Tải bản đầy đủ (.pdf) (141 trang)

Hoạt động của doanh nghiệp nhà nước sau cổ phần hóa ở nước ta hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.54 MB, 141 trang )







ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRUNG TÂM ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG GIẢNG VIÊN LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ


NGUYỄN THU BĂNG


HOẠT ĐỘNG CỦA DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC SAU CỔ PHẦN
HÓA Ở NƯỚC TA HIỆN NAY



LUẬN VĂN THẠC SỸ


Người hướng dẫn: PGS.TS. Vũ Hồng Tiến




Hà nội - 2008










1
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU 4
Chƣơng 1. NHỮNG THÀNH TỰU VÀ HẠN CHẾ CỦA DOANH NGHIỆP
NHÀ NƢỚC VÀ QUÁ TRÌNH CỔ PHẦN HOÁ Ở VIỆT NAM 8
1.1. Một số vấn đề lý luận về công ty cổ phần và cổ phần hóa doanh
nghiệp nhà nước 8
1.2. Tình hình doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam trước cổ phần hóa . 17
1.2.1. Khái niệm về doanh nghiệp nhà nước 17
1.2.2. Tình hình hoạt động của doanh nghiệp nhà nước trước cổ phần hóa 20
1.3. Quá trình cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước ở nước ta 25
1.3.1. Cơ sơ lý luận và thực tiễn cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước ở Việt
Nam 25
1.3.2. Quá trình hoàn thiện quan điểm của Đảng về cổ phần hóa doanh nghiệp
nhà nước ở nước ta 31
1.3.3. Quá trình thực hiện cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước ở nước ta 36
1.4. Tình hình hoạt động của doanh nghiệp nhà nước sau cổ phần hóa 49
1.4.1. Những thành tựu đã đạt được 49
1.4.2. Những hạn chế của doanh nghiệp nhà nước và nguyên nhân của nó 55
1.4.3. Nguyên nhân của những thành tựu và hạn chế của doanh nghiệp nhà
nước sau cổ phần hóa ở nước ta 63
1.5. Những vấn đề đặt ra đối với doanh nghiệp nhà nước sau cổ phần
hóa ở nước ta 68
1.5.1. Nhận thức về mô hình doanh nghiệp cổ phần hoá 68
1.5.2. Doanh nghiệp cổ phần và môi trường hoạt động 71

1.5.3. Quản trị doanh nghiệp sau cổ phần hoá 75
Chƣơng 2. PHƢƠNG HƢỚNG VÀ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO HIỆU
QUẢ HOẠT ĐỘNG CỦA DOANH NGHIỆP NHÀ NƢỚC SAU CỔ PHẦN
HÓA Ở VIỆT NAM 86
2.1. Phương hướng hoạt động của doanh nghiệp nhà nước sau cổ phần
hóa ở Việt Nam 86

2
2.1.1. Đảm bảo sự vận hành có hiệu quả của bộ máy quản lý và điều hành của
doanh nghiệp cổ phần 86
2.1.2. Giải quyết các vấn đề liên quan đến cổ đông trong doanh nghiệp cổ
phần 87
2.1.3. Tiếp tục cải thiện môi trường hoạt động của công ty cổ phần 89
2.2. Những giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp
nhà nước sau cổ phần hóa trong thời gian tới ở Việt Nam 90
2.2.1. Nhóm giải pháp vĩ mô nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh
nghiệp nhà nước sau cổ phần hóa trong thời gian tới ở Việt Nam 90
2.2.2. Những giải pháp vi mô nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh
nghiệp nhà nước ở nước ta trong thời gian tới 104
KẾT LUẬN 128
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 130
Phụ lục: DANH MỤC CÁC VĂN BẢN PHÁP LUẬT CÓ LIÊN QUAN TỚI
SẮP XẾP LẠI DOANH NGHIỆP NHÀ NƢỚC 136






3

BẢNG QUY ƢỚC CÁC CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN


CTCP: Công ty cổ phần
CPH: Cổ phần hoá
CNXH: Chủ nghĩa xã hội
CNH, HĐH: Công nghiệp hoá, hiện đại hoá
DN: Doanh nghiệp
DNCP: Doanh nghiệp cổ phần
DNNN: Doanh nghiệp nhà nước
HĐQT: Hội đồng quản trị
TNHH: Trách nhiệm hữu hạn
TBCN: Tư bản chủ nghĩa
UBND: Uỷ ban nhân dân
XHCN: Xã hội chủ nghĩa

4
MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài
Từ Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI (năm 1986), nước ta đã chuyển
từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang phát triển nền kinh tế hàng hóa
nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước
theo định hướng XHCN. Trong sự nghiệp đổi mới đất nước, trên lĩnh vực
kinh tế, Đảng và Nhà nước đã có chủ trương về sắp xếp và đổi mới các
DNNN. Hàng loạt các giải pháp đã được tiến hành, trong đó có giải pháp
chuyển đổi một số DNNN thành CTCP hay CPH các DNNN. Đây được coi là
trọng tâm của quá trình sắp xếp, đổi mới DNNN ở Việt Nam. Vai trò của
CPH DNNN đã được khẳng định cả về lý luận và thực tiễn, là nhân tố thúc
đẩy phát triển của kinh tế thị trường định hướng XHCN, đẩy mạnh hội nhập

kinh tế quốc tế của Việt Nam.
Quá trình thực hiện CPH DNNN đã đạt được những kết quả bước đầu
rất quan trọng, khẳng định sự đúng đắn, sáng tạo trong chủ trương sắp xếp,
đổi mới DNNN của Đảng và Nhà nước. Tuy nhiên, tốc độ CPH DNNN còn
chậm so với yêu cầu đặt ra; bên cạnh những chuyển biến tích cực trong tổ
chức hoạt động sản xuất - kinh doanh của công ty cổ phần, cũng đã nảy sinh
nhiều vấn đề vướng mắc cần tháo gỡ.
Có những vấn đề mới phát sinh, nếu không giải quyết kịp thời, sẽ ảnh
hưởng không chỉ đến các DNNN đã CPH mà còn ảnh hưởng đến tiến trình
CPH những DNNN còn lại. Thực tiễn đang đòi hỏi Đảng và Nhà nước nói
chung, bộ, ngành, các nhà nghiên cứu, các nhà kinh tế nói riêng tập trung
công sức, trí tuệ để nâng cao chất lượng hoạt động của DNNN sau CPH. Do

5
đó “Hoạt động của doanh nghiệp nhà nƣớc sau cổ phần hóa ở nƣớc ta
hiện nay” được chọn làm đề tài của luận văn này.
2. Tình hình nghiên cứu
Tuy Việt Nam tiến hành thí điểm CPH DNNN từ năm 1992, nhưng
hiện nay nó vẫn mang tính thời sự. Đã có nhiều công trình nghiên cứu đề cập
đến vấn đề CPH DNNN. Như: “Cơ sở khoa học của việc chuyển một số
DNNN thành CTCP ở Việt Nam”- Chương trình khoa học cấp Nhà nước mã
số KX 03.07.05 do Bộ Tài chính chủ trì năm 1993; “CTCP và chuyển DNNN
thành CTCP”- Sách chuyên khảo do PTS Đoàn Văn Hạnh biên soạn, NXB
Thống kê, Hà Nội, 1998; “Tiến trình và triển vọng CPH DNNN ở Việt Nam”
tác giả Trần Công Bảng đăng trên Tạp trí Kinh tế phát triển tháng 3/1998;
“Thách thức và triển vọng đối với DNNN khi chuyển sang hoạt động theo
luật DN (năm 2005)” của tác giả Hồ Xuân Hùng đăng trên Tạp Chí Cộng Sản
tháng 7/2006; “Đẩy mạnh cổ phần hóa DNNN ở nước ta”- Luận văn thạc sĩ
của Đặng Ngọc Hiếu, 2006. Những công trình nghiên cứu đó tuy đề cập đến
nhiều khía cạnh khác nhau của quá trình CPH DNNN, nhưng tập trung nghiên

cứu về tiến trình CPH DNNN; hoặc mang tính tổng kết theo giai đoạn của
tiến trình CPH. Có rất ít công trình nghiên cứu, tổng kết những thành tựu, hạn
chế và nguyên nhân của nó ở DNNN sau CPH, nhất là những vấn đề kinh tế,
xã hội đặt ra cho DNNN đã thực hiện CPH ở nước ta hiện nay. Trên cơ sở kế
thừa những thành tựu khoa học của các công trình nghiên cứu trước đây, luận
văn tập trung làm rõ triển vọng và những vấn đề đặt ra đối với DNNN sau
CPH. Từ đó, luận văn đề xuất những phương hướng; giải pháp để nâng cao
hiệu quả sản xuất, kinh doanh của DNNN sau CPH ở nước ta.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
* Mục đích của luận văn:

6
Khái quát những thành tựu, hạn chế và những vấn đề đặt ra của DNNN
trong và sau khi CPH; trên cơ sở đó luận giải những phương hướng và giải
pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của DNNN sau CPH ở nước ta hiện
nay.
* Nhiệm vụ của luận văn:
- Đánh giá những thành tựu và hạn chế của DNNN sau CPH ở nước ta
trong những năm qua.
- Đề xuất những phương hướng và giải pháp để nâng cao hiệu quả hoạt
động của DNNN sau CPH ở nước ta hiện nay.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Quán triệt những vấn đề lý luận và thực tiễn; những vấn đề kinh tế và
tổ chức, để nghiên cứu, phân tích dưới góc độ kinh tế chính trị học hoạt động
của DNNN trong quá trình CPH. Đồng thời đề tài tập trung chủ yếu vào việc
phân tích hoạt động của DNNN sau CPH ở nước ta hiện nay để đề xuất những
phương hướng và giải pháp nâng cao chất lượng hoạt động của DNNN sau
CPH ở nước ta hiện nay.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng phương pháp nghiên cứu của chủ nghĩa duy vật biện

chứng, chủ nghĩa duy vật lịch sử và những phương pháp đặc trưng của kinh tế
chính trị học như phương pháp trừu tượng hóa khoa học, lôgíc kết hợp với
lịch sử, phân tích và tổng hợp để thực hiện những nhiệm vụ của đề tài đặt ra.
Phạm vi nghiên cứu của đề tài khá rộng, cần quán triệt sâu sắc quan
điểm của Đảng về CPH DNNN, các vấn đề nghiên cứu phức tạp, trong khi
khảo sát, nghiên cứu thực tế, luận văn sử dụng các phương pháp như: phương
pháp điều tra thống kê - so sánh, phương pháp phân tích, tổng hợp, quy nạp
để làm sáng tỏ các nội dụng của đề tài.

7
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
gồm 2 chương, 6 tiết.
Chương 1: Những thành tựu và hạn chế của các doanh nghiệp nhà nước
và quá trình cổ phần hóa ở Việt Nam.
Chương 2: Phương hướng và giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt
động của doanh nghiệp nhà nước sau cổ phần hóa ở Việt Nam.















8
Chƣơng 1
NHỮNG THÀNH TỰU VÀ HẠN CHẾ CỦA CÁC DOANH NGHIỆP
NHÀ NƢỚC VÀ QUẤ TRÌNH CỔ PHẦN HÓA Ở VIỆT NAM

1.1. Một số vấn đề lý luận về công ty cổ phần và cổ phần hóa doanh
nghiệp nhà nƣớc
Từ nửa cuối thế kỉ XIX trong lòng chủ nghĩa tư bản với chế độ sở hữu
tư nhân về tư liệu sản xuất đang thống trị đã bắt đầu xuất hiện một loại hình xí
nghiệp mới - xí nghiệp cổ phần hay công ty cổ phần, mà sở hữu trong đó là
của các cổ đông .
Trong tập III Bộ “ Tư bản” [37] Mác và Ăng-ghen đã tiên đoán về hai
khuynh hướng quan trọng của sự xuất hiện các công ty cổ phần trong xã hội
tư sản :
Thứ nhất, dưới chủ nghĩa tư bản, C.Mác chỉ ra rằng công ty cổ phần ra
đời là sự manh nha của một hình thức sản xuất mới, sẽ đưa đến việc lập ra chế
độ độc quyền và đưa đến sự can thiệp của nhà nước tư sản. Khi xuất bản tác
phẩm này (1894) Ph. Ăng-ghen có bổ sung thêm một số ý như: Các-ten ra đời
xoá bỏ tự do cạnh tranh. Trong một số ngành mà trình độ sản xuất cho phép
làm được, người ta đi đến tập hợp toàn bộ sản xuất của ngành đó vào một
công ty cổ phần lớn duy nhất có một sự lãnh đạo thống nhất ( ví dụ, sản xuất
a-mô-ni-ắc của cả nước Anh vào tay một hãng duy nhất, tư bản lưu động được
đưa ra mời công chúng góp). Chính trong quá trình này sẽ phát sinh ra một
loại ăn bám mới,- “quí tộc tài chính” mới và cả một hệ thống “lừa đảo” và
“bịp bợm” về việc sáng lập, phát hành và buôn bán cổ phiếu.
Sự xuất hiện công ty cổ phần lần đầu tiên trong lịch sử của phương thức
sản xuất tư bản chủ nghĩa đã làm cho quyền sở hữu tư bản hoàn toàn tách rời

9

với chức năng của tư bản trong quá trình tái sản xuất thực tế. Tiền công lao
động của người quản lý cộng với lợi nhuận doanh nghiệp về tay nhà tư bản cổ
phần, tức là các cổ đông, được thu về dưới dạng lợi tức cổ phần.Thực chất
đây là tiền thù lao trả cho quyền sở hữu tư bản, biến những người sở hữu tư
bản thành những người sở hữu thuần tuý, nghĩa là những nhà tư bản - tiền tệ
thuần tuý. Những đặc điểm cổ điển của nhà tư bản đã được biến đổi thành
một người chỉ giản đơn điều khiển và quản lý tư bản của những người khác.
Thứ hai, xuất hiện những tiền đề thủ tiêu tư bản với tư cách là sở hữu
tư nhân ở ngay trong những giới hạn của bản thân phương thức sản xuất tư
bản chủ nghĩa. Các công ty cổ phần là điểm quá độ để biến tất cả các chức
năng của quá trình tái sản xuất hiện còn gắn liền với quyền sở hữu tư bản đơn
giản thành những chức năng của những người sản xuất liên hiệp, tức là thành
những chức năng xã hội. Công ty cổ phần ra đời là sự thủ tiêu phương thức
sản xuất tư bản chủ nghĩa ngay trong lòng phương thức sản xuất tư bản chủ
nghĩa. Ở đó, xuất hiện mâu thuẫn tự nó lại thủ tiêu nó và đây chính là giai
đoạn quá độ sang một phương thức sản xuất mới: “ một phương thức sản xuất
mới này phải nảy ra và phát triển trên cơ sở một phương thức sản xuất
cũ”[38].
Theo C.Mác, chính bản thân những công ty cổ phần của công nhân
như là một loại nhà máy hợp tác, và đây chính là một lỗ thủng đầu tiên trong
hình thái kinh tế tư bản chủ nghĩa. Sự đối kháng giữa lao động làm thuê và
chủ tư bản đã được xoá bỏ trong phạm vi những nhà máy hợp tác đó; mặc dầu
ban đầu nó chỉ được xóa bỏ bằng cách biến những người lao động liên hiệp
thành những “nhà tư bản” với chính bản thân mình. Nghĩa là cho họ“ có thể
dùng tư liệu sản xuất để bóc lột lao động của chính họ”.
Thực chất của quá trình hình thành các công ty cổ phần là sản
xuất tư nhân không còn có sự kiểm soát của quyền sở hữu tư nhân. Những tư

10
liệu sản xuất này sẽ không còn là tư liệu và sản phẩm của nền sản xuất tư

nhân nữa, mà sẽ chỉ có thể là tư liệu sản xuất trong tay những người sản xuất
liên hiệp, tức là chỉ có thể là sở hữu xã hội của họ, cũng như chúng là sản xuất
xã hội của họ.
C. Mác đã nhận xét: "Trong các CTCP, chức năng tư bản tách rời
quyền sở hữu tư bản; và do đó lao động cũng vậy, nó hoàn toàn tách rời với
quyền sở hữu về tư liệu sản xuất và về lao động thặng dư. Đó là kết quả của
sự phát triển cao nhất của nền sản xuất tư bản chủ nghĩa, là điểm quá độ tất
nhiên để tư bản lại chuyển thành sở hữu của những người sản xuất, nhưng
không phải với tư cách là sở hữu tư nhân của những người sản xuất riêng lẻ
nữa, mà với tư cách là sở hữu của những người sản xuất liên hiệp, thành sở
hữu xã hội trực tiếp" [38, tr.668].
Cả hai khuynh hướng trên, tức là những xí nghiệp cổ phần tư bản chủ
nghĩa, cũng như những nhà máy hợp tác, theo C.Mác, đều phải được coi là
những hình thái qua độ từ phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa sang
phương thức sản xuất tập thể. Nhưng điểm khác nhau căn bản giữa hai
khuynh hướng trên là trong xí nghiệp cổ phần tư bản chủ nghĩa, mâu thuẫn
được giải quyết một cách tiêu cực, còn trong những nhà máy hợp tác, mâu
thuẫn được giải quyết một cách tích cực.
Thời đó, C.Mác cũng đã đề cập đến các xí nghiệp của các nhà nước tư
sản cũng có thể trở thành các công ty cổ phần để tăng thêm quy mô sản xuất
của chúng. Vì rằng, công ty cổ phần ra đời đã làm cho quy mô sản xuất có thể
được tăng lên, mở rộng một cách to lớn, đến nỗi những tư bản riêng lẻ không
thể làm nổi. Ngay cả những xí nghiệp của nhà nước (của chính phủ) cũng
được tổ chức thành công ty cổ phần, tham gia vào công ty cổ phần.
Trong quá trình phát triển lịch sử của chủ nghĩa tư bản, do những điều
chỉnh thích nghi để bảo vệ lợi ích của giai cấp tư sản, cố gắng duy trì sự tồn

11
tại của chủ nghĩa tư bản trên thế giới nên khuynh hướng thứ nhất đã trở nên
mạnh mẽ hơn. Chủ nghĩa tư bản từ giai đoạn tự do cạnh tranh đã chuyển

thành chủ nghĩa tư bản độc quyền, tức chủ nghĩa đế quốc.
Ở các tác phẩm V.I.Lê-nin, các hình thức của công ty cổ phần ít được
bàn đến, ngay cả trong quá trình thực hiện chính sách kinh tế mới. Quá trình
này, V.I.Lê-nin đã đề cập rất nhiều đến CNTB độc quyền Nhà nước và sự vận
dụng sáng tạo trong điều kiện, hoàn cảnh cụ thể của nước Nga (thành phần
kinh tế CNTB nhà nước). Trong đó, V.I.Lê-nin cho rằng, việc nhà nước Xô-
viết có thể chỉ cần nắm khoảng 25% cổ phần là có thể chi phối được các cổ
đông tư nhân khác trong các xí nghiệp thuộc thành phần kinh tế chủ nghĩa tư
bản Nhà nước. Một luận điểm rất đáng lưu ý của V.I.Lê-nin những năm 20
của thế kỷ XX về các hình thức hợp tác xã được thể hiện trong tác phẩm “Bàn
về chế độ hợp tác xã” là dưới CNTB tư nhân, xí nghiệp hợp tác xã khác với xí
nghiệp TBCN, cũng như xí nghiệp tập thể khác với xí nghiệp tư nhân. Dưới
CNTB Nhà nước, xí nghiệp hợp tác xã khác với xí nghiệp TB Nhà nước,
trước hết ở chỗ nó là xí nghiệp tư nhân, sau nữa ở chỗ nó là xí nghiệp tập thể.
Dưới chế độ hiện nay của chúng ta, xí nghiệp hợp tác xã khác với xí nghiệp
TB tư nhân ở chỗ nó là xí nghiệp tập thể, nhưng nó không khác với xí nghiệp
XHCN, nếu miếng đất trên đó nó được xây dựng và những tư liệu sản xuất
đều thuộc về Nhà nước, nghĩa là về giai cấp công nhân [39].
Như vậy, chứng tỏ sự xuất hiện công ty cổ phần về mặt lịch sử là bước
tiến từ sở hữu tư nhân lên sở hữu tập thể của các cổ đông. Còn ở nước ta, việc
thiết lập mới các công ty cổ phần hay Cổ phần hoá một số doanh nghiệp Nhà
nước hiện nay không phải là tư nhân hoá mà là sự hình thành các doanh
nghiệp đa sở hữu cho mọi thành phần kinh tế có thể tham gia, hợp tác cùng
chia sẻ trách nhiệm, chia sẻ rủi ro thị trường và cùng hưởng lợi trong điều
kiện có Đảng Cộng sản lãnh đạo, Nhà nước XHCN quản lý.

12
Ở nước ta, ngoài quá trình hình thành các công ty cổ phần từ những cổ
đông là các chủ sở hữu vốn tư nhân lập nên theo Luật Doanh nghiệp, thì quá
trình Cổ phần hoá Doanh nghiệp nhà nước, - một bộ phận rất quan trọng các

công ty cổ phần được hình thành từ những Doanh nghiệp Nhà nước có chế độ
sở hữu của toàn dân mà người đại diện cho chủ sở hữu toàn dân đó là Nhà
nước.
Chủ trương của Đảng về việc triển khai tích cực và vững chắc cổ phần
hoá một bộ phận doanh nghiệp Nhà nước từ ĐHVIII của Đảng đã khẳng định
cổ phần hoá “…không phải để tư nhân hoá”. Thế nhưng, chính sự khác nhau
về quá trình dẫn đến sự hình thành các Công ty cổ phần theo trình tự khách
quan và trong thực tiễn cải cách doanh nghiệp nhà nước ở nước ta đã làm cho
không ít người (kể cả trong và ngoài nước) lầm tưởng rằng, cổ phần hoá
doanh nghiệp Nhà nước là tư nhân hoá. Những nhận thức như vậy, cùng với
những vướng mắc và thiếu sót, lệch lạc trong quá trình cổ phần hoá đang có
tác động không thuận đến quá trình tiến hành cổ phần hoá trên thực tế với các
biểu hiện như sau:
Việc bán cổ phần thiếu công khai, minh bạch còn khép kín trong nội bộ
doanh nghiệp ở một số trường hợp đã dẫn tới những yếu kém của doanh
nghiệp Nhà nước sau cổ phần hóa và chậm được khắc phục.
Chần chừ không muốn cổ phần hoá để cố trì hoãn sự tồn tại của doanh
nghiệp Nhà nước với mục đích đeo bám lấy “bầu sữa” của bao cấp, không
dám nghĩ, dám làm, mặc dù hiệu quả hoạt động thấp, kéo dài nhiều năm.
Không ít cán bộ cấp trên sợ mất quyền quản lý đối với doanh nghiệp
trực thuộc, vì gắn với nó là lợi ích cá nhân, cục bộ.

13
Tìm cách đánh giá sai, thiếu công tâm, khách quan giá trị thực với số
tài sản có của Doanh nghiệp Nhà nước thuộc diện cổ phần hoá theo hướng có
lợi cho một số cá nhân.
Khi tiến hành cổ phần hoá xong, tìm mọi cách để thôn tính dần số cổ
phiếu của cổ đông là Nhà nước, mua gom số cổ phiếu khác dưới nhiều thủ
đoạn rất tinh vi dẫn đến thâu tóm quyền lực, thao túng công ty cổ phần dưới
nhiều hình thức.

Lo ngại rằng sau khi công nhân được bán ưu đãi cổ phiếu sẽ đem bán
cổ phiếu cho những người đầu cơ cổ phiếu.
Lo sợ các công ty, các nhà tư bản nước ngoài đầu cơ cổ phiếu để thao
túng doanh nghiệp cổ phần hoá mà không hiểu rằng, chỉ có một số doanh
nghiệp Nhà nước khi được đưa vào thực hiện cổ phần hoá, thì trong đó cũng
đã quy định một lượng cổ phiếu nhất định được bán ra bên ngoài và khống
chế tỷ lệ phần trăm cổ phiếu tối đa của một cổ đông được quyền nắm giữ với
mục đích là để huy động thêm vốn, công nghệ và kĩ thuật quản lý sản xuất,
kinh doanh, thị trường
Lo ngại cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước sẽ dẫn đến “chệch hướng”,
mà không nhận thức được rằng, nếu không có giải pháp hữu hiệu để đẩy
nhanh tốc độ phát triển của đất nước thì tụt hậu xa hơn về kinh tế cũng là một
nguy cơ đối với sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
Những biểu hiện trên không phải không có cơ sở, nhưng không thể vì
những lo ngại đó và vì những lợi ích cục bộ mà chần chừ thiếu kiên quyết
“đẩy nhanh tiến độ cổ phần hoá và mở rộng diện các doanh nghiệp Nhà nước
cần cổ phần hoá” như nghị quyết Hội nghị Trung ương 9 (khoá IX) và chỉ thị
45/ CT - TW của Đảng đã chỉ rõ. Cần khẳng định rằng trong điều kiện Đảng
lãnh đạo và Nhà nước quản lý, cổ phần hoá ở nước ta về bản chất không phải

14
là tư nhân hoá.Tuy nhiên, chúng ta cần tăng cường chỉ, đạo kiểm tra, tổng kết,
rút kinh nghiệm quá trình cổ phần hoá vừa qua, uốn nắn kịp thời những lệch
lạc, hoàn thiện cơ chế, chính sách để thực hiện ngày càng tốt hơn, hiệu quả
hơn công tác cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước.
Mặt khác, phải thấy rằng quá trình CPH một số DNNN ở nước ta, tuy
là quá trình chuyển đổi một bộ phận thuộc sở hữu xã hội, sở hữu toàn dân
thành đa sở hữu, nhưng về bản chất đây là một nội dung quan trọng của quá
trình hoàn thiện quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ của lực
lượng sản xuất). Cụ thể là tìm tòi hình thức quản trị CTCP vừa phát huy

quyền lợi thiết thân và trách nhiệm đầy đủ của người lao động, cổ đông, hội
đồng quản trị của công ty cổ phần vừa bảo đảm quản lý một cách dân chủ,
nâng cao hiệu quả sử dụng những tài sản của doanh nghiệp, trong đó có một
phần đáng kể hay cổ phần chi phối sở hữu nhà nước.
Từ sở hữu của của một chủ sở hữu là nhà nước đối với tài sản của
doanh nghiệp sau khi chuyển sang CTCP thì chuyển thành hình thức đa sở
hữu, nhưng tựu chung cũng chỉ có một số hình thức cụ thể như sau:
Các hình thức cổ phần hóa trong đó nhà nước đều có tham gia cổ phần,
như giữ nguyên giá trị của doanh nghiệp, kêu gọi thêm vốn bằng cách phát
hành cổ phiếu; hoặc vừa bán một phần vốn vừa phát hành thêm cổ phiếu;
Bán một phần tài sản của doanh nghiệp dưới hình thức bán cổ phiếu;
CPH một bộ phận của doanh nghiệp tuỳ theo đặc thù của quy trình
công nghệ, CPH một công ty hoặc một tổng công ty.
Các hình thức cổ phần hóa nêu trên đều có tỷ trọng sở hữu của nhà
nước hoặc là nhà nước nắm giữ cổ phiếu không chế (tối thiểu 51%) hoặc
không nắm giữ cổ phiếu khống chế, hoặc không cần nắm giữ cổ phần.

15
Loại hình doanh nghiệp cổ phần hóa mà Nhà nước lấy lại toàn bộ vốn
bằng cách bán toàn bộ doanh nghiệp cho người lao động.
Chúng ta biết rằng dù dưới hình thức nào khi chuyển sang công ty cổ
phần là tạo ra các doanh nghiệp đa sở hữu, trong đó người lao động có sở hữu
thực sự, từ đó tạo ra quyền làm chủ đích thực của họ đối với doanh nghiệp.
Khi có lợi ích thiết thân của chính họ, sự giám sát tập thể đối với quá trình
hoạt động sản xuất kinh doanh sẽ được tăng cường và chính quá trình này
cũng tạo ra cơ chế phân phối hài hoà giữa nhà nước, doanh nghiệp và người
lao động. Trên cơ sở đó hiệu quả và sức cạnh tranh của doanh nghiệp sẽ có
điều kiện nâng dần lên. Trong tương lai sở hữu cổ phần sẽ trở thành phổ biến
trong xã hội, thì vai trò làm chủ của người lao động dưới hình thức “tham dự”
cổ phiểu đối với sở hữu xã hội về vốn và tư liệu sản xuất, hi vọng, sẽ khắc

phục được những hạn chế của hình thức sở hữu toàn dân theo kiểu “vô chủ”
như đã từng diễn ra.
Như vậy, về mặt lý luận, chúng ta có thể chứng minh được rằng nội
dung và bản chất quá trình cổ phần hoá ở nước ta không phải là tư nhân hoá.
Riêng hình thức thứ tư, bán toàn bộ tài sản doanh nghiệp, ý kiến cho đây là tư
nhân hóa dựa vào mấy lý do sau: Trước hết, về mặt hình thức là bán toàn bộ
tài sản nhà nước cho cá nhân; tiếp theo là giả sử người lao động nắm cổ phần
rồi nhưng sau một thời gian do quá trình trao đổi tích tụ, đầu cơ trên thị
trường chứng khoán nên số cổ phiếu ấy có thể sẽ dồn lại cho một số ít các cá
nhân. Điều lo ngại đó là chính đáng, nhưng cũng phải thấy rằng, trong kinh tế
thị trường quyền bán là có thể quy định được bằng các văn bản pháp luật,
nhưng giá trị của cổ phiếu lại hoàn toàn lệ thuộc vào hiệu quả hoạt động của
công ty cổ phần, nó có thể lên đến hàng trăm lần giá giao dịch ban đầu, nhưng
cũng có thể chỉ còn là một mớ “giấy lộn” nếu doanh nghiệp tiếp tục hoạt động
kém hiệu quả dẫn đến nguy cơ phá sản.

16
Tinh thần chỉ đạo của các Nghị quyết Hội nghị TW 3 và 9 (Khoá IX)
cũng như hoạch định chính sách, những vấn đề nêu lên trong quá trình cổ
phần hoá đã được lường trước và đã tính đến việc làm sao dành một phần vốn
của Nhà nước để lại cho doanh nghiệp trong quá trình bán nhằm tạo ra một
lượng cổ phiếu không chia dành cho người lao động (nghĩa là vốn Nhà nước
nhưng được hưởng cổ tức)…
Theo đó Nhà nước giành 30% tài sản của doanh nghiệp để hình thành
các cổ phần ưu đãi cho người lao động. Điều này trong thực tế hiện nay các
doanh nghiệp được cổ phần hoá thì tỷ lệ đó thậm chí còn cao hơn khi tạo ra
các cổ phiếu không chia.
Như vậy, cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước chính là tạo điều kiện
cho Nhà nước tập trung nắm những ngành, những lĩnh vực then chốt của nền
kinh tế, cũng như những lĩnh vực mà khu vực kinh tế tư nhân không thể hoạt

động hiệu quả được. Và như vậy, bán toàn bộ tài sản chỉ được áp dụng đối với
những ngành, những lĩnh vực, những doanh nghiệp mà Nhà nước không cần
nắm giữ. Nhà nước bán doanh nghiệp là nhằm thu hồi vốn về cho Nhà nước.
Quan điểm khi thực hiện cổ phần hoá là lĩnh vực nào các thành phần kinh tế
khác có khả năng đem lại hiệu quả cao hơn so với doanh nghiệp nhà nước mà
Nhà nước không cần nắm giữ 100% vốn thì mạnh dạn thực hiện bởi Đảng ta
coi các thành phần kinh tế đều là một bộ phận cấu thành quan trọng của nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Phát triển kinh tế nhiều thành
phần là để không ngừng nâng cao hiệu quả và năng lực cạnh tranh của các
thành phần kinh tế, tạo môi trường kinh doanh, - sân chơi do Nhà nước tạo ra,
bảo đảm sự bình đẳng trong cạnh tranh để đạt được hiệu quả cao, phát triển
nhanh và bền vững của toàn bộ nền kinh tế quốc dân.
Việc phát huy vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước chính là để bảo
đảm chắc chắn cho mục tiêu phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững nền kinh

17
tế quốc dân. Nghị quyết Hội nghị Trung ương 3 (Khoá IX) nêu rõ: “Kinh tế
nhà nước có vai trò quyết định trong giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa,
ổn định và phát triển kinh tế, chính trị, xã hội của đất nước”. Bởi vậy, có thể
nói, gấp rút nâng cao hiệu quả hoạt động và năng lực cạnh tranh của chính
bản thân doanh nghiệp Nhà nước là để góp phần thực hiện tốt mục tiêu trên.
Những biện pháp, giải pháp mà Trung ương đã đề ra có chung một mục tiêu
như vậy. Chương trình hành động của Chính phủ, các đề án sắp xếp, đổi mới,
nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước của các ngành, các địa phương đã
đưa ra lộ trình cụ thể. Hy vọng rằng tới đây cùng với việc thực hiện thành
công 104 đề án sắp xếp đổi mới doanh nghiệp nâng cao hiệu quả của doanh
nghiệp nhà nước; cũng như rà soát và xem xét các lĩnh vực mà doanh nghiệp
Nhà nước cần nắm giữ theo tinh thần Nghị quyết Hội nghị Trung ương 9
(Khoá IX) của Đảng và Quyết định số 155QĐ/TTg ngày 24/8/2004 của Thủ
tướng Chính phủ và các bộ, ngành, địa phương sẽ tạo điều kiện tốt hơn để các

doanh nghiệp nhà nước nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh và sức cạnh
tranh cùng với khả năng hội nhập kinh tế quốc tế.
1.2. Tình hình doanh nghiệp nhà nƣớc ở Việt Nam trƣớc cổ phần
hóa
1.2.1. Khái niệm về doanh nghiệp nhà nƣớc
Mọi nhà nước đều có chức năng kinh tế. Chức năng này được thực hiện
ở mức độ khác nhau, tuỳ theo giai đoạn phát triển. Nhìn chung, chức năng
kinh tế của nhà nước luôn gắn liền và thể hiện qua các hoạt động kinh tế của
Nhà nước trên cơ sở tiềm lực vật chất của Nhà nước. Nhà nước cần có lực
lượng vật chất mạnh trong tay để điều tiết sự phát triển của toàn bộ nền kinh
tế, làm cho nền kinh tế phát triển theo hướng đã định. DNNN là một lực
lượng có vai trò, vị trí rất quan trọng của Nhà nước để thực hiện sự điều tiết
ấy.

18
Trên thế giới, quan niệm về DNNN cũng rất khác nhau. Hiện nay,
nhiều nhà kinh tế trên thế giới quan niệm rằng, DNNN là thực thể kinh tế
thuộc sở hữu hay thuộc quyền kiểm soát của Chính phủ mà phần lớn thu nhập
của nó được tạo ra thông qua việc bán các hàng hoá và dịch vụ.
Trong điều kiện cơ chế kế hoạch hoá tập trung, DNNN ở Việt Nam-
được gọi là DN quốc doanh, chiếm vai trò độc tôn trong nền kinh tế. Đây là
DN hạch toán kinh tế theo nguyên tắc “bao cấp”. Khi chuyển sang cơ chế thị
trường định hướng XHCN, việc cải cách, đổi mới cơ chế đối với DNNN luôn
là vấn đề trọng tâm. Kết quả là các DNNN không những thay đổi về nguyên
tắc hỗ trợ, cơ chế và hạch toán mà còn thay đổi cả cơ cấu sở hữu, phát triển
một số hình thức đan xen sở hữu mới. Do vậy, Luật DNNN ban hành ngày
30/4/1995, lần đầu tiên Việt Nam đã đưa ra khái niệm có tính pháp lý về
DNNN là: DNNN là tổ chức kinh tế do Nhà nước đầu tư vốn, thành lập và tổ
chức quản lý, hoạt động kinh doanh hoặc hoạt động công ích nhằm thực hiện
các mục tiêu kinh tế - xã hội do Nhà nước giao. DNNN có tư cách pháp nhân,

có các quyền và nghĩa vụ dân sự, tự chịu trách nhiệm về toàn bộ hoạt động,
kinh doanh trong phạm vi số vốn do DN quản lý.
Luật Doanh nghiệp nhà nước (năm 2003) định nghĩa: Doanh nghiệp
nhà nước là tổ chức kinh tế do Nhà nước sở hữu toàn bộ vốn điều lệ hoặc có
cổ phần, vốn góp chi phối, được tổ chức dưới hình thức công ty nhà nước,
công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn [43] .
Luật Doanh nghiệp (năm 2005) áp dụng chung cho tất cả các loại hình
doanh nghiệp, định nghĩa DN là tổ chức kinh tế có tên riêng, có tài sản, có trụ
sở giao dịch ổn định, được đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật
nhằm mục đích thực hiện các hoạt động kinh doanh. Trong số nhiều loại hình
doanh nghiệp thuộc sự điều tiết của Luật Doanh nghiệp thì Doanh nghiệp nhà
nước là doanh nghiệp trong đó Nhà nước sở hữu trên 50% vốn điều lệ [43].

19
Xét về mặt lịch sử, khái niệm về DNNN đã có nhiều thay đổi. Quá trình
hình thành và phát triển DNNN ở Việt Nam từ khi giành được độc lập ở miền
Bắc năm 1954 và thống nhất đất nước năm 1975 cho đến thời kỳ trước đổi
mới, gắn liền với lịch sử đấu tranh giành độc lập dân tộc và xây dựng CNXH
theo mô hình kế hoạch tập trung, quan liêu bao cấp. Đầu tiên, các DNNN
được hình thành từ việc quốc hữu hoá các xí nghiệp tư bản tư nhân hoặc tiếp
quản các DN của chính quyền cũ để lại. Một số DN trong quá trình cải tạo
XHCN theo mô hình công - tư hợp doanh, mặc dù không được quốc hữu hoá
trực tiếp bằng pháp lý, nhưng trên thực tế do áp đặt cơ chế kiểu quốc doanh
dần dần cũng bị biến thành DNNN. Tuy nhiên, số lượng các DNNN loại này
không nhiều và trên thực tế sau khi trở thành DNNN đã được Nhà nước tiếp
tục đầu tư phát triển mạnh về quy mô. Loại thứ hai được hình thành do Nhà
nước đầu tư trực tiếp từ ngân sách nhà nước hoặc vốn viện trợ xây dựng mới.
Các DNNN thuộc lĩnh vực này dần dần chiếm lĩnh các ngành kinh tế công
nghiệp và dịch vụ quan trọng. Các DNNN thuộc lĩnh vực công nghiệp này sử
dụng công nghệ và thiết bị chủ yếu là ngoại nhập (chủ yếu từ hệ thống các

nước XHCN (cũ), nhất là Liên Xô (cũ) và Trung Quốc). Trong lĩnh vực nông,
lâm nghiệp, các DNNN được thành lập ở các địa bàn ít dân cư, cần khai thác
tài nguyên đất, rừng với các ngành nghề khác nhau, chủ yếu là trồng và khai
thác gỗ, các cây công nghiệp dài ngày. Các DNNN do chính quyền địa
phương đầu tư vào giữa thập kỷ 80 thế kỷ XX, chủ yếu thuộc lĩnh vực thương
mại, dịch vụ, cơ khí sửa chữa, hầu hết có quy mô nhỏ, năng suất, chất lượng,
hiệu quả hoạt động không cao.
Nhìn chung, đến năm 1990, với 12.084 DNNN chiếm giữ hầu như toàn
bộ các ngành công nghiệp: năng lượng như điện lực, dầu khí,…; khai khoáng,
luyện kim, chế tạo máy, dược phẩm, sản xuất xi măng, phân bón, thuốc trừ
sâu, hoá chất, công nghiệp phục vụ quốc phòng. Trong các ngành sản xuất

20
hàng tiêu dùng thiết yếu, DNNN cũng chiếm tỷ lệ áp đảo, như vải: 70%, giấy:
85%, xe đạp: 70%, xà phòng: 60%. Các ngành xây dựng, vận tải gồm hàng
không, đường sắt, đường biển, xuất nhập khẩu,… DNNN chiếm tuyệt đối
(độc quyền)
1.2.2. Tình hình hoạt động của doanh nghiệp nhà nƣớc
trƣớc cổ phần hóa
1.2.2.1. Kinh tế nhà nước là lực lượng mạnh và nắm giữ những khâu
then chốt trong nền kinh tế quốc dân
Tuy hệ thống DNNN có sự thu gọn đầu mối, nhưng tốc độ tăng trưởng
của nó vẫn cao hơn tốc độ tăng trưởng chung của cả nền kinh tế quốc dân và
cao hơn tốc độ của khu vực tư nhân (không kể khu vực đầu tư nước ngoài).
DNNN cũng thể hiện được vị trí tiên phong ở các lĩnh vực kết cấu hạ tầng,
đầu tư mới, xuất nhập khẩu, hợp tác với nước ngoài,… và có đóng góp lớn
vào thành công của Việt Nam trong kiểm soát lạm phát, đối phó với ảnh
hưởng tiêu cực của khủng hoảng tài chính, tiền tệ thế giới cũng như nâng cao
mức sống cho người dân. Thông qua đầu tư của Nhà nước vào các vùng sâu,
vùng xa, nhất là vùng đồng bào dễ bị tổn thương do thiên tai, dịch bệnh đã

tạo được điều kiện mở mang ngành nghề, nâng cao thu nhập, chuyển dịch cơ
cấu kinh tế, phân bố lại dân cư theo hướng CNH, HĐH, thúc đẩy kinh tế hàng
hoá phát triển, từng bước hình thành các vùng nông thôn kiểu mới. Có nhiều
DNNN làm ăn có lãi, đạt lợi nhuận cao, được suy tôn là đơn vị anh hùng thời
kỳ đổi mới, thực sự là tấm gương cho các thành phần kinh tế khác. Kinh tế
Nhà nước luôn được đánh giá là nền tảng cho công cuộc đổi mới của nước ta.
1.2.2.2. Những yếu kém và bất cập của khu vực kinh tế nhà nước
Một là, năng lực cạnh tranh, hiệu quả chung của khu vực kinh tế nhà
nước chưa cao, thậm chí còn xuất hiện xu hướng giảm. Có nhiều ngành, sản

21
phẩm của DNNN đang được ưu đãi độc quyền, hoặc bảo hộ qua hàng rào thuế
quan, trợ cấp như ưu đãi tín dụng, miễn thuế… nhưng các DNNN vẫn chưa
chứng tỏ khả năng cạnh tranh của mình, thậm chí nhiều DN còn “nỗ lực” vận
động Nhà nước tăng cường các biện pháp bảo hộ mạnh hơn để duy trì việc
làm cho công nhân và thị phần. Theo một báo cáo của Bộ Kế hoạch và Đầu tư
năm 2000, các mặt hàng như sắt thép, phân bón, kính xây dựng, động cơ nổ…
đều được bảo hộ bằng cả công cụ thuế quan và phi thuế quan dẫn đến giá trên
thị trường Việt Nam cao hơn giá quốc tế 10-50% (tuỳ mặt hàng). Việt Nam
đang tăng tốc hội nhập kinh tế quốc tế, khả năng cạnh tranh kém của nhiều
DNNN dẫn đến việc Nhà nước phải chi phí rất lớn để nhằm duy trì các
DNNN.
Tình trạng không hiệu quả của không ít DNNN đã làm cho vốn của
Nhà nước không những sử dụng không hiệu quả mà còn bị thất thoát, làm
xuất hiện những ấn tượng không tốt về khu vực kinh tế này trong công luận.
Theo một báo cáo của Ban sắp xếp, đổi mới DNNN tháng 2/2000 cho thấy về
hiệu quả sử dụng vốn của DNNN có xu hướng giảm, cụ thể: năm 1995, một
đồng vốn tạo ra được 3,46 đồng doanh thu và 0,19 đồng lợi nhuận; đến năm
1998, các con số tương ứng chỉ còn 2,9 và 0,14. Năm 1998, trong ngành công
nghiệp, một đồng vốn chỉ làm ra được 0,024 đồng lợi nhuận; số DN bị lỗ

trong ngành thương mại, dịch vụ, du lịch, khách sạn chiếm tới 41%. Công nợ
trong DNNN rất lớn: nợ phải thu chiếm tới trên 60% và nợ phải trả bằng
124% vốn Nhà nước trong DN, trong đó tỷ lệ nợ quá hạn hoặc khó đòi chiếm
tỷ lệ lớn. Những DN này thường do địa phương quản lý. Mặc dù tình hình tài
chính của các DN như vậy, nhưng Nhà nước vẫn phải thường xuyên dành tiền
hỗ trợ cho DNNN. Chỉ tính riêng trong 3 năm 1997-1999, ngân sách Nhà
nước đã đầu tư cho các DN gần 8.000 tỷ đồng, trong đó có 6.482 tỷ đồng cấp
bổ sung 1.464,4 tỷ đồng là bù lỗ cho cá DN. Ngoài ra, Nhà nước còn miễn

22
giảm thuế 2.288 tỷ đồng, xoá nợ 1.088 tỷ đồng, khoanh nợ 3.392 tỷ đồng,
giãn nợ 540 tỷ đồng, cho vay vốn tín dụng ưu đãi 8.685 tỷ đồng.
Ngoài ra, theo số liệu của Bộ Tài chính năm 1997, trong tổng số 5.429
DNNN thì số kinh doanh có hiệu quả chỉ chiếm 40,44%, việc hỗ trợ vốn của
Nhà nước không mang lại hiệu quả như mong muốn. Số nộp vào ngân sách
nhà nước ít hơn phần Nhà nước hỗ trợ cho DN. Tình trạng không hiệu quả
của DNNN làm gia tăng tính an toàn của toàn bộ hệ thống tài chính, bởi vì
các DNNN là các khách hàng vay chủ yếu của 4 ngân hàng thương mại quốc
doanh.
Hai là, cơ cấu của kinh tế Nhà nước bất hợp lý, chưa thể hiện rõ là hạt
nhân của quá trình CNH, HĐH. Cơ cấu ngành, vùng, quy mô đều chưa được
chuyển dịch theo đúng định hướng. Xét về số lượng, tỷ trọng DNNN ở khu
vực nông nghiệp chiếm 25%; thương mại, dịch vụ chiếm 40%, còn lại là công
nghiệp. Như vậy, rõ ràng cơ cấu này bất hợp lý, vì cơ cấu hợp lý đòi hỏi
DNNN chủ yếu phải tập trung vào lĩnh vực công nghiệp, nhất là công nghiệp
chế biến, chế tạo. Cơ cấu cấp cũng bất hợp lý, thể hiện ở chỗ tỷ trọng DN
thuộc địa phương quá cao, chiếm trên 60% về số lượng. Ngay cả quy mô cũng
bất hợp lý. Cụ thể, tính đến ngày 1/9/1999, số DNNN có quy mô dưới 5 tỷ
đồng chiếm đến 65%, trong đó gần 3/4 là DN do địa phương quản lý, có
1.314 DN (23%) có vốn dưới 1 tỷ đồng. Số DN có vốn trên 10 tỷ đồng chỉ

chiếm 21%.
Tuy kinh tế nhà nước được coi là “nòng cốt” của nền kinh tế, nhưng
phạm vi hoạt động của kinh tế nhà nước vẫn còn những tranh luận, chưa có sự
thống nhất, vai trò của kinh tế nhà nước chưa rõ, làm cho việc nâng cao hiệu
quả hoạt động của DNNN gặp không ít lúng túng. Do chưa xác định rõ những
lĩnh vực quan trọng, mũi nhọn mà các DNNN cần nắm giữ và những lĩnh vực
nào DNNN cần tập trung thực hiện trước, làm cho việc đầu tư bị dàn trải gây

23
ra sự lãng phí không nhỏ trong khu vực DNNN. Công nghệ trong khu vực
kinh tế nhà nước nhìn chung còn lạc hậu, tốc độ đổi mới chậm. Mặt khác, đa
phần cán bộ trong khu vực kinh tế nhà nước chưa được trang bị những kiến
thức về kinh tế thị trường và năng lực quản lý yếu.
Ba là, tình trạng “ưu ái”; đặc quyền trong một số DNNN đã ngăn cản
quá trình hình thành sự bình đẳng trong nền kinh tế nhiều thành phần. Hệ quả
của việc “ưu ái” các DNNN đó là dẫn đến sự phân bổ nguồn lực không hợp
lý, lãng phí và không đạt được hiệu quả như mong muốn. Mặt khác, việc bảo
hộ một số ngành của Nhà nước làm cho luồng vốn đầu tư nước ngoài chỉ tập
trung vào việc đi tìm kiếm siêu lợi nhuận ở những ngành này. Đồng thời, với
cơ chế xin - cho, làm cho bất công trong phân phối ngân sách và tín dụng
ngày càng gia tăng và tham nhũng ngày càng nặng nề. Cùng với đó cơ chế tổ
chức cán bộ ở DNNN là bổ nhiệm các chức danh, làm cho bộ máy của DNNN
cồng kềnh, kém hiệu quả
1.2.2.3. Nguyên nhân của những yếu kém trên
Sự điều hành của Nhà nước không đủ mạnh để ngăn chặn tình trạng
đầu tư không tính đến thị trường, không cân đối. Có những ngành hoặc địa
phương vẫn muốn tranh thủ càng nhiều vốn của Nhà nước để xây dựng những
DN, mặc dù chưa thật sự cần thiết. Ngành nào cũng cho rằng, “mình là mũi
nhọn”, cần được tập trung đầu tư. Không những thế, công việc xây dựng công
trình DNNN lại giao cho một ban quản lý dự án kém năng lực và thiếu trách

nhiệm, làm cho chất lượng công trình thấp, vốn đầu tư bị thất thoát.
Hầu hết các DNNN đều thiếu vốn trong hoạt động sản xuất, kinh
doanh, và cũng hầu hết các DN để có đủ vốn đều phải đi vay ngân hàng với
lãi suất thương mại. Vốn của Nhà nước thường chỉ chiếm khoảng 60% tổng
số vốn kinh doanh của DN, trong đó tại các tổng công ty 91 là 75%, tại các
DN do bộ, ngành quản lý là 45% và do địa phương quản lý là 50%. Xét về số

24
tuyệt đối, năm 1998, vốn nhà nước bình quân của 1 tổng công ty 91 là 3.661
tỷ đồng, nhưng có tới 14/17 tổng công ty 91 (chiếm 82%) có số vốn dưới mức
bình quân đó. Vốn của tổng công ty 90 còn thấp hơn, cụ thể bình quân 1 tổng
công ty 90 chỉ có 280 tỷ đồng, trong đó 80% số tổng công ty 90 có mức vốn
thấp hơn mức bình quân ấy; 35% số tổng công ty 90 có vốn nhà nước dưới
100 tỷ đồng. Khả năng trích lợi nhuận để lập quỹ phát triển sản xuất rất thấp.
Số vốn lưu động huy động cho kinh doanh chỉ khoảng 50%.
Trình độ công nghệ lạc hậu, phần lớn các DNNN được trang bị máy
móc từ các nước thuộc hệ thống XHCN từ những năm 50, 60 của thế kỷ 20,
và đa số chúng đã hết khấu hao.
Số lao động thiếu việc làm rất lớn. Theo báo cáo của Ban Chỉ đạo sắp
xếp, đổi mới DNNN tháng 2/2000, số lao động không có việc làm ở Hải
Dương là 33%; Nam Định 27%; Nghệ An 16%; Tổng công ty Thép 12%; Bộ
Thuỷ sản có 14% lao động dôi dư.
DN không được tự chủ về tài chính, làm cho DN không thể tự chủ
trong kinh doanh. Cơ quan chức năng quản lý tài sản của DNNN về cơ bản
vẫn đang thực hiện quyền quản lý theo kiểu cũ. Cơ chế tài chính và hạch toán
của DNNN bị những ràng buộc, chậm được sửa đổi. Những tài sản do DN tự
đầu tư từ nguồn tích luỹ hoặc vay ngân hàng để xây dựng đều bị coi là tài sản
của Nhà nước và buộc DN phải chịu thuế vốn.
Không được chủ động về nhân sự và tiền lương. DNNN vẫn không chủ
động được trong việc sắp xếp lại số lượng lao động, vì Nhà nước chưa có đủ

các chính sách phù hợp để giải quyết công ăn việc làm và đời sống của số lao
động thiếu việc làm. Chế độ tiền lương, các thang bậc lương trong DNNN vẫn
còn bất hợp lý giữa khu vực kinh doanh với khu vực hành chính sự nghiệp,…

×