Tải bản đầy đủ (.pdf) (108 trang)

Pháp luật về thế chấp tài sản trong hoạt động cho vay của ngân hàng thương mại ở Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.05 MB, 108 trang )


đại học quốc gia hà nội
khoa luật




đinh cảnh tiến




pháp luật về thế chấp tài sản
trong hoạt động cho vay
của ngân hàng th-ơng mại ở việt nam




luận văn thạc sĩ luật học







Hà nội - 2009




đại học quốc gia hà nội
khoa luật



đinh cảnh tiến




pháp luật về thế chấp tài sản
trong hoạt động cho vay
của ngân hàng th-ơng mại ở việt nam

Chuyên ngành : Luật kinh tế
Mã số : 60 38 50


luận văn thạc sĩ luật học



Ng-ời h-ớng dẫn khoa học: TS. Lê Thị Thu Thủy




Hà nội - 2009



MỤC LỤC



Trang

Trang phụ bìa


Lời cam đoan


Mục lục


MỞ ĐẦU
1

Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ THẾ CHẤP TÀI SẢN
TRONG HOẠT ĐỘNG CHO VAY CỦA NGÂN HÀNG
THƯƠNG MẠI
6
1.1.
Ngân hàng thương mại và hoạt động cho vay của ngân hàng
thương mại
6
1.1.1.
Vị trí, vai trò của ngân hàng thương mại trong nền kinh tế
6
1.1.2.

Khái niệm đặc điểm hoạt động cho vay của ngân hàng
thương mại
9
1.1.2.1.
Hoạt động cho vay của các ngân hàng thương mại
9
1.1.2.2.
Phân loại cho vay
13
1.1.3.
Rủi ro trong hoạt động cho vay của ngân hàng thương mại
14
1.2.
Một số biện pháp bảo đảm tiền vay cơ bản
16
1.2.1.
Khái niệm bảo đảm tiền vay
16
1.2.2.
Sự cần thiết phải có bảo đảm tiền vay
20
1.2.3.
Phân loại bảo đảm tiền vay
21
1.2.3.1.
Bảo đảm đối nhân và bảo đảm đối vật
21
1.2.3.2.
Bảo đảm bằng tài sản và bảo đảm không bằng tài sản bảo đảm
22

1.3.
Thế chấp tài sản trong hoạt động cho vay của ngân hàng
thương mại
28
1.3.1.
Khái niệm thế chấp tài sản
28
1.3.2.
Đặc điểm thế chấp tài sản
29
1.3.3.
Phân loại thế chấp tài sản
31
1.3.3.1.
Thế chấp toàn bộ bất động sản và thế chấp một phần
31
1.3.3.2.
Thế chấp bảo đảm nghĩa vụ cho chính mình và thế chấp
bảo đảm nghĩa vụ cho người thứ ba
31
1.4.
Mối liên hệ giữa thế chấp tài sản và hoạt động cho vay
của ngân hàng thương mại
32

Chương 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ THẾ CHẤP TÀI SẢN
TRONG HOẠT ĐỘNG CHO VAY CỦA NGÂN HÀNG
THƯƠNG MẠI Ở VIỆT NAM
34
2.1.

Khái quát quá trình hình thành và phát triển của pháp luật về
thế chấp tài sản ở Việt Nam
34
2.2.
Pháp luật hiện hành về thế chấp tài sản trong hoạt động cho vay
của ngân hàng thương mại tại Việt Nam và thực tiễn áp dụng
41
2.2.1.
Chủ thể trong quan hệ thế chấp
41
2.2.1.1.
Bên thế chấp
41
2.2.1.2.
Bên nhận thế chấp
47
2.2.2.
Tài sản thế chấp và định giá tài sản thế chấp
47
2.2.2.1.
Tài sản thế chấp
47
2.2.2.2.
Các điều kiện đối với tài sản thế chấp
49
2.2.2.3.
Định giá tài sản thế chấp
62
2.2.2.4.
Phạm vi bảo đảm nghĩa vụ của tài sản thế chấp

55
2.2.2.5.
Quản lý và thụ hưởng tài sản thế chấp
56
2.2.3.
Nội dung thế chấp
59
2.2.3.1.
Quyền và nghĩa vụ của bên thế chấp
59
2.2.3.2.
Quyền và nghĩa vụ của bên nhận thế chấp
62
2.2.3.3.
Các quyền và nghĩa vụ của bên thứ ba giữ tài sản thế chấp
65
2.2.4.
Hình thức thế chấp
66
2.2.4.1.
Hợp đồng thế chấp
66
2.2.4.2.
Yêu cầu về công chứng, xác nhận hợp đồng thế chấp, đăng
ký thế chấp
68
2.2.5.
Xử lý tài sản thế chấp
72
2.2.5.1.

Các nguyên tắc cơ bản để xử lý tài sản thế chấp
72
2.2.5.2.
Phương thức và thủ tục xử lý tài sản bảo đảm
74
2.2.5.3.
Thanh toán thu nợ từ việc xử lý tài sản thế chấp
78
2.2.6.
Chấp dứt thế chấp
79
2.3.
Một số vấn đề đặt ra là từ thực tiễn áp dụng pháp luật về thế
chấp tài sản trong hoạt động cho vay của ngân hàng thương
mại ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay
80

Chương 3: MỘT SỐ KIẾN NGHỊ GÓP PHẦN HOÀN THIỆN
PHÁP LUẬT THẾ CHẤP TÀI SẢN TRONG HOẠT
ĐỘNG CHO VAY CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
Ở VIỆT NAM
87
3.1.
Cơ sở để hoàn thiện pháp luật về thế chấp tài sản trong hoạt
động cho vay của ngân hàng thương mại ở Việt Nam
87
3.2.
Định hướng hoàn thiện pháp luật về thế chấp tài sản trong
hoạt động cho vay của ngân hàng thương mại ở Việt Nam
88

3.3.
Một số kiến nghị - đề xuất cụ thể về pháp luật thế chấp tài
sản trong hoạt động cho vay của ngân hàng thương mại ở
Việt Nam
93

KẾT LUẬN
100

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
101


1
MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Như chúng ta đã biết, trong nền kinh tế thị trường thì nhu cầu về vốn
cho phát triển, mở rộng đầu tư, sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp,
thành phần kinh tế là rất lớn, cùng với các định chế tài chính như: Các công
ty tài chính, thị trường chứng khoán,… thì hệ thống ngân hàng (đại diện là
các ngân hàng thương mại) là các "kênh" cung cấp vốn chủ yếu cho các
doanh nghiệp, các thành phần kinh tế…
Với vai trò, vị trí của mình, các ngân hàng thương mại có chức năng
đặc biệt quan trọng trong nền kinh tế mỗi quốc gia, nó là đòn bẩy cho nền
kinh tế phát triển. Các ngân hàng thương mại - với tư cách là một trung gian
tài chính - là nơi được thực hiện huy động tiền gửi từ phía công chúng - có
trách nhiệm hoàn trả vốn vay của người gửi, thực hiện cho vay đối với khách
hàng có nhu cầu về vốn.
Cho vay là hoạt động đem lại lợi nhuận chủ yếu cho các ngân hàng

thương mại. Để đảm bảo cho ngân hàng thương mại có thể duy trì và phát
triển vững chắc đòi hỏi hoạt động cho vay của ngân hàng thương mại phải an
toàn và hiệu quả. Để bảo đảm vốn vay của mình, thì toàn bộ các khâu trong
quy trình cho vay phải được tuân thủ nghiêm ngặt (từ khâu nhận hồ sơ vay
vốn đến ra quyết định cho vay, kể cả việc xử lý tài sản bảo đảm việc thực
hiện nghĩa vụ trả nợ…).
Cấp tín dụng dưới hình thức cho vay là hoạt động của ngân hàng
thương mại, thông qua việc cho vay ngân hàng thực hiện việc điều hòa vốn
trong sản xuất kinh doanh dưới hình thức phân phối vốn nhàn rỗi huy động
được từ tiền gửi trong công chúng (có thời hạn) nhằm đáp ứng nhu cầu về
vốn phục vụ cho sản xuất, kinh doanh, đời sống xã hội.

2
Trong mối quan hệ này thì các ngân hàng thương mại là người cho
vay. Có quyền lựa chọn khách hàng (người vay) để cho vay dựa trên các điều
kiện, yêu cầu nhất định, có thể là yêu cầu về tài sản bảo đảm hoặc cho vay
không có bảo đảm… Đây là các cơ sở pháp lý bảo đảm cho phía các ngân
hàng thương mại thu hồi được vốn (gốc + lãi) theo thời hạn đã thỏa thuận
trước, qua đó cũng phân biệt quan niệm cho vay với việc cấp phát của ngân
sách nhà nước bởi đặc trưng của cho vay là việc phải có sự hoàn trả.
Hoạt động cho vay luôn luôn tiềm ẩn các rủi ro, bởi đây là yếu tố gắn
liền với mọi hoạt động kinh doanh nói chung. Nhằm đảm bảo an toàn, hiệu
quả và hạn chế đến mức tối đa rủi ro trong hoạt động cho vay, ở tất cả các
nước trên thế giới đều có các quy định chặt chẽ nhằm đảm bảo an toàn trong
hoạt động cho vay, trong đó đặc biệt chú trọng đến các vấn đề cho vay có bảo
đảm bằng việc thế chấp tài sản. Trong trường hợp này thì tài sản bảo đảm tiền
vay là tài sản của khách hàng vay, của bên bảo lãnh để bảo đảm thực hiện
nghĩa vụ. Cần lưu ý rằng sự bảo đảm này là cơ sở để ngân hàng có thêm
nguồn thu nợ thứ hai (bởi nếu nguồn thu từ hiệu quả dự án đầu tư, quá trình
sản xuất kinh doanh đưa lại) không đạt kết quả cao, việc cho vay có bảo đảm

bằng tài sản chỉ áp dụng với những khách hàng không có uy tín không cao
đối với các ngân hàng.
Thông qua việc nghiên cứu các quy định của pháp luật về thế chấp tài
sản bảo đảm tiền vay trong các ngân hàng thương mại có thể tiếp cận một cách
có hệ thống các quy định pháp luật quốc tế cơ bản điều chỉnh về vấn đề này.
Đặc biệt hiện nay chúng ta đang thực hiện những cam kết quốc tế về
lĩnh vực ngân hàng trong Hiệp định Thương mại Việt - Mỹ và gia nhập Tổ
chức Thương mại Thế giới (WTO) đã và đang đặt ra cho hệ thống ngân
hàng thương mại Việt Nam những thách thức vô cùng to lớn. Trong đó,
ngân hàng là lĩnh vực hoàn toàn mở trong cam kết gia nhập WTO của Việt
Nam. Đến năm 2010, lĩnh vực ngân hàng sẽ mở cửa hoàn toàn các dịch vụ

3
cho khối ngân hàng nước ngoài [13]. Vì vậy, việc nghiên cứu về hợp đồng
cho vay thuộc ngân hàng thương mại nói chung và thế chấp tài sản trong
hoạt động cho vay thuộc ngân hàng thương mại nói riêng là rất cấp thiết,
trên cơ sở đó chỉ ra những bất cập của pháp luật Việt Nam về thế chấp tài
sản trong hoạt động cho vay của ngân hàng thương mại; đưa ra một số giải
pháp, kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về thế chấp tài sản trong hoạt
động cho vay của ngân hàng thương mại. Với lý do trên, tôi đã chọn đề tài
"Pháp luật về thế chấp tài sản trong hoạt động cho vay của ngân hàng
thương mại ở Việt Nam" để thực hiện luận văn thạc sĩ Luật học.
+ Làm rõ các vấn đề lý luận về thế chấp tài sản như: khái niệm, đặc
điểm, vai trò, thủ tục xử lý tài sản thế chấp theo pháp luật Việt Nam; có so
sánh với pháp luật quốc tế.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Việc nghiên cứu các quy định của pháp luật về biện pháp bảo đảm
tiền vay nói chung và thế chấp tài sản bảo đảm tiền vay đã được đề cập ở rất
nhiều công trình nghiên cứu trong: sách, báo, tạp chí như: Tạp chí ngân
hàng, báo Diễn đàn doanh nghiệp, Thời báo ngân hàng, sách chuyên khảo:

"Các biện pháp bảo đảm tiền vay bằng tài sản của các tổ chức tín dụng" do
TS. Lê Thị Thu Thủy làm chủ biên, Nxb Tư pháp, 2006 - Nội dung tác giả
đã đề cập một cách có hệ thống, các biện pháp bảo đảm tiền vay của các tổ
chức tín dụng, chỉ ra những thiếu sót và hướng khắc phục, hoàn thiện pháp
luật về bảo đảm tiền vay của các tổ chức tín dụng, có so sánh với các biện
pháp bảo đảm tiền vay của các nước trên thế giới như: Nhật Bản, Liên bang
Nga, Mỹ, Pháp… Cuốn sách: "Hoàn thiện pháp luật về hoạt động của ngân
hàng thương mại trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam", của TS. Ngô
Quốc Kỳ, Nxb Tư pháp, 2005, tác giả đã đề cập đến các hoạt động có tính
chất nghiệp vụ của ngân hàng thương mại và pháp luật điều chỉnh hoạt động
của ngân hàng thương mại kiến nghị và đề xuất hướng hoàn thiện pháp luật

4
về hoạt động của ngân hàng thương mại. Mặc dù vậy, các đề tài, công trình
nghiên cứu trên do thời gian nghiên cứu cách đây nhiều năm do đó không
đáp ứng được tính thực tiễn. Mặt khác, nhu cầu về vốn của khách hàng vay
ngày càng tăng, nhu cầu mở rộng cho vay của các ngân hàng thương mại
luôn đòi hỏi tính an toàn, hiệu quả, tính cạnh tranh trong xu thế hội nhập giữa
các ngân hàng.
Do đó, việc nghiên cứu bổ sung và hoàn thiện các quy định của pháp
luật về thế chấp tài sản trong hoạt động cho vay của các ngân hàng thương
mại có ý nghĩa rất lớn.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài, đó là: Các quy định pháp luật về thế
chấp tài sản trong hoạt động cho vay của ngân hàng thương mại ở Việt Nam
và mối quan hệ giữa pháp luật về thế chấp tài sản trong hoạt động cho vay
với các quy định khác về bảo đảm tiền vay.
4. Mục đích nghiên cứu
Làm rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn của pháp luật về thế chấp
tài sản trong hoạt động cho vay của ngân hàng thương mại: khái niệm, đặc

điểm, thực tiễn áp dụng, trên cơ sở đó chỉ ra những bất cập của pháp luật Việt
Nam về thế chấp tài sản trong hoạt động cho vay của ngân hàng thương mại;
có đưa ra một số giải pháp, kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về thế chấp
tài sản trong hoạt động cho vay của ngân hàng thương mại.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Tác giả kết hợp sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể như:
Phương pháp thống kê, phân tích, đánh giá, đối chiếu, so sánh, tổng hợp…
dựa trên nền tảng cơ bản đó là: Phương pháp duy vật biện chứng và duy vật
lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lênin.

5
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục các tài liệu tham khảo, nội
dung của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề chung về thế chấp tài sản trong hoạt động
cho vay của ngân hàng thương mại.
Chương 2: Thực trạng pháp luật về thế chấp tài sản trong hoạt động
cho vay của ngân hàng thương mại ở Việt Nam.
Chương 3: Hoàn thiện pháp luật về thế chấp tài sản trong hoạt động
cho vay của ngân hàng thương mại ở Việt Nam.

6
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ THẾ CHẤP TÀI SẢN
TRONG HOẠT ĐỘNG CHO VAY CỦA NGÂN HÀNG THƢƠNG MẠI

1.1. NGÂN HÀNG THƢƠNG MẠI VÀ HOẠT ĐỘNG CHO VAY CỦA
NGÂN HÀNG THƢƠNG MẠI
1.1.1. Vị trí, vai trò của ngân hàng thƣơng mại trong nền kinh tế
Như chúng ta đã biết, ngân hàng là một tổ chức quan trọng đặc biệt

đối với nền kinh tế ở mỗi quốc gia. "Sự hình thành và phát triển của ngân
hàng gắn liền với lịch sử phát triển của nền sản xuất hàng hóa, đến lượt mình,
sự phát triển của hệ thống ngân hàng trở thành động lực thúc đẩy nền kinh
tế" [21, tr. 6].
Trên thực tế, mặc dù thuật ngữ "ngân hàng" đã xuất hiện từ rất sớm.
Song, quan niệm về ngân hàng luôn thay đổi qua mỗi thời kỳ, bởi lẽ do sự
biến đổi và phát triển không ngừng của nền kinh tế mỗi quốc gia, cả trên
phạm vi toàn cầu dẫn đến các hoạt động nghiệp vụ của ngân hàng ngày một
đa dạng, phức tạp.
Chúng ta có thể định nghĩa ngân hàng dựa trên các chức năng, dịch
vụ hoặc vai trò của ngân hàng trong nền kinh tế. Cách tiếp cận thận trọng và
phổ biến nhất là có thể xem xét ngân hàng trên phương diện những loại
hình dịch vụ mà chúng cung cấp. "Ngân hàng là các tổ chức tài chính cung
cấp một danh mục các dịch vụ tài chính đa dạng nhất, đặc biệt là tín dụng,
tiết kiệm, dịch vụ thanh toán và thực hiện nhiều chức năng tài chính nhất
so với bất kỳ một tổ chức kinh doanh nào trong nền kinh tế" [21, tr. 7]. Dựa
trên các hoạt động nghiệp vụ chủ yếu của ngân hàng sau đây để có thể
phân biệt chúng với các loại hình tổ chức khác và tổ chức tài chính phi ngân
hàng như:

7
- Nhận tiền gửi của công chúng, cá nhân, tổ chức, doanh nghiệp… có
hoàn trả.
- Cấp tín dụng dưới hình thức cho vay (cho các cá nhân, tổ chức, mọi
thành phần kinh tế ).
- Làm trung gian thanh toán và đồng thời cung cấp các dịch vụ, các
phương tiện thanh toán.
Ngoài ra, nhằm đa dạng hóa các loại hình dịch vụ, ngân hàng cũng đã
mở rộng phạm vi cung cấp dịch vụ gián tiếp khác như: các dịch vụ về bất
động sản, môi giới chứng khoán tham gia hoạt động bảo hiểm, quỹ hỗ trợ đầu

tư ủy thác và nhiều loại lĩnh vực dịch vụ mới khác.
Qua những điểm cơ bản trên, có thể thấy rằng ngân hàng là tổ chức
hoạt động trong lĩnh vực tiền tệ, có chức năng nhận tiền gửi của công chúng,
có hoàn trả và cho vay đối với khách hàng có nhu cầu. Và trong số các tổ
chức tín dụng thì Ngân hàng thương mại có vai trò trung tâm, và là một loại
hình tổ chức tín dụng quan trọng trong hệ thống ngân hàng.
Quan niệm về ngân hàng thương mại được xem xét ở mỗi nước tuy có
những cách hiểu khác nhau, song đều bao hàm các nội dung hoạt động cơ bản
của ngân hàng. Ví dụ: Ở Mỹ, người ta thường nói ngân hàng thương mại là
một trung gian giữa các đơn vị thừa tiền và đơn vị thiếu tiền; Đạo luật ngày
03/6/1942 của Pháp có quy định: "Được xem ngân hàng là những xí nghiệp
hay cơ sở nào làm nghề thường xuyên nhận của công chúng dưới hình thức ký
thác, hoặc hình thức khác những khoản tiền mà họ dùng cho chính họ vào các
nghiệp vụ chiết khấu, nghiệp vụ tín dụng hay nghiệp vụ tài chính" [1, tr. 21],
qua đây ta thấy ngân hàng thương mại là một tổ chức kinh doanh tiền tệ. có
mục tiêu chính là lợi nhuận.
Tại Điều 20 điểm 7 Luật Các tổ chức tín dụng Việt Nam sửa đổi, bổ
sung năm 2004 ghi nhận: "Hoạt động ngân hàng là hoạt động kinh doanh tiền

8
tệ và dịch vụ ngân hàng với nội dung thường xuyên là nhận tiền gửi, sử dụng
số tiền này để cấp dịch vụ và cung ứng dịch vụ thanh toán" [28].
Từ những nhận định trên, ta thấy ngân hàng thương mại có những đặc
điểm cơ bản sau:
- Thực hiện toàn bộ các hoạt động ngân hàng. Các hoạt động đó bao
gồm: Nhận tiền gửi, huy động vốn nhàn rỗi của các cá nhân, tổ chức trong xã
hội, cấp tín dụng, cung ứng các dịch vụ thanh toán, các hoạt động có liên
quan và các dịch vụ ngân hàng.
Đây là điểm khác biệt giữa ngân hàng thương mại với các tổ chức tín
dụng phi ngân hàng chỉ thực hiện một số hoạt động ngân hàng. Ví dụ: các

công ty tài chính của các doanh nghiệp, hoặc của các tổ chức tín dụng có
chức năng huy động vốn trung và dài hạn.
- Thực hiện việc huy động vốn và cấp tín dụng ngắn hạn là chủ yếu,
đồng thời từng bước chuyển dần sang các nghiệp vụ huy động vốn và cấp tín
dụng dài hạn, đáp ứng quy mô mở rộng hoạt động kinh doanh của khách
hàng và nhu cầu vốn của nền kinh tế. "Đặc trưng này làm cho ngân hàng
thương mại khác với thị trường chứng khoán và tạo ra mối quan hệ tương hỗ
với thị trường chứng khoán vì hoạt động cung cầu vốn" [13, tr. 50].
- Khác với ngân hàng chính sách xã hội và quỹ hỗ trợ phát triển (hoạt
động thực hiện chính sách), hoạt động của ngân hàng thương mại có mục tiêu
hàng đầu là lợi nhuận.
- Tính đa dạng hóa trong hình thức sở hữu của các Ngân hàng Việt Nam
hiện hành, nhằm phát huy tối đa khả năng của mọi thành phần kinh tế. Hiện tại,
ở Việt Nam có: 04 Ngân hàng thương mại Nhà nước, 06 ngân hàng liên doanh,
37 ngân hàng thương mại cổ phần, 44 chi nhánh ngân hàng nước ngoài tại Việt
Nam riêng trong năm 2008, Ngân hàng Nhà nước đã cấp phép thành lập mới
05 ngân hàng 100% vốn nước ngoài tại Việt Nam, 03 ngân hàng thương mại

9
cổ phần là ngân hàng thương mại cổ phần Liên Việt, Ngân hàng thương mại
cổ phần Bảo Việt, Ngân hàng thương mại cổ phần Tiên Phong.
Từ những nội dung phân tích trên đây có thể thấy được vai trò của hệ
thống các ngân hàng thương mại đối với sự phát triển kinh tế ở mỗi quốc gia.
Bản thân các ngân hàng thương mại là một tổ chức trung gian tài chính có vị trí
số một trong hệ thống các định chế tài chính ở mỗi nước. Bởi vì, tổng số tài sản
dư nợ của các ngân hàng thương mại bao giờ cũng lớn hơn tổng số tài sản nợ của
các loại hình ngân hàng và các tổ chức tài chính phi ngân hàng khác.
1.1.2. Khái niệm đặc điểm hoạt động cho vay của ngân hàng
thƣơng mại
1.1.2.1. Hoạt động cho vay của các ngân hàng thương mại

Hoạt động cho vay của các ngân hàng thương mại là một trong số các
hoạt động cơ bản và mang lại nguồn thu chủ yếu (khoảng 70% lợi nhuận)
hàng năm. Thông qua việc cho vay, các ngân hàng thương mại đã thực hiện
việc điều hòa nguồn vốn nhàn rỗi tạm thời (nguồn vốn mà ngân hàng có được
thông qua việc huy động từ công chúng) để đáp ứng nhu cầu về vốn cho
doanh nghiệp, cá nhân, tổ chức trong xã hội…
Hoạt động cho vay của ngân hàng thương mại (với tư cách là chủ nợ) và
người đi vay (khách hàng vay- con nợ) được thể hiện bằng hợp đồng tín dụng,
ghi nhận những thỏa thuận cơ bản ràng buộc người vay phải tuân thủ trước khi
giao kết hợp đồng tín dụng. Ví dụ: Điều kiện về tài sản bảo đảm, mục đích sử
dụng vốn vay, tính khả thi của dự án, phương án kinh doanh… Và để đảm bảo
cho ngân hàng thương mại tồn tại và phát triển bền vững thì hoạt động cho vay
của ngân hàng thương mại phải luôn tôn chỉ mục đích: An toàn lợi nhuận, và tính
cạnh tranh. Việc cho vay được tiến hành theo một quy trình - quy trình cho vay.
Quy trình cho vay là tổng hợp các nguyên tắc, quy định của ngân
hàng trong việc cho vay. Quy trình này bao gồm nhiều khâu, theo một trật tự
nhất định. Có thể khái quát quy trình cho vay theo sơ đồ sau:

10
SƠ ĐỒ QUY TRÌNH CHO VAY
Khách hàng
cung cấp tài liệu
thông tin
(1).Cán bộ tín
dụng tiếp xúc
khách hàng tư
vấn, hướng dẫn
Hồ sơ xin vay gồm:
.Đơn xin vay
.Hồ sơ pháp lý

.Dự án, phương án
kinh doanh
.Thu thập thông tin
. Qua trao đổi, thu
thập mua, tự kiểm tra
* Cập nhật thông tin
. Thị trường
. Chính sách
. Pháp lý
.Khách hàng
Thẩm định hồ sơ
Quyết định cho vay
Thực hiện quyết định
cho vay
Thông báo
. Cho vay
. Từ chối + Lý do
. Thông báo khác
Ký hợp đồng
tín dụng
Giải ngân
Tổ chức giám sát
khách hàng
Thu nợ
Không thu đủ
Thu đủ
Thanh lý hợp đồng
(2)
(3)
(4)

(5)
(6)
(5)
Ký hợp đồng
tín dụng
(7)
(8)
(9b)
Xử lý
rủi ro
(12)
Gia hạn nợ
đáo nợ ợ
(10b)
khởi kiện
xử lý tài
sản
(10c)
(11b)
(9a)
(11b)
(11a)

11
Giải thích: Các bước được tiến hành như sau: Tiếp nhận và hướng dẫn
khách hàng lập hồ sơ vay vốn - thẩm định các điều kiện vay vốn (kiểm tra hồ
sơ vay vốn và mục đích vay vốn; kiểm tra hồ sơ khoản vay và hồ sơ bảo đảm
tiền vay; điều tra thu thập thông tin và xác minh thông tin về khách hàng, về
phương án; thẩm định khách hàng; thẩm định phương án/ dự án đầu tư - xác
minh phương thức cho vay - lập tờ trình thẩm định - trình duyệt cho vay và

ký hợp đồng tín dụng - giải ngân - kiểm tra giám sát tiền vay - yhu nợ lãi và
gốc và xử lý những phát sinh - thanh lý hợp đồng tín dụng và giải chấp tài
sản bảo đảm.
Việc xây dựng quy trình tín dụng hợp lý sẽ góp phần nâng cao hiệu
quả của hoạt động quản trị nhằm giảm thiểu rủi ro và nâng cao doanh lợi.
Như vậy về cơ bản có thể thấy rằng, cho vay là một quan hệ giao dịch
giữa 02 chủ thể (ngân hàng thương mại và người vay), trong đó một bên
(Ngân hàng thương mại) chuyển giao tiền hoặc tài sản cho bên kia (người
vay) sử dụng trong một thời gian nhất định, đồng thời bên nhận tiền hoặc tài
sản cam kết hoàn trả vốn (gốc và lãi) cho bên vay và theo điều kiện thời hạn
đã thỏa thuận.
Tại Quyết định số 1627/2001/QĐ-NHNN ngày 31/12/2001 của Thống
đốc Nhân hàng Nhà nước về việc ban hành Quy chế cho vay của tổ chức tín
dụng đối với khách hàng, ghi nhận: cho vay là một hình thức cấp tín dụng,
theo đó, tổ chức tín dụng giao cho khách hàng một khoản tiền để sử dụng vào
mục đích và thời gian nhất định theo thỏa thuận với nguyên tắc có hoàn trả cả
gốc và lãi.
Bản chất cho vay đó là chuyển nhượng quyền sở hữu trên cơ sở có sự
hoàn trả (trong cho vay tiền mặt thì trả cả gốc và lãi vay). Đây là tiêu chí để
phân biệt cho vay với cấp phát ngân sách của Nhà nước.
Cho vay có đặc điểm khác với hoạt động chiết khấu; cho thuê tài
chính; hoạt động bảo lãnh là ở chỗ:

12
Khác với cho vay, hoạt động cấp tín dụng dưới hình thức chiết khấu
các chứng từ có giá của các tổ chức tín dụng là một hình thức tín dụng hợp
đồng, dựa trên thỏa thuận giữa tổ chức tín dụng và người thụ hưởng về việc
tổ chức tín dụng sẽ mua hối phiếu và các giấy tờ có giá khác của người thụ
hưởng trước khi đến hạn thanh toán (Điều 57 Luật Các tổ chức tín dụng sửa
đổi năm 2004).

Nét đặc trưng của việc chiết khấu là tổ chức tín dụng khấu trừ ngay
lãi suất chiết khấu và chỉ cấp cho khách hàng phần tiền còn lại, phần lãi suất
chiết khấu và các khoản hoa hồng khác liên quan chính là phần lãi của tổ
chức tín dụng.
Trong hoạt động bảo lãnh ngân hàng, Điều 58 Luật Các tổ chức tín
dụng quy định: "Bảo lãnh của ngân hàng là cam kết của ngân hàng dưới hình
thức thư bảo lãnh về việc thực hiện nghĩa vụ tài chính thay cho khách hàng
của ngân hàng khi khách hàng không thực hiện đúng cam kết" [28]. Khác với
cho vay, ngân hàng không phải xuất tiền, hoạt động bảo lãnh của ngân hàng
là hình thức tài trợ thông qua uy tín. Ngân hàng có thể thực hiện bảo lãnh
dưới các hình thức cơ bản như: phát hành thư bảo lãnh, mở tín dụng thư, ký
hối phiếu nhận nợ
- Đối với hoạt động cho thuê tài chính (quy định tại Điều 61 Luật Các
tổ chức tín dụng năm 2004). Đây là một hình thức cấp tín dụng trung và dài
hạn của tổ chức tín dụng.
Hiện nay, một số ngân hàng thương mại đã lập ra các phòng cho thuê
hoặc các công ty cho thuê tài chính để thực hiện các hoạt động cho thuê.
Điểm khác biệt với hoạt động cho vay đó là: bên thuê không được đơn
phương hủy bỏ hợp đồng thuê, cho đến khi hết thời hạn thuê, bên thuê được
quyền ưu tiên mua hoặc thuê lại tài sản đó theo các điều kiện đã thỏa thuận.
- Không có sự chuyển đổi quyền sở hữu về tài sản của bên cho thuê
cho bên thuê.

13
So với các hình thức cấp tín dụng nêu trên hoạt động cho vay của các
ngân hàng thương mại luôn chiếm tỷ lệ cao nhất (xấp xỉ 70% doanh số và
lợi nhuận).
1.1.2.2. Phân loại cho vay
Căn cứ vào mục đích sử dụng vốn vay của khách hàng vay thông qua
hợp đồng tín dụng, cho vay được phân loại thành:

- Cho vay tiêu dùng.
- Cho vay đáp ứng yêu cầu sản xuất, kinh doanh.
- Cho vay đáp ứng vốn lưu động
Căn cứ vào thời hạn cho vay, ta có:
- Cho vay ngắn hạn (đến 01 năm).
- Cho vay trung hạn (từ 1 đến 05 năm).
- Cho vay dài hạn (từ 5 năm trở lên).
Tổ chức tín dụng căn cứ vào chu kỳ sản xuất kinh doanh, thời hạn thu
hồi vốn của dự án đầu tư, khả năng trả nợ của khách hàng và nguồn vốn cho
vay của tổ chức tín dụng để thỏa thuận về thời hạn cho vay. Đối với các pháp
nhân Việt Nam và nước ngoài thời hạn cho vay không vượt quá thời hạn hoạt
động còn lại theo quyết định thành lập hoặc giấy phép hoạt động tại Việt
Nam; đối với cá nhân nước ngoài, thời hạn cho vay không vượt quá thời hạn
được phép sinh sống, hoạt động tại Việt Nam [13, tr. 219].
Cho vay ngắn hạn là các khoản cho vay có thời hạn ≤ 12 tháng.
Mục đích cho vay ngắn hạn nhằm đáp ứng các nhu cầu về vốn cho
sản xuất, kinh doanh, dịch vụ, phục vụ đời sống của khách hàng.
- Cho vay trung và dài hạn là các khoản cho vay có thời hạn trên 01 năm.
Ở Việt Nam hiện nay,theo thông lệ của các ngân hàng thương mại thì các
khoản cho vay có thời hạn từ 1 đến 5 năm được coi là cho vay trung hạn, trên

14
05 năm gọi là cho vay dài hạn. Các sản phẩm chính đó là cho vay theo dự án
đầu tư; cho thuê tài chính.
- Căn cứ vào bảo đảm tiền vay, ta có: cho vay có bảo đảm và cho vay
không có bảo đảm tiền vay.
Ngoài ra, còn một số hình thức cho vay khác như: cho vay theo hạn
mức thấu chi, cho vay theo hạn mức tín dụng dự phòng
1.1.3. Rủi ro trong hoạt động cho vay của ngân hàng thƣơng mại
Trên thực tế, rủi ro có thể xảy ra đối với bất kỳ loại hình kinh doanh

nào. Không loại trừ yếu tố đó, kinh doanh ngân hàng luôn gắn liền với yếu tố
rủi ro. Tuy nhiên đây là hoạt động kinh doanh rủi ro có tính toán.
Mặc dù vậy, rủi ro trong kinh doanh ngân hàng có những điểm khác
biệt với các lĩnh vực kinh doanh khác về mức độ nguyên nhân. Rủi ro trong
kinh doanh ngân hàng có tính lan truyền và để lại hậu quả to lớn, không chỉ
bao gồm rủi ro nội tại của ngành, mà còn của tất cả các ngành khác trong nền
kinh tế, không chỉ trong phạm vi một quốc gia mà còn ảnh hưởng đến nhiều
quốc gia khác. Một số rủi ro cơ bản mà các ngân hàng thương mại thường
gặp trong hoạt động kinh doanh của mình đó là:
- Rủi ro tín dụng.
- Rủi ro lãi suất.
- Rủi ro thanh toán.
- Rủi ro hối đoái, rủi ro hoạt động khác
Rủi ro là sự kiện xảy ra ngoài ý muốn và ảnh hưởng xấu đến hoạt
động kinh doanh của ngân hàng thương mại (ví dụ: kết quả đặt ra không đạt
được, thất thoát tài sản, vốn ).
Chính bởi xuất phát từ đặc trưng cơ bản trong hoạt động kinh doanh
của các Ngân hàng thương mại đó là kinh doanh tiền gửi - chức năng ban đầu
là nhận tiền gửi của xã hội, sau đó ngân hàng thương mại đã trở thành các

15
chủ thể chuyên mua bán quyền sử dụng vốn, và tính hệ thống cao nên kinh
doanh trong ngân hàng có độ rủi ro gấp nhiều lần so với các doanh nghiệp
trong các lĩnh vực kinh doanh khác.
Rủi ro tín dụng, có thể nói, đây là loại rủi ro cơ bản nhất của ngân
hàng xuất phát từ động như: cho vay, bảo lãnh, tài trợ, cho thuê tài chính
Rủi ro tín dụng xảy ra trong trường hợp đến hạn thanh toán các khoản
vay theo hợp đồng tín dụng ký giữa ngân hàng và khách hàng. Khách hàng vi
phạm cam kết nghĩa vụ trả nợ về: thời gian, số tiền phải thanh toán bao gồm
gốc và lãi… đã không được hoàn trả đầy đủ.

Theo thống kê cho thấy hiện nay, hoạt động cho vay trong các ngân
hàng vẫn là chủ yếu, chiếm từ 70% đến 90% tổng tài sản có và một tỷ lệ
tương đương trong tổng thu nhập của hệ thống ngân hàng. Đồng thời, tỷ lệ
nợ xấu mặc dù đã được cải thiện song vẫn ở mức cao và đang có xu hướng
tăng lên.
Nguyên nhân gây nên rủi ro tín dụng xuất phát từ các lý do như:
- Khách hàng vay lâm vào tình trạng khó khăn về tài chính như: làm
ăn thua lỗ nên không đủ khả năng thanh toán cho ngân hàng.
+ Công tác thẩm định, đánh giá về khách hàng, cũng như tính khả thi
của dự án, hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp, phương án đầu tư không
chính xác trước khi ngân hàng thương mại ra quyết định cấp tín dụng.
+ Việc định giá tài sản bảo đảm thấp hơn so với nghĩa vụ trả nợ cho
ngân hàng; sự cố tình trì hoãn không trả nợ, hoặc xuất phát từ các lý do bất
khả kháng khác.
Ngoài ra, do sự yếu kém về nghiệp vụ, đạo đức của một số cán bộ
nhân viên trong hệ thống ngân hàng thương mại cũng là tác nhân gây ảnh
hưởng đến rủi ro tín dụng.

16
Theo đánh giá của ThS. Phạm Tiến Thành (BIDV): "Có vẻ như rủi ro
trong hoạt động của các ngân hàng Việt Nam đang có xu hướng tăng lên".
Rủi ro dễ nhận biết đầu tiên là rủi ro tác nghiệp.
Như vậy, có thể thấy rằng, rủi ro tín dụng luôn tồn tại và nợ xấu là
một thực tế hiển nhiên ở bất cứ ngân hàng nào, kể cả ngân hàng hàng đầu
trên thế giới. Bởi có những rủi ro nằm ngoài tầm kiểm soát của con người.
Tuy vậy, sự khác biệt giữa các ngân hàng có năng lực quản trị rủi ro tín dụng
là khả năng khống chế nợ xấu ở một tỷ lệ thấp có thể chấp nhận được. Nhất
là đối với những rủi ro tín dụng mang tính chủ quan, xuất phát từ yếu tố con
người. Quan điểm của P.Volker, cựu chủ tịch Cục dự trữ Liên bang Mỹ
(FED) cho rằng "nếu ngân hàng không có những khoản nợ xấu thì đó không

phải là hoạt động kinh doanh".
Trong số các rủi ro tín dụng, thì rủi ro trong hoạt động cho vay của
ngân hàng thương mại luôn tiềm ẩn rất lớn. Điều này xuất phát từ tâm lý của
người đi vay. Từ lý thuyết hành vi và lý thuyết trò chơi đã chỉ ra rằng người
đi vay khi có lời thì mới thực hiện nghĩa vụ trả nợ vay ở ngân hàng thương
mại. Do vậy, việc trả nợ hay không trả nợ khoản vay hoàn toàn phụ thuộc vào
người vay. Các ngân hàng thương mại trong trường hợp này lâm vào tình
trạng bị động. Do vậy, rủi ro có thể xảy là rất lớn.
1.2. MỘT SỐ BIỆN PHÁP BẢO ĐẢM TIỀN VAY CƠ BẢN
1.2.1. Khái niệm bảo đảm tiền vay
- Cũng giống như các doanh nghiệp nói chung, nguồn vốn của ngân
hàng thương mại là toàn bộ, các nguồn tiền tệ mà ngân hàng tạo lập, huy
động được để cho vay, đầu tư và thực thi các dịch vụ ngân hàng. Về cơ bản,
nguồn vốn chủ yếu của Ngân hàng thương mại bao gồm:
- Vốn chủ sở hữu.
- Vốn huy động.
- Và các nguồn vốn khác

17
Như vậy, có thể thấy rằng: tín dụng là loại hình nghiệp vụ quan trọng
ở hầu hết các ngân hàng thương mại. Đây cũng là mảng hoạt động đặc trưng
của các ngân hàng thương mại. Trong đó, hoạt động cho vay luôn chiếm tỷ
trọng lớn nhất.
Như đã đề cập trên đây: hoạt động tín dụng (trong đó có hoạt động
cho vay) của ngân hàng thương mại là một hoạt động quan trọng nhất, chiếm
tỷ trọng cao nhất và mang lại nguồn lợi nhuận chủ yếu cho các ngân hàng
thương mại. Đồng thời đây cũng là hoạt động tiềm ẩn nhiều rủi ro nhất.
Nhằm bảo đảm an toàn, hiệu quả cao trong hoạt động cho vay, tránh rủi
ro đổ vỡ đối với từng ngân hàng và hệ thống các tổ chức tín dụng, pháp luật
điều chỉnh hoạt động cho vay của các nước đều chú trọng tới việc điều chỉnh

các nguyên tắc nhằm cho vay có hiệu quả, bảo đảm an toàn vốn của ngân
hàng: Xây dựng pháp luật điều chỉnh liên quan đến các biện pháp bảo đảm
tiền vay, hợp đồng tín dụng, quy trình xét duyệt, kiểm tra trước khi cho vay…
Như vậy, các biện pháp bảo đảm tiền vay được sử dụng nhằm ngăn
ngừa rủi ro, tạo cơ sở kinh tế và các ràng buộc pháp lý để thu hồi khoản tiền
đã cho khách hàng vay trong trường hợp khách hàng vay vi phạm nghĩa trả
nợ như đã cam kết trong hợp đồng tín dụng.
Xét theo nghĩa hẹp thì "bảo đảm tiền vay là những biện pháp đảm bảo
việc trả nợ vốn vay như:cầm cố, thế chấp bằng tài sản của khách hàng vay,
bảo lãnh bằng tài sản của bên thứ ba, cầm cố, thế chấp bằng tài sản hình
thành từ vốn vay" [13, tr. 229].
Như vậy, có thể thấy rằng, hầu hết các loại tài sản hoặc các quyền
phát sinh từ tài sản có giá trị thanh khoản đều có thể được sử dụng để bảo
đảm tiền vay. Dưới góc độ kinh tế thì để bảo đảm tiền vay có hiệu quả, cần
lưu ý thêm các vấn đề như:
+ Giá trị của tài sản đảm bảo so với nghĩa vụ được đảm bảo.
+ Tính thanh khoản cao của tài sản bảo đảm.

18
+ Quyền xử lý tài sản bảo đảm thu hồi vốn vay của ngân hàng thương
mại phải được đảm bảo, xem xét đến.
- Hình thức cho vay có bảo đảm bằng tài sản áp dụng đối với các
khách hàng có uy tín không cao đối với ngân hàng. Đây là cơ sở pháp lý (dự
phòng) để ngân hàng có thêm nguồn thu nợ thứ hai, nhằm bổ sung cho nguồn
thu nợ thứ nhất (có được từ hiệu quả sản xuất kinh doanh, đầu tư ) khi
không hiệu quả.
Việc bảo đảm tiền vay bằng tài sản được thực hiện thông qua cam kết,
thỏa thuận giữa người vay và bên cho vay theo quy định của pháp luật (thông
qua các hợp đồng thế chấp bảo lãnh, cầm cố ).
Xét theo nghĩa rộng thì: bảo đảm tiền vay là việc tổ chức tín dụng áp

dụng các biện pháp phòng ngừa rủi ro, tạo cơ sở kinh tế và pháp lý để thu hồi
được các khoản nợ đã cho khách hàng [15].
Để bảo đảm tiền vay, hạn chế, ngăn chặn tới mức thấp nhất các rủi ro
có thể xảy ra, nhằm thu hồi vốn, lãi suất (các loại chi phí khác) Các ngân
hàng thương mại có thể áp dụng hàng loạt các biện pháp nghiệp vụ khác nhau.
(ngoài các nghiệp vụ truyền thống như: cầm cố, thế chấp, bảo lãnh ). Việc
các ngân hàng cho vay không cần có tài sản bảo đảm cũng được xem xét dựa
trên các yếu tố (tiêu chí) như: - Đối với các khách hàng có uy tín, trung thực
trong kinh doanh, có khả năng tài chính lành mạnh, hiệu quả kinh doanh, uy
tín trên thường trường, đánh giá của bạn hàng, hoặc xếp hạng của các tổ chức
đánh giá doanh nghiệp có uy tín (Trung tâm Thông tin Tín dụng CIC), áp
dụng phương pháp quản trị có hiệu quả. Nói chung theo đánh giá của ngân
hàng là có lịch sử tín dụng tốt.
Các quy định của pháp luật cơ bản liên quan đến việc cho vay không
cần tài sản bảo đảm, đó là: Theo quy định của Khoản 1 Điểu 52 Luật Các tổ
chức tín dụng sửa đổi, bổ sung năm 2004 và quy định tại Nghị định

19
163/2006/NĐ-CP của Chính phủ thì khách hàng có đủ các điều kiện sau đây
được vay không cần có tài sản bảo đảm:
+ Sử dụng vốn vay có hiệu quả và trả nợ gốc, lãi, vốn vay đúng hạn
trong quan hệ vay vốn đối với tổ chức tín dụng cho vay hoặc các tổ chức tín
dụng khác.
+ Tính khả thi của phương án, dự án đầu tư (theo quy định của pháp luật).
- Có khả năng tài chính thực hiện nghĩa vụ trả nợ.
- Cam kết thực hiện biện pháp bảo đảm bằng tài sản theo yêu cầu của
tổ chức tín dụng nếu sử dụng vốn vay không đúng cam kết trong hợp đồng tín
dụng, cam kết trả nợ trước thời hạn nếu không thực hiện được các biện pháp
bảo đảm bằng tài sản quy định tại điều này.
- Đối với các doanh nghiệp, ngoài các điều kiện trên còn phải là

khách hàng tín nhiệm (theo tiêu chí tại hệ thống tính điểm và xếp hạng tín
dụng; hoặc đơn vị trực tiếp cho vay và khách hàng vẫn có thể thỏa thuận về
việc bên thứ ba cam kết bằng uy tín và năng lực tài chính của mình trả nợ
thay bằng văn bản, nếu khách hàng vay không trả được nợ [20].
- Ngoài ra, trong một số trường hợp, ngân hàng thương mại cho vay
không có bảo đảm bằng tài sản theo chỉ định của Chính phủ. Khi phát sinh
các tổn thất do nguyên nhân khách quan thì việc xử lý theo quy định của
Chính phủ và hướng dẫn của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam.
Và cho vay bảo đảm bằng tín chấp của các tổ chức, đoàn thể xã hội
khác nhau cho các hội viên (Hội liên hiệp phụ nữ Việt Nam, Đoàn thanh niên,
Hội nông dân ). Tuy nhiên, giá trị của các khoản vay thường không lớn, và
hạn chế về đối tượng được cho vay.
Xuất phát từ những đặc điểm phân tích trên đây có thể đưa ra một
khái niệm về bảo đảm tiền vay như sau: "Bảo đảm tiền vay (theo nghĩa hẹp)
là những biện pháp mà các tổ chức tín dụng áp dụng nhằm ngăn ngừa và hạn

20
chế tới mức thấp nhất những rủi ro có thể xảy ra trong hoạt động cho vay của
mình, cụ thể là đảm bảo cho việc thu hồi vốn và lãi suất vay" [35, tr. 53].
1.2.2. Sự cần thiết phải có bảo đảm tiền vay
Trên thực tế, mọi khoản cho vay của Ngân hàng thương mại đều có
bảo đảm. Việc hợp đồng tín dụng phân chia thành có bảo đảm bằng tài sản
cầm cố, thế chấp, bảo lãnh hoặc không có bảo đảm hoàn toàn không nói lên
tính an toàn của các khoản cho vay của Ngân hàng thương mại, còn việc cho
vay có bảo đảm bằng tài sản chỉ là nguồn thu nợ thứ hai từ bảo đảm mà thôi.
Bên cạnh việc tối đa hóa lợi nhuận, tính cạnh tranh thì yêu cầu đảm
bảo an toàn (gồm có an toàn thanh khoản, an toàn tín dụng và các an toàn
khác ) luôn được đặt lên hàng đầu. Bởi lý do "ngân hàng luôn kinh doanh
bằng tiền của người khác" (quan điểm của các nhà ngân hàng Anh), bởi trên
thực tế vốn chủ sở hữu của ngân hàng thường chiếm một phần rất nhỏ (10%)

mà thôi. Số vốn còn lại ngân hàng huy động từ các cá nhân, tổ chức, các
doanh nghiệp khác Do đó, sự an toàn của hệ thống cũng như của riêng một
ngân hàng thương mại luôn được giám sát bởi các cá nhân, chính phủ, ngân
hàng nhà nước và các nhà quản trị tại ngân hàng chuyên nghiệp.
Việc (luật hóa) các quy định liên quan tới hoạt động cho vay của ngân
hàng trước khi có Quy chế cho vay 1627 "5" cũng đặt ra nguyên tắc bắt buộc
khi vay vốn tại các tổ chức tín dụng, đó là nguyên tắc bảo đảm tiền vay. Sau
khi quy chế cho vay 1627 ra đời (có hiệu lực) thì tính chủ động được trao cho
các ngân hàng thương mại, Các ngân hàng thương mại có toàn quyền trong
việc lựa chọn cho vay có bảo đảm hoặc không có bảo đảm (ngoại trừ một số
khoản cho vay theo chỉ định của Chính phủ).
Xuất phát từ những phân tích trên đây thì việc đặt ra các biện pháp
bảo đảm tiền vay đã tạo cơ sở, tiền đề an toàn trong hoạt động cho vay của
các ngân hàng thương mại nói chung. Bởi "rủi ro tín dụng là đặc trưng tiêu
biểu nhất, dễ xảy ra nhất trong hoạt động ngân hàng" [35, tr. 79].

×