Tải bản đầy đủ (.pdf) (138 trang)

Công đoàn dệt may trong việc thực hiện chức năng bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người lao động trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế (qua khảo sát một số doanh nghiệp Dệt May khu vực phía Bắc)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.57 MB, 138 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRUNG TÂM ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG GIẢNG VIÊN LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ




LÊ THỊ HẰNG






CÔNG ĐOÀN DỆT MAY TRONG VIỆC THỰC HIỆN
CHỨC NĂNG BẢO VỆ QUYỀN VÀ LỢI ÍCH HỢP PHÁP
CỦA NGƯỜI LAO ĐỘNG TRONG ĐIỀU KIỆN HỘI
NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ

(Qua khảo sát một số doanh nghiệp Dệt May khu vực phía Bắc)






LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC










HÀ NỘI - 2012
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRUNG TÂM ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG GIẢNG VIÊN LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ



LÊ THỊ HẰNG





CÔNG ĐOÀN DỆT MAY TRONG VIỆC THỰC HIỆN
CHỨC NĂNG BẢO VỆ QUYỀN VÀ LỢI ÍCH HỢP
PHÁP CỦA NGƯỜI LAO ĐỘNG TRONG ĐIỀU KIỆN
HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ
(Qua khảo sát một số doanh nghiệp Dệt May khu vực phía Bắc)




Chuyên ngành: Chủ nghĩa xã hội khoa học
Mã số: 60 22 85


LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC





Người hướng dẫn khoa học: TS. HOÀNG VĂN CẢNH






HÀ NỘI - 2012


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của
riêng tôi dưới sự hướng dẫn khoa học của TS. Hoàng
Văn Cảnh.
Các số liệu, tài liệu tham khảo trong luận văn đều
trung thực và có nguồn gốc xuất xứ rõ ràng.
Hà Nội, ngày tháng năm 2012.
Tác giả luận văn



Lê Thị Hằng












MỤC LỤC

MỞ ĐẦU
1
Chương 1.
LÝ LUẬN MÁC-LÊNIN VỀ CÔNG ĐOÀN VÀ CHỨC NĂNG BẢO
VỆ QUYỀN VÀ LỢI ÍCH NGƯỜI LAO ĐỘNG CỦA CÔNG ĐOÀN
10
1.1. Quan điểm của C.Mác, Ph.Ăngghen và V.I.Lênin về Công đoàn và
chức năng bảo vệ quyền, lợi ích người lao động của
Công đoàn 10
1.1.1. Quan điểm của C.Mác và Ph.Ăngghen về Công đoàn và chức
năng bảo vệ quyền, lợi ích người lao động của Công đoàn 10
1.1.2. Quan điểm của V.I.Lênin về Công đoàn và chức năng bảo vệ
quyền, lợi ích người lao động của Công đoàn 14
1.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về
Công đoàn và chức năng bảo vệ quyền, lợi ích của công nhân
lao động của Công đoàn Việt Nam 20
Chương 2.
THỰC TRẠNG THỰC HIỆN CHỨC NĂNG BẢO VỆ QUYỀN VÀ
LỢI ÍCH HỢP PHÁP CỦA NGƯỜI LAO ĐỘNG CỦA CÔNG ĐOÀN
DỆT MAY VIỆT NAM TRONG ĐIỀU KIỆN HỘI NHẬP KINH TẾ

QUỐC TẾ
45
2.1.
Khái quát ngành Dệt May và Công đoàn ngành Dệt May Việt Nam
trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế
45
2.1.1. Ngành Dệt May Việt Nam 45
2.1.2. Công đoàn Dệt May Việt Nam 50
2.1.3. Tác động của Hội nhập kinh tế quốc tế đối với ngành Dệt May
và Công đoàn Dệt May Việt Nam 51
2.2. Công đoàn Dệt May Việt Nam với việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của công nhân, lao động trong điều kiện hội nhập kinh tế
quốc tế 69
2.2.1. Vấn đề Việc làm và đời sống 70
2.2.2. Vấn đề nhà ở 76
2.2.3. Vấn đề ký kết và thực hiện Hợp đồng lao động, Thỏa ước lao
động tập thể 78
2.2.4. Vấn đề giải quyết tranh chấp lao động 95
Chương 3.
MỤC TIÊU VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP CHỦ YẾU NHẰM NÂNG
CAO HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG CÔNG ĐOÀN DỆT MAY TRONG
VIỆC BẢO VỆ QUYỀN VÀ LỢI ÍCH HỢP PHÁP CỦA CÔNG
NHÂN, LAO ĐỘNG TRONG ĐIỀU KIỆN HỘI NHẬP QUỐC TẾ
98
3.1. Mục tiêu 99
3.1.1. Mục tiêu chung 99
3.1.2. Mục tiêu cụ thể 99
3.2. Một số giải pháp chủ yếu 100
3.2.1. Nâng cao nhận thức về vai trò đại diện của Công đoàn trong
việc xây dựng, phát triển quan hệ lao động hài hòa, tiến bộ

trong doanh nghiệp 100
3.2.2. Hoàn thiện hệ thống pháp luật, chính sách nhằm nâng cao năng
lực đại diện của tổ chức Công đoàn trong doanh nghiệp 102
3.2.3. Xây dựng, phát triển tổ chức Công đoàn Dệt May vững mạnh
đáp ứng yêu cầu bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công
nhân lao động trong điều kiện đẩy mạnh hội nhập quốc tế 103
3.2.4. Tăng cường công tác giám sát việc thực hiện pháp luật, chế độ,
chính sách đối với người lao động 106
3.2.5. Đẩy mạnh việc chăm lo, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
lao động nữ 108
KẾT LUẬN
111
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
116
PHỤ LỤC
124
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

CNTB : Chủ nghĩa tư bản
CNXH : Chủ nghĩa xã hội
CNVCLĐ : Công nhân viên chức lao động
CNLĐ : Công nhân lao động
CNCS : Chủ nghĩa cộng sản
CNH, HĐH : Công nghiệp hóa, hiện đại hóa
DN : Doanh nghiệp
EU : Liên minh Châu Âu
FDI : Đầu tư trực tiếp nước ngoài
GCCN : Giai cấp công nhân
TBCN : Tư bản chủ nghĩa
TLĐLĐVN : Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam

TNHH : Công ty trách nhiệm hữu hạn
TƯLĐTT : Thỏa ước lao động tập thể
XHCN : Xã hội chủ nghĩa
DANH MỤC CÁC BẢNG

Bảng 2.1: Kim ngạch xuất khẩu Dệt May Việt Nam 2007-2012 46
Bảng 2.2: Đơn giá sản phẩm Dệt May xuất khẩu vào Mỹ 61
Bảng 2.3. Các chỉ tiêu chủ yếu trong Chiến lược phát triển ngành Dệt May
Việt Nam đến năm 2015, định hướng đến năm 2020 68
Bảng 2.4: Tình trạng việc làm của công nhân ngành Dệt May 71
Bảng 2.5: Những vấn đề công nhân quan tâm nhất 71
Bảng 2.6: Thời gian làm việc của công nhân ngành Dệt May 74
Bảng 2.7: Hoạt động văn hóa - thể thao - giải trí của công nhân 78
Bảng 2.8: Kết quả điều tra TƯLĐTT tại Hà Nội, Hải Phòng 80
Bảng 2.9: Tỷ lệ doanh nghiệp có TƯLĐTT trên tổng số doanh nghiệp có tổ
chức Công đoàn 85


1
MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong quá hội nhập kinh tế khu vực và quốc tế, Dệt May là một trong
những ngành kinh tế mũi nhọn của cả nước, đóng góp to lớn cho hoạt động xuất
khẩu, phục vụ đắc lực cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Từ
năm 1995 đến nay, kim ngạch xuất khẩu của ngành Dệt May không ngừng tăng
trưởng với tốc độ cao. Trong đó đáng chú ý từ năm 2009 trở lại đây, xuất khẩu
của ngành Dệt May Việt Nam đã có những bước tiến ngoạn mục, kim ngạch
xuất khẩu hàng năm thường xuyên tăng trưởng trên dưới 30%. Kết thúc năm
2011, xuất khẩu ngành Dệt May đã đạt con số kỷ lục là 15,6 tỷ USD, vượt qua cả

kim ngạch xuất khẩu của ngành dầu khí để vươn lên vị trí dẫn đầu về kim ngạch
xuất khẩu của cả nước. Theo Chiến lược phát triển của ngành Dệt May, con số
này sẽ là 18 tỷ USD vào năm 2015 và đến năm 2020 là 25 tỷ USD.
Có được những thành tựu, kết quả to lớn trên đây là do nhiều yếu tố,
nhiều nguyên nhân. Một trong những vấn đề có ý nghĩa hàng đầu là việc xây
dựng, đảm bảo mối quan hệ lao động hài hòa, tiến bộ trong các doanh nghiệp
Dệt May. Để có thể thực hiện được điều này đòi hỏi phải thực hiện đồng bộ
nhiều giải pháp. Một trong số đó là phải phát huy có hiệu quả vai trò của tổ chức
Công đoàn - đại diện cho người lao động trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của người lao động nhằm xây dựng quan hệ lao động ổn định, hài hòa và tiến
bộ trong điều kiện hội nhập quốc tế.
Hiện nay, trong tiến trình hội nhập khu vực và quốc tế mà cốt lõi là hội
nhập kinh tế, việc thực hiện chức năng nói chung và đặc biệt là chức năng bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của người lao động của tổ chức Công đoàn ngành Dệt
May đang đứng trước những khó khăn, thách thức rất lớn. Trong đó có thể kể
đến là tác động của cuộc khủng hoảng tài chính thế giới, sự cạnh tranh ngày càng
khốc liệt, nhất là với các cường quốc dệt may trên thế giới, đặc biệt là với Trung
Quốc, Ấn Độ, Pakitxtan v.v. Những rào cản kỹ thuật ngày càng nhiều; nguy cơ
của tranh chấp thương mại quốc tế; tình trạng thiếu vốn, công nghệ hiện đại,

2
thiếu lao động cục bộ tại các thành phố lớn, các khu công nghiệp; vấn đề tranh
chấp lao động; áp lực tăng lương và nâng cao đời sống của người lao động, tình
trạng lạm phát, nhất là xu hướng tăng giá nguyên, nhiên liệu ảnh hưởng trực tiếp
đến hiệu quả kinh doanh của các doanh nghiệp đã đặt Dệt May trước những
thách thức rất lớn. Thêm vào đó là những khó khăn về tài chính, khó khăn về thị
trường, vấn đề thu nhập của người lao động và sự trượt giá của đồng Việt Nam
so với đồng USD… Trong khi những thời cơ, thuận lợi của ngành Dệt May Việt
Nam hãy đang còn ở dạng tiềm năng, còn ở phía trước thì những khó khăn, thách
thức nói trên đã và đang tồn tại hiện hữu. Điều này ảnh hưởng rất lớn đến việc

thực hiện chiến lược phát triển của ngành Dệt May. Để có thể vượt qua thách
thức, hiện thực hóa tiềm năng của ngành thành động lực phát triển thì một trong
những điều có ý nghĩa hàng đầu là phải xây dựng, phát triển được quan hệ lao
động hài hòa, ổn định, tiến bộ trong các doanh nghiệp Dệt May. Trong đó việc
thực hiện có hiệu quả chức năng bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người lao
động của tổ chức Công đoàn ngành Dệt May có vai trò không thể thay thế và có
ý nghĩa đặc biệt, nhằm thực hiện nhiệm vụ chính trị của Công đoàn ngành Dệt
May cũng như của cả hệ thống tổ chức Công đoàn là: “Hướng mạnh hoạt động
về cơ sở, lấy cơ sở làm địa bàn hoạt động chủ yếu, lấy công nhân, viên chức, lao
động làm đối tượng vận động, lấy chăm lo bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính
đáng của công nhân, viên chức, người lao động, xây dựng quan hệ lao động hài
hoà, ổn định, tiến bộ, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội làm mục tiêu
hoạt động” [74, tr.66].
Điều đó đòi hỏi phải có sự tìm hiểu, cụ thể hóa và vận dụng về mặt lý
luận, cũng như sự tổng kết, khái quát thực tiễn hoạt động bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp của người lao động của tổ chức Công đoàn nói chung và Công đoàn
Dệt May nói riêng trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. Do đó, chúng tôi lựa
chọn đề tài: “Công đoàn Dệt May trong việc thực hiện chức năng bảo vệ quyền
và lợi ích hợp pháp của người lao động trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc
tế” (Qua khảo sát một số doanh nghiệp Dệt May khu vực phía Bắc) làm đề tài
luận văn thạc sĩ của mình.

3
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Từ những năm 80 của thế kỷ XX đến nay, trước sự chuyển biến của nền
kinh tế thế giới, tác động của hội nhập kinh tế quốc tế, cơ sở xã hội - chính trị
của Công đoàn đã có những biến đổi quan trọng. Nhiều nhà lý luận Công đoàn
trong và ngoài nước đã viết các tác phẩm về Công đoàn và các giải pháp trong
hoạt động của Công đoàn nhằm tập hợp ngày càng đông đảo quần chúng để bảo
vệ quyền và lợi ích của bản thân người lao động trước sự biến chuyển của nền

kinh tế và thách thức của toàn cầu hóa, hội nhập kinh tế quốc tế.
Từ thực tiễn sinh động trong hoạt động Công đoàn các nhà nghiên cứu
Công đoàn Trung Quốc đứng đầu là Nhóm tác giả gồm Tôn Trung Phạm, An
Miêu, Phùng Đồng Khánh và Trần Ký đã nghiên cứu tổng kết, đúc rút, hệ thống
hóa thành lý luận và biên soạn cuốn sách "Lý luận công đoàn trong thời kỳ
chuyển sang kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa" (người biên dịch: Nguyễn Tiến
Chiêm, do Viện Công nhân và Công đoàn, Ban đối ngoại Tổng Liên đoàn lao
động Việt Nam phối hợp cùng Nxb Lao động năm 2004). Đây là công trình
nghiên cứu khoa học công phu, toàn diện về hoạt động của Công đoàn trong thời
kỳ cải cách ở Trung Quốc. Những vấn đề về Công đoàn của Trung Quốc tổng
kết thành lý luận rất có giá trị để tham khảo cho tổ chức Công đoàn Việt Nam,
đặc biệt là cho công tác nghiên cứu, giảng dạy và vận dụng trong hoạt động
Công đoàn các cấp.
Hai tác giả người Nga: V.N.Kiselev và V.G Smolkov trong cuốn sách
"Quan hệ đối tác xã hội ở Nga" đã đặc biệt nhấn mạnh đến vai trò của Công
đoàn trong quan hệ đối tác ba bên: Công đoàn (đại diện cho người lao động),
giới chủ và Nhà nước. Các tác giả đã có nhiều ý kiến giá trị tham khảo cho hoạt
động Công đoàn ở Việt Nam.
Ở Việt Nam từ khi đổi mới đến nay, trước những yêu cầu của sự chuyển
đổi nền kinh tế và quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, rất nhiều vấn đề mới về lý
luận cũng như thực tiễn đặt ra đối với tổ chức Công đoàn trong việc thực hiện
các chức năng, trong đó đặc biệt là chức năng bảo vệ quyền và lợi ích người lao
động, thu hút sự quan tâm chú ý của nhiều tác giả, công trình nghiên cứu. Trong

4
đó phải kể đến cuốn sách:“Lý luận Mác-Lênin về Công đoàn và vận dụng vào
hoạt động Công đoàn Việt Nam trong nền kinh tế thị trường” của PGS. TS
Nguyễn Viết Vượng (chủ biên), Nxb Lao động, Hà Nội năm 2005. Các tác giả
đã trình bày hệ thống các quan điểm của lý luận Mác-Lênin về Công đoàn, góp
phần nâng cao nhận thức về vị trí, vai trò, chức năng và nhiệm vụ của tổ chức

Công đoàn trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội ở Việt Nam.
Cuốn sách “Giai cấp công nhân và tổ chức Công đoàn Việt Nam trong
nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”, của nhóm tác giả Trường
Đại học Công đoàn do PGS.TS Nguyễn Viết Vượng (chủ biên), Nxb Lao động,
Hà Nội năm 2010 đã đề cập đến một số vấn đề lý luận và thực tiễn về nền kinh
tế; về giai cấp công nhân và tổ chức Công đoàn Việt Nam những năm đầu thế kỷ
XIX. Các tác giả đã phân tích những vấn đề về giai cấp công nhân và tổ chức
Công đoàn Việt Nam trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Qua đó nêu lên những dự báo, phương hướng và giải pháp xây dựng giai cấp
công nhân, tổ chức Công đoàn Việt Nam ngày càng vững mạnh. Những nội dung
này đã đáp ứng bước đầu việc nghiên cứu, tìm hiểu về giai cấp công nhân và tổ
chức Công đoàn Việt Nam trong bối cảnh đất nước đang từng bước hội nhập về
kinh tế với khu vực và thế giới.
Cuốn sách: “Pháp luật trong Công đoàn: Vai trò của Công đoàn trong
lĩnh vực lao động, các vấn đề mới về an toàn lao động, hợp đồng lao động, thỏa
ước lao động tập thể, kỷ luật lao động, giải quyết tranh chấp lao động”, Nxb
Lao động, Hà Nội năm 2010 của ThS Vũ Mạnh Thông. Trong đó đã trình bày
một cách hệ thống những lĩnh vực lao động mà pháp luật quy định về vai trò,
trách nhiệm của tổ chức Công đoàn, nhất là Công đoàn cơ sở trong lĩnh vực quan
hệ lao động.
Cuốn sách: “Hoạt động của Công đoàn trong các cơ quan dân cử”, Viện
Công nhân và Công đoàn, Nxb Lao động, Hà Nội năm 2007 đã làm rõ vai trò
của tổ chức Công đoàn trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa ngày càng được mở rộng. Trong nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa, Công đoàn là trung tâm tập hợp, đoàn kết, giáo dục, rèn

5
luyện, xây dựng đội ngũ công nhân và là chỗ dựa tin cậy vững chắc của Đảng,
Nhà nước. Phát huy vai trò của Công đoàn trong các cơ quan dân cử sẽ làm cho
vị thế của Công đoàn được nâng lên, tạo sức mạnh thu hút người lao động tham

gia vào Công đoàn, tăng cường mối quan hệ giữa Công đoàn với chủ doanh
nghiệp nhằm mục tiêu phát triển sản xuất kinh doanh, ổn định việc làm và đời
sống nhân dân lao động. Cần phải có nhiều đại biểu tham gia vào cơ quan dân cử
để Công đoàn làm tốt vai trò đại diện bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính
đáng cho người lao động.
Cuốn sách: "Những tác động tới việc làm đời sống của người lao động và
các giải pháp hoạt động Công đoàn khi Việt Nam gia nhập Tổ chức thương mại
thế giới (WTO), Nxb Lao động, Hà Nội năm 2005 do PGS. TS Dương Văn Sao
(chủ biên) đã khái quát hoạt động Công đoàn Việt Nam trong quá trình chủ động
hội nhập kinh tế của Việt Nam. Đồng thời nêu lên những tác động tích cực và tiêu
cực của hội nhập kinh tế quốc tế tới tổ chức và hoạt động Công đoàn Việt Nam.
Cuốn sách: "Nâng cao hiệu quả hoạt động Công đoàn trong các doanh
nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài", Nxb Lao động, Hà Nội năm 2003 do
PGS. TS Dương Văn Sao (chủ biên) đã khái quát tình hình đầu tư nước ngoài và
thực trạng đội ngũ công nhân, lao động trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư
nước ngoài tại Việt Nam; Những giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động của
Công đoàn tại các doanh nghiệp này.
Cuốn sách: "Vai trò của tổ chức Công đoàn cơ sở trong việc giải quyết
tranh chấp lao động và hạn chế đình công chưa đúng pháp luật" do Nguyễn
Cương Thường (chủ biên), Nxb Lao động, Hà Nội năm 2000 đã phân tích vai trò
của tổ chức Công đoàn cơ sở trong việc giải quyết tranh chấp lao động dẫn đến
đình công chưa đúng pháp luật của công nhân tại một số doanh nghiệp trong nước.
Nghiên cứu về Công đoàn, hoạt động của Công đoàn trong việc thực hiện
chức năng trong đó có chức năng bảo vệ của tổ chức Công đoàn trong điều kiện
hội nhập kinh tế quốc tế, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước còn
là đề tài làm luận án tiến sĩ, luận văn của học viên cao học và sinh viên như:
Luận án tiến sĩ của tác giả Vũ Đạt năm 2005: "Biến đổi cơ cấu tổ chức của hệ

6
thống Công đoàn Việt Nam thời kỳ đổi mới". Luận án tiến sĩ của tác giả Nguyễn

Thị Phương Thúy năm 2008: "Những vấn đề pháp lý về việc tham gia của Công
đoàn trong giải quyết tranh chấp lao động và đình công" xem xét vai trò của
Công đoàn dưới góc độ Xã hội học. Luận án tiến sĩ của tác giả Nguyễn Anh
Tuấn năm 2004: "Hoạt động Công đoàn trong các doanh nghiệp Việt Nam thời
kỳ đổi mới" nghiên cứu hoạt động Công đoàn dưới góc độ kinh tế quản lý. Luận
văn Thạc sĩ của tác giả Nguyễn Thị Thái Thuận năm 2005:“Giải quyết tranh
chấp lao động và vấn đề nâng cao vị trí của tổ chức Công đoàn trong giải quyết
tranh chấp lao động” Công đoàn được tiếp cận dưới góc độ luật học v.v.
Các bài viết nghiên cứu, trao đổi về Công đoàn và vai trò của Công đoàn
dệt may trong việc bảo vệ quyền và lợi ích của người lao động như: "Công đoàn
dệt may Việt Nam: Chỗ dựa tin cậy cho hàng vạn lao động" (baomoi.com), "Mức
sàn quyền lợi công nhân dệt may" (nguoilaodong.com), "Đời sống công nhân ở
các khu công nghiệp, chế xuất" (laodong.com), "Cơ chế ba bên trong quan hệ
lao động ở Việt Nam" (vietbao.com), "Vai trò của Công đoàn trong các cuộc
đình công"…
Những công trình nghiên cứu trên phần lớn tập trung phân tích, cụ thể hóa
những luận điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin và khái quát, hệ thống hóa
thực tiễn về vị trí, vai trò, chức năng và nhiệm vụ của tổ chức Công đoàn trong
quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Trong đó đáng chú ý là các
luận điểm thể hiện quan điểm duy vật lịch sử về vấn đề cơ bản về vị trí, vai trò,
chức năng của Công đoàn trong quá trình xây dựng phát triển kinh tế - xã hội của
đất nước. Tuy nhiên, việc tìm hiểu chức năng bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
người lao động của Công đoàn Dệt May trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế
dưới góc độ chính trị - xã hội của Bộ môn chủ nghĩa xã hội khoa học theo quan
điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh thì hãy còn chưa có một
chuyên khảo. Vì vậy, việc thực hiện đề tài: "Công đoàn Dệt May Việt Nam trong
việc thực hiện chức năng bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người lao động
trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế” (Qua khảo sát một số doanh nghiệp
Dệt May khu vực phía Bắc), là việc làm cần thiết, góp phần theo hướng nghiên
cứu đó.


7
3. Mục đích, nhiệm vụ của luận văn
3.1. Mục đích của luận văn
Thứ nhất, trình bày khái quát, hệ thống hóa những quan điểm cơ bản của
chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng Cộng sản
Việt Nam về Công đoàn và chức năng của tổ chức Công đoàn.
Thứ hai, tìm hiểu thực trạng, trên cơ sở đó chỉ ra được những nguyên
nhân chủ yếu ảnh hưởng đến hiệu quả trong việc thực hiện chức năng bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của người lao động của Công đoàn ngành
Dệt May trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế.
Thứ ba, đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao hiệu quả hoạt
động của Công đoàn Dệt May trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
người lao động trong điều kiện hội nhập kinh tế thế giới.
3.2. Nhiệm vụ của luận văn
Một là, khái quát lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh
và quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về Công đoàn và chức năng bảo vệ
quyền và lợi ích người lao động của tổ chức Công đoàn.
Hai là, khảo sát, điều tra, thống kê xã hội học nhằm tìm hiểu thực trạng
hoạt động của Công đoàn Dệt May trong việc thực hiện chức năng bảo vệ quyền
và lợi ích hợp pháp của người lao động ở một số doanh nghiệp Dệt May khu vực
phía Bắc, trên cơ sở đó phân tích, đánh giá và rút ra nguyên nhân của những kết
quả và hạn chế nói trên.
Ba là, nêu lên mục tiêu, phương hướng và một số giải pháp chủ yếu góp
phần nâng cao hiệu quả hoạt động bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người
lao động của Công đoàn Dệt May Việt Nam trong quá trình hội nhập kinh tế
quốc tế.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
4.1. Đối tượng nghiên cứu
- Các quan điểm của cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí

Minh và quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về Công đoàn, chức năng bảo
vệ lợi ích người lao động của Công đoàn.
- Hoạt động của tổ chức Công đoàn ở một số doanh nghiệp Dệt May khu

8
vực phía Bắc trong việc thực hiện chức năng bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của người lao động trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Luận văn tập trung nghiên cứu và tìm hiểu vị trí, vai trò, chức năng của
Công đoàn trong các tác phẩm kinh điển của chủ nghĩa Mác-Lênin, các văn kiện
Đảng, di sản tư tưởng Hồ Chí Minh cùng với các nghị quyết, chủ trương, nội
dung công tác của Công đoàn.
- Tổ chức và hoạt động Công đoàn trong việc thực hiện vai trò đại diện
bảo vệ các quyền, lợi ích hợp pháp chính đáng của người lao động ở một số
doanh nghiệp Dệt May thuộc các thành phần kinh tế khu vực phía Bắc như:
Công ty cổ phần: Công ty cổ phần đầu tư và thương mại TNG; Công ty cổ phần
May Hưng Yên; Công ty cổ phần May MEKO; Công ty Nhà nước: Công ty May
40 (100% vốn sở hữu nhà nước); Công ty May Đức Giang; Công ty 100% vốn
nước ngoài: Công ty TNHH MTV C&M (100% vốn Hàn Quốc); Công ty Kovi’s
(100% vốn nước ngoài); Công ty TNHH May NienHsing (Ninh Bình); Công ty
TNHH VinaKorea (100% vốn Hàn Quốc); Công ty may Levistrauss; Công ty
May Đài Loan; Công ty tư nhân: Công ty May Bắc Hà (Hà Nam); Công ty
TNHH Dệt may Hoàng Dũng (Hà Nam); Công ty TNHH Thành Trung (Bắc
Giang) v.v.
Việc lựa chọn phạm vi nghiên cứu của đề tài nói trên sẽ giúp tác giả có thể
thực hiện được mục đích, nhiệm vụ của đề tài, cũng như đảm bảo điều kiện về
thời gian và tiến độ nghiên cứu.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
5.1. Cơ sở lý luận của đề tài:
Là hệ thống lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh

cùng các quan điểm đường lối cũng như các chính sách của Đảng và Nhà nước
Việt Nam về Công đoàn và vai trò của Công đoàn với việc thực hiện chức năng
bảo vệ quyền và lợi ích của người lao động.

9
5.2. Phương pháp nghiên cứu:
- Phương pháp chung: đề tài sử dụng hệ thống các phương pháp nghiên
cứu của chủ nghĩa duy vật biện chứng, duy vật lịch sử.
- Phương pháp cụ thể: phương pháp phân tích, tổng hợp; so sánh, đối
chiếu, khái quát hoá; phương pháp khảo sát, thống kê, điều tra xã hội học, phỏng
vấn sâu v.v. cùng với việc hồi cứu tư liệu từ các nguồn cũng như báo cáo kết quả
nghiên cứu của một số đề tài khoa học một số sách, bài viết về ngành Dệt May,
Công đoàn Dệt May cũng như các vấn đề có liên quan đến nội dung của đề tài.
6. Những đóng góp về mặt khoa học của luận văn
- Hệ thống hóa và vận dụng các quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam về vị trí, vai trò và chức năng
của tổ chức Công đoàn ở ngành Dệt May trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế.
- Luận văn có thể làm tài liệu tham khảo phục vụ cho việc học tập, nghiên
cứu, và cho những người quan tâm đến việc tìm hiểu vị trí, vai trò, chức năng và
nhiệm vụ của Công đoàn trong việc thực hiện chức năng bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp của lao động nói chung và trong ngành Dệt May nói riêng trong điều
kiện hội nhập kinh tế quốc tế nhằm mục tiêu xây dựng quan hệ lao động hài hoà,
ổn định, tiến bộ, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
của đề tài bao gồm 3 chương, 6 tiết:
Chương 1: Lý luận Mác-Lênin về Công đoàn và chức năng bảo vệ
quyền, lợi ích người lao động của Công đoàn.
Chương 2: Thực trạng thực hiện chức năng bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp người lao động của Công đoàn Dệt May trong điều kiện hội nhập kinh tế

quốc tế.
Chương 3: Mục tiêu và giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao hiệu quả hoạt
động của Công đoàn Dệt May đối với việc thực hiện chức năng bảo vệ quyền và
lợi ích hợp pháp của người lao động trong điều kiện hội nhập quốc tế.

10
Chương 1
LÝ LUẬN MÁC-LÊNIN VỀ CÔNG ĐOÀN VÀ CHỨC NĂNG BẢO VỆ
QUYỀN VÀ LỢI ÍCH NGƯỜI LAO ĐỘNG CỦA CÔNG ĐOÀN

1.1. Quan điểm của C.Mác, Ph.Ăngghen và V.I.Lênin về Công đoàn
và chức năng bảo vệ quyền, lợi ích người lao động của Công đoàn
1.1.1. Quan điểm của C.Mác và Ph.Ăngghen về Công đoàn và chức
năng bảo vệ quyền, lợi ích người lao động của Công đoàn
Thông qua thực tiễn sống động của phong trào công nhân, Công đoàn thế
kỷ XIX ở Châu Âu và bằng hoạt động lý luận khoa học của mình C.Mác (5-5-
1883), Ph.Ăngghen (28-10-1820) đã luận chứng cho tính tất yếu về hoàn cảnh
ra đời, vị trí, chức năng của Công đoàn trong trong chế độ tư bản chủ nghĩa.
Theo lý luận của C.Mác và Ph.Ăngghen, phong trào đấu tranh của giai
cấp công nhân bắt nguồn từ sự phản kháng của công nhân chống lại sự áp bức
bất công của giới chủ. Trong cuộc đấu tranh đó, giai cấp vô sản đã sáng tạo ra
các biện pháp, hình thức đấu tranh của mình. Hình thức sớm nhất, thô sơ nhất và
ít hiệu quả nhất của sự phản kháng ấy là phạm tội ăn trộm và sau đó là các hành
vi đập phá máy móc, nhà xưởng, kho hàng, phá hỏng nguyên vật liệu, thành
phẩm… Nhìn chung các hình thức phản kháng ấy vẫn mang tính chất cô lập, bị
hạn chế ở những khu vực cá biệt và chỉ nhằm chống một mặt của quan hệ hiện
hành. Các hành vi này đã không những không thể cải thiện được, mà còn làm
trầm trọng thêm tình cảnh khốn cùng của người lao động làm thuê. Dần dần,
công nhân đã tìm ra hình thức đấu tranh mới có hiệu quả hơn. Đó là việc tập hợp
lực lượng tiến hành hoạt động đình công, bãi công trong việc đòi tăng lương, cải

thiện điều kiện làm việc…Tuy nhiên, tư bản là một lực lượng xã hội tập trung,
nó đã kịp thời sử dụng mọi ưu thế sẵn có để phá hoại hoạt động đó. Đặc biệt,
trong những cuộc bãi công bộ phận, nhỏ lẻ, chủ xưởng rất dễ dàng phá hoại đình
công, bãi công bằng cách sử dụng thiểu số công nhân phản bội (Knobstics -
những con cừu ghẻ) hoặc tuyển mộ những người nông dân không còn ruộng đất
đi lang thang tìm việc (tramper), hay những người công nhân nơi khác vào thay

11
thế v.v. Những nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác chỉ rõ, trong cuộc chiến không
cân sức đó, sức mạnh xã hội của công nhân chỉ còn nằm trong số lượng của họ.
Nhưng sức mạnh của ưu thế về số lượng đó bị mất đi vì chính bản thân tính chất
rời rạc của họ tạo ra và tiếp tục tồn tại do hậu quả của sự cạnh tranh tất yếu giữa
bản thân họ. Qua kinh nghiệm giai cấp công nhân hiểu rằng việc phân tán lực
lượng có ảnh hưởng nguy hại đến kết quả hoạt động của cuộc đấu tranh chống
giai cấp tư sản. Để khắc phục những hạn chế nói trên, công nhân buộc phải đoàn
kết và tổ chức lại trong các hiệp hội. Trong quá trình tập hợp lực lượng tiến hành
đình công, bãi công đòi tăng lương, cải thiện điều kiện làm việc, công nhân đã tổ
schức ra các hiệp hội riêng của mình (tức Công đoàn), lúc đầu có tính bí mật, sau
đó hoạt động công khai khi Hạ nghị viện Anh (năm 1824) thông qua đạo luật
thừa nhận quyền lập hội của công nhân. Chính các cuộc đấu tranh của công
nhân, trong đó điển hình là công nhân trong các xưởng dệt may ở Anh, Pháp và
đặc biệt là cuộc đấu tranh của công nhân dệt Xilêdi ở Đức năm 1844, đã thúc
đẩy sự ra đời các tổ chức Công đoàn (trade uions) ở Châu Âu, sau đó lan tỏa
nhanh chóng sang Mỹ và nhiều khu vực khác trên thế giới. Mục đích của những
Công đoàn ấy là: quy định tiền lương, tạo thành một lực lượng để điều đình tập
thể với giới chủ, tăng lương khi cần thiết và giữ vững mức lương chung. Đây là
một bước tiến lớn trên con đường chuyển biến của những người công nhân từ
chỗ hành động phân tán đến hành động thống nhất, từ tản mạn đến có tổ chức,
đoàn kết lực lượng để chống lại bọn chủ một cách kiên quyết và có hiệu quả hơn.
Theo C.Mác, sự ra đời của Công đoàn bắt nguồn từ hiện thực xã hội, có

có tính khách quan do yêu cầu của phong trào công nhân nhằm thống nhất lực
lượng trên bước đường đấu tranh chống tư sản: “Các Công đoàn xuất hiện lúc
đầu là nhờ những ý đồ tự phát của công nhân muốn tiêu diệt hay ít nhất là giảm
bớt sự cạnh tranh ấy đề đòi những điều kiện ký kết hợp đồng có thể cho họ đời
sống khá hơn những người những người nô lệ một chút thôi” [38, tr.202-203].
Theo học thuyết của C.Mác và Ph.Ăngghen, sự ra đời của Công đoàn không
chỉ là hiện tượng hợp quy luật, mà còn là bức thiết khi phương thức sản xuất tư
bản chủ nghĩa còn tồn tại. Đối với Mác, tổ chức Công đoàn ra đời để tập hợp

12
công nhân lao động đấu tranh đòi tăng lương, giảm giờ làm, chống lại sự đàn áp
của giai cấp tư sản. Vì vậy trong chế độ tư bản chủ nghĩa, Công đoàn đại diện
cho quần chúng lao động đứng đối lập với giai cấp bóc lột [69, tr.36]. Công
nghiệp hiện đại càng phát triển, cạnh tranh ngày càng gay gắt thì càng thúc đẩy
sự hình thành và hoạt động của các hiệp hội với hai mục đích rõ ràng: chấm dứt
sự cạnh tranh giữa công nhân với nhau để chung sức chống lại tư bản, và đoàn
kết đấu tranh để bảo vệ tiền công. Song tư bản là một lực lượng xã hội tập trung,
còn công nhân thì chỉ có sức lao động của mình. Do đó, tất yếu hợp đồng giữa tư
bản và lao động không bao giờ có thể được ký kết theo những điều kiện hợp lý
trong điều kiện quyền sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa những phương tiện sinh
hoạt vật chất và lao động đối lập với lực lượng sản xuất sống. Vì vậy, để có thể
thay đổi được địa vị làm thuê, bị áp bức bóc lột, giai cấp công nhân, trong quá
trình chuyển biến từ tự phát lên tự giác, từ “giai cấp tự mình” đến “giai cấp vì
mình” thì tất yếu, hoạt động của Công đoàn không chỉ trong phạm vi hẹp có tính
phường hội, phải có một tổ chức trưởng thành từ trong bản thân cuộc đấu tranh
kinh tế rời rạc của công nhân ở khắp nơi, đó là tổ chức Công đoàn. Đây là một
bước tiến lớn trên con đường chuyển biến của những người công nhân từ chỗ hành
động phân tán đến hành động thống nhất, từ tản mạn đến có tổ chức, đoàn kết các
lực lượng để chống trả bọn chủ một cách kiên quyết và có hiệu quả hơn. Các Công
đoàn cũng phải rèn luyện để hoạt động tự giác với tư cách là những trung tâm tổ

chức công nhân, thì giai cấp công nhân phải “Lập ra tổ chức Công đoàn ở tất cả
các nước và liên hiệp các công đoàn ấy lại” [38, tr.203]. Hoạt động Công đoàn
không chỉ giới hạn trong việc đấu tranh về kinh tế, mà phải đặt ra cho mình nhiệm
vụ giải phóng hoàn toàn giai cấp công nhân. Điều mà C.Mác khẳng định: “Các
Công đoàn đã trở thành những trung tâm tổ chức đối với công nhân cũng giống
như những thị xã và công xã thời trung cổ là những trung tâm tổ chức đối với giai
cấp tư sản. Nếu Công đoàn cần thiết cho cuộc đấu tranh du kích giữa tư bản và lao
động, thì Công đoàn lại càng quan trọng hơn với tư cách là một lực lượng có tổ
chức để tiêu diệt bản thân chế độ lao động làm thuê và quyền lực của tư bản” [38,
tr.203]. Lý luận về Công đoàn của C.Mác và Ph.Ăngghen gắn liền với học thuyết
về giai cấp công nhân, về vai trò sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân. Theo lý

13
luận này, sự ra đời Công đoàn không phải từ nguồn gốc siêu tự nhiên, không phải
từ nguồn gốc tôn giáo và Công đoàn ra đời, tồn tại, phát triển càng không phải là
ngẫu nhiên. Công đoàn ra đời tất yếu từ hiện thực kinh tế - xã hội, là kết quả của
cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản chống lại chế độ áp bức, bóc lột của chủ nghĩa
tư bản. Chức năng bảo vệ lợi ích của Công đoàn là chức năng vốn có, chức năng
bẩm sinh. Có thể nói việc thực hiện chức năng bảo vệ lợi ích của người công nhân,
người lao động là lý do tồn tại, lý do hoạt động của tổ chức Công đoàn. Đó là
chức năng đặc trưng vốn có để phân biệt với các tổ chức, thiết chế xã hội khác
trong xã hội. Trong mỗi lĩnh vực, nghề nghiệp, việc thực hiện chức năng bảo vệ
lợi ích thông qua các biện pháp, hình thức cụ thể tương ứng với tình trạng quan hệ
lao động trong lĩnh vực, phạm vi ngành nghề đó. Với tư cách là tổ chức của giai
cấp công nhân, giai cấp bị thống trị, bị bóc lột về kinh tế, bị áp bức về chính trị,
Công đoàn trở thành trung tâm tập hợp lực lượng phản kháng chống lại áp bức
bóc lột, chống lại chế độ làm thuê đóng vai trò là trường học đấu tranh giai cấp
của giai cấp công nhân. Hoạt động của Công đoàn trong CNTB là tập hợp, vận
động CNLĐ đấu tranh với giới chủ bằng hình thức đình công và bãi công, dùng
hành động tập thể làm ngừng trệ sản xuất, đánh trực tiếp vào cơ sở kinh tế của

CNTB, lấy sức mạnh để chống lại sức mạnh [69, tr.8].
Ngày nay, trong nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa, mặc dù chủ
nghĩa tư bản đã có nhiều điều chỉnh để thích nghi trong điều kiện khoa học, công
nghệ phát triển mạnh mẽ. Chẳng hạn như người công nhân, lao động có thể tham
gia mua cổ phần, cổ phiếu trong các hãng, doanh nghiệp, các chính sách khuyến
khích tiêu dùng, chính sách an sinh xã hội được chú ý v.v. nhưng tất cả về cơ
bản không làm thay đổi địa vị lao động làm thuê của người công nhân, người lao
động. Họ ngày càng bị cột chặt vào guồng máy sản xuất hàng hóa tư bản chủ
nghĩa. Việc làm và đời sống của người công nhân, lao động vẫn do quan hệ cung
- cầu trên thị trường trước hết là thị trường lao động, thị trường hàng hóa quyết
định. Các cuộc đấu tranh của công nhân lao động với các cuộc đình công, bãi
công do Công đoàn lãnh đạo trong việc đòi trả lương tương xứng với sức lao
động, giảm giờ làm, cải thiện điều kiện an toàn, vệ sinh lao động v.v. cùng với

14
việc đấu tranh vì dân chủ, hòa bình tiến bộ… không những không giảm, không
mất đi mà ngày càng phát triển cả bề rộng và bề sâu, nhất là trong điều kiện toàn
cầu hóa, hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng mạnh mẽ hiện nay. Đặc biệt trong
những thập niên đầu của thế kỷ XXI, nhất là khi kinh tế thế giới phải đối mặt với
những biến đổi khó lường như khủng hoảng năng lượng, khủng hoảng tài chính
đã làm cho đời sống của công nhân, lao động luôn đứng trước tình trạng bất ổn,
bảo vệ lợi ích người lao động của các Công đoàn đứng trước những khó khăn
thử thách mới… Điều này cho thấy, các luận điểm của C.Mác và Ph.Ăngghen về
hoàn cảnh ra đời về vị trí, chức năng của Công đoàn theo quan điểm duy vật biện
chứng về xã hội vẫn giữ nguyên giá trị khoa học.
Với tư cách chức năng của tổ chức, thiết chế thuộc kiến trúc thượng tầng
của xã hội, chức năng của Công đoàn không phải là bất biến. Tuỳ theo vị trí, địa
vị kinh tế, chính trị, xã hội của giai cấp công nhân, lao động nắm giữ trong từng
giai đoạn lịch sử, chức năng của Công đoàn tất yếu có sự bổ sung, phát triển.
Ngoài chức năng bẩm sinh, chức năng vốn có là bảo vệ lợi ích, còn có sự hình

thành, bổ sung, phát triển các chức năng mới. Ngay cả đối với từng chức năng,
trong đó có chức năng vốn có là năng bảo vệ lợi ích của công nhân, lao động cũng
không nằm ngoài sự biến đổi, phát triển, tùy thuộc vào sự phát triển của tồn tại xã
hội, mà trước hết là các điều kiện kinh tế, xã hội, nó được thể hiện ở những nội
dung, hình thức khác nhau trong từng giai đoạn cụ thể của lịch sử xã hội. Lịch sử
phong trào công nhân, phong trào Công đoàn quốc tế từ khi ra đời cho đến ngày
nay đã khẳng định giá trị khoa học của các luận điểm của Mác và Ăngghen về
Công đoàn và chức năng bảo vệ quyền và lợi ích người lao động của Công đoàn.
1.1.2. Quan điểm của V.I.Lênin về Công đoàn và chức năng bảo vệ
quyền, lợi ích người lao động của Công đoàn
Sau thắng lợi của Cách mạng tháng Mười, nước Nga Xô Viết bắt tay vào
công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Thực tiễn công cuộc xây dựng đất nước
đã đặt ra rất nhiều mới mẻ đòi hỏi phải vận dụng, phát triển chủ nghĩa Mác trong
điều kiện, hoàn cảnh lịch sử mới trong đó có lý luận về phong trào công nhân,
Công đoàn trong chủ nghĩa xã hội. Vận dụng sáng tạo học thuyết của C.Mác và

15
Ph.Ăngghen vào thực tiễn nước Nga Xô Viết, V.I.Lênin (1870- 1924) đã để lại
những quan điểm có tính chất kinh điển về vị trí, vai trò, chức năng và nhiệm vụ
của tổ chức Công đoàn trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Trước hết, dưới chủ nghĩa xã hội có sự thay đổi căn bản có tính chất bước
ngoặt về địa vị kinh tế, chính trị - xã hội của giai cấp công nhân. Giai cấp công
nhân mà Công đoàn là người đại diện từ địa vị làm thuê, bị áp bức, bóc lột, bị
thống trị dưới chế độ tư bản, đã trở thành giai cấp lãnh đạo, người chủ quản lý xã
hội, quản lý nhà nước. Từ chỗ là đối trọng với giới chủ, với bộ máy quyền lực tư
sản, là trung tâm tập hợp lực lượng phản kháng, chống lại chế độ thống trị, dưới
chủ nghĩa xã hội, Công đoàn trở thành trung tâm tập hợp, đoàn kết, giáo dục
công nhân, lao động xây dựng xã hội mới. Từ sự thay đổi có tính cách mạng và
bước ngoặt đó, Công đoàn với tư cách là tổ chức, người đại diện của giai cấp
công nhân trở thành thành viên của hệ thống chính trị, gánh vác một nhiệm vụ

đặc biệt quan trọng, không thể thay thế.
Trong hệ thống chuyên chính vô sản, Công đoàn đặt dưới sự lãnh đạo của
Đảng, cộng tác chặt chẽ với chính quyền v.v. như V.I.Lênin xác định Công đoàn
là “sợi dây chuyền”, là trong những “bộ phận truyền lực” nối liền đội tiên phong
với quần chúng lao động, là “bể chứa nhà nước” v.v[31, tr.16-17]. Từ đó,
V.I.Lênin kiên quyết chống lại mưu toan nhằm phủ nhận Công đoàn trong tình
hình mới ở nước Nga. Người khẳng định: "Bỏ qua không thừa nhận Công đoàn là
một sai lầm nghiêm trọng. Vì như thế là sợ đảm nhận vai trò tiên phong của giai
cấp vô sản là huấn luyện, giác ngộ, giáo dục, lôi cuốn vào cuộc sống đông đảo
những người công nhân lao động trong quá trình củng cố chính quyền chuyên
chính vô sản và tổ chức xây dựng chủ nghĩa xã hội" [32, tr.39].
Xuất phát từ sự thay đổi lớn lao về vị trí dẫn tới sự thay đổi về chất vai trò
của Công đoàn trong chủ nghĩa xã hội. Nếu như dưới chủ nghĩa tư bản, Công đoàn
là trung tâm tập hợp lực lượng công nhân, lao động chống lại áp bức bóc lột, là
trường học đấu tranh giai cấp thì trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội Công
đoàn đóng vai trò là trường học quản lý kinh tế, quản lý xã hội. Theo V.I.Lênin,
Công đoàn, phải gánh vác lấy những nhiệm vụ đặc biệt và một trách nhiệm đặc

16
biệt trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Theo V.I.Lênin: “Việc giai cấp
vô sản giành được chính quyền… là một bước tiến vĩ đại. Vì thế Đảng phải giáo
dục, lãnh đạo công đoàn nhiều hơn trước kia, theo lối mới chứ không phải theo lối
cũ, nhưng đồng thời không được quên rằng, Công đoàn vẫn còn và sẽ còn lâu dài
là "trường học chủ nghĩa cộng sản" không thể thiếu được là trường học dự bị cho
giai cấp vô sản học tập, áp dụng chuyên chính của mình, là sự tập hợp tất yếu của
công nhân để làm cho việc quản lý toàn bộ nền kinh tế trong nước tuần tự chuyển
trước hết sang tay giai cấp công nhân… rồi sau sang tay toàn thể nhân dân lao
động” [32, tr.42]. Đó là yêu cầu, đòi hỏi khách quan của sự nghiệp xây dựng xã
hội mới dưới sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước của giai cấp công nhân. Thực
tiễn đó đòi hỏi Công đoàn: “phải lôi cuốn ngày càng sâu rộng giai cấp công nhân

và quần chúng lao động vào toàn bộ sự nghiệp xây dựng kinh tế, toàn bộ hoạt
động công nghiệp, từ việc thu mua nguyên liệu đến việc bán sản phẩm, bằng cách
làm cho họ có một ý niệm ngày càng cụ thể về kế hoạch kinh tế xã hội chủ nghĩa
thống nhất của nhà nước cũng như về lợi ích thực tiễn của công nhân và nông dân
trong việc thực hiện kế hoạch đó” [34, tr.424-425].
Từ sự thay đổi có tính chất bước ngoặt về vị trí, đổi mới về chất về chức
năng, thì việc thực hiện chức năng và nhiệm vụ của Công đoàn trong chủ nghĩa
xã hội tất yếu đòi hỏi phải có sự bổ sung, phát triển mới. Chức năng của Công
đoàn dưới chủ nghĩa xã hội một mặt kế thừa chức năng bảo vệ lợi ích, đồng thời
được bổ sung chức năng mới đó là chức năng tham gia quản lý, chức năng tuyên
truyền giáo dục. Các chức năng này có mối quan hệ biện chứng tác động, qua lại,
bổ sung lẫn nhau trong việc thực hiện vai trò của tổ chức Công đoàn trong thời
kỳ mới. Tất cả đều xuất phát từ yêu cầu, đòi hỏi khách quan của công cuộc xây
dựng chủ nghĩa xã hội ở nước Nga Xô Viết. V.I.Lênin đã đưa ra những chỉ dẫn,
những nhiệm vụ cụ thể của Công đoàn trong việc thực hiện các chức năng đó.
Với vai trò là trường học quản lý, V.I.Lênin nhấn mạnh việc Công đoàn tham gia
vào việc lập kế hoạch sản xuất, sự cần thiết phải có đại diện Công đoàn tham gia
vào tất cả các cơ quan kế hoạch của nhà nước vô sản. Người yêu cầu Công đoàn:
“phải lôi cuốn ngày càng sâu rộng giai cấp công nhân và quần chúng lao động

17
vào toàn bộ sự nghiệp xây dựng kinh tế, toàn bộ hoạt động công nghiệp [34,
tr.424-425]. Để Công đoàn có thể tham gia quản lý cũng như bảo vệ lợi ích
người lao động thì không thể không thực hiện chức năng, nhiệm vụ tuyên truyền
giáo dục. Nội dung của tuyên truyền giáo dục của Công đoàn là phổ biến kĩ năng
lao động, thái độ, tinh thần, kỷ luật lao động mới v.v. V.I.Lênin đòi hỏi, yêu cầu
đội ngũ cán bộ Công đoàn: “những đồng chí này phải sống sâu vào đời sống
công nhân, phải biết tường tận đời sống công nhân, biết xác định một cách chắc
chắn, bất cứ trong vấn đề nào, trong lúc nào, tâm trạng của quần chúng, những
nhu cầu, những nguyện vọng, những ý nghĩ thật sự của họ” [34, tr.576].

Trong khi đấu tranh với những quan điểm sai lầm về chức năng của Công
đoàn, V.I.Lênin đã có những chỉ dẫn hết sức quý giá trong về việc bảo vệ lợi ích
của công nhân, lao động của Công đoàn trong hoàn cảnh lịch sử mới, đặc biệt là
trong việc thực hiện Chính sách kinh tế mới (NEP) ở nước Nga. Hoạt động Công
đoàn trong chế độ XHCN không giống hoạt động Công đoàn trong chế độ
TBCN mà đã có sự thay đổi căn bản. Trong chế độ tư bản, để bảo vệ lợi ích
người lao động, Công đoàn tập hợp CNLĐ đấu tranh chống lại chủ Tư bản,
chống lại Nhà nước của giai cấp tư sản. Trong chế độ XHCN, Công đoàn vẫn đại
diện và bảo vệ lợi ích cho CNLĐ nhưng Công đoàn không chống lại Nhà nước,
mà còn bảo vệ Nhà nước, bởi vì Nhà nước là của dân, do dân và vì dân, Công
đoàn chỉ chống lại thói hư tật xấu, những tàn dư của tư tưởng xã hội cũ còn để
lại như quan liêu, cửa quyền, hách dịch, coi thường và vi phạm lợi ích của người
lao động. V.I.Lênin khẳng định: “Công đoàn có trách nhiệm bảo vệ lợi ích của
người lao động theo ý nghĩa đúng đắn và trực tiếp của từ đó” [34, tr.418-419].
Nội dung, hình thức, biện pháp bảo vệ lợi ích của công nhân được thực hiện
trong điều kiện giai cấp công nhân nắm chính quyền đòi hỏi có sự cụ thể hóa, bổ
sung và phát triển mới. Trước hết ở những xí nghiệp tư bản nhà nước, V.I.Lênin
chỉ rõ Công đoàn có nhiệm vụ: “đấu tranh với những người tuyển công nhân vào
làm việc để bảo vệ lợi ích giai cấp của giai cấp vô sản và của quần chúng lao
động” cũng như “chống lòng tham lam vô độ có tính chất giai cấp của những tên
tư bản mà nó chưa kiểm soát được” [34, tr.418-419]. V.I.Lênin xác định đó là

18
một trong những nhiệm vụ quan trọng nhất và được xếp vào vị trí hàng đầu của
Công đoàn. Còn đối với các nhà máy, xí nghiệp nhà nước thì sao? Theo
V.I.Lênin, việc thực hiện chức năng bảo vệ lợi ích của Công đoàn vẫn mang tính
tất yếu. Bởi vì: “Nhà nước công nhân còn mắc bệnh quan liêu. Và chúng ta buộc
phải gắn cho Nhà nước - biết nói như thế nào nhỉ - cái nhãn hiệu đáng buồn đó.
Đó là tình hình thực tế của bước quá độ. Trong một Nhà nước được hình thành
trong những điều kiện cụ thể như vậy, chẳng lẽ Công đoàn lại không có cái gì để

bảo vệ hay sao? [31, tr.52].
Từ đó, V.I.Lênin chỉ rõ: “Các Công đoàn có nhiệm vụ tuyệt đối phải bảo
vệ lợi ích của công nhân, phải góp phần vào phúc lợi vật chất của họ trong phạm
vi có thể được, phải luôn luôn uốn nắn những sai lầm và những việc làm thái quá
của các cơ quan kinh tế, khi những cái đó là do một sự lệch lạc quan liêu chủ
nghĩa của bộ máy Nhà nước gây ra” [31, tr.9]. Theo V.I.Lênin, chúng ta cần phải
dùng Công đoàn để bảo vệ công nhân khỏi bị sự xâm phạm của Nhà nước của họ
và để công nhân bảo vệ Nhà nước của chúng ta. Và cả hai sự bảo vệ đó được tiến
hành bằng một sự kết hợp độc đáo những biện pháp Nhà nước của chúng ta với
sự thoả thuận của chúng ta, sự “kết hợp” với các Công đoàn của chúng ta [31,
tr.53]. Tuy nhiên, điều khác biệt trong việc bảo vệ lợi ích được V.I.Lênin chỉ
dẫn: “mọi tổ chức Công đoàn thực hiện chức năng bảo vệ ở các xí nghiệp nhà
nước tuyệt nhiên không thể mang tính chất đấu tranh giai cấp về mặt kinh tế”
[34, tr.421].
Công đoàn với việc lãnh đạo đình công, bãi công là một trong những nội
dung thể hiện sự vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác của Lênin vào hoàn cảnh mới
của nước Nga. Đình công, bãi công vốn là một công cụ hữu hiệu để bảo vệ lợi
ích của công nhân, lao động trong nền sản xuất tư bản chủ nghĩa. Trong điều
kiện mới của nước Nga V.I.Lênin đã có những chỉ dẫn hết sức quý giá về vấn đề
này. Người không những thừa nhận thực tế hoạt động bãi công, mà còn làm rõ
và luận chứng sâu sắc nguồn gốc của hoạt động này trong điều kiện, hoàn cảnh
lịch sử mới. Theo Lênin: “Đảng cộng sản, cũng như chính quyền xô viết, cũng
như các Công đoàn, đều tuyệt đối không được quên và không được dấu không

×