ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRUNG TÂM ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG GIẢNG VIÊN LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ
ĐỖ THỊ THU HUYỀN
PHÁT TRIỂN NGUỒN LỰC CON NGƯỜI
TRONG QUÁ TRÌNH CÔNG NGHIỆP HOÁ,
HIỆN ĐẠI HOÁ Ở TỈNH PHÚ THỌ
LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC
HÀ NỘI - 2012
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRUNG TÂM ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG GIẢNG VIÊN LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ
-
ĐỖ THỊ THU HUYỀN
PHÁT TRIỂN NGUỒN LỰC CON NGƯỜI
TRONG QUÁ TRÌNH CÔNG NGHIỆP HOÁ,
HIỆN ĐẠI HOÁ Ở TỈNH PHÚ THỌ
Chuyên ngành: Chủ nghĩa xã hội khoa học
Mã số: 60 22 85
LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC
Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS. BÙI THỊ NGỌC LAN
HÀ NỘI - 2012
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU 1
Chương 1. NGUỒN LỰC CON NGƯỜI TRONG MỐI QUAN HỆ VỚI CÔNG
NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA VÀ ĐẶC ĐIỂM CÔNG NGHIỆP
HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA Ở TỈNH PHÚ THỌ 9
1.1. Nguồn lực con người trong mối quan hệ với công nghiệp hóa, hiện đại
hóa 9
1.1.1. Quan niệm về nguồn lực con người và phát triển nguồn lực con
người 9
1.1.2. Mối quan hệ giữa nguồn lực con người và công nghiệp hóa,
hiện đại hóa 18
1.2. Vài nét khái quát về tỉnh Phú Thọ và đặc điểm công nghiệp hóa, hiện
đại hóa của tỉnh 23
1.2.1. Vài nét khái quát về tỉnh Phú Thọ 23
1.2.2. Đặc điểm công nghiệp hóa, hiện đại hóa của tỉnh Phú Thọ 26
Chương 2. THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN NGUỒN LỰC CON NGƯỜI Ở TỈNH
PHÚ THỌ VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA 35
2.1.
Đặc điểm về số lượng, chất lượng và phân bố nguồn lực con người ở
tỉnh
35
2.1.1. Về số lượng và chất lượng nguồn lực con người ở tỉnh Phú Thọ 35
2.1.2. Về phân bố và sử dụng nguồn lực con người ở tỉnh Phú Thọ 41
2.2. Thực trạng phát triển nguồn lực con người ở tỉnh 46
2.2.1. Những kết quả đạt được và nguyên nhân 46
2.2.2. Những hạn chế, yếu kém trong phát triển nguồn lực con người
của tỉnh và nguyên nhân 57
2.3. Những vấn đề đặt ra đối với việc phát triển nguồn lực con người ở
tỉnh Phú Thọ 63
Chương 3. QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP CHỦ YẾU PHÁT TRIỂN NGUỒN
LỰC CON NGƯỜI ĐÁP ỨNG YÊU CẦU CỦA CÔNG NGHIỆP
HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA Ở TỈNH PHÚ THỌ 67
3.1. Quan điểm cơ bản 67
3.1.1. Phát triển nguồn lực con người ở tỉnh Phú Thọ phải được coi là
khâu đột phá có ý nghĩa chiến lược đối với sự nghiệp công
nghiệp hóa, hiện đại hóa, đồng thời còn là trách nhiệm của toàn
bộ hệ thống chính trị, của các ban, ngành và nhân dân trong tỉnh 67
3.1.2. Quán triệt quan điểm phát triển, chất lượng và sử dụng có hiệu
quả nguồn lực con người trong quá trình công nghiệp hóa, hiện
đại hóa 69
3.1.3. Phát triển nguồn lực con người trên cơ sở tôn trọng quy luật
khách quan của nền kinh tế thị trường và đảm bảo được tính
cạnh tranh trên thị trường lao động 70
3.2. Những giải pháp chủ yếu nhằm phát triển nguồn lực con người đáp ứng
yêu cầu của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở tỉnh Phú Thọ 71
3.2.1. Nhóm giải pháp kinh tế 71
3.2.2. Nhóm giải pháp chính trị 76
3.2.3. Nhóm giải pháp giáo dục - đào tạo 79
3.2.4. Nhóm giải pháp về văn hóa - xã hội 84
KẾT LUẬN 91
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 93
DANH MỤC CÁC CHỮ VIÊT TẮT
CNH, HĐH: Công nghiệp hóa, hiện đại hóa
GD-ĐT: Giáo dục - đào tạo
KH-CN: Khoa học - công nghệ
NLCN: Nguồn lực con người
USD: Đô la Mỹ
GDP: Tổng sản phẩm quốc nội
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong xu thế hội nhập quốc tế hiện nay, để phát triển kinh tế - xã hội,
mỗi quốc gia phải chú ý đến các nguồn lực của mình. Trong đó, con người
được coi là nguồn lực cơ bản nhất của mọi nguồn lực, là tài nguyên của mọi
tài nguyên, giữ vị trí trung tâm trong toàn bộ quá trình công nghiệp hoá, hiện
đại hoá (CNH, HĐH). Vì vậy, việc đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng và phát triển
nguồn lực con người (NLCN) được coi là một trong những nhân tố quyết định
sự phát triển của mỗi quốc gia. Việt Nam không nằm ngoài xu thế chung đó.
Tại Đại hội XI, Đảng Cộng sản Việt Nam đã khẳng định: “Phát huy tối đa
nhân tố con người, coi con người là chủ thể, nguồn lực chủ yếu và là mục tiêu
của sự phát triển” [20, tr.30]. Từ trên quan điểm này, Đảng xác định một
trong ba khâu đột phá để phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2010 - 2020 là
“phát triển nhanh nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao, tập
trung vào việc đổi mới căn bản và toàn diện nền giáo dục quốc dân; gắn kết
chặt chẽ phát triển nguồn nhân lực với phát triển và ứng dụng khoa học, công
nghệ” [20, tr.32]. Đây là một nhiệm vụ mà các cấp, các ngành từ trung ương
đến địa phương phải quan tâm.
Phú Thọ có nhiều lợi thế về vị trí địa lý, tài nguyên thiên nhiên để phát
triển công nghiệp và thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa; có thế mạnh
mang tầm cỡ quốc gia trong các lĩnh vực như giấy, phân bón, hoá chất…
Những năm qua, sản xuất công nghiệp của tỉnh được duy trì với mức tăng
trưởng khá, giá trị sản xuất tăng bình quân 12,5%/năm. Năng lực sản xuất các
ngành có lợi thế cạnh tranh như công nghiệp chế biến, công nghiệp sản xuất
vật liệu xây dựng, hóa chất, phân bón, dệt may. Một số sản phẩm mới, công
nghệ cao đang hình thành, đa dạng, phong phú về chủng loại, chất lượng được
2
nâng lên, từng bước nâng khả năng cạnh tranh trên thị trường. Cơ cấu ngành
và theo thành phần kinh tế chuyển dịch theo hướng tích cực. Các lĩnh vực
nông nghiệp, dịch vụ đều có bước phát triển khá.
Tuy vậy, so với các tỉnh trong khu vực và cả nước, Phú Thọ vẫn là một
tỉnh nghèo, đời sống nhân dân còn nhiều khó khăn, đa số lao động tập trung ở
khu vực nông thôn, đặc biệt, quá trình CNH, HĐH chưa tương xứng với tiềm
năng hiện có. Phú Thọ đang trên đà đẩy mạnh CNH, HĐH, song tiến độ thực
hiện còn chậm bởi nhiều nguyên nhân, mà một trong những nguyên nhân cơ
bản dẫn đến tình trạng này là do chất lượng nguồn nhân lực của tỉnh còn thấp.
Mặc dù là một tỉnh đông dân (hơn 1,3 triệu dân), lực lượng lao động trong độ
tuổi chiếm đa số (84 vạn, năm 2010), nhưng chất lượng lao động trong độ tuổi
đã qua đào tạo và đào tạo nghề còn ở mức thấp, chủ yếu là lao động phổ
thông. Đội ngũ nhân lực đã qua đào tạo, nhất là nguồn nhân lực chất lượng
cao (trong đó có đội ngũ công nhân lành nghề phục vụ cho tiến trình CNH,
HĐH) của tỉnh thiếu trầm trọng. Số lượng nguồn nhân lực đông, trong khi đó
số người thất nghiệp hoặc chưa có việc làm còn lớn (khoảng 2 vạn người).
Đây là một nghịch lý hiện nay ở tỉnh Phú Thọ. Sự bất hợp lý và những tồn tại
trên đã, đang là rào cản tiến trình CNH, HĐH nói riêng và sự phát triển kinh
tế - xã hội của tỉnh nói chung.
Trước thực tế đó, Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Phú Thọ lần thứ XVII,
(nhiệm kỳ 2010 - 2015) đã thấy rõ sự cần thiết phải đầu tư phát triển nguồn
nhân lực của tỉnh, kết hợp với khai thác các lợi thế, tiềm năng để đẩy nhanh
quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, tạo nền tảng đến năm 2020 Phú Thọ
trở thành tỉnh công nghiệp. Đại hội cũng xác định, một trong ba khâu đột phá
để phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh trong thời gian tới là đào tạo, phát triển
nguồn nhân lực để khai thông những điểm “nghẽn”, tạo động lực cho sự phát
triển mạnh mẽ của tỉnh trong những năm tới. Đó là lý do để tôi chọn vấn đề:
3
“Phát triển nguồn lực con người trong quá trình CNH, HĐH ở tỉnh Phú Thọ”
làm đề tài của luận văn thạc sĩ.
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài
Nghiên cứu về NLCN và phát triển nguồn lực con người trong quá
trình CNH, HĐH là đề tài đã được nhiều học giả quan tâm chú ý. Liên quan
đến chủ đề, đã có nhiều công trình nghiên cứu, tiêu biểu là:
- Mai Quốc Chánh, “Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực đáp ứng yêu
cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước” - Nxb CTQG, H., 1999. Trong
cuốn sách này, tác giả đã phân tích vai trò của nguồn nhân lực và sự cần thiết
phải nâng cao chất lượng nguồn nhân lực. Trên cơ sở đó, tác giả đề xuất
những giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao chất lượng nguồn nhân lực để đáp
ứng yêu cầu CNH, HĐH đất nước.
- Phạm Minh Hạc, “Nghiên cứu con người và nguồn nhân lực đi vào
công nghiệp hóa, hiện đại hóa” - Nxb CTQG, H., 2001. Cuốn sách trình bày
khái quát lịch sử hình thành và phát triển của ngành khoa học xã hội nghiên
cứu về con người, nêu ra một số kết quả đạt được trong chương trình nghiên
cứu con người và nguồn nhân lực, trên cơ sở đó, xây dựng hệ thống giải pháp
nhằm phát triển toàn diện con người và nguồn nhân lực Việt Nam trong giai
đoạn hiện nay.
- Bùi Thị Ngọc Lan, “Nguồn lực trí tuệ trong sự nghiệp đổi mới ở Việt
Nam” - Nxb CTQG, H., 2002. Công trình này đã phân tích làm rõ quan niệm,
vai trò của trí tuệ, nguồn lực trí tuệ trong phát triển xã hội; đánh giá một cách
khái quát đặc điểm, thực trạng và xu hướng phát triển của nguồn lực trí tuệ
Việt Nam. Từ đó, tác giả đề xuất những phương hướng và giải pháp cơ bản
nhằm phát huy nguồn lực trí tuệ Việt Nam trong công cuộc đổi mới đất nước.
- Nguyễn Hữu Dũng, “Sử dụng hiệu quả nguồn lực con người ở Việt
Nam” - Nxb Lao động - xã hội, H.,2003. Tác giả nêu lên vai trò, yêu cầu về
phát triển, phân bố, sử dụng NLCN trong phát triển kinh tế thị trường định
4
hướng xã hội chủ nghĩa, đánh giá thực trạng phân bố, sử dụng nguồn lực con
người ở Việt Nam. Trên cơ sở đó, tác giả đề xuất một số chính sách và giải
pháp phát triển nguồn lực con người ở nước ta tới năm 2020.
- Đoàn Văn Khái, “Nguồn lực con người trong quá trình công nghiệp
hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam” - Nxb Lý luận chính trị quốc gia, H., 2005. Tác
giả đã làm rõ vai trò, thực trạng của nguồn lực con người trong quá trình
CNH, HĐH đất nước. Trên cơ sở đó, tác giả đưa ra những giải pháp cơ bản
nhằm khai thác và phát triển NLCN đáp ứng yêu cầu CNH, HĐH ở Việt Nam
hiện nay.
- Phạm Công Nhất, “Phát huy nhân tố con người trong phát triển lực
lượng sản xuất ở Việt Nam hiện nay” - Nxb CTQG, H., 2007. Cuốn sách đã
giới thiệu khái quát vai trò quan trọng của nhân tố con người trong phát triển
lực lượng sản xuất, nghiên cứu thực trạng của nó, đồng thời, đề xuất những
giải pháp phát huy nhân tố con người nhằm phát triển lực lượng sản xuất
trong thời kỳ CNH, HĐH đất nước.
- Bùi Thị Ngọc Lan (chủ nhiệm), “Phát triển nguồn nhân lực chất
lượng cao đáp ứng yêu cầu đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với
kinh tế tri thức”, Báo cáo tổng hợp kết quả nghiên cứu đề tài khoa học cấp cơ
sở 2010, Học Viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh. Đề tài làm
rõ quan niệm nguồn nhân lực chất lượng cao, mối quan hệ giữa phát triển
kinh tế tri thức với nguồn nhân lực chất lượng cao; đánh giá khái quát thực
trạng và xu hướng phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao của Việt Nam,
trên cơ sở đó đề ra các giải pháp phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao ở
Việt Nam
Nhìn chung, tuy khai thác ở những khía cạnh, những mảng khác nhau,
song các tác giả đều khẳng định sự cần thiết phải phát triển nguồn lực con
người; từ đó đánh giá thực trạng, đề xuất các phương hướng, giải pháp phát
5
triển nguồn lực con người nhằm đáp ứng yêu cầu của qúa trình công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước.
Ngoài các ấn phẩm được đề cập dưới dạng sách ở trên, liên quan đến đề
tài còn có các bài báo, tạp chí khác nhau:
- Nguyễn Hữu Dũng, “Phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao trong
sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế” - Tạp
chí Lý luận chính trị, số 8/2002. Trong nghiên cứu, tác giả đã nêu ra quan
niệm của mình về nguồn nhân lực chất lượng cao và đề xuất những giải pháp
cơ bản nhằm phát triển nguồn nhân lực này ở nước ta trong thời kỳ mới.
- Đặng Hữu, “Đào tạo nguồn nhân lực cho sự nghiệp công nghiệp hóa,
hiện đại hóa dựa trên tri thức ở nước ta hiện nay” - Tạp chí Cộng sản, số
4/2005. Tác giả làm rõ sự cần thiết phải nâng cao chất lượng của nguồn nhân
lực đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều
kiện mới, từ đó nêu ra một số giải pháp để thực hiện vấn đề này.
- Đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao tại Phú Thọ, http://tin
tuc.xalo.vn. Phú Thọ: Nghiên cứu các giải pháp về đào tạo nhằm phát triển
nguồn nhân lực chất lượng cao, Sở khoa học và công nghệ Phú Thọ (Theo
báo mới.com). Các bài viết trên đề cập đến thực trạng nguồn nhân lực ở tỉnh
Phú Thọ trước yêu cầu hội nhập quốc tế. Bài viết khẳng định nguồn nhân lực,
nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao của tỉnh còn thiếu về số lượng, yếu về
chất lượng. Vì vậy, tỉnh cần phải có những chiến lược đào tạo và giải pháp
khắc phục vấn đề này.
Vấn đề nguồn lực con người và phát triển nguồn lực con người cũng là
đề tài nghiên cứu của một số luận văn, luận án tiêu biểu như:
Luận án tiến sĩ “Phát huy nguồn lực thanh niên trong sự nghiệp công
nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam hiện nay” của tác giả Nguyễn Thị Tú
Oanh (1999); Luận văn thạc sĩ: “Phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao
trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở tỉnh Quảng Ninh hiện nay”
6
của tác giả Vũ Thị Phương Mai (2004); Luận văn thạc sĩ: “Phát triển nguồn
lực con người trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở tỉnh Bến Tre”
của tác giả Lê Thị Mai (2005); Luận văn thạc sĩ: “Phát triển nguồn nhân lực
các dân tộc thiểu số trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở tỉnh
Kon Tum” của tác giả Trịnh Ngọc Dương (2006)
Những công trình nghiên cứu nói trên là rất đáng trân trọng và là nguồn
tư liệu quí, bổ ích để tác giả tham khảo, song chưa có công trình nào trực tiếp
nghiên cứu về nguồn lực con người ở tỉnh Phú Thọ với tư cách là một đề tài
mang tính độc lập. Vì vậy, hướng nghiên cứu đề tài này vẫn phải được tiếp
tục, để đáp ứng yêu cầu lý luận và thực tiễn đặt ra ở tỉnh Phú Thọ.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
3.1. Mục đích của luận văn
Trên cơ sở làm rõ thực trạng nguồn nhân lực ở tỉnh Phú Thọ hiện nay,
luận văn đề xuất phương hướng và những giải pháp cơ bản nhằm phát triển
nguồn lực con người đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở tỉnh
Phú Thọ.
3.2. Nhiệm vụ của luận văn
- Phân tích những lý luận chung về nguồn lực con người trong mối
quan hệ với quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở tỉnh Phú Thọ.
- Làm rõ thực trạng nguồn lực con người ở tỉnh Phú Thọ hiện nay và
những vấn đề đặt ra đối với nguồn nhân lực này trong quá trình công nghiệp
hóa, hiện đại hóa của tỉnh.
- Đề xuất những quan điểm và giải pháp chủ yếu nhằm phát triển nguồn
lực con người của tỉnh, đáp ứng yêu cầu của quá trình công nghiệp hóa, hiện
đại hóa ở Phú Thọ
4. Đối tƣợng, phạm vi và giới hạn nghiên cứu của luận văn
4.1. Đối tượng của luận văn
Nguồn lực con người trong độ tuổi lao động ở tỉnh Phú Thọ.
7
4.2. Phạm vi và giới hạn nghiên cứu của luận văn
Luận văn nghiên cứu thực trạng nguồn lực con người trong quá trình
công nghiệp hóa, hiện đại hóa trên địa bàn tỉnh Phú Thọ (từ năm 1997 cho
đến nay, năm tách tỉnh Vĩnh Phú thành Phú Thọ và Vĩnh Phúc), đồng thời
tham khảo số liệu của các Sở, Ban, Ngành có liên quan.
5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận của luận văn
Luận văn được thực hiện trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối của Đảng và chính sách của Nhà nước Việt
Nam về con người và nguồn lực con người, kết hợp với chủ trương, chính
sách của Đảng bộ và Ủy ban nhân dân tỉnh Phú Thọ về các vấn đề có liên
quan đến đề tài.
5.2. Phương pháp nghiên cứu của luận văn
Luận văn sử dụng phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử;
lôgíc - lịch sử; kết hợp với các phương pháp khác như phân tích, tổng hợp,
thống kê, điều tra xã hội học để nghiên cứu NLCN trong quá trình CNH,
HĐH ở tỉnh Phú Thọ dưới góc độ chính trị - xã hội.
6. Cái mới và những đóng góp về mặt khoa học của luận văn
6.1. Cái mới của luận văn
Về lý luận
Luận văn góp phần làm rõ mối quan hệ giữa công nghiệp hóa, hiện đại
hóa và phát triển nguồn lực con người ở tỉnh Phú Thọ trong giai đoạn hiện nay.
Về thực tiễn
Luận văn làm rõ thực trạng NLCN của tỉnh Phú Thọ và đề xuất những
quan điểm, giải pháp chủ yếu nhằm phát triển NLCN đáp ứng yêu cầu của
quá trình CNH, HĐH ở Phú Thọ trong những năm tới.
8
6.2. Những đóng góp về mặt khoa học của luận văn
Luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho việc học tập, nghiên
cứu và giảng dạy lý luận chính trị trong các nhà trường. Đồng thời, luận văn
cũng có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho việc hoạch định chính sách của
các cấp quản lý ở tỉnh Phú Thọ và những ai quan tâm đến vấn đề này.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục và danh mục tài liệu tham khảo,
luận văn được kết cấu gồm 3 chương, 7 tiết:
Chương 1: Nguồn lực con người trong mối quan hệ với công nghiệp
hóa, hiện đại hóa và đặc điểm công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở tỉnh Phú Thọ.
Chương 2: Thực trạng phát triển nguồn lực con người ở tỉnh Phú Thọ
và những vấn đề đặt ra.
Chương 3: Quan điểm và giải pháp chủ yếu phát triển nguồn lực con
người đáp ứng yêu cầu của công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở tỉnh Phú Thọ.
9
Chƣơng 1
NGUỒN LỰC CON NGƢỜI TRONG MỐI QUAN HỆ
VỚI CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA VÀ ĐẶC ĐIỂM
CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA Ở TỈNH PHÚ THỌ
1.1. Nguồn lực con ngƣời trong mối quan hệ với công nghiệp hóa,
hiện đại hóa
1.1.1. Quan niệm về nguồn lực con người và phát triển nguồn lực
con người
* Quan niệm của chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về
con người
Trong lịch sử tư tưởng nhân loại, nhiều quan điểm khác nhau đã bàn về
vấn đề con người, song phải đến khi chủ nghĩa Mác ra đời (vào những năm 40
của thế kỷ XIX) thì những nhận thức của nhân loại về con người mới từng
bước được làm sáng tỏ.
Theo chủ nghĩa Mác-Lênin, con người là một thực thể tự nhiên, một
cấu trúc sinh học, đồng thời là một thực thể xã hội mang bản chất xã hội. Chủ
nghĩa Mác phân biệt rõ hai mặt tự nhiên và xã hội trong con người. Trước hết,
Mác khẳng định: con người tồn tại với tư cách là những cá nhân sống, những
cá thể có đầy đủ những hành vi, những hành động mang đậm dấu ấn cá nhân.
Với tư cách là con người sinh học, con người cá nhân, thì những nhu cầu tối
thiểu của con người phải được thỏa mãn. Khẳng định điều này, Mác viết:
“Tiền đề đầu tiên của mọi sự tồn tại của con người và do đó là tiền đề của mọi
lịch sử, đó là: người ta phải có khả năng sống đã rồi mới có thể làm ra lịch
sử” [47, tr.39-40].
Thông qua quá trình hoạt động thực tiễn và thâm nhập vào các quan hệ
xã hội, mặt xã hội của con người được hình thành và trở thành nét đặc trưng
phản ánh bản chất xã hội của con người. Trong tác phẩm “Luận cương về
10
Phoiơbắc”, C.Mác đã khẳng định: “Bản chất con người không phải là một cái
gì trừu tượng cố hữu của cá nhân riêng biệt. Trong tính hiện thực của nó, bản
chất con người là tổng hòa những quan hệ xã hội” [46, tr.11].
Từ trong quá trình nghiên cứu, các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác còn chỉ
rõ, con người với bản chất xã hội của mình luôn gắn bó chặt chẽ với đồng loại
đến mức không thể tách rời, đồng thời lại là những cá nhân riêng biệt biểu
hiện sự tự do của từng cá nhân và sự tự do của mỗi cá nhân là điều kiện cho
sự tự do của xã hội. Giải phóng cá nhân tạo nên động lực cho công cuộc giải
phóng xã hội, còn giải phóng xã hội lại tạo lập nên môi trường cho sự giải
phóng cá nhân Do đó, phát triển NLCN có nghĩa là đồng thời phát triển
nhân tố cộng đồng và nhân tố cá nhân, chỉ có thể kết hợp hài hòa lợi ích xã
hội với lợi ích cá nhân mới phát huy được sức mạnh tổng hợp của toàn xã hội.
Có thể nói những quan điểm cơ bản của các nhà sáng lập chủ nghĩa
Mác về con người là hết sức khoa học và sâu sắc. Các ông đã chỉ ra sự nhận
thức đúng về con người, bản chất con người, về mối quan hệ giữa con người -
tự nhiên - xã hội, về con người với tư cách sáng tạo ra lịch sử và việc giải
phóng con người chỉ có thể được xem xét trên cơ sở con người hiện thực, con
người sống trong cộng đồng. Con người vừa là chủ thể của hoạt động sản
xuất, là yếu tố hàng đầu, đóng vai trò quyết định trong lực lượng sản xuất của
xã hội, hơn nữa, con người còn là chủ thể sáng tạo ra lịch sử của mình.
Quan điểm của các ông đã được V.I.Lênin, Hồ Chí Minh vận dụng
trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Là người trực tiếp chỉ đạo công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội trên
thực tế, V.I.Lênin đã kế thừa tư tưởng của C.Mác và Ph.Ăngghen về con
người. Ông khẳng định tầm quan trọng hàng đầu của NLCN trong quá trình
phát triển kinh tế - xã hội. Trong tác phẩm: “Những nhiệm vụ trước mắt của
chính quyền Xôviết”, V.I.Lênin đã chỉ rõ: “Trong một nước bị tàn phá, nhiệm
vụ hàng đầu là phải cứu người lao động. Lực lượng sản xuất hàng đầu của
11
toàn thể nhân loại là người lao động” [45, tr.430]. V.I.Lênin cũng cho rằng
đối với những con người bắt tay vào công cuộc kiến thiết chế độ mới, nếu họ
chỉ có nhiệt tình và lòng dũng cảm không thôi thì không đủ, mà còn cần phải
có hiểu biết, học vấn và kinh nghiệm đấu tranh. Do vậy, thời kỳ quá độ cũng
là thời kỳ lịch sử đặc biệt có nhiệm vụ quan trọng là nâng cao trình độ dân trí
cho người lao động để họ có thể tham gia công cuộc cải tạo và xây dựng đất
nước. Đặc biệt, V.I.Lênin rất chú trọng nguồn nhân lực chất lượng cao. Do
vậy, Người chủ trương phải “thu phục được các chuyên gia tư sản” [44,
tr.217], nhất là “những người có tài”, “những chuyên gia giỏi nhất” [44,
tr.218] bằng cách trả lương cao cho họ, đồng thời, đào tạo đội ngũ trí thức
mới của giai cấp công nhân. Những chỉ dẫn của Lênin có giá trị to lớn cả về
lý luận cũng như thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội ở mỗi nước.
Đối với Hồ Chí Minh, đây cũng là vấn đề mà Người đặc biệt quan tâm.
Theo Người: “Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội, trước hết cần phải có những
con người xã hội chủ nghĩa” [51, tr.310]. Trong quá trình lãnh đạo cách mạng
của mình, Người luôn trăn trở làm sao cho dân ta ai cũng có cái ăn, cái mặc,
ai cũng được học hành, chú trọng giáo dục phát triển toàn diện con người,
nhất là cái Đức để tạo ra động lực to lớn phát triển đất nước.
Tóm lại, những quan niệm của chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ
Chí Minh về con người và phát triển nguồn lực con người là những cơ sở lý
luận và phương pháp luận quan trọng để các nhà nghiên cứu sau này kế thừa,
vận dụng trong chiến lược phát triển nguồn nhân lực ở mỗi nước.
* Quan niệm về nguồn lực con người
“Nguồn lực con người” hay “nguồn nhân lực” là một khái niệm đã
được sử dụng khá phổ biến. Ở nước ta, trong vài chục năm gần đây, nguồn
lực con người đã trở thành vấn đề, đề tài được nhiều học giả trong nước và
quốc tế quan tâm tìm hiểu. Những nghiên cứu về nguồn lực con người ngày
càng đầy đủ hơn.
12
Qua tìm hiểu các công trình nghiên cứu cho thấy, quan niệm về NLCN
khá đa dạng được đề cập trên nhiều góc độ, khía cạnh khác nhau và được tiếp
cận theo nhiều nghĩa rộng, hẹp khác nhau.
Trong lý luận về lực lượng sản xuất, con người được coi là lực lượng
sản xuất hàng đầu, là yếu tố quan trọng nhất, quyết định sự vận động và phát
triển của lực lượng sản xuất, quyết định quá trình sản xuất và do đó, quyết
định năng suất lao động và tiến bộ xã hội.
Nghiên cứu về NLCN, Liên hợp quốc cũng có quan niệm khi cho rằng
NLCN là: “con người có trình độ lao động lành nghề, là tất cả những kiến
thức, kỹ năng và năng lực của con người hiện có, cả hiện thực và tiềm năng
để phát triển kinh tế - xã hội trong một cộng đồng” [31, tr.3]. Quan niệm này
xem xét NLCN chủ yếu liên quan đến chất lượng nguồn lao động cũng như
vai trò và sức mạnh của nó đối với sự phát triển của xã hội.
Ở Việt Nam những năm gần đây cũng đã xuất hiện nhiều quan niệm về
NLCN, tuy nhiên, tùy theo cách tiếp cận, các học giả xem xét NLCN dưới các
góc độ khác nhau.
Trong lĩnh vực kinh tế, các nhà kinh tế xem xét NLCN dưới hai góc độ:
năng lực xã hội và tính năng động xã hội. Ở góc độ thứ nhất, NLCN là nguồn
cung cấp sức lao động cho xã hội, là bộ phận quan trọng nhất của dân số, có
khả năng tạo ra giá trị vật chất và tinh thần cho xã hội. Xem xét NLCN dưới
dạng tiềm năng sẽ giúp định hướng phát triển NLCN để đảm bảo không
ngừng nâng cao năng lực xã hội của NLCN thông qua giáo dục, đào tạo,
chăm sóc sức khỏe. Tuy nhiên, nếu chỉ dừng lại xem xét NLCN dưới dạng
tiềm năng thì chưa đủ. Muốn khơi dậy, phát huy tiềm năng đó, phải chuyển
NLCN từ trạng thái tĩnh sang trạng thái động, thành vốn nhân lực, tức là nâng
cao tính năng động xã hội của con người thông qua các chính sách, thể chế.
Con người với tiềm năng vô tận, nếu được tự do phát triển, tự do sáng tạo và
cống hiến, được trả đúng giá trị lao động thì sẽ trở thành nguồn vốn vô cùng
13
to lớn. NLCN, do đó được hiểu là tổng hòa trong thể thống nhất hữu cơ năng
lực xã hội của con người. Tính thống nhất đó được thể hiện ở quá trình biến
nguồn lực con người thành nguồn vốn con người.
Dưới góc độ triết học, theo các tác giả tham gia chương trình khoa học
- công nghệ cấp nhà nước: “Con người Việt Nam - mục tiêu và động lực của
sự phát triển kinh tế - xã hội” (KX-07) do GS, TSKH Phạm Minh Hạc làm
chủ nhiệm thì “Nguồn lực con người là số dân và chất lượng con người, bao
gồm cả thể chất và tinh thần, sức khỏe và trí tuệ, năng lực và phẩm chất” [27,
tr.328]. Giáo sư TS. Hoàng Chí Bảo cũng cho rằng: “Nguồn lực con người là
sự kết hợp thể lực và trí lực, cho thấy khả năng sáng tạo, chất lượng hiệu quả
hoạt động và triển vọng mới phát triển của con người” [5, tr.14]. Ngoài thể
lực và trí lực, theo tác giả “cái làm nên nguồn lực con người là kinh nghiệm
sống, đặc biệt là những kinh nghiệm nếm trải trực tiếp của con người, là nhu
cầu và thói quen vận dụng tổng hợp tri thức và kinh nghiệm của mình, của
cộng đồng vào việc tìm tòi, sáng tạo” [5, tr.15]. Xét theo nghĩa đó, NLCN bao
hàm trong đó toàn bộ sự phong phú, sâu sắc, đổi mới thường xuyên các năng
lực trí tuệ, năng lực thực hành, tổ chức và quản lý Với quan niệm trên, tác
giả muốn nhấn mạnh đến kết cấu bên trong của NLCN, những thành tố cơ bản
không thể thiếu để tạo nên động lực cho sự phát triển.
Trong lời phát biểu khai mạc Hội nghị lần thứ hai Ban Chấp hành
Trung ương Đảng (khóa VIII), nguyên Tổng Bí thư Đỗ Mười khẳng định:
“Nguồn lực con người là quý báu nhất Nguồn lực đó là người lao động có
trí tuệ cao, có tay nghề thành thạo, có phẩm chất tốt đẹp, được đào tạo, bồi
dưỡng và phát huy bởi một nền giáo dục tiên tiến gắn với một nền khoa học,
công nghệ hiện đại” [17, tr.9]. Quan niệm này nêu lên một cách toàn diện
những yếu tố cần có của người lao động với tư cách là nguồn lao động -
nguồn lực quan trọng nhất của quốc gia.
14
Từ các cách tiếp cận khác nhau và những nội dung đã nêu, có thể nói
rằng NLCN không chỉ là lực lượng lao động hay nguồn lao động mà là một
tập hợp các yếu tố. Dưới dạng tổng quát có thể hiểu: Nguồn lực con người là
khái niệm chỉ số dân, cơ cấu dân số và nhất là chất lượng con người với tất
cả đặc điểm và sức mạnh của nó trong sự phát triển xã hội.
Với cách hiểu trên, khái niệm “Nguồn lực con người” có nội dung rộng
lớn, nó bao gồm những mặt cơ bản sau:
Thứ nhất, NLCN trước hết biểu hiện ra là người lao động, là lực lượng
lao động (số người trong độ tuổi lao động có khả năng lao động), là nguồn lao
động (đội ngũ lao động hiện có và sẽ có). Mặt khác, NLCN cũng phản ánh
quy mô dân số thông qua số lượng dân cư và tốc độ tăng dân số của một
nước, một vùng lãnh thổ trong một thời gian nhất định.
Thứ hai, NLCN phản ánh tình trạng dân số trên các phương diện số
lượng và chất lượng dân cư. Phương diện số lượng đó là quy mô, tốc độ, tỷ lệ
phân bố và cơ cấu dân cư. Phương diện chất lượng đó là mức sống, tuổi thọ
bình quân, trình độ dân trí, năng lực sáng tạo, kỹ năng lao động, văn hóa lao
động Nội dung này chủ yếu nói lên chất lượng dân số, đặc biệt là chất lượng
của lực lượng lao động trong hiện tại và cả tương lai.
Thứ ba, NLCN còn phản ánh cơ cấu dân cư và cơ cấu của nguồn lao
động trong các ngành, vùng kinh tế, trên cơ sở đó phản ánh mức độ hợp lý
hay không hợp lý trong việc phân bố nguồn lực.
Thứ tư, NLCN còn phản ánh sự liên hệ, tác động lẫn nhau giữa các yếu
tố hình thành nên nó; phản ánh sự ảnh hưởng qua lại giữa NLCN với môi
trường xung quanh và các nguồn lực khác. Ngoài ra, nguồn lực này cũng cho
thấy xu hướng và sự biến đổi về số lượng, chất lượng, cơ cấu dân cư và lực
lượng lao động giữa các ngành, vùng kinh tế.
Thứ năm, NLCN còn chỉ ra rằng trong tất cả các nguồn lực thì NLCN
là nguồn lực cơ bản nhất, quyết định nhất, bởi lẽ, những nguồn lực khác chỉ
15
có thể khai thác có hiệu quả khi NLCN được phát huy. Những nguồn lực khác
ngày càng cạn kiệt, ngược lại NLCN không bao giờ cạn kiệt, vì sáng tạo là
đặc điểm riêng có và vô tận của con người. Trí tuệ con người khi đã chuyển
hóa thành công nghệ, được vận dụng vào trong quá trình sản xuất thì nó sẽ tạo
ra sự phát triển to lớn.
Từ những nội dung trên cho thấy, NLCN trong mọi thời đại luôn luôn
giữ vị trí trung tâm của sự phát triển.
* Quan niệm về phát triển nguồn lực con người
Các học giả trong quá trình nghiên cứu tùy theo góc độ tiếp cận khác
nhau mà có những quan niệm khác nhau về phát triển nguồn lực con người.
Khái niệm phát triển NLCN (hay phát triển nguồn nhân lực, hoặc phát
triển tài nguyên người) là những cách dịch khác nhau từ cụm từ Human
Resources Development (HRD). Khái niệm này được hình thành và phát triển
từ những năm 70 của thế kỷ XX, dựa trên những quan niệm mới của Liên hợp
quốc về phát triển và vị trí con người trong sự phát triển. Theo cách tiếp cận
của Liên hợp quốc, khái niệm “phát triển nguồn lực con người” xét theo nghĩa
rộng bao gồm giáo dục, đào tạo và sử dụng tiềm năng con người nhằm thúc
đẩy phát triển kinh tế - xã hội và nâng cao chất lượng cuộc sống.
Theo UNESCO, khái niệm “phát triển nguồn lực con người” theo nghĩa
hẹp, đó là toàn bộ sự lành nghề của dân cư luôn luôn phù hợp trong mối quan
hệ với sự phát triển của đất nước.
Dưới góc độ tiếp cận của tổ chức Lao động Quốc tế (ILO) thì phát triển
NLCN được nhìn nhận không chỉ là sự chiếm lĩnh trình độ lành nghề hoặc
vấn đề đào tạo nói chung, mà còn là phát triển năng lực và sử dụng năng lực
đó của con người để tiến tới có được việc làm hiệu quả, để thỏa mãn yêu cầu
của nghề nghiệp và cuộc sống cá nhân.
Từ những cách tiếp cận trên, có thể thấy cách hiểu của Liên hợp quốc
có tính bao quát hơn và nhấn mạnh đến khía cạnh xã hội của vấn đề: NLCN
16
vừa là yếu tố của sản xuất, của tăng trưởng kinh tế, vừa là mục tiêu của phát
triển. Đây là cách tiếp cận xuất phát từ lý thuyết mới về phát triển con người
mà phát triển NLCN lại nằm trong phạm trù phát triển con người.
Thực chất phát triển con người - là quan điểm về phát triển, trong đó
lấy con người làm trung tâm. Đó là sự phát triển của con người, vì con người
và do con người. Phát triển con người có nghĩa là đầu tư vào phát triển tiềm
năng của con người trong các lĩnh vực giáo dục, y tế, kỹ năng, nghề nghiệp
để con người có thể làm việc một cách sáng tạo, hiệu quả và cho năng suất
cao. Phát triển vì con người là bảo đảm sự tăng trưởng kinh tế do con người
tạo ra phải được phân phối công bằng và rộng rãi, đời sống vật chất và tinh
thần của con người không ngừng được nâng lên. Phát triển do con người tức
là tạo mọi điều kiện cho con người tham gia vào các hoạt động của đời sống
xã hội, trong đó con người là yếu tố quyết định thúc đẩy xã hội phát triển.
Như vậy, theo cách tiếp cận của Liên hợp quốc thì khái niệm “phát
triển con người” nhấn mạnh đến mục tiêu hơn là phương tiện của sự phát
triển. Mục tiêu của sự phát triển không chỉ là phát triển xã hội mà chính là
phát triển con người. Bởi lẽ, trong xã hội hiện nay, sự phát triển của xã hội
chưa hẳn đã đưa tới sự phát triển con người. Thực tế ở nhiều nước trên thế
giới đã chỉ ra rằng, xã hội phát triển nhưng con người lại chưa được quan tâm
thỏa đáng. Đời sống vật chất và tinh thần của con người tỷ lệ nghịch với tốc
độ tăng trưởng kinh tế, nghèo đói và thất nghiệp gia tăng, khoa học và công
nghệ tiến bộ nhưng thất học và mù chữ còn chiếm tỷ lệ lớn, quyền con người
nhiều nơi bị vi phạm, y tế giáo dục không được quan tâm tối thiểu. Như vậy,
mục đích của sự phát triển là phải tạo ra một môi trường tốt cho con người
phát triển toàn diện. Quan điểm phát triển con người ở trên hoàn toàn phù hợp
với quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin về phát triển con người toàn diện.
17
Ở nước ta, khái niệm “Phát triển nguồn lực con người” được các nhà
khoa học nêu lên khá nhiều trong các công trình nghiên cứu, dưới các góc độ
khác nhau.
Theo GS.VS.TSKH. Phạm Minh Hạc cho biết: Phát triển nguồn nhân
lực được hiểu về cơ bản là gia tăng giá trị cho con người trên các mặt như đạo
đức, trí tuệ, kỹ năng, tâm hồn, thể lực làm cho con người trở thành những
người lao động có năng lực phẩm chất mới và cao, đáp ứng được những yêu
cầu to lớn của sự phát triển kinh tế - xã hội, của sự nghiệp CNH, HĐH đất
nước [27, tr.285].
TS. Nguyễn Hữu Dũng cho rằng: Phát triển NLCN được coi là “quá
trình làm biến đổi về số lượng, chất lượng và cơ cấu nguồn nhân lực ngày
càng đáp ứng tốt hơn yêu cầu của phát triển kinh tế - xã hội” [13, tr.13]. Theo
tác giả, quá trình này bao gồm sự phát triển về thể lực, trí lực, khả năng nhận
thức và tiếp thu kiến thức, tay nghề, tính năng động xã hội và sức sáng tạo
của con người.
Khẳng định tính cấp thiết phải phát triển nguồn lực con người để thực
hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đất nước, Đảng ta chỉ rõ: lấy
việc phát huy NLCN làm yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh và bền vững,
nhất là trong giai đoạn hiện nay, Việt Nam đang đẩy mạnh CNH, HĐH gắn
với phát triển kinh tế tri thức nhằm tranh thủ cơ hội thuận lợi do bối cảnh
quốc tế tạo ra và tiềm năng lợi thế của nước ta để rút ngắn quá trình CNH,
HĐH đất nước theo định hướng XHCN. Một trong những đặc trưng của kinh
tế tri thức là phát triển chủ yếu dựa vào tri thức, mà tri thức là do con người
sáng tạo ra. Do đó, sự thành công hay thất bại trong công cuộc đổi mới và
CNH, HĐH đất nước gắn với phát triển kinh tế tri thức, hoàn toàn phụ thuộc
vào sức lực và trí tuệ sáng tạo của con người Việt Nam. Vì vậy, chăm lo phát
triển NLCN, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao để tạo ra năng lực nội
sinh cho sự phát triển trở thành vấn đề sống còn của cách mạng Việt Nam.
18
Như vậy, đứng trên nhiều phương diện, nhiều cách tiếp cận và những
quan niệm khác nhau cho thấy, phát triển NLCN không phải là một khái niệm
trừu tượng mà nó gắn với sự phát triển con người cụ thể. Do đó, phát triển
NLCN có mối quan hệ mật thiết với phát triển con người. Phát triển NLCN
không chỉ là quá trình làm tăng tri thức, kỹ năng, năng lực của mỗi người mà
còn là quá trình tái tạo, phát triển và sử dụng lâu dài tiềm năng con người để
tạo ra giá trị đích thực cho cuộc sống.
Tóm lại, có thể hiểu: Phát triển nguồn lực con người là quá trình làm
biến đổi về số lượng, chất lượng, cơ cấu nguồn nhân lực, đồng thời làm gia
tăng các giá trị tinh thần, đạo đức, trí tuệ, kỹ năng, thể chất cho con người
nhằm đáp ứng những yêu cầu của sự phát triển kinh tế - xã hội.
1.1.2. Mối quan hệ giữa nguồn lực con người và công nghiệp hóa,
hiện đại hóa
Giữa NLCN và CNH, HĐH có mối quan hệ gắn bó chặt chẽ với nhau,
tác động qua lại với nhau. Điều đó được biểu hiện cụ thể như sau:
Một là, nguồn lực con người là chủ thể quyết định sự thành, bại của
quá trình CNH, HĐH
Vai trò quyết định của NLCN đã được chủ nghĩa Mác quan tâm và luận
giải một cách khoa học. Theo các nhà kinh điển, con người không chỉ là sản
phẩm của tự nhiên và xã hội mà còn là chủ thể tích cực cải biến tự nhiên và
xã hội; con người là yếu tố quan trọng nhất trong lực lượng sản xuất, là lực
lượng sản xuất hàng đầu của toàn nhân loại. Nếu không có con người với trí
lực và tiềm năng to lớn của mình thì dù tư liệu lao động có sức mạnh đến đâu
và đối tượng lao động có phong phú như thế nào thì quá trình sản xuất cũng
không thể thực hiện được. Mọi sự biến đổi và phát triển của lực lượng sản
xuất suy cho cùng đều do con người.
Đã có một thời kỳ, con người với tất cả tiềm năng, hiện trạng và sức
mạnh của nó chưa được nhìn nhận như là một nguồn lực của bản thân quá
19
trình CNH, HĐH. Do vậy, trong một thời gian khá dài con người đã bị đặt
ngoài hệ thống các nguồn lực nội tại của sự phát triển. Đây cũng chính là một
trong những nguyên nhân cơ bản làm cho quá trình CNH, HĐH trước đây
thiếu động lực và kém phát triển. Ngày nay, khoa học công nghệ phát triển
mạnh mẽ và yêu cầu của sự phát triển đất nước, cùng với những bài học rút ra
từ thực tiễn và kinh nghiệm của quá trình CNH, HĐH, trong nhận thức và
thực tiễn đã có những thay đổi đáng kể về vai trò của con người.
Khi khẳng định NLCN là chủ thể quyết định sự nghiệp CNH, HĐH thì
vai trò đó được thể hiện ở cả hai phương diện: chủ thể và khách thể của quá
trình CNH, HĐH. Là chủ thể, con người xác định mục tiêu, nội dung, cách
thức CNH, HĐH cũng như tổ chức, khai thác các nguồn lực khác để thực hiện
CNH, HĐH. Các nguồn lực khác tự nó không thể tham gia vào quá trình
CNH, HĐH, chúng chỉ có ý nghĩa đối với sự phát triển xã hội và trở thành
nguồn lực của quá trình CNH, HĐH khi được kết hợp với NLCN.
Là khách thể, con người trở thành đối tượng được khai thác, sử dụng
tối đa để thực hiện thắng lợi quá trình CNH, HĐH; đồng thời con người cũng
chính là đối tượng được hưởng thụ những thành quả mà quá trình CNH, HĐH
đem lại. Toàn bộ năng lực, phẩm chất tâm, sinh lý, đạo đức của con người
được phản ánh qua hai yếu tố cơ bản là thể lực và trí lực. Đặc biệt ngày nay
trí lực đã và đang là cái cần được tập trung khai thác mạnh nhất ở NLCN để
phục vụ quá trình CNH, HĐH cũng như sự phát triển kinh tế - xã hội nói
chung. Do đó, việc nuôi dưỡng, phát triển, khai thác và sử dụng có hiệu quả
sức lao động, nhất là trí lực, trở thành yêu cầu cấp bách và hàng đầu trong
toàn bộ quá trình CNH, HĐH.
Mặt khác, mục tiêu của CNH, HĐH chính là vì con người. Điều này
đòi hỏi quá trình CNH, HĐH phải giải quyết toàn diện các vấn đề: tăng
trưởng đi đôi với phát triển, gắn tăng trưởng kinh tế với việc thực hiện tiến bộ
và công bằng xã hội, nâng cao phúc lợi cho nhân dân, cải thiện môi trường
20
sống để phát triển bền vững. Con người phải là chủ thể hưởng thụ những
thành quả mà quá trình CNH, HĐH đem lại, trên cơ sở đó nâng cao chất
lượng con người, phát triển nguồn lực con người.
Trong thế giới hiện đại, khi chuyển sang nền kinh tế chủ yếu dựa vào
tri thức, cùng với xu thế toàn cầu hóa và hội nhập, chúng ta ngày càng nhận
rõ hơn vai trò quyết định của NLCN trong phát triển, đặc biệt là nguồn nhân
lực chất lượng cao. Xét trên bình diện lý luận cũng như thực tế cho thấy rằng,
một nền kinh tế muốn tăng trưởng nhanh và ở trình độ cao phải dựa trên 3 trụ
cột cơ bản là: áp dụng công nghệ mới, phát triển hạ tầng cơ sở hiện đại và
nâng cao chất lượng NLCN. Trong đó, yếu tố và cũng là động lực quan trọng
nhất của sự tăng trưởng kinh tế bền vững chính là con người, đặc biệt là
nguồn nhân lực chất lượng cao. Con người một khi được đầu tư phát triển, tạo
lập kỹ năng, kiến thức, tay nghề, kinh nghiệm, năng lực sáng tạo thì sẽ trở
thành “nguồn vốn - vốn con người, vốn nhân lực”. Bởi lẽ, trong nền kinh tế
thế giới hiện nay, với xu thế toàn cầu hóa và cạnh tranh quyết liệt, ưu thế sẽ
thuộc về các quốc gia có NLCN mạnh về chất lượng, cùng với môi trường
pháp lý thuận lợi cho đầu tư và một xã hội ổn định. Một số nước phát triển
còn xác định trong các yếu tố cạnh tranh thì phát triển NLCN, nhất là nguồn
nhân lực chất lượng cao được coi là yếu tố cạnh tranh cơ bản nhất.
Ở một cách nhìn khác, nếu xem xét NLCN dưới góc độ công nghệ thì
nó cũng là yếu tố giữ vai trò chi phối, quyết định kết cấu, sự vận hành và hiệu
quả của công nghệ. Công nghệ được hiểu là sự kết hợp của nhiều thành phần
(máy móc, thiết bị; con người, kỹ năng, kỹ xảo; quy trình, phương pháp, dữ
liệu; tổ chức quản lý ). Mỗi thành phần có vai trò, chức năng riêng của mình,
song thành phần con người luôn giữ vị trí quan trọng nhất và được ví như chìa
khóa của công nghệ. Các thành phần khác dù tinh vi, hiện đại và phức tạp đến
đâu thì cũng đều là sản phẩm của con người, thiếu sự tác động của con người
chúng đều không có nghĩa. Ngày nay, để sản phẩm có tính cạnh tranh và đứng