Tải bản đầy đủ (.pdf) (104 trang)

Trách nhiệm của người vận chuyển hàng không về những thiệt hại đối với hành khách trong quá trình vận chuyển. ThS. Luật

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.09 MB, 104 trang )


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT





NGUYỄN THỊ QUỲNH NGA




TRÁCH NHIỆM CỦA NGƢỜI
VẬN CHUYỂN HÀNG KHÔNG VỀ
NHỮNG THIỆT HẠI XẢY RA ĐỐI VỚI HÀNH
KHÁCH TRONG QUÁ TRÌNH VẬN CHUYỂN






LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC





Hà Nội - 2013


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT



NGUYỄN THỊ QUỲNH NGA



TRÁCH NHIỆM CỦA NGƢỜI
VẬN CHUYỂN HÀNG KHÔNG VỀ
NHỮNG THIỆT HẠI XẢY RA ĐỐI VỚI HÀNH
KHÁCH TRONG QUÁ TRÌNH VẬN CHUYỂN


Chuyên ngành : Luật kinh tế
Mã số : 60 38 50


LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS.TS. Ngô Huy Cƣơng


Hà Nội - 2013

1

MỤC LỤC
Trang

LỜI CAM ĐOAN Error! Bookmark not defined.
MỤC LỤC 1
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT 4
MỞ ĐẦU 6
Chƣơng 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TRÁCH NHIỆM CỦA
NGƢỜI VẬN CHUYỂN HÀNG KHÔNG VỀ NHỮNG THIỆT HẠI
XẢY RA ĐỐI VỚI HÀNH KHÁCH TRONG QUÁ TRÌNH VẬN
CHUYỂN 12
1.1. Khái niệm và đặc điểm trách nhiệm của ngƣời vận chuyển hàng
không về những thiệt hại xảy ra đối với hành khách trong quá trình
vận chuyển. 12
1.1.1. Khái niệm trách nhiệm của người vận chuyển hàng không về những
thiệt hại xảy ra đối với hành khách trong quá trình vận chuyển. 12
1.1.2.Đặc điểm trách nhiệm của người vận chuyển hàng không đối với
những thiệt hại của hành khách trong quá trình vận chuyển. 15
1.2. Cơ sở của trách nhiệm của ngƣời vận chuyển hàng không về những
thiệt hại xảy ra đối với hành khách trong quá trình vận chuyển. 18
1.2.1.Các thành tố của cơ sở 18
1.2.2.Thiệt hại 19
1.2.3.Vi phạm 21
1.2.4.Quan hệ nhân quả 23
1.2.5.Lỗi 24
1.3.Giới hạn trách nhiệm 28
1.3.1.Khái niệm: 28

2
1.3.2.Nội dung của giới hạn trách nhiệm 30
Chƣơng 2: PHÁP LUẬT VIỆT NAM ĐIỀU CHỈNH TRÁCH NHIỆM
CỦA NGƢỜI VẬN CHUYỂN HÀNG KHÔNG VỀ NHỮNG THIỆT
HẠI ĐỐI VỚI HÀNH KHÁCH TRONG QUÁ TRÌNH VẬN CHUYỂN 39

2.1. Nguyên tắc xác định trách nhiệm: 39
2.1.1 Thời hạn trách nhiệm: 40
2.1.2. Cơ sở của trách nhiệm 42
2.1.3. Giới hạn trách nhiệm 43
2.2. Áp dụng mức giới hạn trách nhiệm của ngƣời vận chuyển 45
2.2.1. Trách nhiệm của người vận chuyển khi xảy ra thiệt hại về tính
mạng, sức khỏe của hành khách cũng như gây hư hỏng, mất hành lý xách
tay, hành lý ký gửi và hàng hóa. 46
2.2.2. Trách nhiệm của người vận chuyển hàng không khi vận chuyển
chậm hành khách, hành lý, hàng hóa của hành khách mà phát sinh thiệt
hại. 52
2.3. Bảo hiểm trách nhiệm dân sự của ngƣời vận chuyển hàng không 59
2.3.1. Vai trò và tính tất yếu của bảo hiểm trách nhiệm dân sự của người
vận chuyển hàng không 61
2.3.2. Phân loại và cơ sở pháp lý của bảo hiểm trách nhiệm dân sự của
người vận chuyển hàng không 65
2.3.3. Thực trạng sự phát triển bảo hiểm trách nhiệm dân sự của người
vận chuyển hàng không hiện nay ở Việt Nam. 68
2.4. Giải quyết tranh chấp liên quan đến trách nhiệm của ngƣời vận
chuyển hàng không về thiệt hại xảy ra đối với hành khách trong quá
trình vận chuyển: 71
2.4.1.Văn bản luật quốc tế: 74
2.4.2.Văn bản luật quốc gia: 76

3
CHƢƠNG 3: ĐÁNH GIÁ QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VIỆT NAM
VỀ TRÁCH NHIỆM CỦA NGƢỜI VẬN CHUYỂN HÀNG KHÔNG VỀ
NHỮNG THIỆT HẠI ĐỐI VỚI HÀNH KHÁCH TRONG QUÁ TRÌNH
VẬN CHUYỂN VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ 78
3.1. Đánh giá quy định của pháp luật 78

3.1.1. Quy định của pháp luật Việt Nam qua các thời kỳ 79
3.1.2. Đánh giá mức độ tương thích của hệ thống pháp luật hàng không
Việt Nam hiện nay đối với các điều ước quốc tế. 83
3.2. Một số kiến nghị 87
3.2.1. Sửa đổi và hoàn thiện luật hàng không dân dụng Việt Nam năm
2006 89
3.2.2. Vai trò của các cơ quan ban ngành liên quan 93
3.2.3. Tầm quan trọng của việc tuyên truyền pháp luật hàng không 96
KẾT LUẬN 99
TÀI LIỆU THAM KHẢO 101













4

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

1. BTTH: Bồi thường thiệt hại
2. BHHK: Bảo hiểm hàng không
3. BHTNDS: Bảo hiểm trách nhiệm dân sự

4. GTVT: Giao thông vận tải
5. HKDD: Hàng không dân dụng
6. HKVN: Hàng không Việt Nam
7. KT –XH: Kinh tế - xã hội
8. IATA: Hiệp hội vận chuyển hàng không Quốc tế
9. ICAO: Tổ chức hàng không dân dụng Quốc tế


6
MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Đất nước ta đang trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế với vô vàn
những khó khăn thử thách, muốn phát triển bền vững chúng ta cần hoàn thiện
mình về mọi mặt trong đó có ngành hàng không dân dụng. Ngành hàng không
dân dụng mặc dù ra đời muộn nhưng đã có nhiều bước phát triển mạnh mẽ và
mang lại những ý nghĩa không chỉ về mặt kinh tế mà còn cả chính trị, ngoại
giao, trao đổi khoa học công nghệ, giao lưu văn hóa…Luật hàng không dân
dụng Việt Nam được xây dựng đã đánh dấu sự chú ý đúng mức của Đảng,
Nhà nước và các nhà làm luật đối với lĩnh vực hàng không. Từ khi được
thông qua và trong quá trình áp dụng vào thực tiễn luật hàng không dân dụng
Việt Nam đã được sửa đổi, bổ sung cho hoàn thiện nhưng so với sự chuyển
mình nhanh chóng của ngành hàng không thì luật này vẫn còn tồn tại vướng
mắc trong đó có quy định về trách nhiệm của người vận chuyển hàng không
đối với những thiệt hại của hành khách trong quá trình vận chuyển. Thêm vào
đó, hiện nay thiệt hại của hành khách trên thực tế xảy ra rất nhiều mà trách
nhiệm của người vận chuyển đôi khi chưa được xác định thỏa đáng khiến cho
vần đề về trách nhiệm này của người vận chuyển trở thành một vấn đề thời sự
nóng hổi được rất nhiều người quan tâm. Cho nên việc nghiên cứu để đưa ra
quy định rõ ràng, hợp lý vấn đề trách nhiệm của người vận chuyển hàng không

đối với thiệt hại của hành khách trong quá trình vận chuyển để áp dụng vào
thực tiễn sẽ có ảnh hưởng tích cực đến sự phát triển của ngành hàng không,
ngành du lịch nước ta, sự nhìn nhận của bạn bè thế giới- họ sẽ yên tâm hơn khi
thực hiện những chuyến bay đến Việt Nam với một cơ chế pháp lý bảo đảm
quyền lợi tốt nhất cho khách hàng…Vì vậy, tác giả đã quyết định lựa chọn đề

7
tài “trách nhiệm của người vận chuyển hàng không về những thiệt hại đối với
hành khách trong quá trình vận chuyển” là đề tài luận văn của mình.
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài
Đã có một số công trình nghiên cứu, bài viết về những vấn đề liên quan
đến nội dung trách nhiệm của người vận chuyển hàng không. Tuy nhiên,
những đề tài này hầu hết đều được nghiên cứu từ trước khi luật HKDD năm
2006 của Việt Nam ra đời, ngoài ra vấn đề này cũng không được đặt thành
một đề tài riêng để đi sâu nghiên cứu và làm rõ mà chủ yếu là những tìm hiểu
được phát biểu đan xen trong các đề tài khác có liên quan. Cụ thể:
Trong khóa luận tốt nghiệp của tác giả Lê Văn Lân với đề tài: “Bảo
hiểm trách nhiệm dân sự của hàng không Việt Nam đối với hành lý, hàng hóa
và tư trang của hành khách” tác giả cũng có nêu lên một số quy định của
pháp luật hàng không về trách nhiệm của người vận chuyển về thiệt hại đối
với hành lý, hàng hóa và tư trang của hành khách nhưng đi sâu vào xem xét
về việc bảo hiểm trách nhiệm này và nó cũng chỉ đề cập đến một phần thiệt
hại của hành khách chứ không bao gồm tất cả các thiệt hại hành khách có thể
gặp phải trong quá trình vận chuyển như đề tài: “trách nhiệm của người vận
chuyển hàng không về những thiệt hại xảy ra đối với hành khách trong quá
trình vận chuyển” - thiệt hại mà đề tài này đề cập còn có cả tính mạng, sức
khỏe của hành khách hay trường hợp thiệt hại do vận chuyển chậm.
Tiếp đến trong luận văn thạc sĩ của tác giả Nguyễn Ngọc Thái viết về
đề tài: “Hợp đồng vận chuyển hàng hóa bằng đường hàng không” có đề cập
đến vấn đề trách nhiệm của người vận chuyển nhưng chỉ đối với thiệt hại của

hàng hóa trong hợp đồng vận chuyển hàng hóa thông thường mà thôi.
Ngoài ra có thể kể đến công trình nghiên cứu “một số vấn đề về luật
hàng không”, của PGS.TS Ngô Huy Cương là công trình nghiên cứu và đánh

8
giá một cách đầy đủ và toàn diện về các vấn đề liên quan đến luật hàng
không. Tuy nhiên, vì là một công trình bao quát nên không thể nghiên cứu
một cách chi tiết, sâu rộng về trách nhiệm của người vận chuyển hàng không
về những thiệt hại của hành khách trong quá trình vận chuyển được.
Còn luận văn thạc sĩ luật học của tác giả Trần Thu Hằng viết đúng năm
luật HKDD Việt Nam ra đời – năm 2006 với nội dung “Một số vấn đề pháp lý
về vận chuyển hàng không quốc tế” mặc dù có đề cập chi tiết hơn quy định
của cả pháp luật quốc gia và quốc tế về trách nhiệm của người vận chuyển
hàng không đối với thiệt hại của hành khách trong quá trình vận chuyển
nhưng vẫn còn chưa phân tích được sâu sắc do đó cũng chỉ là một nội dung
nhỏ của đề tài, cũng chưa nêu lên được hạn chế của pháp luật khi quy định về
trách nhiệm này và không có những kiến nghị hoàn thiện pháp luật.
Riêng tác phẩm “Trách nhiệm của người chuyên chở đường biển và
đường hàng không quốc tế”, của tác giả Vũ Sĩ Tuấn đã đi sâu vào nghiên cứu
trách nhiệm của người vận chuyển hàng không nhưng là trách nhiệm chung
chứ không chỉ là trách nhiệm về những thiệt hại của hành khách trong quá
trình vận chuyển và nó được xuất bản năm 2002 khi luật HKDD Việt Nam
năm 2006 chưa ra đời nên thiếu tính thời sự…
Sau khi xem xét thấy tình hình nghiên cứu đề tài liên quan đến trách
nhiệm của người vận chuyển hàng không về những thiệt hại của hành khách
trong quá trình vận chuyển hiện nay là vẫn còn nhiều hạn chế. Trong khi đó
luật hàng không Việt Nam quy định về vấn đề này chưa hoàn thiện vì thế tác
giả cho rằng cần thiết phải có một công trình nghiên cứu độc lập và sâu sắc
hơn về vấn đề này nên đã mạnh dạn lựa chọn đề tài nói trên làm luận văn thạc
sĩ luật học với hi vọng đóng góp được một công trình khoa học hữu ích cho

việc học tập nghiên cứu về sau.
3. Mục đích và nhiệm vụ của đề tài

9
+) Mục đích của đề tài
Với những ý nghĩa đã nêu, mục đích đề tài tác giả xác định cũng để
đảm bảo ý nghĩa của nó.
Thứ nhất, Nghiên cứu một cách có hệ thống vấn đề trách nhiệm của người
vận chuyển hàng không về những thiệt hại xảy ra đối với hành khách trong
quá trình vận chuyển trên phương diện lý luận và thực tiễn;
Thứ hai, Xem xét các quy định của pháp luật quốc tế và trong nước về vấn đề
đó để thấy được mức độ tương thích, sự hình thành và phát triển của những
quy định đó giữa hai hệ thống qua các thời kỳ.
Thứ ba, Từ quá trình nghiên cứu đề xuất các kiến nghị, các giải pháp pháp lý
khi quy định trách nhiệm của người vận chuyển hàng không về những thiệt
hại xảy ra đối với hành khách trong quá trình vận chuyển trong pháp luật Việt
Nam.
+) Nhiệm vụ của đề tài
Từ ý nghĩa và mục đích đề tài đã đặt ra nhiệm vụ của đề tài được xác
định là phải thực hiện được mục đích kể trên làm bật lên được ý nghĩa của đề
tài. Đề tài phải được nghiên cứu và trình bày một cách hệ thống, khoa học và
có chiều sâu. Đề tài phải làm bật lên được tính thời sự và cần thiết của nó,
thực sự là một đề tài có tính ứng dụng vào thực tiễn, có thể trở thành công cụ
cho học tập, nghiên cứu về sau …
4. Phạm vi nghiên cứu của luận văn
Luật HKDD Việt Nam quy định rất nhiều vấn đề xoay quanh các mối quan
hệ pháp lý của hoạt động hàng không dân dụng. Đề tài: trách nhiệm của
người vận chuyển hàng không về những thiệt hại đối với hành khách trong
quá trình vận chuyển – là một đề tài hẹp vì nó chỉ đề cập đến quan hệ trách
nhiệm của người vận chuyển hàng không. Ngay tên đề tài cũng đã thể hiện rõ


10
được phạm vi nghiên cứu của luận văn. Theo đó, luận văn chỉ tập trung xem
xét những vấn đề liên quan đến trách nhiệm của người vận chuyển hàng
không về những thiệt hại xảy ra đối với hành khách trong quá trình vận
chuyển. Cần lưu ý rằng trách nhiệm của người vận chuyển hàng không thì rất
nhiều nhưng trách nhiệm đối với thiệt hại của hành khách trong quá trình vận
chuyển là loại trách nhiệm quan trọng bậc nhất và có rất nhiều điều cần phải
xem xét nghiên cứu. Cụ thể trong luận văn tác giả sẽ đi vào xem xét khái
niệm và một vài đặc điểm của trách nhiệm này bên cạnh đó đi sâu tìm hiểu và
đánh giá những quy định trong pháp luật hiện hành đồng thời đưa ra một vài ý
kiến đóng góp hoàn thiện quy định của pháp luật về trách nhiệm của người
vận chuyển hàng không nói trên.
5. Phƣơng pháp tiếp cận vấn đề
Phương pháp là cách thức sử dụng khi xem xét, nghiên cứu một vấn đề.
Mỗi người khác nhau có thể có cách tiếp cận, đánh giá khác nhau về các vấn
đề nhưng rõ ràng muốn khai thác vấn đề nào đó một cách triệt để thì không
thể tiếp cận nó một cách máy móc, nhìn nhận vấn đề phiến diện cẩu thả được.
Với đề tài đã lựa chọn nêu trên cần vận dụng cả phương pháp chung cũng như
phương pháp chuyên ngành. Cụ thể như phương pháp so sánh, phương pháp
tổng hợp, phân tích, thống kê, điều tra xã hội học…tùy từng khía cạnh vấn đề
mà có sự vận dụng linh hoạt. Về phương pháp so sánh nó được áp dụng khi
xem xét quy định của các văn bản pháp luật hàng không qua các thời kỳ và
văn bản pháp luật hàng không quốc gia với công ước quốc tế. Khi trình bày
các quy định của pháp luật tác giả không dừng lại ở mức tổng hợp các quy
định rồi nêu ra mà còn có những đánh giá phân tích từng điều khoản.Về
phương pháp thống kê, điều tra xã hội học tác giả đã sử dụng khi tìm hiểu một
số vi phạm của người vận chuyển hàng không và hành khách cũng như khi
điều tra mức độ hiểu biết pháp luật hàng không của người sử dụng dịch vụ


11
hàng không…Nói chung khi trình bày các vấn đề giữa các phương pháp cũng
có sự đan xen kết hợp chứ không đơn thuần phân tích chỉ là phân tích, tổng
hợp chỉ là tổng hợp. Đồng thời trong quá trình thực hiện đề tài cũng phải luôn
dựa vào phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật lịch sử, chủ nghĩa duy vật
biện chứng để tiếp cận được toàn diện và sâu sắc hơn mọi mặt của vấn đề.
6. Những đóng góp mới của luận văn
Luận văn đã có những điểm mới sau đây:
- Nêu được khái niệm và đặc điểm trách nhiệm của người vận chuyển
hàng không về những thiệt hại xảy ra đối với hành khách trong quá trình vận
chuyển
- Trình bày đầy đủ có hệ thống các quy định của văn bản pháp luật quốc
tế và trong nước quy định về loại trách nhiệm kể trên.
- Trên cơ sở những so sánh, đánh giá quy định của pháp luật trong nước
qua các thời kỳ và mức độ tương thích giữa những quy định của pháp luật
quốc gia và công ước quốc tế, luận văn đã có một vài kiến nghị sửa đổi quy
định của luật HKDD Việt Nam năm 2006.
7. Kết cấu của luận văn gồm 3 phần: ngoài phần mở đầu và kết luận
nội dung chính gồm 3 chƣơng:
Chƣơng 1: Những vấn đề lý luận về trách nhiệm của người vận chuyển hàng
không về những thiệt hại xảy ra đối với hành khách trong quá trình vận chuyển.
Chƣơng 2: Pháp luật Việt Nam điều chỉnh trách nhiệm của người vận chuyển
hàng không đối với những thiệt hại của hành khách trong quá trình vận chuyển.
Chƣơng 3: Đánh giá quy định pháp luật về trách nhiệm của người vận
chuyển đối với thiệt hại của hành khách trong quá trình vận chuyển và một số
kiến nghị.


12
Chƣơng 1

NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TRÁCH NHIỆM CỦA NGƢỜI VẬN
CHUYỂN HÀNG KHÔNG VỀ NHỮNG THIỆT HẠI XẢY RA ĐỐI VỚI
HÀNH KHÁCH TRONG QUÁ TRÌNH VẬN CHUYỂN

1.1. Khái niệm và đặc điểm trách nhiệm của ngƣời vận chuyển hàng
không về những thiệt hại xảy ra đối với hành khách trong quá
trình vận chuyển.
1.1.1. Khái niệm trách nhiệm của ngƣời vận chuyển hàng không về
những thiệt hại xảy ra đối với hành khách trong quá trình vận
chuyển.
Trách nhiệm của người vận chuyển hàng không về những thiệt hại xảy ra
đối với hành khách trong quá trình vận chuyển là trách nhiệm dân sự và cụ
thể hơn nữa là trách nhiệm bồi thường thiệt hại của người vận chuyển. Trước
khi tìm hiểu một cách cặn kẽ nội dung của trách nhiệm này cần phải hiểu rõ
một số khái niệm liên quan đến phạm vi vấn đề sau đây:
Thứ nhất, khái niệm trách nhiệm BTTH: theo quy định của pháp luật Việt
Nam hiện hành thì trách nhiệm BTTH được BLDS năm 2005 quy định tại Điều
307 về trách nhiệm BTTH nói chung và chương XXI về trách nhiệm BTTH
ngoài hợp đồng. Tuy nhiên, trong cả hai phần này đều không nêu rõ khái niệm
trách nhiệm BTTH mà chỉ nêu lên căn cứ phát sinh trách nhiệm, nguyên tắc bồi
thường, năng lực chịu trách nhiệm, thời hạn hưởng bồi thường…
Tiếp cận dưới góc độ khoa học pháp lý đã cho thấy rằng mỗi người sống
trong xã hội đều phải tôn trọng quy tắc chung của xã hội, không thể vì lợi ích
của mình mà xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của người khác. Khi
một người vi phạm nghĩa vụ pháp lý của mình gây tổn hại cho người khác thì

13
chính người đó phải chịu bất lợi do hành vi của mình gây ra. Sự gánh chịu
một hậu quả bất lợi bằng việc bù đắp tổn thất cho người khác được hiểu là bồi
thường thiệt hại.

Như vậy, có thể hiểu trách nhiệm BTTH là một hình thức của trách nhiệm
dân sự mà theo đó thì khi một người vi phạm nghĩa vụ pháp lý của mình gây
tổn hại cho người khác phải bồi thường những tổn thất mà mình gây ra.
Thứ hai, khái niệm người vận chuyển hàng không: người vận chuyển hàng
không bao gồm người vận chuyển hàng không phát hành vận đơn hàng không
và tất cả những người vận chuyển trực tiếp hoặc cam kết vận chuyển hàng hóa
hoặc thực hiện bất kỳ các dịch vụ nào khác liên quan đến việc vận chuyển. Hay
nói cách khác người vận chuyển hàng không là người xuất vé và tất cả các
người vận chuyển hàng không vận chuyển và cam kết vận chuyển hành khách
và hành lý của hành khách hoặc thực hiện hay cam kết thực hiện các dịch vụ
khác liên quan đến việc vận chuyển bằng đường không đó. [18]
Thứ ba, khái niệm hành khách: hành khách ở đây được hiểu là bất kỳ
người nào, ngoại trừ tổ bay, được vận chuyển hoặc sẽ được vận chuyển trên
tàu bay với sự đồng ý của người vận chuyển.
Thứ tƣ, khái niệm hành lý: hành lý được hiểu là những vật phẩm, đồ dùng
và tư trang của hành khách được xem là cần thiết hoặc thích hợp cho việc
mang, sử dụng, cho sự thoải mái hoặc tiện lợi trong chuyến đi. Trừ khi được
xác định khác đi, hành lý bao gồm hành lý ký gửi và hành lý xách tay của
hành khách. Trong đó, hành lý ký gửi là hành lý của hành khách được chuyên
chở trong tàu bay mà người vận chuyển chịu trách nhiệm bảo quản và xuất
thẻ hành lý; hành lý xách tay là bất kỳ hành lý nào của hành khách không phải
là hành lý ký gửi. Hành lý xách tay được phép mang theo lên cabin máy bay
cùng với hành khách và do hành khách tự bảo quản trong suốt chuyến đi. Liên

14
quan đến khái niệm hành lý còn có khái niệm về thẻ hành lý; vé hành lý; hành
lý miễn cước; hành lý tính cước và vé. Cụ thể:
- Thẻ hành lý: là chứng từ do người vận chuyển ban hành cho các mục
đích: nhận biết hành lý; xác định hành trình của hành lý; xác định tính chất,
trạng thái của hành lý; là cơ sở để hành khách khiếu nại hãng vận chuyển khi

có bất thường xảy ra đối với hành lý.
- Vé hành lý: là phần của vé hành khách và hành lý có liên quan đến việc
vận chuyển hành lý ký gửi của hành khách.
- Hành lý miễn cước: là lượng hành lý mà hành khách được phép mang
theo không phải trả tiền cước phí vận chuyển và hành lý phải tuân thủ các
điều kiện và giới hạn được nêu trong qui định của người vận chuyển.
- Hành lý tính cước: là lượng hành lý vượt quá mức hành lý miễn cước
cho phép. Hành khách phải trả cước phí cho số hành lý vượt quá này theo
phương thức nêu trong qui định của người vận chuyển.
- Vé: là chứng từ được mang tên “vé hành khách và hành lý ký gửi” do
người vận chuyển hoặc người thay mặt người vận chuyển xuất và bao gồm
điều kiện hợp đồng và các bị chú cùng các tờ vận chuyển và tờ hành khách ở
trong đó.
Thứ năm, khái niệm hàng hóa: hàng hóa là bất kỳ thứ gì được chuyên chở
trên máy bay ngoại trừ bưu kiện, hành lý ký gửi hoặc hành lý xách tay mà
người vận chuyển chịu trách nhiệm bảo quản và xuất vận đơn hàng không
(AWB=Air Waybill) (Theo định nghĩa của The Air Cargo Tariff Rules –
TACT – April 1999 issue 48 của IATA). Vận đơn hàng không là chứng từ
dành cho việc vận chuyển hàng hóa. Tất cả hàng hóa được vận chuyển, tất cả
những kiện hàng nào được để trên máy bay dù được trả cước hay không trả
cước đều phải có vận đơn hàng không kèm theo.[18]

15
Thứ sáu, khái niệm tư trang của hành khách: tư trang là những vật dụng
mà hành khách mang theo lên khoang hành khách và được hành khách tự bảo
quản cùng với hành lý xách tay ví dụ như tiền, vàng, giấy tờ tùy thân…
Ngoài những khái niệm trên tác giả cũng thấy cần thiết phải làm rõ cụm từ
“trong quá trình vận chuyển” tức thời hạn trách nhiệm là điều khoản quy định
trách nhiệm của người vận chuyển về mặt thời gian và không gian. Theo đó,
đối với hành lý và hàng hóa giai đoạn được vận chuyển bằng tầu bay ở đây

bao gồm toàn bộ thời gian mà hành lý và hàng hóa nằm trong sự bảo quản của
người vận chuyển không kể nó ở tại sân bay, trên tầu bay, hay trong trường
hợp tầu bay hạ cánh ở ngoài sân bay hoặc ở bất kỳ nơi nào khác. Việc vận
chuyển bằng tầu bay không bao gồm việc vận chuyển bằng đường bộ, đường
biển, hay đường sông, nhưng nếu việc vận chuyển đó là việc thực hiện hợp
đồng vận chuyển hàng không, nhằm mục đích lấy hàng, giao hàng hay chuyển
tải, thì bất kỳ thiệt hại nào cũng được coi là xảy ra trong khi vận chuyển hàng
không.
Đối với hành khách, người vận chuyển phải chịu trách nhiệm về những
thiệt hại thân thể của họ xảy ra trên tầu bay hay trong toàn bộ phạm vi hoạt
động nhằm lấy khách và trả khách. Hoạt động nhằm lấy khách và trả khách
phải được hiểu là từ thời điểm hành khách bước ra sân đậu để lên tầu bay
(hoạt động lấy khách) và từ thời điểm hành khách bước ra khỏi tầu bay cho
đến khi ra khỏi sân đậu (hoạt động trả hành khách); hoặc từ thời điểm hành
khách bước ra khỏi đường ống để vào nhà ga (trả khách), trừ khi người vận
chuyển có cam kết đặc biệt. [18]
1.1.2. Đặc điểm trách nhiệm của ngƣời vận chuyển hàng không đối với
những thiệt hại của hành khách trong quá trình vận chuyển.

16
Trách nhiệm của người vận chuyển hàng không đối với những thiệt hại
của hành khách trong quá trình vận chuyển cũng là một loại trách nhiệm dân
sự nên nó cũng có những đặc điểm chung của trách nhiệm dân sự là do luật
dân sự điều chỉnh; luôn mang đến hậu quả bất lợi cho người bị áp dụng; được
đảm bảo thực hiện bằng cưỡng chế nhà nước; được cấu thành bởi các yếu tố
lỗi, hành vi vi phạm, thiệt hại thực tế, mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và
thiệt hại xảy ra…Đồng thời trong phạm vi là trách nhiệm của người vận
chuyển hàng không nó cũng mang những đặc điểm riêng biệt sau:
Thứ nhất, trách nhiệm của người vận chuyển hàng không được điều chỉnh
bởi các công ước quốc tế về vận chuyển hàng không, luật hàng không dân

dụng và các văn bản liên quan. Trong các văn bản này vấn đề trách nhiệm của
người vận chuyển hàng không đối với thiệt hại của hành khách trong quá trình
vận chuyển được quy định khá cụ thể, ví dụ như vấn đề về thời hạn trách
nhiệm; cơ sở của trách nhiệm hay giới hạn trách nhiệm…
Thứ hai, vận chuyển hàng không có thể xảy ra trong phạm vi lãnh thổ một
quốc gia nhưng cũng có thể xảy ra ở nhiều lãnh thổ nên khi phát sinh tranh
chấp liên quan đến trách nhiệm của người vận chuyển hàng không vấn đề cơ
quan nào thuộc quốc gia lãnh thổ nào có thẩm quyền xem xét cũng là một vấn
đề phức tạp và thường được luật pháp mỗi quốc gia quy định rất cụ thể để
tránh phát sinh tranh chấp hay mâu thuẫn về thẩm quyền nó khác với những
loại trách nhiệm đơn thuần chỉ do luật quốc gia điều chỉnh.
Thứ ba, Do đặc tính của việc vận chuyển trên không nên khách hàng của
người vận chuyển phải tuân thủ những quy định rất nghiêm ngặt khi sử dụng
dịch vụ vận chuyển này. Vì vậy việc xác định lỗi trong trách nhiệm của người
vận chuyển hàng không thường rất chặt chẽ và là cơ sở quan trọng để người
vận chuyển được miễn giảm trách nhiệm của mình khi có thiệt hại xảy ra với
hành khách.

17
Thứ tƣ, Căn cứ vào những thiệt hại của hành khách trong quá trình vận
chuyển mà người vận chuyển có thể phải chịu trách nhiệm có thể phân loại
trách nhiệm của người vận chuyển gồm có:
- Trách nhiệm của người vận chuyển phát sinh do việc gây thiệt hại đến
sức khỏe, tính mạng của hành khách.
- Trách nhiệm của người vận chuyển phát sinh do gây hư hỏng, thiếu hụt,
mất mát hành lý, hàng hóa của hành khách.
- Trách nhiệm của người vận chuyển phát sinh do vận chuyển chậm hành
khách; hành lý, hàng hóa của hành khách.
- Trách nhiệm của người vận chuyển với thiệt hại về hành lý (tài sản)
hành khách tự trông giữ.

Thứ năm, trách nhiệm của người vận chuyển hàng không được quy định
giới hạn rất rõ ràng và có đơn vị tính đặc biệt. Ví dụ: ở Việt Nam mức giới hạn
bồi thường thiệt hại về tính mạng, sức khỏe của hành khách là một trăm nghìn
đơn vị tính toán cho mỗi hành khách. Đơn vị tính toán này là đơn vị tiền tệ do
quỹ tiền tệ thế giới xác định và được quy ước là quyền rút vốn đặc biệt.
Thứ sáu, vận chuyển hàng không thường ít xảy ra rủi ro nhưng khi xảy ra
rủi ro thì hậu quả lại vô cùng nghiêm trọng vì vậy để đảm bảo thực hiện trách
nhiệm của người vận chuyển pháp luật đã quy định bắt buộc người vận
chuyển phải mua bảo hiểm trách nhiệm bồi thường thiệt hại đối với tính
mạng, sức khỏe của hành khách, việc mất mát, thiếu hụt, hư hỏng hành lý
hàng hóa và do vận chuyển chậm hoặc thực hiện các biện pháp bảo đảm khác
đến mức giới hạn trách nhiệm của người vận chuyển…
Tóm lại, trên đây chính là sáu đặc điểm cơ bản khác biệt của trách nhiệm
của người vận chuyển hàng không về những thiệt hại đối với hành khách
trong quá trình vận chuyển so với các loại hình trách nhiệm dân sự khác.

18
1.2. Cơ sở của trách nhiệm của ngƣời vận chuyển hàng không về những
thiệt hại xảy ra đối với hành khách trong quá trình vận chuyển.
1.2.1. Các thành tố của cơ sở
Trách nhiệm của người vận chuyển hàng không về những thiệt hại xảy ra
đối với hành khách trong quá trình vận chuyển đã được quy định cụ thể trong
các văn bản pháp luật quốc tế cũng như trong nước. Trải qua thời gian nội
dung này còn được sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với thực tiễn khách quan.
Đầu tiên phải kể đến là hệ thống công ước Vácsava - cơ sở pháp lý quan
trọng điều chỉnh việc giải quyết và thực hiện trách nhiệm dân sự trong vận
chuyển hàng không quốc tế.
Theo công ước Vácsava năm 1929, người vận chuyển chịu trách nhiệm đối
với hành khách trong trường hợp họ bị chết, bị thương hoặc bị hủy hoại thân
thể. Đồng thời, người vận chuyển cũng phải chịu trách nhiệm trong vận

chuyển hàng hóa, hành lý nếu xảy ra thiệt hại mất mát, hư hỏng, hủy hoại
trong quá trình vận chuyển. Trong trường hợp vận chuyển chậm trễ , người
vận chuyển hàng không cũng phải chịu trách nhiệm bồi thường nếu phát sinh
thiệt hại.
Sau công ước Vácsava năm 1929, xuất hiện một loạt các điều ước quốc tế
bổ sung và thay đổi công ước này như nghị định thư Lahay năm 1955; công
ước bổ sung Guadalajara năm 1961; nghị định thư Guatemala năm 1971 và
bốn nghị định thư Montreal 1975. Trong hệ thống công ước Vácsava quy định
trách nhiệm giới hạn của người vận chuyển (giới hạn bồi thường cao nhất).
Điều này thể hiện quan điểm và chính sách bảo hộ đặc thù của các quốc gia
đối với các hãng hàng không quốc gia của mình. Trách nhiệm của người vận
chuyển hàng không là trách nhiệm dựa trên cơ sở lỗi; thủ tục và trình tự bồi
thường thiệt hại cũng được quy định trong hệ thống này.

19
Ở nước ta, luật hàng không dân dụng Việt Nam cũng đã được ban hành để
điều chỉnh một số vấn đề pháp lý liên quan đến vận chuyển hàng không. Luật
hàng không dân dụng Việt Nam ra đời lần đầu tiên vào năm 1991; năm 1995
thì được sửa đổi và bổ sung. Hiện nay, luật năm 1991 đã được thay thế bằng
luật hàng không dân dụng năm 2006, bao gồm 10 chương với 202 điều. Trong
đó, chương VII quy định về trách nhiệm dân sự và cũng đặt ra các vấn đề về
thời hạn trách nhiệm, cở sở trách nhiệm và giới hạn trách nhiệm của người
vận chuyển hàng không.
Rõ ràng Hệ thống công ước Vácsava và luật hàng không dân dụng Việt
Nam đều cho thấy cơ sở của trách nhiệm là dựa trên những thành tố về thiệt
hại thực tế xảy ra; hành vi vi phạm; quan hệ nhân quả giữa hành vi và thiệt
hại; lỗi.
1.2.2. Thiệt hại
Để xác định trách nhiệm bồi thường là phải có thiệt hại thực tế xảy ra hay
nói cách khác thiệt hại thực tế chính là cơ sở đầu tiên của trách nhiệm bồi

thường. Đó có thể là thiệt hại về tính mạng, sức khỏe của hành khách; thiệt
hại do mất mát, thiếu hụt, hư hỏng hành lý hàng hóa của hành khách hay thiệt
hại do vận chuyển chậm hành khách, hành lý và hàng hóa Những thiệt hại
này đều được quy định cụ thể trong công ước Vácsava năm 1929 cũng như
luật hàng không dân dụng Việt Nam các thời kỳ. Cụ thể:
Công ước Vácsava, điều 17 quy định: “Người chuyên chở phải chịu trách
nhiệm về thiệt hại xảy ra trong trường hợp hành khách chết hoặc bị thương
hoặc bất kỳ thương tích về thân thể nào của hành khách, nếu tai nạn gây ra
thiệt hại xảy ra ở máy bay hoặc quá trình lên xuống máy bay.”

20
Điều 18, khoản 1: “Người chuyển chở phải chịu trách nhiệm về thiệt hại
xảy ra trong trường hợp hàng hóa, hoặc hành lý ký gửi bị phá hủy hay mất
mát, hư hỏng nếu sự việc xảy ra trong quá trình chuyển chở hàng không”.
Điều 19: “ Người vận chuyển phải chịu trách nhiệm về thiệt hại do chậm
trễ xảy ra trong quá trình vận chuyển hành khách, hành lý và hàng hóa.”
Những cơ sở này cũng được quy định tương tự trong luật hàng không dân
dụng Việt Nam năm 2006 tại Chương VII, điều 160 về bồi thường thiệt hại
cho hành khách; điều 161 bồi thường thiệt hại đối với hàng hóa, hành lý; điều
164 bồi thường thiệt hại do vận chuyển chậm.
Điều cần lưu ý ở đây chính là việc xác định thiệt hại thực tế, thế nào là
thiệt hại thực tế? thiệt hại thực tế khác với thiệt hại được kê khai như thế nào?
Có nhiều trường hợp khi ký gửi hành lý và hàng hóa hành khách đã làm thủ
tục kê khai giá trị của hành lý và hàng hóa đó. Khi xảy ra thiệt hại thì giá trị
đã kê khai này được sử dụng để xem xét thiệt hại thực tế của hành khách.
Thiệt hại thực tế có thể chính là thiệt hại đã được hành khách kê khai nhưng
cũng có thể không phải vì có nhiều trường hợp hành khách kê khai giá trị
hành lý, hàng hóa ký gửi của mình cao hơn giá trị thực tế của chúng vì một
vài lý do nào đó. Tất nhiên việc chứng minh giá trị hành lý, hàng hóa đã được
kê khai cao hơn giá trị thiệt hại thực tế sẽ thuộc về người vận chuyển để họ

được hưởng việc bồi thường theo đúng thiệt hại thực tế, nếu người vận
chuyển không chứng minh được thì rõ ràng họ phải bồi thường theo giá trị
hành khách đã kê khai trước khi có thiệt hại xảy ra và tất nhiên là khoản bồi
thường sẽ không vượt quá giới hạn bồi thường theo luật định. Như vậy,
nguyên tắc bồi thường theo thiệt hại thực tế là nguyên tắc được áp dụng khi
xảy ra thiệt hại của hành khách trong quá trình vận chuyển của người vận
chuyển hàng không.

21
1.2.3. Vi phạm
Hoạt động của tàu bay là một nguồn nguy hiểm cao độ bởi nó di chuyển
trong không gian nơi mà nó không thể dừng chuyển động một cách đột ngột
và bản thân nó không có sự ràng cứng với môi trường khí quyển , vậy nên
việc thực hiện một cách nghiêm ngặt các quy định về giao thông hàng không
là một nguyên tắc bắt buộc và hết sức cần thiết đó không chỉ là nghĩa vụ của
hành khách mà ngay cả người vận chuyển. Rõ ràng người vận chuyển hàng
không có trách nhiệm đối với những thiệt hại của hành khách khi họ có hành
vi trái pháp luật và gây ra những thiệt hại. Những hành vi đó là gì? Để xác
định những hành vi vi phạm này cần xem xét quy định của một số văn bản
pháp luật. Như ở nước ta luật hàng không dân dụng năm 2006, điều 12 có quy
định về các hành vi bị nghiêm cấm trong hoạt động hàng không dân dụng bao
gồm:
- Sử dụng tàu bay, động cơ tàu bay, cánh quạt tàu bay và các trang bị, thiết
bị hàng không mà không có giấy phép phù hợp;
- Thực hiện nhiệm vụ của nhân viên hàng không mà không có giấy phép,
chứng chỉ phù hợp;
- Thả thiết bị, vật dụng hoặc các vật thể khác vào không trung gây ảnh
hưởng đến an toàn bay, môi trường và dân sinh;
- Bay vào khu vực hạn chế bay, khu vực cấm bay trái quy định;
- Gây nhiễu, chiếm dụng, khai thác trùng lắp các tần số vô tuyến điện dành

riêng cho hoạt động hàng không dân dụng;
- Làm hư hỏng hệ thống tín hiệu, trang bị, thiết bị, đài, trạm thông tin, điều
hành bay, các trang bị, thiết bị khác tại cảng hàng không, sân bay hoặc điều

22
khiển, đưa các phương tiện mặt đất không đáp ứng điều kiện kỹ thuật vào
khai thác tại khu bay;
- Xây dựng công trình kiến trúc, lắp đặt trang bị, thiết bị, trồng cây có khả
năng gây ảnh hưởng đến hoạt động bay và hoạt động của các trang bị, thiết bị
quản lý vùng trời, quản lý hoạt động bay;
- Xây dựng trong khu vực cảng hàng không, sân bay, khu vực lân cận cảng
hàng không, sân bay các công trình hoặc lắp đặt các trang bị, thiết bị gây ra
nhiều khói, bụi, lửa, khí thải hoặc xây dựng trường bắn hoặc các công trình,
lắp đặt các trang bị, thiết bị khác có khả năng ảnh hưởng đến an toàn bay,
hoạt động của các trang bị, thiết bị tại cảng hàng không, sân bay;
- Lắp đặt, sử dụng trong khu vực cảng hàng không, sân bay hoặc khu vực
lân cận cảng hàng không, sân bay các loại đèn, ký hiệu, tín hiệu hoặc các vật
thể ảnh hưởng đến việc tàu bay cất cánh, hạ cánh tại cảng hàng không, sân
bay hoặc việc nhận biết cảng hàng không, sân bay;
- Nuôi, thả chim, gia súc, gia cầm trong khu vực cảng hàng không, sân
bay;
- Can thiệp bất hợp pháp vào hoạt động hàng không dân dụng;
- Đưa vũ khí, chất cháy, chất nổ, các vật phẩm nguy hiểm khác lên tàu bay,
vào cảng hàng không, sân bay và các khu vực hạn chế khác trái quy định;
- Phá hủy, gây hư hại, làm biến dạng, di chuyển vật đánh dấu, vật ngăn
cách, vật ghi tín hiệu, vật bảo vệ tại cảng hàng không, sân bay; làm hư hại các
ký hiệu, thiết bị nhận biết cảng hàng không, sân bay;
- Đe dọa, uy hiếp an toàn bay, gây nguy hiểm đến tính mạng, sức khoẻ, tài
sản của người khác trong tàu bay;


23
- Cạnh tranh không lành mạnh và các hành vi hạn chế cạnh tranh bị cấm
khác.
Hay trong Nghị định của chính phủ số 60/2010/NĐ-CP ngày 03/06/2010
về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực hàng không dân dụng cũng có
nhóm một số vi phạm tại khoản 2, điều 1:
- Vi phạm quy định về tàu bay;
- Vi phạm quy định về cảng hàng không, sân bay;
- Vi phạm quy định về nhân viên hàng không;
- Vi phạm quy định về hoạt động bay;
- Vi phạm quy định về hoạt động vận chuyển hàng không và hàng không
chung;
- Vi phạm quy định về an ninh hàng không.
Hành vi, hình thức và mức xử phạt đối với những vi phạm này đã được liệt
kê cụ thể trong nghị định từ điều 7 đến điều 12. Thông qua những hành vi vi
phạm được quy định cụ thể này cùng với những quy định về trách nhiệm,
nghĩa vụ và quyền của người vận chuyển để xác định yếu tố vi phạm làm phát
sinh trách nhiệm của người vận chuyển đối với thiệt hại của hành khách trong
quá trình vận chuyển bên cạnh các yếu tố khác như thiệt hại, quan hệ nhân
quả và lỗi.
1.2.4. Quan hệ nhân quả
Nói đến quan hệ nhân quả khi đề cập đến trách nhiệm của người vận
chuyển hàng không đối với những thiệt hại của hành khách trong quá trình
vận chuyển là nói đến quan hệ giữa hành vi vi phạm của người vận chuyển và
thiệt hại xảy ra đối với hành khách. Hành vi vi phạm của người vận chuyển và
thiệt hại xảy ra đối với hành khách phải có mối quan hệ sản sinh ra nhau

24
nghĩa là chính những hành vi vi phạm của người vận chuyển đã gây ra thiệt
hại cho hành khách. Nếu không có hành vi đó thì thiệt hại đã không xảy ra.

Quan hệ nhân quả trong trách nhiệm của người vận chuyển hàng không
đối với thiệt hại của hành khách trong quá trình vận chuyển được xác định rõ
khi xem xét yếu tố lỗi của người vận chuyển khi có thiệt hại xảy ra.
1.2.5. Lỗi
Trách nhiệm của người vận chuyển hàng không là trách nhiệm dựa trên cơ
sở lỗi. Rõ ràng bên cạnh việc xác định thiệt hại, hành vi vi phạm và mối quan
hệ nhân quả giữa hành vi vi phạm và thiệt hại nếu không làm rõ được vấn đề
lỗi của người vận chuyển thì cũng không thể quy kết được trách nhiệm cho
họ. Như đã nói ở trên công ước Vácsava quy định rất rõ các trường hợp người
vận chuyển hàng không phải có trách nhiệm đối với hành khách. Tuy nhiên,
công ước cũng quy định người vận chuyển sẽ được miễn trừ trách nhiệm nếu
họ chứng minh được mình (hoặc đại lý của mình) đã áp dụng các biện pháp
cần thiết để tránh thiệt hại hoặc đã không có khả năng áp dụng các biện pháp
như vậy. Điều này có nghĩa rằng trách nhiệm của người vận chuyển phát sinh
dựa trên lỗi giả định của người vận chuyển, thêm vào đó nghĩa vụ chứng minh
không có lỗi thuộc về người vận chuyển. Khi thực hiện quá trình vận chuyển ,
người vận chuyển cũng được miễn trừ trách nhiệm khi có sự hiện diện lỗi của
bản thân người bị thiệt hại; Nếu người vận chuyển chứng minh được thiệt hại
do lỗi của người bị tổn thương gây ra hoặc góp phần gây ra và tòa án coi vụ
tranh chấp đang xét xử là tranh chấp có thể áp dụng quy phạm hiện có của
luật trong nước về vấn đề này thì họ sẽ được miễn hoặc giảm nhẹ một phần
trách nhiệm. Ví dụ hành khách không tuân thủ đúng các yêu cầu bắt buộc của
người vận chuyển như không thắt dây an toàn theo chỉ dẫn. Trong trường hợp
này nếu hành khách bị thương người vận chuyển sẽ được miễn trách nhiệm.

×