Tải bản đầy đủ (.pdf) (92 trang)

Chế độ pháp lý về quản trị công ty ở Việt Nam hiện nay Luận văn ThS. Luật

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.37 MB, 92 trang )


1


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT








PHẠM NGỌC THÁI






CHẾ ĐỘ PHÁP LÝ VỀ QUẢN TRỊ CÔNG TY Ở VIỆT NAM
HIỆN NAY






LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC














HÀ NỘI – 2012


2



ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT







PHẠM NGỌC THÁI







CHẾ ĐỘ PHÁP LÝ VỀ QUẢN TRỊ CÔNG TY Ở VIỆT NAM
HIỆN NAY





Chuyên ngành: Luật Kinh tế
Mã số : 60 38 50


LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC



Người hướng dẫn khoa học: TS. Bùi Nguyên Khánh




Hà nội – 2012


3


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Quản trị công ty là vấn đề thiết yếu để đảm bảo cho sự tồn tại và phát triển
của công ty. Sự thành bại của một công ty luôn lệ thuộc vào cách thức tổ chức
và quản lý nội bộ công ty. Đây cũng chính là vấn đề một mặt thể hiện sự phát
huy dân chủ trong quản lý, mặt khác là để đảm bảo công bằng về lợi ích giữa
các nhà đầu tư, đồng thời đảm bảo sự vận hành nhịp nhàng và khả năng phản
ứng linh hoạt của công ty trước những thay đổi nhanh chóng của thị trường.
Quản trị tốt được coi là tiêu chuẩn quan trọng của các doanh nghiệp ở các
nước thực hiện kinh tế thị trường đã lâu cũng như tại các nước đang chuyển
đổi nền kinh tế. Theo nghiên cứu của hãng tư vấn McKinsey tiến hành với
hơn 200 nhà đầu tư ở 31 nước thì có tới 3/4 số nhà đầu tư sẵn sàng chi phí
thêm để có được bộ máy điều hành chất lượng hiệu quả [46]. Với ý nghĩa
quan trọng đó, quản trị đã được rất nhiều quốc gia quan tâm không chỉ có Việt
Nam. Trong điều kiện hội nhập kinh tế hiện nay của nước ta, khuôn khổ pháp
lý cho việc nâng cao hoạt động quản trị công ty về cơ bản đã được đề cập
trong Luật doanh nghiệp 2005, Luật chứng khoán 2006, Điều lệ mẫu áp dụng
cho các công ty niêm yết và đặc biệt được ghi nhận tại Quyết định
12/2007/QĐ-BTC, ngày 13/07/2007 của Bộ Tài chính về việc ban hành Quy
chế quản trị áp dụng cho các công ty niêm yết trên Sở giao dịch Chứng
khoán/Trung tâm giao dịch Chứng khoán; tuy nhiên thực tế việc triển khai
hoạt động quản trị công ty hiện nay chưa thực sự hiệu quả như sự lạm dụng
quyền lực của các cổ đông lớn gây ảnh hưởng đến quyền lợi của các cổ đông
nhỏ lẻ; Ban giám đốc nắm giữ quyền lực quá lớn và thiếu sự kiểm soát; những
giao dịch liên kết giữa cổ đông chi phối với công ty mang tính chất tư lợi diễn
ra khá phổ biến, nghĩa vụ của người quản trị công ty không được xem xét một
cách đúng mức, các tranh chấp nội bộ công ty diễn ra ngày càng nhiều và
phức tạp…

4


Thực trạng yếu kém trong Quản trị công ty ở Việt Nam hiện nay do nhiều
nguyên nhân khác nhau, mà một trong những nguyên nhân chính là khung
pháp lý chưa đủ cơ sở để bảo vệ quyền lợi cho các nhà đầu tư và ngăn ngừa
các xung đột lợi ích một cách có hiệu quả.
Sau 7 năm thực hiện, Luật Doanh nghiệp năm 2005 (LDN 2005) và các
văn bản hướng dẫn thi hành đã và đang tiếp tục bộc lộ nhiều khiếm khuyết
trong các quy định về quản trị nội bộ của công ty và thực sự chưa giải quyết
đầy đủ những vấn đề phát sinh trong thực tiễn của đời sống kinh doanh.
Hiện nay, khi Việt Nam đang hội nhập ngày càng sâu rộng vào nền kinh tế
thế giới, các doanh nghiệp Việt Nam “vươn mình” ra sân chơi quốc tế - nơi
mà những yêu cầu về Quản trị công ty dường như là một yêu cầu bắt buộc.
Chính vì vậy, vấn đề xây dựng và hoàn thiện các quy định về quản trị công ty
đang là một yêu cầu cấp thiết
Từ tất cả những lý do trên, đề tài “Chế độ pháp lý về quản trị công ty ở
Việt Nam hiện nay” đã được tác giả lựa chọn nghiên cứu trong khuôn khổ
của một luận văn thạc sĩ luật học.
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài
Hiện nay, có rất nhiều các công trình nghiên cứu về pháp luật tổ chức kinh
doanh, trong đó có đề cập đến vấn đề quản trị công ty. Cụ thể một số công
trình tiêu biểu như:
(1) Báo cáo tổng hợp nghiên cứu rà soát các văn bản pháp luật về thành
lập, tổ chức và hoạt động của doanh nghiệp với tư tưởng xây dựng
Luật Doanh nghiệp Thống nhất và Luật Đầu tư chung của Ban
Nghiên cứu của Thủ tướng Chính phủ (PMRC) & Chương trình
Phát triển Liên Hợp Quốc (UNDP), năm 2005;
(2) Báo cáo tổng hợp dự án Luật Doanh nghiệp Thống nhất của Ban
soạn thảo Luật Doanh nghiệp Thống nhất, Phòng Công nghiệp và

5


Thương Mại Việt Nam (VCCI) & UNDP theo dự án VIE/01/025,
năm 2005;
(3) Nghiên cứu so sánh quản lý công ty cổ phần theo pháp luật
CHXHCN Việt Nam và CHND Trung Hoa của Ngô Viễn Phú -
Luận án tiến sỹ Luật học, năm 2004;
(4) Tổng kết các phân tích, đánh giá và bình luận về Dự án Luật Doanh
nghiệp Thống nhất và Dự án Luật Đầu tư Chung của Văn phòng
Quốc Hội, IFC & MPDF, năm 2005;
(5) Chuyên Khảo Luật kinh tế của PGS.TS Phạm Duy Nghĩa - NXB
Đại học Quốc gia Hà Nội, năm 2004;
(6) Chuyên khảo “Công ty – vốn, quản lí và tranh chấp theo Luật doanh
nghiệp 2005” của Nguyễn Ngọc Bích và Nguyễn Đình Cung, năm
2008…
Về cơ bản, các công trình này đã mang lại những giá trị khoa học rất to
lớn. Tuy nhiên, chúng chỉ dừng lại ở những suy luận pháp lý trên cơ sở đối
chiếu các quy phạm thực định của LDN 2005 về các quan hệ nội bộ công ty
với các nguyên tắc quản trị công ty của OECD, chưa có sự nghiên cứu đầy đủ
những nền tảng lý luận về quản trị công ty, cũng như chưa dựa trên cơ sở thực
chứng từ thực tiễn áp dụng chế định quản trị công ty trong thời gian vừa qua.
Do đó, cũng chưa nghiên cứu đầy đủ hết những vấn đề của quản trị công ty.
Ngoài ra, bản thân chúng cũng chỉ dừng lại ở việc phân tích các quy định về
quản trị công ty của LDN 2005 và các văn bản hướng dẫn thi hành và chưa có
đánh giá về thực tiễn áp dụng, xu hướng và nhu cầu hoàn thiện các quy định
này ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục tiêu của Luận văn là làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về quản trị
công ty, thực trạng pháp luật về quản trị công ty ở nước ta hiện nay để từ đó

6


hình thành các phương hướng, giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về quản
trị công ty ở nước ta hiện nay.
Để thực hiện mục tiêu trên, Luận văn có những nhiệm vụ cụ thể sau:
- Làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về công ty và quản trị công ty ;
- Nghiên cứu so sánh về các mô hình quản trị công ty trên thế giới;
- Phân tích, đánh giá thực trạng pháp luật về quản trị các loại hình công ty ở
nước ta hiện nay;
- Đề xuất các phương hướng, giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về quản
trị công ty ở nước ta hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu những vấn đề pháp lý về quản trị các loại
hình công ty (công ty cổ phần, công ty TNHH hai thành viên trở lên, công ty
TNHH một thành viên, công ty hợp danh) trên cơ sở những lý luận pháp lý
nền tảng và điều kiện thực tiễn của Việt Nam, không xem xét đến yếu tố khác
biệt về chủ sở hữu công ty. Trong đó, chủ yếu tập trung vào trọng tâm là loại
hình công ty cổ phần.
5. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn được trình bày trên cơ sở vận dụng những quan điểm của chủ
nghĩa Mác-Lênin về Nhà nước và pháp luật, quan điểm của Đảng Cộng sản
Việt Nam và Nhà nước ta về hội nhập kinh tế, về tiếp thu có chọn lọc tinh hoa
của các nước phù hợp tình hình thực tế của Việt Nam.
Luận văn sử dụng phương pháp phân tích và tổng hợp, phương pháp kế
thừa có chọn lọc, phương pháp phản ánh thực chứng, đồng thời so sánh đối
chiếu các quy phạm thực định về quản trị công ty hiện nay với pháp luật có
liên quan của các nước trên tinh thần tiếp thu kinh nghiệm của các nước có
xét đến tình hình thực tiễn ở Việt Nam.
6. Bố cục của Luận văn
Luận văn gồm có ba phần: lời nói đầu, 3 Chương và Kết luận.


7

Chương 1: KHÁI QUÁT CHUNG CHẾ ĐỘ PHÁP LÝ VỀ QUẢN TRỊ
CÔNG TY
1.1. Khái niệm quản trị công ty và nhu cầu điều chỉnh pháp luật đối với
quan hệ quản trị công ty
1.1.1. Khái niệm quản trị công ty
Từ giác độ nhận thức và lý luận, có thể thấy rằng hiện nay trên thế giới,
không có một định nghĩa thống nhất nào về Quản trị công ty (Corporate
governance) có thể áp dụng cho mọi trường hợp và mọi thể chế. Những định
nghĩa khác nhau về Quản trị công ty hiện hữu phần nhiều phụ thuộc vào các
tác giả, thể chế cũng như quốc gia hay truyền thống pháp lý.
Về mặt ngôn ngữ, quản trị công ty có thể hiểu theo nghĩa rộng và hẹp.
Theo nghĩa hẹp, quản trị công ty thường quan tâm đến các vấn đề của cấu trúc
quản lý của công ty chẳng hạn như mối quan hệ giữa Hội đồng quản trị và
Ban giám đốc; lợi ích hoặc các mục tiêu của các nhóm trong công ty. Theo
nghĩa rộng, quản trị công ty thiết lập một tổ hợp các mối quan hệ giữa các bên
tham gia vào công ty và các mục tiêu đầy đủ của quản trị công ty đó.
Trong khoa học pháp lý, thuật ngữ “quản trị công ty” được vay mượn từ
chữ “corporate governance” [26, tr.355], [29, tr.1]. Thuật ngữ “corporate
governance” xuất hiện đầu tiên ở Mỹ vào năm 1920, với mục đích làm rõ sự
phân chia giữa quyền sở hữu và quyền quản lý trong các công ty hiện đại, khi
hình thức sở hữu hiện vật chuyển thành hình thức sở hữu cổ phần, còn các
nhà quản trị chuyên nghiệp thay thế cho các kiểu quản trị gia đình [40, tr.2].
Ngày nay, thuật ngữ “corporate governance” được cả giới khoa học pháp
lý lẫn giới khoa học kinh tế sử dụng phổ biến như một trào lưu khoa học mới
trong nghiên cứu cải cách các mô hình tổ chức quản lý công ty. Nội hàm của
chúng chủ yếu cũng chỉ xoay quanh các quan hệ về tổ chức quản lý công ty,
dù chúng được tiếp cận theo nhiều cách khác nhau.


8

Theo Giáo sư Ira M. Millstein, Trường Quản lý Yale, Hoa Kỳ, quản trị
công ty là việc công ty áp dụng những phương pháp mang tính nội bộ để quản
lý hoạt động của công ty. Nó được thể hiện qua những mối liên hệ nội bộ về
cơ cấu quyền hạn và trách nhiệm giữa các chủ thể góp vốn, Hội đồng quản trị
và các nhà quản lý [23, tr.7, 8, 18]. Quan điểm này khá tương đồng với định
nghĩa về quản trị công ty trong Luật Công ty của Vương quốc Anh năm 1985.
Cụ thể là Luật này đã xác định, quản trị công ty là một thiết chế pháp lý về
mối quan hệ giữa cổ đông, các nhà quản lý và Kiểm soát viên [29, tr.1].
Raymond Mallon, chuyên viên cao cấp của Cơ quan phát triển quốc tế Hoa
Kỳ (USAID) thì định nghĩa, quản trị công ty được hiểu là các quy trình mà
qua đó Hội đồng quản trị giám sát Tổng giám đốc công ty và những nhà quản
lý khác chịu trách nhiệm quản lý công ty hàng ngày, qua đó thành viên Hội
đồng quản trị chịu trách nhiệm đối với các nhà đầu tư, chủ nợ doanh nghiệp
và các bên có liên quan khác. Mục đích của quản trị công ty là bảo vệ lợi ích
của các bên có liên quan chính trong công ty kinh doanh, mà trọng tâm tập
trung vào bảo vệ lợi ích của người góp vốn vào công ty [22, tr.15].
Còn John và Senbet lại quan niệm rằng, quản trị công ty là cơ chế mà theo
đó cổ đông của một công ty thực hiện quyền kiểm soát đối với các thành viên
nội bộ nhằm bảo vệ lợi ích của chính họ [20, tr.111].
Ở mức độ khái quát, Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế (OECD) lại đưa
ra định nghĩa, quản trị công ty là hệ thống mà thông qua đó công ty được chỉ
đạo và kiểm soát. Cơ cấu quản trị công ty quy định việc phân bổ quyền hạn
và trách nhiệm giữa các thành viên tham gia khác nhau trong công ty như
Hội đồng quản trị, các chức danh điều hành, cổ đông và các bên có quyền lợi
liên quan khác; đồng thời đề ra các quy tắc và thủ tục ra quyết định đối với
các công việc của công ty. Bằng cách này, nó tạo ra một cơ chế xác lập mục
tiêu hoạt động, các phương tiện thực thi và giám sát thực thi các mục tiêu đó
[43]. Cụ thể hóa định nghĩa này, OECD đưa ra một bộ các nguyên tắc mang

tính khuyến nghị về quản trị công ty nhằm hướng đến đảm bảo quyền lợi của
nhà đầu tư, của người có quyền lợi liên quan khác, tăng tính minh bạch và

9

trách nhiệm của Hội đồng quản trị để thu hút các nguồn lực vào quá trình phát
triển kinh tế, đảm bảo hiện thực hóa quyền tự do kinh doanh của các chủ thể
pháp lý.
Tiếp cận từ các quy phạm thực định, Ngân hàng thế giới (WB) định nghĩa,
quản trị công ty là một hệ thống các yếu tố pháp luật, thể chế và thông lệ
quản lý của công ty. Nó cho phép công ty có thể thu hút các nguồn tài chính
và nhân lực, hoạt động có hiệu quả, và nhờ đó tạo ra giá trị kinh tế lâu dài cho
các cổ đông, trong khi nó vẫn tôn trọng quyền lợi của những người có lợi ích
liên quan và của xã hội. Theo đó, đặc điểm cơ bản nhất của quản trị công ty
là: (i) tính minh bạch của các thông tin tài chính, kinh doanh và quá trình
giám sát nội bộ đối với hoạt động quản lý, (ii) bảo đảm thực thi các quyền của
tất cả các cổ đông, (iii) các thành viên của Hội đồng quản trị có thể hoàn toàn
độc lập trong việc thông qua các quyết định, phê chuẩn kế hoạch kinh doanh,
tuyển dụng người quản lý, giám sát tính trung thực và hiệu quả của hoạt động
quản lý, miễn nhiệm người quản lý khi cần thiết [26, tr.363].
Tương tự cách tiếp cận của WB, Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB) xác
định, quản trị công ty bao gồm một hệ thống các quy chế xác định rõ mối
quan hệ giữa các cổ đông, các chức danh quản lý, các chủ nợ và những người
có liên quan khác cũng như hệ thống các cơ chế đảm bảo thực hiện các quy
định trên [26, tr.363].
Đối chiếu với thực tại pháp lý của một số nước phát triển trên thế giới, có
thể thấy rằng, các quan điểm trên của WB, ADB và OECD gần như trở thành
tiền đề lý luận chung cho hoạt động lập pháp của các nước. Chúng đã tác
động sâu rộng và mạnh mẽ đến tư tưởng lập pháp của mỗi quốc gia, đặc biệt
là các nước thành viên của OECD và các nước nhận sự hỗ trợ về kỹ thuật lập

pháp của WB. Điển hình là Luật Quản trị Công ty của Vương quốc Bỉ năm
2004 (The Belgian Code on Corporate Governance 2004) xác định ngay trong
lời nói đầu của mình rằng, quản trị công ty là một tập hợp các quy tắc và cách
xử sự mà theo đó công ty được quản lý và kiểm soát. Theo đó, nội dung của

10

luật này không gì khác hơn là điều chỉnh pháp luật về các vấn đề mà OECD,
WB, ADB đã nêu.
Ở Việt Nam, thuật ngữ “quản trị công ty” còn tương đối mới mẻ, chưa
được sử dụng như một thuật ngữ pháp lý chính thức và thống nhất về nội
dung. Khi nghiên cứu về vấn đề này vẫn còn nhiều quan điểm khác nhau.
Có quan điểm vì đồng nhất thuật ngữ “quản trị” với thuật ngữ “quản lý”
nên cho rằng “quản trị công ty” bao gồm “quản trị nhà nước” đối với công ty
(quan hệ quản lý nhà nước theo chiều dọc mang tính áp đặt, mệnh lệnh) và
quản trị quan hệ nội bộ công ty (quản lý nội bộ công ty). Tuy nhiên cách sử
dụng này không mang tính phổ biến. Trên thực tế, từ “quản trị” không được
dùng như một thuật ngữ phổ dụng trong quan hệ hành chính giữa nhà nước và
doanh nghiệp, mà chủ yếu dùng từ “quản lý”, hay chính xác hơn là cụm từ
“quản lý nhà nước” để chỉ mối quan hệ này. Trái lại, thuật ngữ “quản trị” trở
nên phổ dụng hơn khi xem xét mối quan hệ nội bộ công ty. Với cách dùng
này thì “quản trị” được hiểu như là một hoạt động cần thiết phải được thực
hiện khi con người kết hợp với nhau trong một tổ chức nhằm đạt được những
mục tiêu chung [18, tr.11].
Theo luật gia Nguyễn Ngọc Bích, quản trị công ty (lèo lái công ty-
corporate governance) là một tập hợp các cơ chế liên quan đến việc điều hành
và kiểm soát công ty. Nó đề ra cách phân chia quyền hạn và nghĩa vụ giữa cổ
đông, Hội đồng quản trị, Ban giám đốc và những người có lợi ích liên quan
khác như người lao động, nhà cung cấp [9, tr.225]. Cách tiếp cận này tương
đồng với quan điểm của OECD.

Trong khi đó, Tiến sĩ Luật học Ngô Viễn Phú chỉ cho rằng, ở giác độ pháp
lý, quản trị công ty là phương cách tổ chức các cơ quan quyền lực của công
ty và mối quan hệ chế ước quyền lực giữa các cơ quan đó [29, tr.1]. Quan
điểm này thể hiện sự phân chia quyền lực trong công ty giống như quyền lực
nhà nước. Tuy nhiên, do quá nhấn mạnh tính phân chia quyền lực giữa các cơ
quan, định nghĩa trên đã bỏ quên trách nhiệm của Hội đồng quản trị trước chủ

11

đầu tư, vai trò và quyền lợi của những người có quyền lợi liên quan khác, đặc
biệt là những chủ thể ít có khả năng tự bảo vệ lợi ích của mình (các cổ đông
thiểu số, người lao động, ), cũng như thiếu vắng nhu cầu đảm bảo sự bình
đẳng giữa các chủ đầu tư và cơ chế đảm bảo thực hiện nó.
Tiến sĩ Đinh Văn Ân, Viện trưởng Viện nghiên cứu Quản lý Kinh tế Trung
ương thì cho rằng, quản trị công ty theo nghĩa hẹp là cơ chế quản lý - giám
sát của chủ sở hữu đối với người quản lý công ty theo những mục tiêu và định
hướng của chủ sở hữu [39]. Theo nghĩa rộng hơn, quản trị doanh nghiệp gắn
chặt với quyền lợi của chủ sở hữu cũng như các chủ nợ, người cung cấp,
người lao động, thậm chí khách hàng của công ty. Về mặt tổ chức, quản trị
công ty là tập hợp các mối quan hệ giữa chủ sở hữu, Hội đồng quản trị và các
bên có liên quan nhằm xác định mục tiêu, hình thành các công cụ để đạt được
mục tiêu và giám sát việc thực hiện mục tiêu của công ty [39]. Điều này cũng
có nghĩa là, nếu xem quản trị công ty là một loại quan hệ pháp luật (quan hệ
quản trị công ty) thì đó chính là quan hệ pháp luật về tổ chức quản lý công ty.
Khi đó, ở khía cạnh khác của khoa học pháp lý, quản trị công ty còn được
hiểu như là loại chế định pháp lý, đó là chế định tổ chức quản lý công ty (còn
được gọi là chế định quản trị công ty). Điều này đúng với các định nghĩa nêu
trên của học giả nước ngoài. Do vậy, có thể nói, bản chất của quản trị công ty
không gì khác hơn chính là cơ chế tổ chức quản lý công ty nhằm hướng tới
bảo vệ hữu hiệu lợi ích của chủ sở hữu công ty và của xã hội.

Tóm lại, từ tất cả những định nghĩa và phân tích trên có thể cho phép khái
quát rằng, dưới góc độ pháp lý, theo nghĩa rộng, quản trị công ty là tất cả các
quy định, cơ chế nhằm tổ chức công ty một cách có hiệu quả, vì lợi ích của
chủ sở hữu công ty và của xã hội. Theo đó, quản trị công ty (corporate
governance) không liên quan đến hoạt động tác nghiệp điều hành các công
việc hàng ngày của công ty, mà chủ yếu chỉ xác định quyền lợi và trách nhiệm
của các chủ thể quản lý, giám sát công ty, cũng như cơ chế đảm bảo thực hiện
nó [9, tr.225]. Cụ thể là xác định rõ nội dung phân chia các quyền, nghĩa vụ
và trách nhiệm giữa chủ sở hữu công ty, Đại hội đồng cổ đông (công ty cổ

12

phần), Hội đồng quản trị, Giám đốc điều hành, Ban kiểm soát và những chủ
thể có liên quan khác của công ty (người lao động, chủ nợ,…); đồng thời lập
ra các nguyên tắc và thủ tục để ra quyết định về những vấn đề của công ty.
Các thiết chế pháp lý điều chỉnh các quan hệ này được cụ thể hóa trong các
Luật công ty (Luật tổ chức công ty), Luật quản trị công ty ở một số nước,
Luật thương mại, Luật phá sản và rải rác ở các luật có liên quan khác.
Ở phạm vi hẹp hơn, quản trị công ty được hiểu như là chế định về quản lý
nội bộ công ty. Chúng điều chỉnh các quan hệ giữa các chủ thể quản lý, giám
sát trong công ty với nhau và với chủ sở hữu công ty, qua đó ngăn chặn sự
lạm dụng quyền, giảm thiểu những rủi ro không cần thiết cho công ty và chủ
sở hữu công ty.
1.1.2. Nhu cầu điều chỉnh pháp luật đối với quan hệ quản trị công ty.
Trong cơ chế kinh tế thị trường hiện nay, sự tồn tại của pháp luật quản trị
công ty bắt nguồn từ chính đời sống kinh doanh, từ thực tiễn tổ chức và vận
hành các tổ chức kinh doanh. Tầm quan trọng của pháp luật quản trị công ty
là cơ sở thực chứng cho sự tồn tại và phát triển của chúng. Các kết quả nghiên
cứu gần đây cho thấy, pháp luật quản trị công ty ngày càng giữ vai trò quan
trọng trong đời sống kinh tế xã hội của các quốc gia, nhất là trong bối cảnh

cạnh tranh kinh tế toàn cầu hiện nay [13, tr.3], [23, tr.18], [42]. Pháp luật
quản trị công ty không đơn giản chỉ ảnh hưởng đến tính sống còn của một
công ty, mà còn ảnh hưởng đến vấn đề tăng trưởng kinh tế và đảm bảo ổn
định xã hội. Bởi bản thân công ty không phải là một cá thể độc lập tuyệt đối,
mà là một bộ phận xã hội thu nhỏ, một thực thể sống của nền kinh tế. Những
khiếm khuyết của hệ thống quản trị công ty sẽ gây ra những hậu quả to lớn cả
về kinh tế, chính trị, xã hội. Sự sụp đổ các công ty ở Đông Á trong cuộc
khủng hoảng tài chính năm 1997-1998, sự phá sản của các tập đoàn Enron,
Worldcom của Mỹ, Parmalat của Ý,… cùng hậu quả do nó gây ra là những ví
dụ minh chứng về mối hiểm họa của sự khiếm khuyết đó [20, tr.103-124], [24,
tr.21], [25, tr.80-84], [26, tr.368, 369]. Với hàng triệu người lao động bị mất
việc làm, hàng vạn cổ đông ở hàng chục quốc gia phải lao đao, một số ngành

13

kinh tế thậm chí cả nền kinh tế quốc gia bị chao đảo, cùng với việc đẩy mạnh
cải thiện quản trị công ty ở các quốc gia này, là câu trả lời về tầm quan trọng
và sự cần thiết phải điều chỉnh pháp luật đối với các quan hệ quản trị công ty.
Bởi, suy cho cùng pháp luật vẫn chỉ là công cụ để phục vụ và định hướng cho
phát triển kinh tế xã hội. Pháp luật không thể không điều chỉnh các quan hệ
cực kỳ quan trọng đó của đời sống kinh tế xã hội. Điều này cũng đã được
Alan Greenspan, Chủ tịch Hội đồng dự trữ liên bang Mỹ, phân tích ngay
trong lời kêu gọi về việc phải có luật cho vấn đề này [9, tr.227, 228].
Bên cạnh đó, một quy chế quản trị công ty hiệu quả, minh bạch và đáng tin
cậy sẽ là cơ sở để các nhà đầu tư bỏ vốn vào công ty. Như chúng ta đã biết, để
kinh tế tăng trưởng và phát triển đòi hỏi phải thu hút và sử dụng hiệu quả mọi
nguồn vốn, kể cả nguồn vốn nhàn rỗi trong nước lẫn nguồn vốn nước ngoài.
Điều này chỉ được thực hiện khi có chế định quản trị công ty tốt, bảo vệ hữu
hiệu quyền lợi của cổ đông, nhất là những cổ đông thiểu số, ngăn chặn sự lạm
dụng quyền lực quản lý để chiếm dụng tài sản công ty và gây hại cho cổ đông.

Do vậy, sự tồn tại của chế định quản trị công ty là một nhu cầu không thể
thiếu trong việc khai thông nguồn vốn xã hội, giúp giảm chi phí vốn vay,
nâng cao hiệu quả kinh tế của công ty và quốc gia. Từ đó, góp phần hạn chế
hiểm họa lãng phí nguồn lực quốc gia, giảm bớt nguy cơ khủng hoảng kinh tế,
tạo tiền đề cho thị trường chứng khoán phát triển, cũng như đảm bảo mục tiêu
tăng trưởng kinh tế và phát triển xã hội.
Đặc biệt, ở các quốc gia có nền kinh tế mới chuyển đổi, pháp luật kinh
doanh còn trong tình trạng “tranh tối tranh sáng”, các “quan hệ ngầm” còn
bao phủ đời sống kinh doanh, thì sự xuất hiện và tồn tại chế định quản trị
công ty còn tạo cơ sở pháp lý để chống lại sự can thiệp không cần thiết của
công quyền vào công việc nội bộ của công ty, giúp minh bạch hóa môi trường
kinh doanh, hạn chế các hành vi giao dịch nội gián và tham nhũng.
Từ góc độ của người kinh doanh, các nhà đầu tư hoàn toàn có quyền đồi
hỏi nhà nước phải đảm bảo một khuôn khổ pháp lý vững chắc cho các tiêu
chuẩn về quản trị công ty tối thiểu. Ở Việt Nam, kết quả khảo sát của Tổ chức

14

tài chính quốc tế IFC và Chương trình phát triển kinh tế tư nhân MPDF năm
2004 cũng cho biết, 88% các công ty cho rằng Nhà nước nên dành ưu tiên cao
cho việc cải thiện công tác quản trị công ty [12, tr.17]. Điều này cho thấy, sự
can thiệp pháp luật vào quan hệ quản lý nội bộ công ty là cần thiết và hoàn
toàn khách quan. Bởi nó xuất phát từ mong muốn của chính những đối tượng
chịu sự điều chỉnh của nó.
Ngoài ra, ở khía cạnh pháp lý, sự điều chỉnh pháp luật về quản trị công ty
còn xuất phát từ nhu cầu hiện thực hóa các quyền hiến định là quyền sở hữu
và quyền tự do kinh doanh. Pháp luật quản trị công ty giúp giải quyết cơ bản
các mâu thuẫn nội tại vốn luôn tiềm ẩn trong bản thân mỗi công ty. Đó là mâu
thuẫn lợi ích giữa chủ sở hữu công ty và người quản lý-người thừa hành, giữa
chủ sở hữu nắm quyền lực kiểm soát công ty (cổ đông nhiều vốn) và chủ sở

hữu không nắm quyền lực kiểm soát (cổ đông ít vốn), giữa chủ sở hữu và
những người có quyền lợi liên quan khác. Bởi, người quản lí không phải bao
giờ cũng hành động vì lợi ích của người chủ sở hữu công ty; cổ đông nắm
quyền kiểm soát không phải luôn luôn sử dụng quyền lực kiểm soát để quyết
định những vấn đề có lợi cho cổ đông thiểu số; người chủ sở hữu công ty
cũng không phải lúc nào cũng hành động vì lợi ích của mình mà không xâm
phạm lợi ích của người có quyền lợi liên quan. Do vậy, sự tồn tại của pháp
luật quản trị công ty như là một công cụ để thực thi quyền giám sát của chủ sở
hữu công ty, đảm bảo sự công bằng giữa các chủ sở hữu với nhau và sự tôn
trọng lợi ích thỏa đáng của các chủ thể có liên quan. Việc tạo lập hành lang
pháp lý an toàn này cho hoạt động của các nhà đầu tư, trong chừng mực nhất
định, còn là giải pháp pháp lý để đảm bảo cơ hội kinh doanh cho người dân,
hạn chế sự can thiệp trái pháp luật của cơ quan công quyền lên quyền tự do
kinh doanh của họ.
Ở một giác độ khác của khoa học pháp lý, sự ra đời của Luật công ty nói
chung, của chế định quản trị công ty riêng còn xuất phát từ tính không hoàn
chỉnh của hợp đồng trong quan hệ quản lý nội bộ công ty. Như Holstrom từng
nói: “Cho dù sự quản lý bằng hợp đồng là quan trọng, nhưng các hợp đồng ắt

15

không thể hoàn chỉnh theo ý nghĩa là người ta không thể đưa vào hợp đồng
tất cả những vấn đề phát sinh trong tương lai”. Cùng với quan điểm này của
Holstrom, E. Rock và M. Wachter cho rằng, những hợp đồng mô tả việc sử
dụng nguồn vốn nhất thiết sẽ không hoàn chỉnh, và cách đối phó với những
điểm không hoàn chỉnh không thể tránh khỏi trong hợp đồng này mang đến
cơ sở cho lý thuyết thực chứng về Luật công ty [32, tr.1].
Với sự biến đổi quá nhanh của thị trường, các bên tham gia quan hệ hợp
đồng không thể lường trước hết những vấn đề xảy ra trong dài hạn. Do vậy,
việc ký kết hợp đồng mô tả việc sử dụng và quản lý nguồn vốn có thể không

tránh khỏi tình trạng không hoàn chỉnh, quyền quyết định những vấn đề mới
phát sinh có thể không được quy định trong hợp đồng. Khi đó, sự thiếu vắng
chế định quản trị công ty nói riêng, Luật công ty nói chung sẽ là một khoảng
trống pháp lý cho nhà đầu tư. Bởi, việc giải quyết các tranh chấp phát sinh
cũng như việc hoàn chỉnh các hợp đồng này sẽ tạo ra nhiều rủi ro và làm phát
sinh thêm nhiều chi phí cho nhà đầu tư. Điều này tạo tâm lý e ngại đầu tư dài
hạn, gây hiệu ứng không tốt cho sự phát triển bền vững của nền kinh tế.
Tóm lại, từ những phân tích trên, có thể nói rằng việc điều chỉnh pháp luật
đối với các quan hệ quản trị công ty là cần thiết và không thể thiếu đối với sự
phát triển kinh tế và xã hội của quốc gia.
1.2. Chế độ pháp lý về quản trị công ty và những đòi hỏi mang tính
nguyên tắc khi xây dựng quy chế pháp lý về quản trị công ty
1.2.1. Chế độ pháp lý về quản trị công ty
Về mặt lý luận, Luật công ty (Luật doanh nghiệp) là loại pháp luật mang
tính tổ chức [8, tr.35, 36], [11, tr.8], [17, tr.1], [28, tr.25]. Thực tại pháp lý của
các nước trên thế giới cũng cho thấy, Luật công ty bao gồm chủ yếu các quy
định về tổ chức các loại hình công ty [8, tr.40]. Do vậy Luật công ty được
hiểu như là Luật về tổ chức công ty hay là Luật về quản trị công ty.
Ở giác độ quản trị công ty, Giáo sư Chiristoph Van Der Elst, Đại học
Ghent, Vương quốc Bỉ, cho rằng “Luật công ty chủ yếu quy định những vấn

16

đề nội bộ công ty (internal affairs)” [8, tr.41]. Nói như các Giáo sư Hoa Kỳ, R.
Robert Rosenberg, William G. Ott, Edward E. Byers, Gordon W. Brown, thì
đó là những quy định về tổ chức quản lý nội bộ công ty [8, tr.40]. Nghiên cứu
vấn đề này, Reinier Kraakman, Giáo sư hàng đầu về Luật công ty, Đại học
Luật Harvard, kết luận rằng “mô hình chuẩn” của Luật công ty là hướng đến
lợi ích của các cổ đông trên cơ sở tôn trọng lợi ích của các chủ thể có liên
quan khác, mà cụ thể là tập trung điều chỉnh các quan hệ giữa các chủ thể

quản lý trong công ty với nhau và với chủ sở hữu công ty. Sự can thiệp của
các chủ nợ và nhà cung cấp vào quá trình quản lý công ty (như các quan điểm
ở phần khái niệm chung) chủ yếu được điều chỉnh bởi Luật phá sản và luật có
liên quan khác, nằm ngoài phạm vi điều chỉnh của Luật công ty [21]. Phân
tích này đã được chứng minh bởi nội dung thực tại của Luật công ty của
Trung Quốc, Philippine, Thái Lan, Pháp, Hunggaria, Áo, bang Delaware (Hoa
Kỳ), Luật Doanh nghiệp hiện hành của Việt Nam, [10], [11]. Do vậy, có thể
nói trong giới hạn của Luật công ty (Luật doanh nghiệp), chế độ pháp lý về
quản trị công ty là một hệ thống các quy phạm pháp luật điều chỉnh mối quan
hệ tổ chức quản lý nội bộ của công ty. Đây chính là những quan hệ cơ bản của
quản trị công ty, là lý do làm cho Luật công ty trở thành luật cơ bản về quản
trị công ty [42, tr.3, 4] và cũng là giới hạn phạm vi nghiên cứu của đề tài.
Với vai trò là một chế định quản trị công ty, Luật công ty thực hiện hai
chức năng cơ bản:
Thứ nhất, ghi nhận quyền năng và trách nhiệm của các chủ thể quản lý,
chủ thể góp vốn trong tổ chức và vận hành công ty;
Thứ hai, quy định các điều kiện phải tuân thủ trong tổ chức vận hành công
ty nhằm bảo vệ quyền lợi của cổ đông (thành viên công ty), của các chủ nợ,
của chủ thể có liên quan và của toàn xã hội trước những rủi ro luôn tiềm ẩn
mà chủ thể quản lý có thể tạo ra.
Do vậy, về cơ bản chúng bao gồm những nội dung sau:

17

 Cơ cấu tổ chức bộ máy quản lý, điều hành, giám sát hoạt động của
công ty;
 Quyền và nghĩa vụ của cổ đông (thành viên công ty), cơ chế đảm bảo
thực hiện các quyền đó của họ;
 Quyền hạn, lợi ích và trách nhiệm của người quản lý, giám sát doanh
nghiệp;

 Cơ chế giám sát các hành vi của người quản lý nhằm hạn chế sự lạm
dụng quyền lực đối với các nguồn lực của công ty vì mục đích tư lợi;
 Quy trình và thể thức ra quyết định công ty.
Các nội dung này được điều chỉnh khác nhau và tương thích với từng loại
hình công ty. Đối với các loại hình công ty đối nhân (theo cách phân loại của
hệ thống Civil Law), nhân thân (danh) của thành viên công ty là căn cứ cơ
bản để xác định vị trí, vai trò của họ trong việc tổ chức quản lý công ty, chứ
không phải dựa vào quy mô giá trị phần vốn góp. Dễ thấy nhất, đối với loại
hình công ty hợp vốn đơn giản, người được quản lý và ra quyết định công ty
là thành viên hợp danh, chứ không phải là thành viên góp vốn (nguyên tắc đối
nhân). Tương ứng với quyền đó, thành viên hợp danh phải chịu trách nhiệm
vô hạn trong khi thành viên góp vốn chỉ chịu trách nhiệm hữu hạn. Trái lại,
đối với các loại hình công ty đối vốn, mối liên hệ giữa các thành viên công ty
liên quan đến vấn đề tổ chức quản lý công ty dựa trên căn cứ chủ yếu là quy
mô giá trị phần vốn góp của mỗi thành viên trong vốn điều lệ của công ty
(nguyên tắc đối vốn). Việc ra quyết định quan trọng nhất của công ty cũng
dựa trên tỷ lệ giá trị phần vốn góp của người biểu quyết. Nhìn chung, ứng với
mỗi hình thức pháp lý khác nhau là một mô hình pháp lý về tổ chức quản lý
công ty (mô hình quản trị) khác nhau.
1.2.2. Những yêu cầu mang tính nguyên tắc khi xây dựng quy chế pháp lý
về quản trị công ty
 Đảm bảo tôn trọng quyền tự chủ kinh doanh của công ty
Đây là yêu cầu xuất phát từ quyền Hiến định cơ bản của công dân và
nguyên tắc phát triển của kinh tế thị trường - nguyên tắc tự do kinh doanh.

18

Với yêu cầu này, việc tổ chức quản lý nội bộ công ty trước hết và chủ yếu
thuộc quyền quyết định của chủ đầu tư. Pháp luật không cần thiết phải can
thiệp quá sâu và quá chi tiết vào các quan hệ nội bộ của công ty. Sự can thiệp

quá mức cần thiết của pháp luật vào các quan hệ này đôi lúc lại phản tác dụng,
tạo sự cứng nhắc và kém linh hoạt cho hoạt động quản trị của công ty. Do vậy,
pháp luật chỉ nên quy định ràng buộc những vấn đề cơ bản, mang tính nguyên
tắc, xác lập “khung pháp lý” cho việc tổ chức quản lý công ty. Với cách tiếp
cận này, chế định quản trị công ty trong nền kinh tế thị trường chứa đựng
phần lớn là các quy phạm mang tính tùy nghi, các công ty có thể tự do lựa
chọn áp dụng.
Tuy nhiên, bên cạnh đó không thể thiếu những quy phạm bắt buộc về một
số vấn đề nhất định. Những quy phạm bắt buộc này có ý nghĩa quan trọng đặc
biệt đối với việc bảo vệ lợi ích của chủ đầu tư thiểu số và các chủ thể có liên
quan, đồng thời ngăn chặn tính tư lợi, cơ hội của người quản lý công ty đối
với chủ đầu tư, cũng như của chủ đầu tư đa số đối với chủ đầu tư thiểu số và
các chủ thể khác có liên quan.
 Đảm bảo sự linh hoạt, mềm dẻo và phù hợp với môi trường kinh
doanh
Về mặt lý luận, nguyên tắc cơ bản của việc thiết lập khung pháp lý quản trị
công ty là hướng tới hình thành một môi trường quản trị công ty tương thích
với các giá trị xã hội [23, tr.54]. Đó là môi trường cho phép các công ty có
thể linh hoạt cạnh tranh với những biến đổi nhanh chóng của các lực lượng thị
trường, mà vẫn đảm bảo được các chuẩn mực xã hội và truyền thống văn hóa
kinh doanh. Vì thế, chế định quản trị công ty cần đảm bảo tính thích nghi của
cơ cấu quản trị công ty với truyền thống văn hóa kinh doanh và những thay
đổi nhanh chóng của đời sống kinh tế.
Thêm nữa, có thể thấy rằng, không có một cơ cấu quản trị nào thích ứng
tuyệt đối với tất cả các hình thức liên kết hay tất cả cơ cấu sở hữu [23, tr10].
Do vậy, mức độ ràng buộc của pháp luật đối với việc tổ chức quản lý công ty

19

cũng phải có sự khác nhau giữa các loại hình công ty, phù hợp với cấu trúc

vốn và cơ cấu thành viên của công ty. Nói chung, chế định quản trị công ty
cần đảm bảo tính thích nghi của cơ cấu quản trị công ty với điều kiện tồn tại
và phát triển của chúng. Đây cũng chính là yêu cầu thứ hai về việc điều chỉnh
pháp luật đối với các quan hệ quản trị công ty.
 Đảm bảo hài hòa lợi ích của tất cả các chủ thể có liên quan tới quản trị
công ty
Sự ra đời và tồn tại của chế định quản trị công ty gắn liền với nhu cầu huy
động vốn, giảm thiểu chi phí và rủi ro cho nhà đầu tư. Sự điều chỉnh của pháp
luật quản trị công ty chủ yếu nhằm hướng tới đáp ứng nhu cầu đảm bảo quyền
lợi của nhà đầu tư. Đó cũng chính là yêu cầu thứ ba của việc điều chỉnh pháp
luật quản trị công ty. Với yêu cầu này, trước hết các quy định quản trị công ty
cần ghi nhận, bảo vệ và tạo điều kiện cho việc thực thi các quyền của chủ đầu
tư. Trong đó, bao gồm cả quyền bầu, bãi nhiệm những người lãnh đạo công ty,
quyền quyết định vấn đề trọng đại của công ty, quyền được tiếp cận thông tin
liên quan đến hoạt động của công ty, quyền chất vấn Hội đồng quản trị và
Giám đốc, quyền chuyển nhượng vốn và quyền khởi kiện.
Các nhà đầu tư khác nhau sẽ có những vị thế, lợi ích, mục tiêu và định
hướng đầu tư không hoàn toàn giống nhau. Giữa họ ít nhiều sẽ xảy ra xung
đột lợi ích, nhất là giữa nhà đầu tư thiểu số và nhà đầu tư nắm quyền lực kiểm
soát công ty. Do vậy, khi bảo vệ quyền lợi cho các nhà đầu tư, pháp luật quản
trị công ty cũng cần nhấn mạnh đến tính công bằng giữa họ với nhau. Bởi, về
bản chất, bản thân pháp luật là hiện thân của sự công bằng. Hơn nữa, chỉ có
như vậy, pháp luật quản trị công ty mới thực sự trở thành hành lang pháp lý
an toàn để thu hút hiệu quả vốn đầu tư. Với yêu cầu này, chế định quản trị
công ty cần quy định cho tất cả các cổ đông cùng loại có các quyền như nhau,
thủ tục và quy trình họp Đại hội đồng cổ đông cần được đảm bảo công bằng
cho tất cả các cổ đông có quyền tham gia. Đồng thời, quy định chặt chẽ các
điều kiện và thủ tục đối với những giao dịch của cổ đông nắm quyền lực kiểm
soát công ty, cũng như cấm các hành vi lạm quyền lực của cổ đông đa số để


20

thực hiện các giao dịch có tính tư lợi và nội gián gây hại cho cổ đông thiểu số.
Về cơ bản, sự thành công của công ty gắn liền với khả năng điều hòa lợi
ích giữa Giám đốc, thành viên Hội đồng quản trị, các chức danh quản lý cao
cấp khác và người lao động với lợi ích của chủ đầu tư. Thù lao dựa trên hiệu
quả lao động được coi là công cụ hữu hiệu để đạt được mục tiêu này. Ở khía
cạnh này, chế định quản trị công ty cần tạo ra một khuôn khổ mang tính hợp
đồng để khuyến khích nỗ lực của các nhân lực chủ chốt trong công ty. Các
quy định này vì thế không nên hạn chế sự mềm dẻo trong việc điều hòa lợi ích
giữa chủ đầu tư với những nhà quản lý cấp cao và người thụ hưởng khác. Sự
hạn chế quá mức có thể làm xói mòn tinh thần kinh doanh và ảnh hưởng
không tốt đến hiệu quả hoạt động của công ty. Bên cạnh đó, các quy định
pháp luật cần hạn chế sự lạm dụng thái quá quyền khởi kiện của chủ đầu tư
ảnh hưởng xấu đến hoạt động quản lý công ty. Nói chung, bên cạnh yêu cầu
bảo vệ quyền lợi của nhà đầu tư, chế định quản trị công ty cũng cần tôn trọng
và đảm bảo hài hòa lợi ích của các chủ thể có quyền lợi liên quan.
 Đảm bảo tính minh bạch và hiệu quả
Yêu cầu này đòi hỏi pháp luật phải thiết lập cơ chế giảm thiểu các rủi ro và
chi phí quản lý cho nhà đầu tư. Các quy định này cần hướng tới hạn chế sự
tùy tiện trong quản lý đối với việc sử dụng nguồn vốn mà không tạo ra lợi
nhuận, cũng như đặt ra các yêu cầu chặt chẽ đối với việc chuyển giao tài sản
từ các nhà đầu tư thiểu số sang nhà đầu tư nắm quyền lực kiểm soát công ty,
hoặc đối với các giao dịch có khả năng mang yếu tố tư lợi và nội gián sai trái
khác ở cấp quản lý quan trọng. Điều này đòi hỏi pháp luật phải quy định rõ
quyền hạn, nhiệm vụ và trách nhiệm của các chủ thể quản lý trong cơ cấu
quản trị công ty, trong đó đặc biệt chú trọng đến vai trò giám sát của chủ đầu
tư và những chủ thể thực hiện chức năng giám sát độc lập khác (không thực
hiện hoạt động điều hành trực tiếp). Tuy nhiên, cũng cần thấy rằng, hoạt động
giám sát của nhà đầu tư chỉ trở nên hiệu quả khi nhà đầu tư nắm bắt được đầy

đủ các thông tin liên quan một cách kịp thời và chính xác. Nhưng trên thực tế
nhà đầu tư không thể nắm bắt được thông tin nếu không có sự cung cấp của

21

người quản trị. Do đó, để bảo vệ hữu hiệu quyền lợi của nhà đầu tư, pháp luật
không thể không đảm bảo sự minh bạch hóa thông tin cho nhà đầu tư bằng
các quy định mang tính bắt buộc.
Nói chung, việc quản trị công ty một cách hiệu quả phải dựa trên những
nguyên tắc về sự minh bạch, dễ tiếp cận, kịp thời, đầy đủ, và chính xác của
thông tin ở mọi cấp độ. Với việc nâng cao tính minh bạch trong công ty, các
nhà đầu tư sẽ được hưởng lợi khi họ có cơ hội được cung cấp thông tin về
hoạt động kinh doanh và các số liệu tài chính của công ty. Thậm chí dù những
thông tin được công bố mang tính tiêu cực đi chăng nữa thì càng cổ đông
cũng sẽ được hưởng lợi do họ có cơ hội để giảm thiểu rủi ro.
1.3. Các yếu tố tác động đến quy chế pháp lí về quản trị công ty
1.3.1. Cơ chế quản lí kinh tế của mỗi quốc gia
Cơ chế kinh tế tác động chi phối pháp luật quản trị công ty cả về hình thức
lẫn nội dung. Trong cơ chế kinh tế kế hoạch hóa tập trung, mọi hoạt động
kinh doanh của công ty đều được thực hiện theo kế hoạch chi tiết và thống
nhất do Nhà nước ấn định. Các công ty (xí nghiệp) hầu như không có quyền
tự chủ trong hoạt động kinh doanh. Trong quan hệ tổ chức của công ty, các cơ
quan công quyền thường can thiệp rất sâu vào vấn đề tổ chức các thiết chế
quản lí, bổ nhiệm, miễn nhiệm người điều hành. ở Việt Nam trong giai đoạn
tập trung bao cấp, không chỉ đối với các xí nghiệp quốc doanh, mà cả với rất
ít các doanh nghiệp công tư hợp doanh, các quan hệ tổ chức cũng chủ yếu dựa
vào các mệnh lệnh hành chính. Điều này làm cho các quy định về tổ chức
quản lý nội bộ công ty mang nặng tính mệnh lệnh hành chính và chứa đựng
chủ yếu các quy phạm pháp luật thuộc lĩnh vực luật công. Với một nền kinh tế
khép kín trong khuôn khổ kế hoạch nhà nước như thế, vai trò của pháp luật về

doanh nghiệp nói chung, pháp luật về quản trị công ty nói riêng có phần bị
xem nhẹ. Các quy định về quản trị công ty được thể hiện dưới hình thức chủ
yếu là các văn bản pháp luật có giá trị pháp lý thấp (do cơ quan hành pháp
ban hành) và hầu như không được pháp điển hóa.

22

Trái lại, trong cơ chế kinh tế thị trường, nhà nước thực hiện chức năng
quản lý kinh tế chủ yếu thông qua điều tiết nền kinh tế ở tầm vĩ mô. Các công
ty tồn tại và hoạt động theo những quy luật kinh tế khách quan của kinh tế thị
trường. Vì vậy pháp luật công ty nói chung, quản trị công ty nói riêng có sự
thay đổi cơ bản cả về đối tượng và phương pháp điều chỉnh so với trong cơ
chế kinh tế tập trung. Chế định quản trị công ty được xây dựng với quan điểm
cơ bản là đảm bảo quyền tự chủ của công ty, sự an toàn và bình đẳng giữa các
chủ đầu tư. Do vậy, nội dung của các quy phạm này chủ yếu mang tính ghi
nhận và đảm bảo quyền của chủ đầu tư và các chủ thể quản lý trong công ty.
Cũng vì thế, chế định quản trị công ty chứa đựng chủ yếu các quy phạm pháp
luật thuộc lĩnh vực luật tư.
1.3.2. Trình độ phát triển kinh tế-xã hội của quốc gia.
Cũng như quan hệ với các chế định pháp lý khác, trình độ phát triển kinh
tế-xã hội là cơ sở quyết định nội dung của Luật công ty nói chung, chế định
quản trị công ty nói riêng. Điều này có thể thấy qua quá trình hình thành và
phát triển các mô hình tổ chức quản lý công ty. Lịch sử ra đời loại hình kinh
doanh được gọi là công ty đầu tiên xuất phát từ nhu cầu liên kết vốn để mở
rộng quy mô hoạt động và tăng cường năng lực kinh doanh. Điều đó chỉ xảy
ra trong một điều kiện kinh tế xã hội nhất định. Sự liên kết kinh doanh này
thoạt đầu xảy ra giữa những người có quan hệ thân thiết và tin cẩn nhau, tạo
ra các công ty đối nhân, mà tiêu biểu là các hợp danh. Vì công ty được hình
thành dựa trên sự tin cẩn nhau, nên các hợp danh có cơ cấu tổ chức đơn giản,
các quan hệ quản lý dựa trên sự thỏa thuận giữa các thành viên. Về sau, khi

trình độ sản xuất hàng hóa phát triển ở mức độ cao hơn, nhu cầu liên kết để
mở rộng quy mô kinh doanh cũng như phân tán rủi ro trước cạnh tranh khốc
liệt của thị trường đã không còn dừng lại ở phạm vi những người quen biết,
tin cậy nhau. Chúng mở rộng ra cả các đối tượng không quen biết nhau, hình
thành các công ty đối vốn, mà đỉnh cao là các công ty cổ phần phát hành cổ
phiếu ra công chúng. Từ sự liên kết vốn giữa những người không thân thiết
nhau phát sinh nhu cầu về một cơ chế quản lý và giám sát của chủ đầu tư đối

23

với lượng vốn bỏ vào công ty ngày một mạnh mẽ hơn. Vấn đề đảm bảo quyền
kiểm soát của chủ đầu tư và quyền bình đẳng giữa họ làm cho cơ cấu tổ chức
của công ty ngày một chặt chẽ hơn. Cũng vì thế chế định quản trị công ty
cũng trở nên chặt chẽ hơn.
1.3.3. Các thiết chế bổ trợ cho Luật công ty.
Điều này hoàn toàn có thể chứng minh bởi thực tiễn pháp lý của các nước
trên thế giới. Ở các nước có thị trường chứng khoán phát triển năng động như
Anh và Mỹ, thông tin thị trường tương đối hoàn hảo, giá cổ phiếu là yếu tố
phản ánh năng lực quản trị công ty và tạo sức ép mạnh mẽ đối với những
người quản trị công ty. Do vậy, để thích ứng với yêu cầu bảo toàn và tăng giá
trị cổ phiếu của cổ đông trước nhạy cảm nhanh chóng của thị trường, Luật
công ty tạo ra một cơ chế linh hoạt với đầy đủ quyền lực cần thiết cũng như
trách nhiệm cho Hội đồng quản trị. Đặc biệt, Tổng Giám đốc điều hành
(CEO) được trao cho nhiều quyền lực tối cao [87], [33]. Bên cạnh đó, sự giám
sát hoàn hảo của thị trường bởi các thiết chế bổ trợ cùng với đặc điểm sở hữu
không tập trung đã giúp cho các cổ đông tiềm năng và cổ đông hiện hữu giảm
bớt chi phí không cần thiết cho hoạt động giám sát công việc quản lý, điều
hành công ty. Với sự hỗ trợ hữu hiệu này, nhu cầu điều chỉnh hoạt động giám
sát của cổ đông bằng Luật công ty cũng vì thế bớt phức tạp và chi tiết hơn [32,
tr.2-6]. Hoạt động quản trị công ty được tập trung dưới một cơ cấu Hội đồng

quản trị mạnh thực hiện cả chức năng giám sát và điều hành. Cổ đông chỉ có
quyền biểu quyết phê chuẩn mà không có quyền đề xướng đối với việc cho
thành viên Hội đồng quản trị vay tiền, bán tài sản nằm ngoài hoạt động kinh
doanh bình thường,…[9, tr.212]. Việc tham gia quản lý công ty của đại diện
tập thể người lao động cũng không mang tính bắt buộc.
Trái lại, ở Cộng hòa liên bang Đức, với mục tiêu phân tán bớt quyền lực
của các chủ sở hữu tập đoàn lớn, tạo ra cơ cấu bền vững giải quyết bất đồng
trong công ty, mô hình quản trị bắt buộc có sự tham gia của người lao động
vào trong Hội đồng giám sát và Hội đồng công ty [36, tr.210, 211]. Với sự hỗ
trợ của Luật tham quyết, có khoảng 1/3 đến 1/2 thành viên Hội đồng giám sát

24

là đại diện của người làm công trong công ty, số còn lại là do Đại hội đồng cổ
đông bầu ra. Hội đồng giám sát không thực hiện chức năng điều hành như
Hội đồng quản trị trong các công ty của Mỹ. Hội đồng giám sát bầu ra Ban
điều hành công ty và giám sát hoạt động điều hành của họ. Bên cạnh đó, Hội
đồng công ty đại diện cho người lao động trong công ty đối thoại với chủ
doanh nghiệp để giải quyết các vấn đề liên quan đến thu nhập và việc làm của
người lao động. Đây chính là hệ quả của sự phát triển pháp luật về bảo vệ
quyền lợi của người lao động ở Đức.
1.3.4. Tập quán và văn hóa kinh doanh ở mỗi quốc gia.
Với tư cách là một bộ phận cấu thành của kiến trúc thượng tầng, văn hóa
kinh doanh quan hệ mật thiết với pháp luật doanh nghiệp nói chung và chế
định về quản trị công ty nói riêng. Nó đóng vai trò chi phối pháp luật về quản
trị công ty. Vì vậy, văn hóa kinh doanh của mỗi quốc gia được xem là nguồn
gốc đưa đến những khác nhau trong chế định quản trị công ty giữa các nước
(thuyết “path dependence”) [42]. Nghiên cứu vấn đề này, có quan điểm nhận
định rằng: “… Hiển nhiên văn hóa, tôn giáo, thói quen và triết lý sống ảnh
hưởng đáng kể đến mô hình tổ chức kinh doanh. Gần 150 năm nay người

châu Á bắt đầu tiếp nhận mô hình công ty, song cung cách quản trị của người
Á châu tuy có dấu hiệu hòa đồng, song vẫn có những nét riêng so với lối kinh
doanh của người Âu Mỹ” [26, tr.231]. Quả vậy, đặc điểm kinh doanh của
người phương Đông là dựa trên các mối quan hệ gia đình, thân hữu và niềm
tin. Triết lý kinh doanh của họ làm cho chi phí giám sát (agency cost) không
trở thành trọng tâm của các công ty dân doanh. Việc quản lý nội bộ công ty
được tổ chức theo kiểu gia đình, người góp vốn đồng thời là người điều hành,
hoặc phân chia công việc điều hành cho các thành viên trong gia đình; người
quản trị thâu tóm tất cả các thông tin và tiết lộ nhỏ giọt cho người dưới quyền
để đảm bảo tính gia trưởng của mình [26, tr.301, 366, 367]. Trái lại, người
Mỹ quản trị công ty dựa trên sự minh bạch thông tin, trách nhiệm trung thành
và cẩn trọng của người quản trị đối với cổ đông; mô hình quản trị công ty
chịu ảnh hưởng mạnh bởi tư tưởng phân quyền và chế ước của lý luận tổ chức

25

quốc gia, đồng thời chúng hướng tới giảm thiểu tối đa chi phí giám sát nhưng
vẫn đảm bảo cân đối được động lực của nhà quản lý với cổ đông và kiểm soát
được các giao dịch tư lợi [33, tr.44]. Những khác biệt này làm cho chế định
quản trị công ty của mỗi quốc gia có những nét riêng. Bởi, pháp luật chính là
tấm gương phản chiếu hiện thực xã hội mà nó tồn tại. Điều này dễ dàng thấy
được qua những khác biệt trong chế định quản trị công ty của Nhật Bản và
Mỹ. Các công ty Nhật Bản tập trung quyền lực vào tay một số người thông
qua sự tập trung sở hữu cổ phần và cơ chế sỡ hữu chéo Keiretsu, trong khi
người Mỹ thì lại phân tán cổ phần và đảm bảo quyền lợi của cổ đông thiểu số
[33, tr.46-49], [18]. Kết quả nghiên cứu của các Giáo sư Rafael La Porta,
Florencio Lopez de Silanes, Andrew Shleifer, Đại học Harvad, và Robert
W.Vishny, Đại học Chicago, cũng cho thấy, ở những nơi ít tập trung sở hữu
cổ phần như Anh - Mỹ thì pháp luật bảo vệ cổ đông mạnh mẽ hơn so với ở
những nơi có nhiều tập trung sở hữu cổ phần [18]. Nhìn chung, không có một

mô hình toàn cầu thống nhất (one-size-fits-all) về cơ cấu quản trị công ty.
Hay nói chính xác hơn, sẽ không có một cơ cấu quản trị cuối cùng và ổn định
nào mà tất cả các quốc gia, các công ty có thể sao chép [23, tr.10]. Tuy nhiên
bên cạnh những khác biệt đặc thù, xu thế hội nhập làm cho pháp luật công ty
của các quốc gia xích lại gần nhau, xuất hiện ngày càng nhiều điểm tương
đồng hơn trong chế định quản trị công ty.
1.4. Mô hình quản trị công ty của một số quốc gia trên thế giới và các
khuyến nghị của Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế thế giới (OECD)
về quy chế pháp lí của quản trị công ty.
1.4.1. Mô hình quản trị công ty của Mỹ
Ở Hoa Kỳ, quy chế pháp lí về quản trị công ty được hình thành bởi một hệ
thống các quy định pháp luật của liên bang và các tiểu bang. Các tiểu bang
ban hành Luật công ty điều chỉnh các vấn đề liên quan đến cơ cấu tổ chức
công ty, cốt lõi của quản trị công ty. Còn liên bang thông qua Luật chứng
khoán đảm bảo cho các cổ đông được tiếp cận các thông tin liên quan đến
công ty một cách công khai, minh bạch và chính xác. Bên cạnh đó, công ty

×