùng ngoại thành là cần thiết. Nhƣng nếu để các doanh nghiệp phân
tán hoặc việc xử lý chât thải với chi phí ít tốn kém hơn, đồng bộ hơn, tạo điều
kiện thuận lợi hơn cho việc quản lý môi trƣờng của cơ quan chức năng. KCN
tập trung giảm sự tiếp xúc trực tiếp của các khu đô thị với tác động bất lợi của

17

sản xuất công nghiệp (nhƣ khói bụi, tiếng ồn, bức xạ…). Với sự tập trung của
các doanh nghiệp sản xuất công nghiệp vào một địa điểm xác định, ban quản
lý các KCN có thể kiểm soát tốt hơn mức độ ô nhiễm của các doanh nghiệp.

Đồng thời, về phiá mình, các doanh nghiệp công nghiệp cũng có điều kiện
phòng chống ô nhiễm môi trƣờng với chi phí ít nhất do sử dụng lại phế thải
của nhau, do có sự liên kết xử lý ô nhiễm và sự hỗ trợ tập trung của nhà nƣớc.
Hơn nữa, KCN đƣợc sử dụng các biện pháp triệt để trong việc xử lý
môi trƣờng ngay từ khâu quy hoạch. Trong KCN, các doanh nghiệp buộc phải
có hệ thống xử lý chất thải cục bộ đạt tiêu chuẩn trƣớc khi thải ra hệ thống
chung. Từng KCN phải có nhà máy xử lý nƣớc thải tập trung và đƣợc đầu tƣ
xây dựng song song với việc đầu tƣ xây dựng kết cấu hạ tầng KCN. Nhƣ vậy,
việc bảo vệ môi trƣờng trong toàn khu vực KCN đƣợc thực hiện tốt hơn so
với tại các cơ sở công nghiệp nằm rải rác ở nhiều khu vực khác nhau. Đồng
thời, KCN là địa điểm tốt để di dời các cơ sở sản xuất gây ô nhiễm môi
trƣờng từ nội thành, từ các vùng dân cƣ, phục vụ tốt cho mục tiêu phát triển
bền vững. Với tác động này, việc xây dựng các KCN tập trung đƣợc coi là
một giải pháp quan trọng của sự phát triển KT - XH.
Trong vài năm tới ở nƣớc ta sẽ có khoảng 65% KCN đang hoạt động có
hệ thống nƣớc thải đạt tiêu chuẩn môi trƣờng. Tuy nhiên, nó đòi hỏi các cơ
quan quản lý Nhà nƣớc phải có quyết tâm cao kết hợp với các biện pháp cụ
thể. Thời gian qua đã có nhiều dự án xử lý nƣớc thải tập trung trong KCN đi
vào vận hành, tổng số cơ sở xử lý nƣớc thải tập trung trên 60 nàh máy, đạt
gần ½ mục tiêu kế hoạch đến năm 2011. Ngoài ra tại KCN đang xây dựng, có
20 nhà máy xử lý nƣớc thải tập trung đƣợc xây dựng và dự kiến hoàn thành
trong năm nay. Hiện nay, Bộ Tài nguyên và Môi trƣờng phối hợp với Bộ Kế
hoạch và Đầu tƣ đã dự thảo quy chế Bảo vệ môi trƣờng KCN. Hy vọng sau
khi ban hành Quy chế này, chúng ta sẽ có cơ sở pháp lý trong triển khai công
tác bảo vệ môi trƣờng KCN.

18

Sáu là, góp phần tăng cung ứng hàng hoá dịch vụ đáp ứng nhu cầu
trong nước và xuất khẩu.

Một trong những mục tiêu quan trọng đặt ra khi xây dựng các KCN là
góp phần đẩy mạnh xuất khẩu, tăng thu ngoại tệ cho đất nƣớc. Thực tế cho
thấy, nhiều KCN ở các nƣớc đặc biệt là ở khu vực châu Á đã thành công trong
mục tiêu này. Theo thống kê của Hiệp hội KCX thế giới, một diện tích
khoảng 100 ha cần đầu tƣ 50 triệu USD cho kết cấu hạ tầng, trong vòng 10
năm sẽ tạo việc làm cho 10.000 lao động, từ đó tạo ra hàng xuất khẩu trị giá
100 triệu USD/năm [48].
Thực tế cho thấy việc phát triển các KCN đã thành công ở nhiều
nƣớc nhƣ Đài Loan, Thái Lan xây dựng KCN từ những năm đầu của thập
kỷ 60 và đã thu đƣợc những thành tựu to lớn. Các KCN của Đài Loan đã
có 238 doanh nghiệp xuất khẩu hoạt động với tổng vốn đầu tƣ hơn 860
triệu USD, trong đó hơn 70% là đầu tƣ nƣớc ngoài. Tổng giá trị xuất khẩu
tích luỹ đã hơn 35 tỷ USD, tạo việc làm cho 90.000 lao động. Còn Thái
Lan, năm 1960 thu nhập GDP bình quân là 94 USD/ngƣời. Qua 3 thập kỷ
công nghiệp hoá, công nghiệp đã lên ngôi chiếm 34% GDP và nông
nghiệp chỉ còn 10%, 70% giá trị xuất khẩu do các ngành công nghiệp đảm
nhận, thu nhập GDP bình quân đầu ngƣời cao. Công nghiệp chế tạo từ
thập kỷ 60 đến nay là khu vực đóng góp phàn quan trọng nhất đối với tiến
bộ của cả nƣớc [42, tr.35].
Theo Ngân hàng thế giới (WB), 1 ha đất canh tác nông nghiệp, bình
quân 1 năm chỉ thu đƣợc 2000 USD. Nhƣng nếu dùng để sản xuất công
nghiệp có thể đạt 200.000 đến 400.000 USD, tăng gấp 100 đến 200 lần [49].
1.1.2.2. Những tác động tiêu cực của các khu công nghiệp
Việc xây dựng và phát triển các KCN, KCX của nƣớc ta trong thời gian
qua bên cạnh những thành tựu đạt đƣợc cũng đã bộc lộ những hạn chế, đặt ra
những vấn đề bức xúc cần phải nghiên cứu giải quyết.

19

Một là,do theo đuổi phong trào xây dựng KCN mà các nhà quản lý và

đầu tƣ thiếu tính toán việc thu hút các doanh nghiệp sản xuất nhằm “lấp đầy”
KCN nên dẫn đến tình trạng lãng phí các nguồn lực.
Sự phát triển ồ ạt của các KCN, quy hoạch thiếu đồng bộ, thiếu tầm
nhìn chiến lƣợc đã gây ảnh hƣởng xấu đến chất lƣợng tăng trƣởng kinh tế làm
cho quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế không theo kịp. Mặt khác, việc phân
bổ các KCN giữa các vùng còn bất hợp lý, thành lập quá nhiều KCN, KCX
trong cùng một vùng trong khi khả năng thu hút đầu tƣ còn hạn chế không
phát huy đƣợc hiệu quả vốn đầu tƣ hạ tầng kỹ thuật và xã hội cho KCN. Điều
này dẫn đến tình trạng cạnh tranh gay gắt, tự phát, chạy đua theo phong trào.
Việc thành lập, thu hút đầu tƣ vào KCN không phù hợp với quy hoạch tổng
thể phát triển KT - XH của vùng, quy hoạch phát triển KCN cả nƣớc. Hơn
nữa, do cách thức quản lý các KCN không tốt, không tập trung làm cho các
doanh nghiệp trong KCN làm ăn kém hiệu quả. Mặt khác, việc xây dựng các
KCN tràn lan dẫn đến tình trạng thiếu lao động có tay nghề. Đây là vấn đề hết
sức nan giải mà nhiều địa phƣơng đã vấp phải làm cho các KCN hoạt động
không có hiệu quả cao. Nhƣ vậy, do theo đuổi phong trào xây dựng KCN,
mong muốn lấp đầy KCN dẫn đến tình trạng lãng phí các nguồn lực, làm xáo
trộn tình hình phát triển KT - XH.
Sự phát triển tràn lan các KCN ở các tỉnh hiện nay dẫn đến cạnh tranh
quyết liệt giữa các địa phƣơng trong việc thu hút đầu tƣ làm xuất hiện không
ít tình trạng “vƣợt rào”, “phá luật” gây ra những lộn xộn không đáng có làm
thiệt hại cho lợi ích chung của xã hội và giảm lòng tin của các nhà đầu tƣ về
sự nhất quán trong chính sách ƣu đãi của Việt Nam.
Trong những năm gần đây, để khuyến khích các doanh nghiệp trong và
ngoài nƣớc đầu tƣ vào các KCN, các cấp, các ngành đã không ngừng nghiên
cứu, hoàn thiện chính sách ƣu đãi, thủ tục đầu tƣ thuận tiện. Tuy vậy, việc xây
dựng ồ ạt các KCN dẫn đến một thực tế các địa phƣơng đang ra sức quyết liệt

20


ganh đua, cạnh tranh nhau để thu hút các nguồn vốn đầu tƣ về KCN ở địa
phƣơng mình. Nhiều địa phƣơng đã ban hành những chính sách ƣu đãi riêng
để “xé rào”, “phá luật” vƣợt quá quy định của pháp luật để thu hút đầu tƣ,
chấp nhận dùng ngân sách địa phƣơng để bù lỗ. Điều này làm ảnh hƣởng đến
ngân sách nhà nƣớc, hơn nữa còn dẫn đến tình trạng chèn lấn, “ngáng chân
nhau” trong việc thu hút đầu tƣ, làm giảm hiệu quả của các KCN, không tận
dụng đƣợc lợi thế của các địa phƣơng, các doanh nghiệp, gây thiệt hại cho lợi
ích xã hội, làm giảm lòng tin của các nhà đầu tƣ về sự thống nhất, nhất quán
trong chính sách ƣu đãi của Việt Nam. Cho nên, với những cam kết quá mức
của địa phƣơng để giành giật vốn đầu tƣ có thể dẫn đến những khó khăn trong
việc thực thi chính sách kêu gọi đầu tƣ phù hợp của Đảng và Nhà nƣớc trong
việc thu hút các dự án đầu tƣ giữa các địa phƣơng, vùng, miền.
Thực tế còn cho thấy, việc xây dựng các KCN đã sử dụng một diện tích
đất đai khá lớn, thu hồi quá nhiều đất nông nghiệp trong đó hơn 80% thuộc
đất “bờ xôi”, “ruộng mật” với hệ thống thuỷ lợi thuận tiện cho 2 vụ lúa mỗi
năm kéo theo 500.000 tấn lúa mất đi, ảnh hƣởng lớn đến ngƣời lao động.
Trong khi đó, để trở thành ruộng trồng lúa phải mất hàng nghìn năm mà đất
đã làm công nghiệp thì khó có thể trồng lại lúa. Điều đó dẫn đến lãng phí
nguồn lực đất đai, đe dọa an ninh lƣơng thực quốc gia. Sự lãng phí ấy còn do
tình trạng “quy hoạch treo, dự án treo”. Do nóng vội trong đầu tƣ phát triển
KCN và dự báo về đầu tƣ không sát thực tế hoặc thiếu giải pháp hữu hiệu để
thu hút vốn đầu tƣ nên nhiều địa phƣơng thu hồi đất của dân, san lấp mặt bằng
nhƣng lại để đất trống trong nhiều năm do chƣa có nhà đầu tƣ phù hợp. Một
số nơi vội giao đất cho nhà đầu tƣ không đủ năng lực nên dự án không tiến
triển. Tỷ lệ lấp đầy trong các KCN là một trong những tiêu chí đánh giá sự
phát triển bền vững về kinh tế, sự phát triển bền vững nội tại KCN nhƣng lại
không đạt tiêu chuẩn đảm bảo hiệu quả kinh doanh của các công ty phát triển
hạ tầng.

×