Tải bản đầy đủ (.pdf) (97 trang)

Thi hành pháp luật về thu chi ngân sách địa phương trên địa bàn thành phố Hà Nội Luận văn ThS. Luật

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (884.4 KB, 97 trang )


I HC QUC GIA H NI
KHOA LUT








PHM TH TN







THI HàNH PHáP LUậT
Về THU CHI NGÂN SáCH ĐịA PHƯƠNG
TRÊN ĐịA BàN THàNH PHố Hà NộI










LUN VN THC S LUT HC














H NI - 2014

I HC QUC GIA H NI
KHOA LUT







PHM TH TN







THI HàNH PHáP LUậT
Về THU CHI NGÂN SáCH ĐịA PHƯƠNG
TRÊN ĐịA BàN THàNH PHố Hà NộI



Chuyờn ngnh: Lut Kinh T
Mó s: 60 38 01 07




LUN VN THC S LUT HC








Ngi hng dn khoa hc: PGS. TS. INH DNG S







H NI - 2014




LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của
riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chƣa đƣợc công bố trong
bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong
Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã
hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ
tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để
tôi có thể bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!

NGƢỜI CAM ĐOAN


Phạm Thị Tân



MỤC LỤC

Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan

Mục lục
Danh mục các từ viết tắt
Danh mục sơ đồ
MỞ ĐẦU 1
Chƣơng 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ PHÁP LUẬT THU
CHI NGÂN SÁCH ĐỊA PHƢƠNG 5
1.1. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ NGÂN SÁCH NHÀ NƢỚC 5
1.1.1. Khái niệm và đặc điểm của ngân sách nhà nƣớc 5
1.1.2. Khái quát về ngân sách địa phƣơng 13
1.2. CẤU TRÚC PHÁP LUẬT VỀ THU CHI NGÂN SÁCH ĐỊA PHƢƠNG 20
1.2.1. Phân cấp quản lý ngân sách 23
1.2.2. Phân cấp thu ngân sách địa phƣơng 26
1.2.3. Phân cấp chi ngân sách địa phƣơng 28
Tiểu kết chƣơng 1 31
Chƣơng 2: THỰC TIỄN THI HÀNH PHÁP LUẬT VỀ THU CHI
NGÂN SÁCH TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HÀ NỘI 32
2.1. THU CHI NGÂN SÁCH TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HÀ NỘI,
NHỮNG VẤN ĐỀ CÓ TÍNH ĐẶC THÙ 32
2.1.1. Khái quát về thủ đô Hà Nội 32
2.1.2. Thực trạng pháp luật về thu chi ngân sách địa phƣơng trên địa
bàn thành phố Hà Nội 40
2.1.3. Thực trạng quy định pháp luật về phân cấp ngân sách 46
2.2. THỰC TIỄN THI HÀNH PHÁP LUẬT THU NGÂN SÁCH ĐỊA
PHƢƠNG TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HÀ NỘI 52



2.2.1. Thực trạng về lập dự toán thu ngân sách 52
2.2.2. Chấp hành dự toán thu ngân sách địa phƣơng 56
2.2.3. Quyết toán thu ngân sách địa phƣơng 56

2.3. THỰC TRẠNG THI HÀNH PHÁP LUẬT CHI NGÂN SÁCH
ĐỊA PHƢƠNG TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HÀ NỘI 57
2.3.1. Bảo đảm nguyên tắc công khai minh bạch trong chấp hành dự
toán chi ngân sách 57
2.3.2. Chi thƣờng xuyên 59
2.3.3. Chi đầu tƣ phát triển 63
Tiểu kết chƣơng 2 66
Chƣơng 3: KIẾN NGHỊ VỀ HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VÀ TỔ
CHỨC THI HÀNH PHÁP LUẬT THU CHI NGÂN SÁCH
ĐỊA PHƢƠNG TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HÀ NỘI 68
3.1. ĐỊNH HƢỚNG ĐẢM BẢO VIỆC THỰC HIỆN CÁC
NGUYÊN TẮC TRONG THU CHI NGÂN SÁCH ĐỊA
PHƢƠNG TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HÀ NỘI 68
3.2. ĐỊNH HƢỚNG HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT THU NGÂN
SÁCH ĐỊA PHƢƠNG 72
3.2.1. Phƣơng hƣớng tăng cƣờng công tác quản lý thu ngân sách trên địa
bàn thành phố 72
3.2.2. Về quá trình lập, chấp hành, quyết toán ngân sách 73
3.3. ĐỊNH HƢỚNG HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ CHI NGÂN
SÁCH ĐỊA PHƢƠNG 78
3.3.1. Định hƣớng hoàn thiện pháp luật về chi thƣờng xuyên 79
3.3.2. Định hƣớng hoàn thiện pháp luật về chi đầu tƣ phát triển 80
KẾT LUẬN 84
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 85







DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

GDP: Tổng sản phẩm quốc nội
HĐND: Hội đồng nhân dân
NN: Nhà nƣớc
NS: Ngân sách
NSĐP: Ngân sách địa phƣơng
NSNN: Ngân sách nhà nƣớc
NSTW: Ngân sách trung ƣơng
TW: Trung ƣơng
UBND: Ủy ban nhân dân





DANH MỤC SƠ ĐỒ

Số hiệu sơ đồ
Tên sơ đồ
Trang
Sơ đồ 1.1:
Cấu trúc của quản lý
16
Sơ đồ 2.1:
Tổ chức bộ máy nhà nƣớc của thành phố Hà Nội
40






1
MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Ngân sách có vị trí vai trò vô cùng quan trọng đối với sự phát triển kinh
tế, chính trị văn hóa xã hội của một đất nƣớc. Luật ngân sách 2002 đƣợc Quốc
hội nƣớc Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam thông qua tại kỳ họp thứ 2
Quốc Hội khóa XI. Hiện tại luật ngân sách đã đƣợc áp dụng trên thực tiễn hơn
10 năm. Nội dung chủ yếu bao gồm những quy định về nhiệm vụ quyền hạn
của Quốc hội, Chính phủ, các cơ quan ban ngành trong công tác quản lý ngân
sách; nguồn thu và nhiệm vụ chi của các cấp ngân sách, lập dự toán ngân
sách; kế toán, kiểm toán và quyết toán ngân sách… trong đó nội dung trọng
tâm là việc phân chia nguồn thu và nhiệm vụ chi cho các cấp ngân sách theo
hƣớng nâng cao vai trò của ngân sách địa phƣơng.
Sự phát triển của địa phƣơng góp phần quan trọng vào sự phát triển
chung của đất nƣớc. Cũng tƣơng tự nhƣ vậy, ngân sách địa phƣơng là nền
tảng cho ngân sách nhà nƣớc, là phân cấp của ngân sách trung ƣơng. Vị trí và
vai trò của ngân sách địa phƣơng ngày càng đƣợc khẳng định. Cũng nhƣ sự
tác động của ngân sách nhà nƣớc đối với sự phát triển của một quốc gia, ngân
sách địa phƣơng cũng góp phần không nhỏ vào sự phát triển của một địa
phƣơng.Do đó trong thời gian qua, công tác quản lý ngân sách địa phƣơng
ngày càng trở nên quan trọng. Với tƣ cách là trung tâm kinh tế, văn hóa, chính
trị của cả nƣớc, thủ đô Hà Nội đã nhận thức đƣợc vai trò quan trọng của ngân
sách địa phƣơng và sớm đã có những chính sách nhằm nâng cao hiệu quả
quản lý và đầu tƣ ngân sách địa phƣơng. Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện,
một phần do sự thay đổi của tình hình mới làm cho một số quy định của pháp
luật không còn phù hợp, một mặt do vị trí và vai trò đặc thù của Hà Nội nên
trong thời gian qua việc thực hiện pháp luật về thu chi ngân sách địa phƣơng




2
trên địa bàn Hà Nội đã bộc lộ một số bất cập nhất định, làm ảnh hƣởng tới sự
phát triển của thủ đô.
Trƣớc tình hình đó tác giả chọn đề tài “Thi hành pháp luật về thu chi
ngân sách địa phương trên địa bàn thành phố Hà Nội” nhằm phân tích thực
trạng áp dụng các quy định của pháp luật về thu chi ngân sách địa phƣơng
trên địa bàn thành phố Hà Nội, chỉ ra một số kết quả, hạn chế và nguyên nhân
từ đó nêu ra các giải pháp khắc phục.
2. Mục tiêu nghiên cứu
Mục tiêu của đề tài là qua nghiên cứu pháp luật về thu chi ngân sách
địa phƣơng cũng nhƣ thực tiễn áp dụng pháp luật về thu chi ngân sách địa
phƣơng trên địa bàn thành phố Hà Nội từ đó đề xuất một số kiến nghị nhằm
hoàn thiện hơn pháp luật về thu chi ngân sách địa phƣơng.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu về các quy định về thu chi ngân sách địa phƣơng
cũng nhƣ công tác quản lý thu chi ngân sách địa phƣơng trên địa bàn thành
phố Hà Nội theo chu trình ngân sách trong công tác quản lý thu và theo lĩnh
vực trong công tác quản lý chi. Quy định về công tác lập dự toán ngân sách,
chấp hành ngân sách và quyết toán ngân sách. Đề tài cũng tìm hiểu quy định
cũng nhƣ thực trạng về công tác phân cấp quản lý ngân sách trên địa bàn
thành phố Hà Nội, phân cấp quản lý nguồn thu và nhiệm vụ chi.
4. Tình hình nghiên cứu
Liên quan tới vấn đề thu chi ngân sách địa phƣơng và ngân sách trên
địa bàn thành phố Hà Nội chƣa có công trình nghiên cứu nào ở phạm vi nƣớc
ngoài, những công trình nghiên cứu trong nƣớc bao gồm:
Điều hoà ngân sách giữa Trung ương và địa phương (tác giả Bùi
Đƣờng Nghiêu, Võ Thành Hƣng, Nguyễn Minh Tân) – sách tham khảo

Phân cấp ngân sách cho chính quyền địa phương thực trạng và giải
pháp (tác giả Lê Chi Mai) - sách chuyên khảo



3
Kiểm toán chi ngân sách địa phương, một số vấn đề cần lưu ý trong
kiểm toán tổng hợp (tác giả Nguyễn Thị Hƣơng) – Tạp chí
Kiểm toán ngân sách địa phương theo Luật ngân sách nhà nước sửa đổi -
những vướng mắc đặt ra khi cần giải quyết (tác giả Lê Thanh Nhã) – Tạp chí
Về phân cấp chi ngân sách nhà nước cho chính quyền địa phương (tác
giả Phạm Thị Thanh Vân) – Tạp chí
Pháp luật về giám sát tài chính đối với chi đầu tư công của ngân sách
địa phương và thực tiễn áp dụng tại thành phố Hải Phòng (tác giả Phạm
Công Lƣu; Nghd: PGS.TS. Đinh Dũng Sỹ) – Luận văn thạc sĩ Luật.
Giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư xây dựng cơ bản từ
nguồn ngân sách địa phương tỉnh Bắc Giang (tác giả Ngụy Kim Phƣơng;
Nghd.: TS. Nguyễn Thị Minh Tâm) - Luận văn thạc sĩ kinh doanh và quản lý.
Quản lý nguồn thu chi ngân sách Nhà nước tại chính quyền cấp xã,
phường, thị trấn trên địa bàn tỉnh Lâm Đồng giai đoạn hiện nay (tác giả Vũ Minh
Thông; Nghd.: TS. Trần Đức Vui) – Luận văn thạc sĩ kinh doanh và quản lý 2012
Quản lý và sử dụng kinh phí ngân sách địa phương tại các cơ quan
hành chính Nhà nước, đơn vị sự nghiệp trên địa bàn Lâm Đồng (tác giả
Nguyễn Văn Ngọc; Nghd.: TS. Trần Đức Vui) – Luận văn thạc sĩ kinh doanh
và quản lý 2012
Hoàn thiện quản lý thu ngân sách nhà nước trên địa bàn thành phố
HàNội đến năm 2010 (tác giả Nguyễn Thị Hải Yến; Nghd.: TS. Lê Văn Hoạt)
– Luận văn thạc sĩ kinh doanh và quản lý
Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn ngân sách trong lĩnh vực đầu tư xây
dựng cơ bản trên địa bàn huyện Đông Anh - TP Hà Nội (tác giả Nguyễn

Việt Dũng; Nghd.: TS. Nguyễn Thị Anh Thu) – Luận văn thạc sĩ kinh
doanh và quản lý.
Các công trình nghiên cứu ở cấp luận văn về thu chi ngân sách đều là
những công trình nghiên cứu thuộc lĩnh vực kinh tế, ở góc độ pháp lý mới chỉ có



4
công trình của thạc sĩ Phạm Công Lƣu nghiên cứu về vấn đề giám sát chi đầu tƣ
công tại địa bàn thành phố Hải Phòng. Ngoài ra có một số sách tham khảo của
tác giả Bùi Đƣờng Nghiêu và Lê Chi Mai. Có thể nói đề tài “Thi hành pháp luật
về thu chi ngân sách địa phƣơng trên địa bàn thành phố Hà Nội” là một đề tài
mới nghiên cứu về thu chi ngân sách địa phƣơng từ góc độ pháp lý.
5. Tính mới và đóng góp của đề tài
Trong lĩnh vực ngân sách, các công trình nghiên cứu trƣớc đây phần
lớn xuất phát xuất phát từ góc độ kinh tế chứ không xuất phát từ góc độ pháp
lý. Đề tài này nghiên cứu về quy định của pháp luật trong việc thu chi ngân
sách địa phƣơng tại thành phố Hà Nội, từ đó đƣa ra một số nhận xét nhằm
nâng cao hiệu quả quản lý ngân sách địa phƣơng cũng nhƣ biện pháp nhằm
cân đối thu chi ngân sách.
Về mặt khoa học, đề tài hệ thống lại những vấn đề pháp lý liên quan tới
thu chi ngân sách địa phƣơng tạo cơ sở dữ liệu tra cứu cho những công trình
liên quan nghiên cứu sau này. Về thực tiễn, đề tài nghiên cứu việc áp dụng
quy định của pháp luật trên địa bàn thành phố sau đó chỉ ra những thành tựu
để địa phƣơng tiếp tục phát huy và những hạn chế để địa phƣơng khắc phục,
cũng nhƣ các giải pháp để địa phƣơng áp dụng nhằm nâng cao hiệu quả thu
chi ngân sách tại địa phƣơng.
6. Kết cấu luận văn
Ngoài phần mở đầu và kết luận, nội dung luận văn gồm ba chƣơng
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về pháp luật thu chi ngân sách địa phƣơng

Chương 2: Thực tiễn thi hành pháp luật về thu chi ngân sách trên địa
bàn thành phố Hà Nội
Chương 3: Kiến nghị về hoàn thiện pháp luật và tổ chức thi hành pháp
luật thu chi ngân sách địa phƣơng trên địa bàn thành phố
Hà Nội.



5
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN
VỀ PHÁP LUẬT THU CHI NGÂN SÁCH ĐỊA PHƢƠNG

1.1. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ NGÂN SÁCH NHÀ NƢỚC
1.1.1. Khái niệm và đặc điểm của ngân sách nhà nƣớc
1.1.1.1. Khái niệm
Trong hệ thống tài chính, ngân sách nhà nƣớc (NSNN) là bộ phận chủ
đạo, là điều kiện vật chất quan trọng để thực hiện các nhiệm vụ của Nhà nƣớc
do hiến pháp quy định, nó còn là công cụ quan trọng giúp Nhà nƣớc điều tiết vĩ
mô nền kinh tế xã hội, tạo ra sự cân bằng, là tiền đề cho sự phát triển kinh tế.
Có thể nhận thấy NSNN luôn gắn liền với bản chất của nhà nƣớc và
quá trình thực hiện những chức năng, nhiệm vụ của nhà nƣớc, NSNN là khâu
chủ đạo đóng vai trò hết sức quan trọng trong việc duy trì sự tồn tại của bộ
máy quyền lực nhà nƣớc. NSNN là sự phản ánh tổng thể các mối quan hệ về
kinh tế giữa nhà nƣớc với các chủ thể khác trong việc phân phối các đại lƣợng
giá trị tiền tệ trong xã hội. Bằng sức mạnh quyền lực của mình nhà nƣớc
chuyển dịch một bộ phận thu nhập của các chủ thể khác nhau thành thu nhập
của nhà nƣớc rồi phân phối, chuyển dịch khoản thu nhập đó đến đối tƣợng sử
dụng để thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình.
Ngân sách trong tiếng Anh là “Budget” có nghĩa là túi tiền, từ thế kỷ 17

thuật ngữ “budget” đƣợc dùng để ám chỉ ngân sách hay túi tiền của nhà Vua.
Ngày nay về khía cạnh học thuật, thuật ngữ này có hàm nghĩa chỉ các khoản
thu và các khoản chi của Nhà nƣớc trong một thời gian nhất định, đƣợc thể
chế hóa bằng một đạo luật do cơ quan lập pháp quyết định. Tuy NSNN có ý
chỉ các hoạt động thu chi tài chính của bộ máy công quyền nhƣng các hoạt
động này đều phản ánh những mối quan hệ giữa Nhà nƣớc, các cơ quan của



6
nó với rất nhiều chủ thể khác trong xã hội nhƣ tổ chức, cá nhân, chính phủ
nƣớc ngoài hay các tổ chức quốc tế. Nói cách khác, NSNN là bức tranh phản
ánh mối quan hệ giữa nhà nƣớc với các chủ thể khác trong quá trình phân
phối các nguồn lực tài chính [39, tr.24].
Thuật ngữ NSNN đã xuất hiện từ lâu, ban đầu thuật ngữ này đƣợc sử
dụng với mục đích chỉ những khoản thu và chi mang tính chất công thuộc về
nhà nƣớc, do nhà nƣớc thực hiện. Trải qua thời gian, thuật ngữ NSNN đã trở
nên phổ biến trong khoa học và thực tiễn, với ngụ ý đề cao ý thức chính trị
của dân chúng trong việc đóng thuế cho quốc gia, góp phần chia sẻ gánh nặng
chi tiêu với chính phủ. Ở mỗi quốc gia khác nhau, thuật ngữ này lại đƣợc giải
thích với những cách thức khác nhau [39].
Theo cuốn từ điển bách khoa toàn thƣ của Liên Xô “cũ’’ thì ngân sách
là: Bảng liệt kê các khoản thu chi bằng tiền trong giai đoạn nhất định của nhà
nƣớc. Mọi kế hoạch thu chi bằng tiền bất kỳ một cơ quan, cá nhân nào trong
một giai đoạn nhất định.
Cuốn tƣ liệu xanh của Pháp đƣợc ấn hành nhằm hƣớng dẫn một số luật
định tài chính và thuế, trong đó NS đƣợc hiểu là:Chứng từ dự kiến cho phép
các khoản thu chi hàng năm của nhà nƣớc.Toàn bộ tài liệu kế toán mô tả,
trình bày các khoản chi phí của NN trong một năm.Toàn bộ các khoản trình
bày tiền mà một Bộ đƣợc cấp trong một năm.

Tại Việt Nam, theo Luật Ngân sách Nhà nƣớc đã đƣợc Quốc hội Việt
Nam thông qua ngày 16 tháng 12 năm 2002 định nghĩa: Ngân sách Nhà nƣớc
là toàn bộ các khoản thu, chi của Nhà nƣớc đã đƣợc cơ quan Nhà nƣớc có
thẩm quyền quyết định và đƣợc thực hiện trong một năm để đảm bảo thực
hiện các chức năng và nhiệm vụ của Nhà nƣớc [33].
Luật ngân sách nhà nƣớc năm 2002 cũng quy định ngân sách Nhà nƣớc
bao gồm Ngân sách Trung ƣơng và Ngân sách địa phƣơng. Ngân sách Trung



7
ƣơng là ngân sách của các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ và
các cơ quan khác ở trung ƣơng. Ngân sách địa phƣơng bao gồm ngân sách của
đơn vị hành chính các cấp có Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân [33].
Nhƣ vậy, tuy cách giải thích khác nhau nhƣng có thể nhận thấy các
quốc gia đều thống nhất rằng nói tới NSNN là nói tới hai loại hình hoạt động
tài chính cơ bản của Nhà nƣớc đó là hoạt động thu ngân sách, chi tiêu ngân
sách của bộ máy công quyền, biểu hiện dƣới các khoản thu và khoản chi của
NSNN. Xét dƣới góc độ lý luận, các khoản thu và khoản chi tuy có mục đích
và cơ chế thực hiện khác nhau nhƣng giữa chúng có mối liên hệ biện chứng
với nhau, phụ thuộc vào nhau và tƣơng tác lẫn nhau.
1.1.1.2. Đặc điểm của ngân sách nhà nước
Mỗi chủ thể trong xã hội đều có nhu cầu chi tiêu để phục vụ sự tồn tại
và hoạt động của mình, vì thế nên trong xã hội tồn tại nhiều loại ngân sách
khác nhau. Ngân sách nhà nƣớc cũng là một trong số những loại ngân sách
đó. Nhƣng ngân sách nhà nƣớc có những đặc điểm riêng biệt để phân biệt với
những loại hình ngân sách khác, cụ thể là
Thứ nhất, NSNN là một kế hoạch tài chính khổng lồ nhất cần đƣợc
quốc hội biểu quyết thông quan trƣớc khi thi hành. Đặc điểm này cho ta thấy
việc thiết lập NSNN không chỉ là vấn đề kỹ thuật nghiệp vụ kinh tế mà còn là

vấn đề mang tính pháp lý (nghĩa là phải trải qua giai đoạn xem xét, biểu quyết
thông qua tại quốc hội giống nhƣ việc ban hành một đạo luật để làm phát sinh
quyền và nghĩa vụ pháp lý nhất định cho các chủ thể tham gia vào hoạt động
ngân sách). Do NSNN bắt buộc phải đƣợc quốc hội biểu quyết thông qua nhƣ
một kỹ thuật pháp lý nên NSNN khác hẳn với các loại NS thông thƣờng (ví
dụ nhƣ NS gia đình, NS của các tổ chức kinh tế ) Sự khác biệt thể hiện ở chỗ,
NSNN vừa phản ánh các hành vi kinh tế, vừa thể hiện các hành vi pháp lý của
các chủ thể có thẩm quyền. Trong khi đó, các loại NS của các chủ thể khác



8
chỉ phản ánh các hành vi kinh tế mang tính chất kỹ thuật tài chính mà không
cần phải đệ trình cho một cơ quan lập pháp nào phê chuẩn trƣớc khi đem ra
thực hiện trên thực tế.
Thứ hai, NSNN không phải là một bản kế hoạch tài chính thuần túy mà
còn là một đạo luật thƣờng niên. Theo thông lệ, sau khi bản dự toán NSNN đã
đƣợc soạn thảo bởi cơ quan hành pháp thì nó sẽ đƣợc chuyển sang cho cơ
quan lập pháp xem xét quyết định và ban bố dƣới hình thức một văn bản quy
phạm pháp luật để thi hành. Quá trình “luật hóa” bản dự toán NSNN tại cơ
quan lập pháp thể hiện sự khác biệt về phƣơng diện pháp lý giữa NSNN với
các loại NS của các chủ thể khác. Sở dĩ có sự khác biệt này là vì NSNN có vị
trí, vai trò đặc biệt quan trọng đối với sự phát triền kinh tế, ổn định chính trị
của một đất nƣớc. Việc chuyển hóa bản dự toán NSNN thành một đạo luật
chẳng những sẽ giúp cho Quốc hội kiểm soát đƣợc chính phủ trong quá trình
thu chi NSNN nhằm đảm bảo quyền lợi cho toàn thể dân chúng mà còn làm
cho bản kế hoạch tài chính quan trọng bậc nhất này có thể đƣợc thực hiện dễ
dàng hơn trong thực tế vì nó đƣợc đảm bảo thực hiện nhƣ một đạo luật.
Thứ ba, NSNN là kế hoạch tài chính của toàn thể quốc gia đƣợc trao
cho Chính phủ tổ chức thực hiện nhƣng phải đặt dƣới sự giám sát trực tiếp

của Quốc hội. Việc thiết lập quyền giám sát của Quốc hội đối với hoạt động
thi hành NS của chính phủ đã trở thành nguyên tắc hiến định, thực chất là
nhằm kiểm soát nguy cơ lạm quyền của cơ quan hành pháp trong quá trình
thực thi NSNN. Sự kiểm soát thƣờng xuyên của Quốc hội đối với chính phủ
trong lĩnh vực này cũng là phƣơng cách để củng cố và đề cao tính dân chủ,
công khai, minh bạch trong hoạt động tài chính của nhà nƣớc, góp phần quản
trị tốt nền tài chính công trong đó dân chúng đóng vai trò quyết định. Đây
chính là một trong những đặc điểm quan trọng giúp ta phân biệt NSNN với
các loại NS của các chủ thể khác nhƣ NS của các tổ chức kinh tế, tổ chức



9
chính trị - xã hội, NS cá nhân hay NS hộ gia đình. Sự khác biệt thể hiện ở
chỗ, việc lập và thi hành NSNN rất cần có sự tham gia kiểm soát của dân
chúng (trực tiếp hoặc gián tiếp thông qua Quốc hội) với mục đích nhằm bảo
vệ lợi ích chung, trong khi đối với các loại NS của các chủ thể khác thì nhà
nƣớc cần phải để chi chính chủ thể đó tự quyết định và tự chịu trách nhiệm
nếu hậu quả sảy ra cho mình trong quá trình xây dựng và thực thi NS trên cơ
sở tôn trọng quyền tự định đoạt đối với lợi ích riêng của các chủ thể đó. Trong
trƣờng hợp cần thiết, việc thi hành NS của các chủ thể không phải nhà nƣớc
cũng chỉ chịu sự kiểm tra, giám sát của một số cơ quan hành pháp nhƣng cũng
chỉ giới hạn trong một phạm vi hợp lý theo quy định của pháp luật.
Thứ tƣ, NSNN đƣợc thiết lập và thực thi hoàn toàn vì mục tiêu mƣu
cầu lợi ích chung cho toàn thể quốc gia, không phân biệt ngƣời thụ hƣởng
lợi ích đó là ai, thuộc thành phần kinh tế nào. Lợi ích chung là yếu tố ảnh
hƣởng mang tính quyết định đến việc tiến hành các nghiệp vụ tài chính của
chính phủ mà ở đó chính phủ luôn tìm cách thỏa mãn tối đa yêu cầu có
nhiệm vụ chi, tiêu đã đƣợc hoạch định và cho phép thực hiện bởi Quốc hội.
Đôi khi vì mục tiêu thỏa mãn lợi ích chung của toàn quốc gia mà chính phủ

buộc phải tiến hành những nhiệm vụ chi không chắc chắn đem lại một lợi
ích cụ thể nào cho riêng mình, ví dụ nhƣ việc trợ cấp cho nhân dân các vùng
bị thiên tai, địch họa hay việc tài trợ cho các doanh nghiệp trong nƣớc bằng
các biện pháp trợ giá nhằm phục hồi một ngành sản xuất quan trọng nào đó
của đất nƣớc. Đặc điểm này khiến cho NSNN khác biệt đáng kể với NS của
các tổ chức khác, các cá nhân hay hộ gia đình bởi lẽ NS của các chủ thể này
liên quan trực tiếp đến lợi ích riêng tƣ của mỗi chủ thể đó và bao giờ chúng
cũng đƣợc thiết lập, thực hiện vì mục tiêu đem lại những lợi ích cụ thể cho
chính họ. Nhìn chung, điểm khác biệt này giữa NSNN với NS của tƣ nhân
thể hiện ở chỗ nếu khoản chi tiêu nào đó không đem lại một lợi ích kinh tế



10
cụ thể nào cho tƣ nhân thì họ sẽ không bao giờ thực hiện và không bắt buộc
phải thực hiện, trong khi chính phủ vì mƣu cầu lợi ích chung nên có thể phải
thực hiện những khoản chi rõ ràng không đem lại các lợi ích kinh tế cho
mình. Đặc điểm này giúp ta phân biệt rõ hơn địa vị và vai trò của chính phủ
so với tƣ nhân trong nền kinh tế - xã hội đƣơng đại.
Thứ năm, NSNN luôn phản ánh mối tƣơng quan giữa quyền lập pháp
và quyền hành pháp trong quá trình xây dựng và thực hiện NS. Mối tƣơng
quan này thƣờng nghiêng về phía cơ quan lập pháp, bởi lẽ vai trò áp đảo của
cơ quan lập pháp so với cơ quan hành pháp trong lĩnh vực ngân sách đã đƣợc
ghi nhận trong hiếp pháp và đạo luật NSNN ở mỗi quốc gia nhƣ một nguyên
tắc cơ bản của nền tài chính công hiện đại. Tuy nhiên, trong thực tiễn đôi khi
sự giảm sút vai trò của cơ quan lập pháp trong thời điểm nào đó sẽ khiến cho
mối tƣơng quan quyền lực giữa hai cơ quan này có xu hƣớng nghiêng về phía
cơ quan hành pháp. Khi đó, nếu cơ quan hành pháp không biết tự kiềm chế để
làm tốt bổn phận của ngƣời thừa hành của cơ quan lập pháp thì có thể khiến
cho việc quản trị nền tài chính công trở nên kém dân chủ và thiếu minh bạch

hơn. Đây cũng là một trong những dấu hiệu quan trọng để phân biệt giữa
NSNN với NS của các chủ thể khác, vốn dĩ chẳng dính dáng gì đến mối tƣơng
quan giữa quyền lập pháp và quyền hành pháp [39, tr.20].
1.1.1.3. Khái niệm và đặc điểm của thu chi ngân sách nhà nước
Thu chi ngân sách là hoạt động chính của hệ thống ngân sách nhà nƣớc.
Các quy định của pháp luật về NSNN phần lớn đều đề cập tới hoạt động thu
chi NS, nguyên tắc, trình tự và định mức thu chi…
Hoạt động thu ngân sách nhà nƣớc là hoạt động tạo lập nguồn vốn của
NSNN. Thu Ngân sách Nhà nƣớc bao gồm những khoản tiền Nhà nƣớc huy
động vào Ngân sách để thỏa mãn nhu cầu chi tiêu của Nhà nƣớc. Về mặt bản
chất, thu NSNN là hệ thống những quan hệ kinh tế giữa Nhà nƣớc và xã hội



11
phát sinh trong quá trình Nhà nƣớc huy động các nguồn tài chính để hình
thành nên quỹ tiền tệ tập trung của Nhà nƣớc nhằm thỏa mãn các nhu cầu chi
tiêu của mình. Thu NSNN chỉ bao gồm những khoản tiền Nhà nƣớc huy động
vào ngân sách mà không bị ràng buộc bởi trách nhiệm hoàn trả trực tiếp cho
đối tƣợng nộp
Theo quy định tại khoản 1 Điều 2 Luật ngân sách năm 2002 thì: “Thu ngân
sách nhà nước bao gồm các khoản thu từ thuế, phí, lệ phí; các khoản thu từ hoạt
động kinh tế của Nhà nước; các khoản đóng góp của các tổ chức cá nhân; các
khoản viện trợ; và các khoản thu khác theo quy định của pháp luật” [33]. Việc
thu ngân sách nhà nƣớc nhằm huy động một bộ phận giá trị sản phẩm xã hội,
vì vậy hoạt động này luôn gắn chặt với thực trạng kinh tế của đất nƣớc, với
mức độ phát triển của nền kinh tế. Hoạt động thu ngân sách nhà nƣớc đƣợc
thực hiện thông qua hai cơ chế pháp lý điển hình là bắt buộc và tự nguyện,
trong đó cơ chế bắt buộc đƣợc xem là chủ yếu. Cơ chế bắt buộc đƣợc áp dụng
trong trƣờng hợp Nhà nƣớc tiến hành tập trung các khoản thu từ thuế, phí, lệ

phí vào NSNN, còn cơ chế tự nguyện đƣợc Nhà nƣớc áp dụng trong trƣờng
hợp cần huy động các khoản tiền viện trợ của nƣớc ngoài, của các tổ chức quốc
tế hay các khoản đóng góp tự nguyện khác của công chúng cho Nhà nƣớc.
Thu NSNN không thể đƣợc tiến hành một cách tùy tiện mà phải thực
hiện trong khuôn khổ pháp luật. Để thực hiện hoạt động thu ngân sách, Nhà
nƣớc phải ban hành các văn bản pháp luật quy định về hình thức thu cũng nhƣ
nội dung thu. Nhà nƣớc đƣợc phép thu những khoản thu đã đƣợc luật hóa và
chỉ thực hiện quyền thu đó trong khuôn khổ pháp luật, các cấp, các ngành
không đƣợc tự ý đặt ra các khoản thu trái pháp luật.
Chủ thể tham gia vào hoạt động thu ngân sách Nhà nƣớc gồm hai nhóm:
- Chủ thể đại diện cho Nhà nƣớc trong việc thực hiện quyền thu bao
gồm các cơ quan Nhà nƣớc nhƣ cơ quan tài chính, cơ quan thuế, cơ quan hải



12
quan… Chịu trách nhiệm quản lý, đôn đốc, tổ chức việc thu, nộp và trực tiếp
đứng ra tập trung các khoản thu, nộp vào ngân sách Nhà nƣớc.
- Chủ thể đóng góp khoản thu ngân sách theo nghĩa vụ hoặc dựa trên
tinh thần tự nguyện. Bao gồm các tổ chức, cá nhân có nghĩa vụ nộp các khoản
bắt buộc vào ngân sách nhà nƣớc hoặc tự nguyện đóng góp tiền cho Nhà nƣớc.
Vậy thu NSNN là việc nhà nƣớc huy động những khoản tiền vào NSNN
để thỏa mãn những nhu cầu chi tiêu của nhà nƣớc, đƣợc thực hiện thông qua
hình thức bắt buộc hoặc tự nguyện theo những quy định của pháp luật hiện
hành bởi các chủ thể thực hiện quyền thu đối với các chủ thể đóng góp.
Khác với thu NSNN, chi NS là hoạt động phân phối sử dụng nguồn
NSNN. Chi ngân sách nhà nƣớc là hoạt động nhằm sử dụng quỹ ngân sách, là
quá trình phân phối nguồn tiền tệ nằm trong quỹ NSNN để chi vào những
mục đích khác nhau. Chi ngân sách là phân phối và sử dụng quỹ NSNN theo
dự toán ngân sách đã đƣợc chủ thể quyền lực quyết định nhằm duy trì sự hoạt

động của bộ máy nhà nƣớc và đảm bảo nhà nƣớc thực hiện đƣợc các chức
năng của mình [39].
Theo quy định tại khoản 2 Điều 2 Luật ngân sách nhà nƣớc năm 2002
thì: “Chi ngân sách nhà nước bao gồm các khoản chi phát triển kinh tế - xã
hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh, bảo đảm hoạt động của bộ máy nhà nước;
chi trả nợ của nhà nước; chi viện trợ và các khoản chi khác theo quy định của
pháp luật” [33]. Nhƣ vậy: Chi ngân sách nhà nƣớc là hoạt động nhằm sử dụng
quỹ ngân sách, là quá trình phân phối nguồn tiền tệ nằm trong quỹ ngân sách
nhà nƣớc để chi dùng vào những mục đích khác nhau. Từ đó chi ngân sách
nhà nƣớc chỉ đƣợc tiến hành trên cơ sở pháp luật và theo kế hoạch chi ngân
sách cũng nhƣ phân bổ ngân sách do cơ quan quyền lực nhà nƣớc quyết định.
Hoạt động chi ngân sách nhà nƣớc nhằm vào mục tiêu thỏa mãn nhu cầu về
tài chính cho sự vận hành của bộ máy nhà nƣớc, đảm bảo cho Nhà nƣớc thực
hiện đƣợc các chức năng nhiệm vụ của mình.



13
Chi NSNN là hoạt động phân phối và sử dụng quỹ NSNN, hoạt động
này chỉ có thể thực hiện trên cơ sở quy định pháp luật và dự toán ngân sách
do cơ quan quyền lực nhà nƣớc quyết định. Đây là một nội dung quan trọng
quyết định đến hiệu quả quản lý nhà nƣớc của bộ máy nhà nƣớc nên nó phải
đƣợc thông qua theo nguyên tắc tập thể bằng một quá trình nghiêm ngặt. Mọi
hoạt động chi ngân sách phải đƣợc thực hiện trên cơ sở dự toán do quốc hội
và hội đồng nhân dân các cấp quyết định.
Chi ngân sách nhà nƣớc là hoạt động đƣợc tiến hành bởi các chủ thể
quyền lực gồm hai nhóm:
- Nhóm chủ thể đại diện cho Nhà nƣớc thực hiện việc quản lý, cấp phát,
thanh toán các khoản chi NSNN gồm Bộ tài chính, Sở tài chính cấp tỉnh,
phòng tài chính cấp huyện, Sở kế hoạch đầu tƣ và kho bạc nhà nƣớc

- Nhóm chủ thể có thể sử dụng ngân sách nhà nƣớc bao gồm: các cơ
quan nhà nƣớc, kể cả cơ quan hành chính sự nghiệp thực hiện khoán biên chế
và kinh phí quản lý hành chính; các đơn vị, kể cả đơn vị sự nghiệp; các chủ
dự án sử dụng kinh phí NSNN.
Mục tiêu cơ bản của chi NSNN là đáp ứng nhu cầu về tài chính cho sự
hoạt động của bộ máy nhà nƣớc, đảm bảo cho nhà nƣớc thực hiện đƣợc chức
năng và nhiệm vụ của mình. Ngoài ra, thông qua việc thể chế hóa bằng pháp
luật đối với các hoạt động chi ngân sách, Nhà nƣớc còn hƣớng đến những
mục tiêu khác, trong đó bao gồm mục tiêu quản lý hiệu quả việc sử dụng công
quỹ tăng cƣờng kỷ luật ngân sách, tạo cơ sở pháp lý cho việc xử lý các hành
vi vi phạm pháp luật về NS góp phần hạn chế tình trạng tham nhũng, lãng phí
tài sản nhà nƣớc.
1.1.2. Khái quát về ngân sách địa phƣơng
1.1.2.1. Khái niệm thu chi ngân sách địa phương
Theo quy định của pháp luật hiện hành ngân sách địa phƣơng bao gồm



14
ngân sách của đơn vị hành chính các cấp có Hội đồng nhân dân và Ủy ban
nhân dân. NSĐP đƣợc phân cấp nguồn thu bảo đảm chủ động trong thực hiện
những nhiệm vụ đƣợc giao; tăng cƣờng nguồn lực cho NS xã; hội đồng nhân
dân cấp tỉnh quyết định việc phân cấp nguồn thu, nhiệm vụ chi giữa NS các
cấp chính quyền địa phƣơng phù hợp với phân cấp quản lý kinh tế - xã hội,
quốc phòng, an ninh và trình độ quản lý của mỗi cấp trên dịa bàn [7].
NSĐP có vai trò vô cùng quan trọng đối với sự phát triển của địa
phƣơng nói riêng và của cả nƣớc nói chung. NSĐP cung cấp các phƣơng tiện,
vật chất nhằm đảm bảo cho sự tồn tại và hoạt động của bộ máy chính quyền ở
địa phƣơng. Mặt khác NSĐP cũng góp phần làm lành mạnh hóa tài chính địa
phƣơng và tài chính quốc gia, là công cụ đặc biệt để địa phƣơng quản lý các

hoạt động kinh tế, xã hội ở địa phƣơng.
Cũng giống nhƣ NSNN, thu NSĐP tức là việc địa phƣơng huy động
những khoản tiền vào NS nhằm đảm bảo nhu cầu chi tiêu của địa phƣơng.
Hoạt động thu đƣợc diễn ra theo quy định chung của pháp luật về NS, đồng
thời phải phù hợp với hƣớng dẫn, quy định của NS cấp trên trực tiếp. Thu
NSĐP giúp chính quyền địa phƣơng thực hiện kiểm tra, kiểm soát, điều chỉnh
các hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ đảm bảo cho các hoạt động này
đi theo đúng hành lang pháp luật, chống các hành vi hoạt động kinh doanh trái
pháp luật, trốn lậu thuế, qua đó tác động trực tiếp tới quá trình sản xuất kinh
doanh ở cơ sở, tạo động lực phát triển. Mặt khác, thu NSĐP cũng đồng thời
tác động tới các mặt xã hội nhƣ: đảm bảo công bằng giữa những ngƣời có
nghĩa vụ đóng góp NS, hỗ trợ cho các đối tƣợng nộp, hỗ trợ cho các lĩnh vực
sản xuất kinh doanh gặp khó khăn, hoặc thuộc diện ƣu tiên theo chính sách
của nhà nƣớc thông qua việc xét miễn giảm, dãn số thuế. Ngoài ra việc áp
dụng đúng những hình thức thu phạt hành chính đối với các cá nhân, tổ chức
vi phạm trên các lĩnh vực góp phần đảm bảo trật tự an toàn xã hội, giữ gìn



15
môi trƣờng. Nói cách khác, thu ngân sách địa phƣơng là phƣơng thức tạo lập
nguồn quỹ giúp chính quyền địa phƣơng có nguồn lực tài chính để thực hiện
nhiệm vụ của mình.
Khái niệm chi ngân sách địa phƣơng là toàn bộ các khoản chi của chính
quyền địa phƣơng đƣợc thực hiện trong một thời kỳ để thực hiện các chức
năng, nhiệm vụ của mình. Cũng nhƣ chi ngân sách nhà nƣớc Chi ngân sách
địa phƣơng là hoạt động nhằm sử dụng quỹ ngân sách, là quá trình phân phối
nguồn tiền tệ nằm trong quỹ ngân sách của địa phƣơng để chi dùng vào những
mục đích khác nhau. Chính vì vậy, chi ngân sách địa phƣơng cũng mang
những đặc điểm nhƣ chi ngân sách nhà nƣớc nhƣ phải tuân thủ các quy định

của pháp luật, đƣợc thực hiện bởi chủ thể đặc biệt là cơ quan nhà nƣớc ở địa
phƣơng. Ngƣợc lại với thu ngân sách địa phƣơng, chi ngân sách địa phƣơng là
phƣơng thức nhà nƣớc sử dụng để phân phối, giải ngân nguồn quỹ trong quá
trình thực hiện nhiệm vụ của địa phƣơng.
Nhƣ vậy, thu chi ngân sách địa phƣơng là hoạt động của ngân sách địa
phƣơng trong quá trình tạo lập và phân phối nguồn quỹ từ ngân sách trong quá
trình thực hiện chức năng, nhiệm vụ của chính quyền địa phƣơng, cũng nhƣ tạo
nguồn lực làm cơ sở để phát triển địa phƣơng. Thu chi ngân sách địa phƣơng là
một bộ phận của thu chi ngân sách nhà nƣớc, do đó nó mang đầy đủ những đặc
điểm của thu chi ngân sách nhà nƣớc, phải thực hiện theo những quy định cụ
thể của pháp luật, đƣợc tiến hành bởi chủ thể đặc biệt là cơ quan nhà nƣớc có
thẩm quyền. Bên cạnh đó thu chi NSĐP cũng có những đặc điểm riêng biệt,
nhƣ chỉ đƣợc tiến hành trong phạm vi của địa phƣơng, mang tính chất địa
phƣơng. Thu chi NSĐP đƣợc vận dụng linh hoạt tại từng địa phƣơng nên nó sẽ
mang đặc điểm của địa phƣơng mình. Tóm lại thu chi ngân sách địa phƣơng là
phƣơng thức mà chính quyền địa phƣơng sử dụng để tạo lập và phân phối
nguồn quỹ nhằm thực hiện chức năng và chính quyền của địa phƣơng.



16
1.1.2.2. Khái niệm, đặc điểm quản lý thu chi ngân sách địa phương
Khái niệm quản lý đƣợc sử dụng rộng rãi trong nhiều lĩnh vực nhƣ kinh
tế, chính trị, văn hóa, xã hội…trong luật học, theo từ điển luật học NXB từ
điển bách khoa, quản lý theo nghĩa rộng: làm cho hoạt động tƣ duy của từng
ngƣời riêng lẻ, hoạt động của các tổ chức với những cơ chế khoa học, tiến
hành phù hợp với mục đích, lợi ích chung nhằm đạt đƣợc hiệu quả tốt nhất,
nhiều nhất, ít chi phí nhất, trong thời gian ngắn nhất. Quản lý đƣợc thực hiện
dƣới các dạng quản lý nhà nƣớc, quản lý của tổ chức chính trị, xã hội, quản lý
của tổ chức nghề nghiệp, quản lý tổ chức kinh doanh, sản xuất dịch vụ, quản

lý của các tổ chức, lực lƣợng chuyên trách [9].
Xét về phƣơng diện cấu trúc, quản lý thông thƣờng gồm hệ thống các
yếu tố đƣợc trình bày theo sơ đồ sau:
Sơ đồ 1.1: Cấu trúc của quản lý.








(Nguồn: Bộ tƣ pháp (2006), Từ điển luật học, NXB Từ điển Bách Khoa,
NXB Tƣ pháp, Hà Nội).
Ngân sách địa phƣơng là một phân cấp của ngân sách nhà nƣớc, hoạt
động thu chi ngân sách địa phƣơng cũng là một nội dung trong hoạt động
quản lý ngân sách nhà nƣớc, vì vậy hoạt động quản lý thu chi ngân sách địa
phƣơng cũng phải tuân theo những nguyên tắc, quy định về quản lý thu chi
ngân sách nhà nƣớc nói chung.
Quản lý
Công cụ quản lý
Cơ chế quản lý
Mục tiêu quản lý

Chủ thể quản lý
Nội dung quản lý



17

 Khái niệm, đặc điểm quản lý chi ngân sách
Quản lý chi NS là nội dung quan trọng của quản lý tài chính, tăng
cƣờng quản lý chi, đảm bảo sự điều hành tiền vốn tài chính đƣợc an toàn, tin
cậy, chuẩn xác, hiệu quả cao là khâu chủ chốt nâng cao chất lƣợng quản lý tài
chính cũng là biện pháp quan trọng quán triệt có hiệu quả mục tiêu chính sách
nhà nƣớc.Quản lý chi NS là một bộ phận quan trọng trong công tác quản lý
nhà nƣớc nói chung, đƣợc tiến hành bởi cơ quan nhà nƣớc thông qua các cơ
quan của mình, bằng những công cụ nhất định để đạt đƣợc mục tiêu phân bổ
có hiệu quả nguồn lực tài chính và nâng cao hiệu quả của hoạt động cung cấp
hàng hóa công, hƣớng tới đảm bảo hoạt động của bộ máy nhà nƣớc và không
ngừng đẩy mạnh phát triển nền kinh tế. Từ đó có thể suy ra:
Quản lý chi NS có thể đƣợc hiểu là khái niệm phản ánh hoạt động tổ
chức, điều khiển và đƣa ra quyết định của nhà nƣớc đối với quá trình phân
phối và sử dụng nguồn lực tài chính từ quỹ NSNN nhằm thực hiện tốt các
chức năng kinh tế, xã hội của nhà nƣớc.
Hoạt động chi NS có những đặc điểm riêng biệt để phân biệt với hoạt
động quản lý tài chính khác cụ thể là:
Thứ nhất, hoạt động quản lý chi NS luôn đƣợc thực hiện bởi các cơ
quan nhà nƣớc có thẩm quyền, dựa trên cơ sở quyền lực chính trị của nhà
nƣớc. Điều này xuất phát từ việc chi NS vốn dĩ là một hoạt động tài chính của
nhà nƣớc, phục vụ và gắn liền với lợi ích của nhà nƣớc và cộng đồng xã hội
nên việc hi NS nhƣ thế nào, quản lý ra sao cần phải do nhà nƣớc quyết định
và thực hiện thông qua các cơ quan của mình.
Thứ hai, quản lý chi NS vừa mang tính chất là một hoạt động quản lý
hành chính của nhà nƣớc, vừa có tính chất nhƣ một hành vi quản trị về tài
chính nhà nƣớc. Tính chất quản lý hành chính đƣợc thể hiện ở chỗ hoạt động
quản lý chi NS dựa vào quyền lực công, các cơ quan nhà nƣớc có thẩm quyền




18
có thể thực hiện hành vi kiểm soát đối với hoạt động chi NS, khi cần thiết các
cơ quan quản lý có thể áp dụng các chế tài hành chính đối với những chủ thể
do những hành vi vi phạm pháp luật của họ trong quá trình sử dụng NS. Tính
chất quản trị tài chính đặc biệt này thể hiện ở việc chi NS cũng tƣơng tự nhƣ
việc một chủ thể khác trong xã hội tự quản trị tài chính của mình, nếu xét ở
góc độ này thì việc quản lý chi NS đƣợc nhìn nhận chủ yếu thông qua những
biện pháp mang tính kỹ thuật nghiệp vụ của quản trị tài chính nhƣ kế toán,
kiểm toán và quyết toán… hơn là những hành vi mang tính chất hành chính,
đây cũng là một đặc trƣng cơ bản giúp phân biệt hoạt động quản lý chi NS với
hoạt động quản lý tài chính của các chủ thể khác không phải nhà nƣớc.
Thứ ba, quản lý chi NS là một hoạt động mang tính công vụ, do đó
luôn đƣợc thể chế hóa bằng pháp luật và đƣợc giám sát bởi những cơ quan
quyền lực nhà nƣớc. Quản lý chi NS là hoạt động có ý nghĩa vô cùng to lớn
đối với hoạt động chi NS nói riêng cũng nhƣ đối với toàn bộ hoạt động nhà
nƣớc nói chung, quản lý hiệu quả góp phần làm cho NS đƣợc sử dụng đúng
mục đích,mang lại hiệu quả tối ƣu, với vai trò đặc biệt nhƣ vậy nên quản lý
chi NS đƣợc giao cho một số cơ quan có thẩm quyền đảm nhận và việc quản
lý NS phải đƣợc thể chế bằng pháp luật và đƣợc giám sát chặt chẽ bởi cơ quan
quyền lực nhà nƣớc ở trung ƣơng và ở địa phƣơng.
Quản lý chi ngân sách chính là quản lý hoạt động phân phối và sử dụng
quỹ ngân sách, đây là công tác hết sức quan trọng nhằm đảm bảo hiệu quả
cũng nhƣ tính đúng đắn của hoạt động chi ngân sách.
 Khái niệm, đặc điểm quản lý thu ngân sách
Cũng nhƣ quản lý chi NS, quản lý thu NS cũng là một trong những nội
dung quan trọng của quản lý tài chính. Là hoạt động kiểm soát nghĩa vụ thu,
nộp ngân sách của các đối tƣợng nộp. Quản lý thu ngân sách tốt góp phần tạo

×