Tải bản đầy đủ (.pdf) (110 trang)

Pháp luật về tổ chức bảo hiểm tiền gửi ở Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.29 MB, 110 trang )


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT





NGUYỄN DUY HOÀN







PHÁP LUẬT VỀ TỔ CHỨC BẢO HIỂM TIỀN GỬI
Ở VIỆT NAM





LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC









HÀ NỘI - 2011



ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT




NGUYỄN DUY HOÀN





PHÁP LUẬT VỀ TỔ CHỨC BẢO HIỂM TIỀN GỬI
Ở VIỆT NAM

Chuyên ngành : Luật kinh tế
Mã số : 60 38 50


LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC




Người hướng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Anh Sơn



HÀ NỘI - 2011




MỤC LỤC



Trang

Trang phụ bìa


Lời cam đoan


Mục lục


Danh mục các từ viết tắt


Danh mục các bảng


Danh mục các sơ đồ



MỞ ĐẦU
1

Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BẢO HIỂM TIỀN GỬI
VÀ TỔ CHỨC BẢO HIỂM TIỀN GỬI
7
1.1.
Sự hình thành, phát triển của bảo hiểm tiền gửi
7
1.1.1.
Khái quát về sự hình thành và phát triển bảo hiểm tiền gửi
trên thế giới
7
1.1.2.
Sự hình thành và phát triển của bảo hiểm tiền gửi tại Việt Nam
10
1.2.
Khái niệm, bản chất, mục đích của bảo hiểm tiền gửi
12
1.2.1.
Khái niệm, bản chất của bảo hiểm tiền gửi
12
1.2.1.1.
Khái niệm bảo hiểm tiền gửi
12
1.2.1.2.
Bản chất của bảo hiểm tiền gửi
13
1.2.2.

Mục đích của hoạt động bảo hiểm tiền gửi
14
1.2.3.
Phân biệt bảo hiểm tiền gửi và các loại hình bảo hiểm
thương mại
15
1.3.
Một số vấn đề liên quan đến mô hình tổ chức và hoạt
động bảo hiểm tiền gửi
17
1.3.1.
Về mô hình bảo hiểm tiền gửi
17
1.3.1.1.
Mô hình bảo hiểm tiền gửi tự nguyện và bắt buộc
18
1.3.1.2.
Mô hình chức năng
19
1.3.1.3.
Mô hình tổ chức bảo hiểm tiền gửi
21
1.3.2.
Về hoạt động bảo hiểm tiền gửi
24
1.3.2.1.
Hoạt động thu phí của tổ chức bảo hiểm tiền gửi
24
1.3.2.2.
Về các hoạt động nghiệp vụ bảo hiểm tiền gửi

26
1.3.2.3.
Về cơ chế bảo hiểm tiền gửi
28
1.3.3.
Về sự phối hợp giữa tổ chức bảo hiểm tiền gửi và các cơ
quan liên quan
31
1.3.3.1.
Phối hợp trong việc giám sát hệ thống tài chính
31
1.3.3.2.
Phối hợp trong xử lý đổ vỡ tổ chức tín dụng
33
1.4.
Vai trò của tổ chức bảo hiểm tiền gửi
34
1.4.1.
Đối với người gửi tiền
35
1.4.2.
Đối với tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi và hệ thống tài
chính, ngân hàng
38
1.4.3.
Đối với sự phát triển kinh tế và góp phần ổn định xã hội
39
1.4.4.
Vai trò trong xử lý khủng hoảng tài chính, ngân hàng
39


Chương 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ TỔ CHỨC BẢO HIỂM
TIỀN GỬI Ở VIỆT NAM
47
2.1.
Vị trí pháp lý, chức năng, nhiệm vụ của tổ chức bảo hiểm
tiền gửi
47
2.1.1.
Vị trí pháp lý của tổ chức bảo hiểm tiền gửi
47
2.1.2.
Chức năng, nhiệm vụ của bảo hiểm tiền gửi Việt Nam
57
2.2.
Cơ cấu tổ chức, quản trị điều hành của bảo hiểm tiền gửi
Việt Nam
61
2.2.1.
Cơ cấu tổ chức bộ máy
61
2.2.2.
Quản trị và điều hành của tổ chức bảo hiểm tiền gửi Việt Nam
63
2.2.2.1.
Hội đồng quản trị
63
2.2.2.2.
Ban kiểm soát
65

2.2.2.3.
Tổng giám đốc và bộ máy giúp việc
65
2.3.
Hoạt động của tổ chức bảo hiểm tiền gửi Việt Nam
67
2.3.1.
Cấp và thu hồi Chứng nhận bảo hiểm tiền gửi
67
2.3.2.
Hoạt động kiểm tra
68
2.3.3.
Hoạt động giám sát
70
2.3.4.
Hoạt động xử lý ngân hàng
73
2.3.4.1.
Nghiệp vụ hỗ trợ tài chính
73
2.3.4.2.
Nghiệp vụ chi trả tiền gửi được bảo hiểm
76
2.3.4.3.
Nghiệp vụ thu phí bảo hiểm tiền gửi
77
2.3.4.4.
Về quản lý vốn quỹ
77

2.3.4.5.
Nghiệp vụ tiếp nhận và xử lý
78
2.3.5.
Các hoạt động khác
82
2.3.5.1.
Nghiên cứu ứng dụng
82
2.3.5.2.
Phát triển nguồn nhân lực
82
2.3.5.3.
Hợp tác quốc tế
83
2.3.5.4.
Quản lý tài chính, kiểm soát và kiểm toán nội bộ
83
2.3.5.5.
Quản trị văn phòng, xây dựng cơ sở hạ tầng công nghệ
thông tin
84

Chương 3: CÁC GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ TỔ
CHỨC BẢO HIỂM TIỀN GỬI Ở VIỆT NAM
85
3.1.
Nhu cầu và cơ sở hoàn thiện pháp luật về tổ chức bảo
hiểm tiền gửi
85

3.1.1.
Nhu cầu hoàn thiện pháp luật về tổ chức bảo hiểm tiền gửi
85
3.1.2.
Cơ sở hoàn thiện pháp luật về tổ chức bảo hiểm tiền gửi
86
3.2.
Các giải pháp hoàn thiện pháp luật về tổ chức bảo hiểm
tiền gửi
89
3.2.1.
Về vị trí pháp lý của tổ chức bảo hiểm tiền gửi
89
3.2.2.
Về mô hình tổ chức bảo hiểm tiền gửi
91
3.2.3.
Về hoạt động bảo hiểm tiền gửi
93
3.3.
Ban hành luật bảo hiểm tiền gửi
96

KẾT LUẬN
98

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
99





DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

BHTG
: Bảo hiểm tiền gửi
BHTGVN
: Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam
BKS
: Ban kiểm soát
HĐQT
: Hội đồng quản trị
NHNN
: Ngân hàng nhà nước
QTDND
: Quỹ tín dụng nhân dân
TCTD
: Tổ chức tín dụng
TGĐ
: Tổng giám đốc




Danh mục các bảng

Số hiệu
bảng
Tên bảng
Trang

1.1
Thời gian thành lập BHTG ở một số nước hoặc vùng lãnh
thổ khu vực Châu Á
9
1.2
So sánh mục tiêu thực hiện chính sách công của 3 mô
hình BHTG
20
1.3
So sánh chức năng, nhiệm vụ của 3 mô hình BHTG
21
1.4
Diễn biến khủng hoảng Ngân hàng Northern Rock
40
1.5
Diễn biến khủng hoảng ngân hàng ở Mỹ và một số nước
43
2.1
So sánh về mục tiêu thực hiện chính sách công và chức năng
nhiệm vụ của BHTGVN với 3 mô hình BHTG trên thế giới
59
2.2
So sánh về chức năng, nhiệm vụ của BHTGVN và 03 mô
hình bảo hiểm tiền gửi trên thế giới
60




Danh mục các sơ đồ


Số hiệu
sơ đồ
Tên sơ đồ
Trang
1.1
Phân công giám sát tài chính - ngân hàng ở Mỹ
32
1.2
Vai trò của tổ chức BHTG
35
2.1
Cơ cấu tổ chức bộ máy của bảo hiểm tiền gửi Việt Nam
61
3.1
Các tiêu chí hoàn thiện mô hình tổ chức BHTG
88
3.2
Giải pháp hoàn thiện mô hình tổ chức BHTG tại Việt Nam
89


1
MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Việt Nam đang thực hiện công cuộc đổi mới nền kinh tế nói chung,
lĩnh vực tài chính - ngân hàng nói riêng đang hội nhập quốc tế ngày càng sâu
rộng. Chính phủ đã ký và cam kết việc mở cửa thị trường tài chính, đặc biệt là
sau khi Việt Nam gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), điều đó đặt

ra nhiều cơ hội to lớn nhưng cũng tiềm ẩn những thách thức đối với hệ thống
tài chính - ngân hàng Việt Nam.
Để xây dựng hệ thống tài chính - ngân hàng đủ mạnh, đáp ứng được
nhu cầu vốn cho nền kinh tế và vượt qua được áp lực của sự cạnh tranh,
Chính phủ Việt Nam đã và đang nghiên cứu cải cách hệ thống tài chính - ngân
hàng. Theo đó, tiến trình cổ phần hóa các ngân hàng thương mại nhà nước
được thực hiện mạnh mẽ, tạo sự chủ động và giảm sự can thiệp bằng mệnh
lệnh hành chính vào việc kinh doanh của các tổ chức tín dụng (TCTD), nâng
cao năng lực tài chính, cộng nghệ và sản phẩm dịch vụ của các ngân hàng
trong nền kinh tế thị trường.
Khi nền kinh tế Việt Nam chưa hội nhập sâu rộng thì những tác động
của thị trường tài chính thế giới ảnh hưởng đến nước ta không nhiều, nhưng
từ sau khi hội nhập đến nay, nền kinh tế nói chung, hệ thống tài chính - ngân
hàng nói riêng chịu sự tác động trực tiếp bởi thị trường tài chính thế giới.
Chính vì vậy, bên cạnh những rủi ro truyền thống, hệ thống tài chính - ngân
hàng Việt Nam còn phải đối mặt với những rủi ro mới. Cuộc khủng hoảng tài
chính - ngân hàng vừa qua cho chúng ta bài học về kiểm soát rủi ro, xây dựng
niềm tin công chúng vào hệ thống tài chính - ngân hàng. Đây cũng là yêu cầu
cấp thiết đặt ra cho Nhà nước và Chính phủ sớm hoàn thiện khung pháp luật
về hệ thống giám sát tài chính quốc gia và hoạt động ngân hàng. Hơn nữa, hệ
thống tài chính - ngân hàng được coi là "huyết mạch" của nền kinh tế. Sự bất

2
ổn của hệ thống ngân hàng sẽ gây ra những bất ổn về mặt xã hội. Do vậy, cần
có sự cân bằng giữa sự phát triển mạnh mẽ của hệ thống tài chính - ngân hàng
và sự phát triển ổn định của xã hội. Để đạt được mục tiêu đó, Chính phủ đã sử
dụng công cụ Bảo hiểm tiền gửi (BHTG) để bảo vệ người gửi tiền và góp
phần đảm bảo an toàn hệ thống ngân hàng thông qua các công cụ kiểm soát
rủi ro mà Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam (BHTGVN) thực hiện.
Được thành lập và đi vào hoạt động từ năm 2000, BHTGVN đã chứng

minh được vị trí và vai trò của mình trong việc bảo vệ người gửi tiền, góp
phần ổn định hệ thống tài - ngân hàng và nền kinh tế. Tuy nhiên, trước bối
cảnh hội nhập sâu rộng và đổi mới mạnh mẽ của hệ thống tài chính - ngân
hàng, nhiều quy định pháp luật điều chỉnh lĩnh vực BHTG, đặc biệt là mô
hình tổ chức không còn phù hợp và cần có sự hoàn thiện. Xây dựng Luật
BHTG với mô hình tổ chức BHTG giảm thiểu rủi ro đã trở thành yêu cầu tất
yếu và cấp thiết trong giai đoạn hiện nay.
BHTG là một lĩnh vực mới ở Việt Nam, các văn bản pháp lý điều
chỉnh mô hình tổ chức và hoạt động BHTG tại Việt Nam gồm Nghị định
89/1999/NĐ-CP ngày 01/9/1999 của Chính phủ về BHTG, Nghị định
109/2005/NĐ-CP ngày 24/8/2005 của Chính phủ về sửa đổi, bổ sung một số
điều của Nghị định 89/1999/NĐ-CP, Quyết định 75/2000/QĐ-TTg ngày
28/6/2000 của Thủ tướng Chính phủ ban hành Điều lệ tổ chức và hoạt động
của BHTGVN (Quyết định 75/2000/QĐ-TTg), Quyết định 218/1999/QĐ-TTg
ngày 09/11/1999 của Thủ tướng Chính phủ về việc thành lập BHTGVN và
Thông tư 03/2006/TT-NHNN ngày 25/4/2006 của Ngân hàng nhà nước về
việc hướng dẫn một số nội dung tại Nghị định 89/1999/NĐ-CP và Nghị định
109/2005/NĐ-CP. Những văn bản đó đến nay đã bộc lộ những bất cập trong
việc điều chỉnh mô hình tổ chức và hoạt động BHTG ở nước ta, đặc biệt trong
bối cảnh thị trường tài chính những năm qua phát triển mạnh mẽ và những rủi
ro trong hoạt động ngân hàng ngày càng trở nên phức tạp.

3
Theo Luật Ngân hàng nhà nước (NHNN) đã được Quốc hội khóa 12,
kỳ họp thứ 7 thông qua ngày 16 tháng 6 năm 2010, tại Điều 4, khoản 14 quy
định: "Ngân hàng nhà nước thực hiện quản lý nhà nước về bảo hiểm tiền gửi
theo quy định của pháp luật về bảo hiểm tiền gửi". Như vậy, BHTGVN vẫn là
một tổ chức độc lập theo các quy định pháp luật hiện hành, không thuộc
NHNN. BHTGVN chỉ chịu sự chỉ đạo của NHNN về lĩnh vực BHTG theo
quy định của pháp luật về BHTG. Tuy nhiên, tính độc lập của BHTGVN hiện

nay chưa rõ ràng, BHTGVN là cơ quan quản lý nhà nước hay là doanh nghiệp
nhà nước đặc biệt hoạt động trong lĩnh vực BHTG và có chức năng quản lý
quản lý nhà nước về BHTG? Về mặt tổ chức, cơ quan nào quản lý tổ chức
BHTG… Có thể nói Pháp luật về BHTG ở Việt Nam còn nhiều bất cập, chưa
quy định rõ và đầy đủ mô hình tổ chức, vị trí pháp lý, chức năng nhiệm vụ
của tổ chức BHTG, dẫn đến năng lực hoạt động của BHTGVN còn hạn chế,
đặc biệt là khả năng giám sát an toàn, cảnh báo sớm, tiếp nhận và xử lý tổ
chức tham gia BHTG có vấn đề. Việc xây dựng luật BHTG đã được đưa vào
chương trình xây dựng luật chính thức của Quốc hội năm 2011, khi đó luật
BHTG quy định như thế nào thì BHTGVN thực hiện theo luật BHTG.
Cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới trầm trọng năm 2008 vừa qua cũng
bắt nguồn từ khủng hoảng tài chính - ngân hàng mà nguyên nhân được xác
định là do hậu quả của việc không kiểm soát được rủi ro. BHTG là tổ chức
góp phần phòng ngừa và ngăn chặn rủi ro, nên việc nghiên cứu xây dựng mô
hình tổ chức BHTG đủ mạnh để đảm bảo an toàn cho hoạt động tài chính -
ngân hàng, bảo vệ tốt hơn người gửi tiền và đảm bảo an sinh xã hội là đòi hỏi
khách quan. Vì vậy, hoàn thiện pháp luật về mô hình tổ chức BHTG tại Việt
Nam là một vấn đề quan trọng góp phần xây dựng luật BHTG đạt kết quả,
đảm bảo tốt hơn quyền lợi của người gửi tiền và an toàn hệ thống ngân hàng
Việt Nam.
Trước thực trạng đó, tôi đã chọn đề tài "Pháp luật về tổ chức bảo
hiểm tiền gửi ở Việt Nam" để làm đề tài luận văn thạc sĩ của mình.

4
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Hiện nay, đã có một số nghiên cứu về BHTG như: Pháp luật về bảo
hiểm tiền gửi ở Việt Nam của TS. Lê Thị Thu Thủy, Nhà xuất bản Đại học
Quốc gia Hà Nội, năm 2008. Cuốn chuyên khảo này đã đề cập đến mọi vấn đề
của BHTG như một cuốn giáo trình về BHTG, cung cấp cho bạn đọc nhiều
thông tin quý báu về BHTGVN và thế giới, tuy nhiên công trình này chưa đi

sâu vào từng khía cạnh của BHTG. Một số công trình khác chủ yếu tập trung
vào quy chế pháp lý và hoạt động nghiệp vụ giám sát, kiểm tra, tiếp nhận và
xử lý, phí BHTG, lợi ích của BHTG như: Bảo hiểm tiền gửi - Nguyên lý,
thực tiễn và định hướng, TS. Nguyễn thị Kim Oanh, Nhà xuất bản Lao động
xã hội, tháng 12 năm 2004; Quy chế pháp lý về bảo hiểm tiền gửi tại Việt
Nam, ThS. Lê Thị Thúy Sen, Viện Nhà nước Pháp luật, năm 2008. Ngoài ra
cũng có một số bài viết đăng trên các báo và tạp chí đề cập đến vai trò của tổ
chức BHTG trong việc bảo vệ người gửi tiền và đảm bảo an sinh xã hội. Tuy
nhiên, việc nghiên cứu một cách tổng quát về mô hình tổ chức BHTG tại Việt
Nam trong bối cảnh sau khi Việt Nam gia nhập WTO và đặc biệt sau khủng
hoảng tài chính - ngân hàng vừa qua thì hiện nay chưa có công trình nào.
Trong bối cảnh nước ta đang hoàn thiện hệ thống pháp luật về tài chính - ngân
hàng, trong đó có việc hoàn thiện khung pháp lý liên quan đến tổ chức và hoạt
động BHTG thì việc nghiên cứu đề tài "Pháp luật về tổ chức bảo hiểm tiền
gửi ở Việt Nam" là cần thiết.
Hơn nữa, đây là một lĩnh vực mới ở Việt Nam nên tài liệu tham khảo
trong nước không nhiều, đặc biệt là sách nghiên cứu về vấn đề này hầu như
rất ít. Một số tài liệu tham khảo có thể tìm thấy như các bài viết của các
chuyên gia kinh tế, chuyên gia pháp lý đăng trên các tạp chí nghiên cứu của
ngành ngân hàng và của BHTGVN: Bảo vệ quyền lợi của người gửi tiền theo
pháp luật về BHTG tại Việt Nam - Thực trạng và phương hướng hoàn thiện
GS.TSKH Đào Trí Úc, Thông tin BHTG số 03 tháng 4 năm 2007; Quản lý
nhà nước về bảo hiểm tiền gửi, Đặng Dung, Giám đốc văn phòng luật sư

5
DDZ, Báo điện tử Vietnamnet, ngày 03/3/2010. Tài liệu tham khảo nước
ngoài về BHTG cũng ít vì đây là lĩnh vực mới chưa được nhiều người quan
tâm nghiên cứu, biên dịch.
3. Mục đích, nhiệm vụ của đề tài
Luận văn tập trung nghiên cứu làm rõ hơn nguyên lý, vai trò của tổ

chức BHTG, đánh giá khách quan về thực trạng mô hình tổ chức BHTG tại
Việt Nam. Tìm hiểu các quy định pháp luật liên quan đến tổ chức và hoạt
động BHTG ở một số nước phát triển và trong khu vực để thấy được sự khác
nhau và kinh nghiệm quốc tế về mô hình tổ chức BHTG, trên cơ sở đó có thể
vận dụng vào điều kiện và hoàn cảnh Việt Nam.
Điểm mới của luận văn là bên cạnh việc tập trung nghiên cứu các quy
định của pháp luật hiện hành về tổ chức và hoạt động BHTG tại Việt Nam,
luận văn có sự so sánh, đối chiếu với thông lệ quốc tế. Trên cơ sở đánh giá
khách quan, từ đó đưa ra những đề xuất kiến nghị hoàn thiện pháp luật về mô
hình tổ chức BHTG tại Việt Nam.
Luận văn này có thể làm tài liệu tham khảo trong quá trình xây dựng
luật BHTG cũng như góp phần vào công tác tuyên truyền đến công chúng về
lĩnh vực BHTG tại Việt Nam.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là các nguyên lý hoạt động BHTG,
thực trạng pháp luật về tổ chức BHTG tại Việt Nam. Trên cơ sở đó, nêu ra
những bất cập và hướng hoàn thiện pháp luật về tổ chức BHTG ở Việt Nam.
Phạm vi nghiên cứu: Đề tài tập trung nghiên cứu nguyên lý hoạt động
BHTG, thực trạng các quy định pháp luật hiện hành điều chỉnh mô hình tổ
chức BHTG tại Việt Nam trên cơ sở so sánh, đối chiếu với pháp luật của một
số quốc gia trên thế giới về mô hình tổ chức BHTG.

6
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu đề tài
Luận văn được viết trên cơ sở phương pháp luận chủ nghĩa Mác - Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh và chủ trương, đường lối của Đảng Cộng sản Việt
Nam trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế. Ngoài ra, luận văn cũng kế thừa
có chọn lọc những vấn đề lý luận, thực tiễn được các nhà nghiên cứu đi trước
đã đưa ra, những tài liệu được công bố trên tạp chí, bài viết, bài báo, báo cáo
tổng kết của ngành BHTGVN và các cơ quan từ hoạt động thực tiễn ở Việt

Nam và các tài liệu, các nguồn từ nước ngoài.
Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể sau: thống kê,
so sánh, đối chiếu, phân tích, chứng minh, tổng hợp, quy nạp… để rút ra
những kết luận khoa học của mình.
6. Những kết quả nghiên cứu mới của luận văn
Trong phạm vi nghiên cứu của luận văn này, tôi mong muốn góp phần
làm rõ hơn nguyên lý chung về BHTG, pháp luật về tổ chức BHTG tại Việt
Nam và sau khi nghiên cứu pháp luật về BHTG của một số nước trên thế giới
và tìm hiểu thực tiễn áp dụng tại Việt Nam để từ đó đưa ra những đề xuất kiến
nghị góp phần xây dựng và hoàn thiện pháp luật về tổ chức BHTG tại Việt Nam.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về Bảo hiểm tiền gửi và tổ chức bảo
hiểm tiền gửi.
Chương 2: Thực trạng pháp luật về tổ chức bảo hiểm tiền gửi ở Việt Nam.
Chương 3: Các giải pháp hoàn thiện pháp luật về tổ chức bảo hiểm tiền
gửi ở Việt Nam.

7
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BẢO HIỂM TIỀN GỬI
VÀ TỔ CHỨC BẢO HIỂM TIỀN GỬI

1.1. SỰ HÌNH THÀNH, PHÁT TRIỂN CỦA BẢO HIỂM TIỀN GỬI
1.1.1. Khái quát về sự hình thành và phát triển bảo hiểm tiền gửi
trên thế giới
Xuất phát từ nhu cầu trao đổi vật phẩm làm ra, tiền tệ - phương tiện
thanh toán, trao đổi hàng hóa, dịch vụ ra đời và không ngừng phát huy tác
dụng trong đời sống. Tiền tệ trở thành hàng hóa đặc biệt. Tiếp theo sự ra đời

và phát triển của tiền tệ, kinh doanh ngân hàng đã dần hình thành và không
ngừng phát triển. Hoạt động ngân hàng an toàn trên cơ sở khởi tạo và duy trì
chu kỳ luân chuyển tiền nhịp nhàng - nhận giữ tiền của công chúng, đầu tư
tiền, thanh toán tiền gửi - mang lại lợi ích cho người gửi tiền, cơ hội cho nhà
đầu tư và thịnh vượng xã hội. Yếu tố niềm tin công chúng và sự ổn định trong
kinh doanh doanh ngân hàng là nền tảng cho sự phát triển và đóng góp của
hoạt động ngân hàng đối với thành công của các hoạt động kinh tế, xã hội và
cộng đồng.
Hoạt động tài chính - ngân hàng luôn gắn liền với sự nhạy cảm và
tiềm ẩn rủi ro, vì vậy mỗi quốc gia cần phải có một tổ chức đứng ra bảo vệ
người gửi tiền trong trường hợp ngân hàng xảy ra đổ vỡ để ổn định tình hình
trật tự xã hội. Khi các quốc gia chưa hình thành hệ thống BHTG, thì trong
thực tế, họ đã sử dụng công cụ "bảo hiểm ngầm", có nghĩa là, mặc dù không
cam kết công khai trước công chúng về bảo vệ tiền gửi của họ trong trường
hợp ngân hàng bị đổ vỡ nhưng nếu điều đó xảy ra thì Chính phủ sẽ đứng ra
chi trả tiền gửi cho người gửi tiền. Việc bảo vệ ngầm, không thật sự đem lại
lợi ích quốc gia cũng như không mang lại niềm tin cho công chúng đối với hệ
thống tài chính - ngân hàng, vì vậy hệ thống BHTG công khai đã ra đời.

8
Nguồn gốc ra đời của BHTG gắn liền với việc bảo vệ ngầm, dần
chuyển sang bảo vệ công khai tiền gửi. BHTG được coi là thiết chế đảm bảo
sự an toàn hữu hiệu, như là "chiếc lá chắn cuối cùng" đối với những tình
huống khó khăn nhất của hoạt động ngân hàng, nhằm tạo tâm lý ổn định cho
người gửi tiền và tránh được nguy cơ đổ vỡ ngân hàng do rút tiền hàng loạt tại
các ngân hàng. Như vậy, người gửi tiền sẽ được chi trả một phần hay toàn bộ
tiền gửi khi ngân hàng đổ vỡ, theo hợp đồng hay cam kết công khai. Hoạt
động BHTG công khai được thực hiện đầu tiên ở New York (Mỹ) vào năm
1829 với tên gọi "chương trình bảo hiểm trách nhiệm ngân hàng", nhằm đáp
ứng sự đổ vỡ mang tính chất định kỳ của các ngân hàng Mỹ vào thế kỷ XIX.

Trách nhiệm trong chương trình này muốn đề cập đến tiền gửi ngân hàng và
chứng chỉ huy động tiền gửi. Sau chương trình này ở New york đem lại kết
quả, từ năm 1831 đến 1858 các bang tiếp theo là Vermont, Indiana, Michigan,
Ohia và Iowa đã thành lập được tổ chức BHTG và sự tham gia của các ngân
hàng vào các tổ chức BHTG là tự nguyện.
Mục đích của chương trình này là: Bảo vệ cộng đồng khi có ngân
hàng đổ vỡ, bảo vệ người gửi tiền cá nhân và các tổ chức huy động tiền gửi.
Sau thời gian thử nghiệm thành lập tổ chức BHTG ở một số bang đạt
hiệu quả thì cùng với chính sách ngân hàng tự do ở Mỹ (1886) và cuộc khủng
hoảng kinh tế thế giới (1929 - 1933) đã làm hàng loạt ngân hàng ở Mỹ hoạt
động rất khó khăn và "đỉnh cao là năm 1933 có 4000 ngân hàng thương mại
phải ngừng hoạt động" [20, tr. 18-19]. Trong bối cảnh như vậy, để ứng phó
với tình huống phức tạp nhằm ổn định tình hình kinh tế, chính trị thì phải bảo
vệ người gửi tiền và Chính phủ Mỹ đã quyết định thành lập BHTG Liên bang
(FDIC) năm 1933. FDIC bắt đầu hoạt động ngày 1/4/1934 và đây là mô hình
BHTG công khai đầu tiên trên thế giới. FDIC có vị trí pháp lý độc lập với
Chính phủ, chịu sự kiểm soát trực tiếp của Quốc hội. Tính đến nay, FDIC là
tổ chức BHTG công khai sớm nhất và được đánh giá có nhiều thành công, là
mô hình được nhiều quốc gia tham khảo và vận dụng.

9
Với sự phát triển ngày càng mạnh mẽ của thống tài chính - ngân hàng
trên thế giới, xu thế hội nhập kinh tế quốc tế diễn ra ngày càng sâu rộng, nhu
cầu về bảo vệ người tiêu dùng nói chung và người gửi tiền nói riêng là nhu
cầu đặt ra với bất kể Chính phủ nào. Niềm tin của người gửi tiền là quan trọng
đối với sự phát triển an toàn và lành mạnh của hệ thống tài chính trong thế
giới hiện đại. Với những ưu thế và tính chuyên nghiệp trong việc bảo vệ
người gửi tiền, góp phần đảm bảo sự ổn định của hoạt động tài chính - ngân
hàng, hệ thống BHTG công khai ngày càng phát triển mạnh mẽ trên thế giới.
BHTG được xác định không chỉ bảo vệ người gửi tiền mà còn được khẳng

định như một tiêu chí, đóng vai trò quan trọng trong việc đảm bảo an toàn
hoạt động của TCTD. Đến nay, đã có hơn 100 quốc gia sử dụng hệ thống
BHTG công khai bảo vệ người gửi tiền và hiện nay có nhiều nước, nhất là các
nước đang phát triển thành lập hệ thống BHTG.
Là khu vực có nền kinh tế phát triển năng động nhất thế giới, hệ thống
BHTG ở Châu Á ngày càng phát triển.
Bảng 1.1: Thời gian thành lập BHTG ở một số nước
hoặc vùng lãnh thổ khu vực Châu Á
STT
Tên nước
Thời gian
Chú thích
1
Ấn Độ
1962
Luật BHTG 1961
2
Nhật Bản
1971
Luật BHTG 1971
3
Hàn Quốc
1996
Luật BHTG 1995
4
Philipine
1963
Luật BHTG 1963
6
Malaysia

2005
Luật BHTG 2005
9
Đài Loan
1985
Luật BHTG 1985
10
Việt Nam
2000
Nghị định 89/1999
Nguồn: [41], [42], [43], [44].
Một số nước có hệ thống BHTG nằm trong ngân hàng Trung ương thì
đang có xu hướng tách ra thành cơ quan BHTG độc lập ví dụ: Thái Lan,

10
Lào Còn Trung Quốc, Nga đang chuẩn bị thành lập hệ thống BHTG. Như
vậy, xu hướng thành lập hệ thống BHTG và chuyển đổi mô hình tổ chức
BHTG ở khu vực Châu Á ngày càng diễn ra phổ biến và mạnh mẽ, Việt Nam
cũng nằm trong tiến trình đó.
1.1.2. Sự hình thành và phát triển của bảo hiểm tiền gửi tại Việt Nam
- Bối cảnh trong nước
Vào những năm 1988 - 1990 hàng loạt các hợp tác xã tín dụng đô thị
bị đổ vỡ trên toàn quốc gây ra những bất ổn về kinh tế và chính trị. Đặc biệt là
niềm tin của công chúng đối với hệ thống ngân hàng bị ảnh hưởng nghiêm
trọng. Trong bối cảnh đó, việc lấy lại niềm tin của công chúng đối với hệ
thống tài chính - ngân hàng là yêu cầu quan trọng để tránh tình trạng người
dân có tiền không gửi vào ngân hàng hoặc mua vàng tích trữ tại nhà. Chính
những hành động như vậy đã ảnh hưởng đến quá trình huy động vốn cho sự
phát triển kinh tế đất nước trong những lúc khó khăn. Trước sự đổ vỡ đó, các
cơ quan chức năng rất lúng túng trong việc xử lý vì không biết lấy đâu ra

nguồn tiền để trả cho dân, một bài toán vô cùng khó khăn. Chính phủ, NHNN
đã phải "đau đầu" tìm lời giải để làm sao bảo vệ được quyền lợi của người gửi
tiền, ổn định được tình hình kinh tế, chính trị một cách nhanh chóng. Trước
tình hình đó, rút kinh nghiệm về triển khai mô hình Quỹ tín dụng nhân dân
(QTDND) theo Quyết định 390/QĐ-TTg ngày 27 tháng 7 năm 1993 của Thủ
tướng Chính phủ, thì Quy tắc bảo hiểm trách nhiệm của QTDND đối với
khoản tiền gửi có kỳ hạn đã được ban hành (kèm theo Quyết định số
101/TCQĐ-BH ngày 01/02/1994 của Bộ Tài chính. Theo quyết định này, Bảo
Việt đã triển khai nghiệp vụ BHTG, đây là khởi đầu của chính sách BHTG tại
Việt Nam. Tuy nhiên, hoạt động BHTG do Bảo Việt thực hiện đã thể hiện
những hạn chế về nhiều mặt như: số lượng QTDND tham gia bảo hiểm ít,
"chỉ có 162 quỹ (1995), chiếm 33,22% tổng số dư tiền gửi trong cả nước tại
thời điểm đó. Đến năm 1997 có 370 QTDND tham gia BHTG với số tiền

11
thuộc đối tượng được bảo hiểm là 322 tỷ VND" [20]. Đối tượng tham gia
BHTG thời kỳ này chỉ hạn chế ở QTDND, còn các tổ chức có huy động tiền
gửi khác không tham gia. Hoạt động BHTG do Bảo Việt tiến hành bước đầu
đã đem lại niềm tin cho công chúng vào hệ thống tài chính - ngân hàng. Tuy
nhiên, hoạt động đó không đảm bảo các điều kiện cho sự thành công của một
tổ chức BHTG như: chức năng hạn chế, chỉ thực hiện chi trả khi tổ chức tham
gia BHTG bị đổ vỡ), việc tham gia BHTG là tự nguyện… Vì vậy, hoạt động
đó thiếu tính chuyên nghiệp, không theo thông lệ quốc tế và hiệu quả hoạt
động thấp. Trong khi đó, do thực hiện chính sách mở cửa và phát triển nền
kinh tế thị trường, hệ thống Tài chính - ngân hàng của nước ta bước đầu phát
triển mạnh mẽ và thực hiện đổi mới về nhiều mặt. Chính điều đó cũng làm gia
tăng rủi ro và yêu cầu kiểm soát rủi ro cũng như yêu cầu bảo vệ người gửi tiền
là rất quan trọng đòi hỏi phải có một tổ chức BHTG chuyên nghiệp theo
thông lệ quốc tế.
- Bối cảnh quốc tế

Cuộc khủng hoảng tài chính khu vực Châu Á năm 1997, tuy ảnh
hưởng không nhiều đến nền kinh tế Việt Nam nhưng cũng tác động đến hoạt
động ngân hàng nước ta. Trong quá trình xử lý khủng hoảng tài chính - ngân
hàng thì BHTG là công cụ tài chính được một số Chính phủ ở Châu Á sử
dụng hữu hiệu trong tái cấu trúc hệ thống ngân hàng và lấy lại niềm tin của
công chúng. Nhiều quốc gia nhận thấy vai trò quan trọng của tổ chức BHTG
trong xử lý khủng hoảng tài chính - ngân hàng; đồng thời, cũng thấy xu
hướng phát triển hệ thống BHTG trên thế giới phát triển mạnh mẽ và cũng tác
động đến Việt Nam.
Trước bối cảnh trong nước và quốc tế như vậy, để bảo vệ người gửi
tiền và đảm bảo sự phát triển an toàn, lành mạnh hoạt động tài chính - ngân
hàng, tạo nền tảng cho sự phát triển kinh tế bền vững thì cần có một tổ chức
chuyên nghiệp thực hiện các nghiệp vụ BHTG. Trong xu thế hội nhập sâu

12
rộng với khu vực và trên thế giới, thị trường tài chính của nước ta có nhiều cơ
hội để phát triển nhưng cũng tiềm ẩn nhiều rủi ro và thách thức. Để hạn chế
những rủi ro đó và bảo vệ được người tiêu dùng nói chung và người gửi tiền
nói riêng đòi hỏi sự ra đời của tổ chức BHTG là hết sức cần thiết, đáp ứng
được yêu cầu khách quan của thị trường tài chính cũng như toàn bộ nền kinh
tế. Đồng thời, hoạt động BHTG của Bảo Việt thực hiện đã bộc lộ những hạn
chế, không đảm bảo các yếu tố quyết định sự thành công của một hệ thống
BHTG. Vì vậy, trong khoản 1 Điều 17, Luật TCTD ban hành năm 1997 đã
quy định: "Tổ chức tín dụng có trách nhiệm tham gia tổ chức bảo toàn tiền
gửi hoặc bảo hiểm tiền gửi" (Luật các TCTD, sửa đổi bổ sung năm 2004, tại
khoản 1 Điều 17 vẫn quy định: "Tổ chức tín dụng có trách nhiệm: Tham gia
tổ chức bảo toàn hoặc bảo hiểm tiền gửi, mức bảo toàn và bảo hiểm tiền gửi
do Chính phủ quy định"). Đây là cơ sở quan trọng để tổ chức BHTG ra đời.
BHTG ra đời, khẳng định đó là sản phẩm tất yếu của nền kinh tế thị trường.
Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam được thành lập theo Quyết định

218/1999/QĐ-TTg, hoạt động theo Nghị định 89/1999/NĐ-CP và đi vào hoạt
động từ ngày 7/7/2000. Đây là tổ chức duy nhất triển khai hoạt động BHTG
tại Việt Nam cho đến thời điểm hiện nay. BHTGVN là tổ chức tài chính nhà
nước thực hiện chính sách BHTG, là công cụ tài chính được Chính phủ sử
dụng để thay mặt Chính phủ bảo vệ người gửi tiền và đảm bảo an toàn hệ
thống tài chính - ngân hàng.
1.2. KHÁI NIỆM, BẢN CHẤT, MỤC ĐÍCH CỦA BẢO HIỂM TIỀN GỬI
1.2.1. Khái niệm, bản chất của bảo hiểm tiền gửi
1.2.1.1. Khái niệm bảo hiểm tiền gửi
BHTG là cam kết công khai của tổ chức BHTG đối với tổ chức tham
gia BHTG về việc tổ chức BHTG sẽ chi trả tiền gửi bao gồm: phần gốc và lãi
cho người gửi tiền khi tổ chức tham gia BHTG bị chấm dứt hoạt động và
không có khả năng thanh toán cho người gửi tiền.

13
Tổ chức BHTG: Tổ chức BHTG là đối tác nhận đóng góp tài chính
(phí BHTG) từ tổ chức tham gia BHTG và có trách nhiệm thực hiện chi trả
tiền gửi được bảo hiểm cho người gửi tiền thuộc đối tượng được bảo hiểm tại
tổ chức tham gia BHTG khi tổ chức đó chấm dứt hoạt động và mất khả năng
thanh toán.
Tổ chức tham gia BHTG: Là các ngân hàng và các tổ chức tài chính
phi ngân hàng có hoạt động huy động tiền gửi. Theo thông lệ quốc tế, có hai
xu hướng là các tổ chức này có thể tham gia BHTG một cách bắt buộc hoặc
tự nguyện tùy theo chính sách của mỗi quốc gia, tuy nhiên xu hướng phổ biến
trên thế giới là tham gia bắt buộc.
Người gửi tiền thuộc đối tượng được bảo hiểm: Là khách hàng có
tiền gửi thuộc đối tượng được bảo hiểm tại tổ chức tham gia BHTG. Người
gửi tiền không phải đóng góp tài chính cho tổ chức BHTG nhưng có quyền
yêu cầu tổ chức BHTG thanh toán tiền gửi kể cả gốc và tiền lãi tích lũy trên
tiền gửi đó trong hạn mức chi trả tiền gửi được bảo hiểm của tổ chức BHTG,

có thể là toàn bộ hoặc một phần tiền gửi do chính sách của mỗi quốc gia.
1.2.1.2. Bản chất của bảo hiểm tiền gửi
BHTG cũng mang bản chất chung của các loại hình bảo hiểm khác,
hoạt động theo nguyên lý lấy số đông bù số ít nhưng BHTG hoạt động có tính
chất đặc thù, thể hiện như sau:
- Hoạt động BHTG là hoạt động cung cấp dịch vụ công. Dịch vụ
BHTG là loại hàng hóa mang tính xã hội cao. Việc loại trừ tuyệt đối một cá
nhân, hoặc một tổ chức ra khỏi sự thụ hưởng của dịch vụ BHTG là rất khó
khăn và tốn kém. Chính vì đặc tính không loại trừ thụ hưởng tuyệt đối mà
dịch vụ BHTG được xếp vào loại hàng hóa công không thuần túy. BHTG là
công cụ được Chính phủ sử dụng để thực hiện chính sách công trong lĩnh vực
tài chính - ngân hàng.

14
- Hoạt động của tổ chức BHTG thông thường không vì mục tiêu lợi
nhuận. Chính phủ các quốc gia thành lập hệ thống BHTG nhằm mục đích để
tổ chức này thực hiện chính sách công của nhà nước. Bởi trong thực tế, hoạt
động tài chính - ngân hàng là hoạt động nhạy cảm và có tính lan truyền rất
cao; đồng thời, sự đổ vỡ của hệ thống tài chính - ngân hàng sẽ ảnh hưởng đến
toàn bộ nền kinh tế và gây ra những bất ổn về mặt xã hội. Do đó, Chính phủ
các quốc gia đã sử dụng công cụ tài chính BHTG, nhằm góp phần đảm bảo sự
phát triển an toàn lành mạnh của hệ thống tài chính - ngân hàng.
1.2.2. Mục đích của hoạt động bảo hiểm tiền gửi
Mặc dù mỗi quốc gia có thể thiết kế mô hình tổ chức BHTG khác
nhau nhưng hoạt động BHTG thường có những mục đích cơ bản như sau:
- Mục đích sử dụng công cụ BHTG là nhằm thực hiện chính sách
công, vì vậy chính sách BHTG của các quốc gia, đa số được thiết kế để bảo
vệ số đông người gửi tiền;
- Góp phần đảm bảo hệ thống tài chính - ngân hàng hoạt động lành mạnh,
ổn định và ngăn chặn đổ vỡ ngân hàng thông qua các hoạt động nghiệp vụ;

- Góp phần xây dựng một thị trường tài chính lành mạnh, có tính cạnh
tranh bình đẳng giữa các tổ chức tài chính với quy mô và loại hình phát triển
khác nhau;
- Giảm thiểu gánh nặng cho Chính phủ trong trường hợp xử lý đổ vỡ
của TCTD và điều đó đồng nghĩa với việc giảm gánh nặng cho người dân
đóng thuế trong trường hợp có ngân hàng đổ bể. Bởi nếu, Chính phủ bỏ tiền
ra chi trả cho người gửi tiền trong trường hợp ngân hàng bị đổ bể, tức là lấy
tiền ngân sách ra để gánh vác sự đổ vỡ của TCTD thì không phù hợp với quy
luật của nền kinh tế thị trường. Chính vì vậy, xu hướng của các quốc gia là
không sử dụng ngân sách nhà nước để xử lý đổ vỡ của các TCTD. Đồng thời,
với sự hình thành của hệ thống BHTG, rủi ro sẽ được phân tán đều cho các

15
bên liên quan và điều đó xét về hệ thống tài chính - ngân hàng nói riêng và
trên toàn bộ nền kinh tế nói chung sẽ tạo ra tính ổn định.
1.2.3. Phân biệt bảo hiểm tiền gửi và các loại hình bảo hiểm
thương mại
BHTG và các loại hình bảo hiểm thương mại khác, bên cạnh những
điểm giống nhau thì hoạt động BHTG có những điểm khác biệt, điều đó được
thể hiện như sau:
- Về tính chất hoạt động
Cũng giống như các loại hình bảo hiểm thương mại khác, hoạt động
BHTG mang tính chất chung của hoạt động bảo hiểm tức là dựa trên nguyên tắc
lấy số đông bù số ít. Tuy nhiên, đây là một loại hình mang tính chất đặc thù vì
BHTG là công cụ thực hiện chính sách công với vai trò cơ bản là bảo vệ người
gửi tiền, góp phần đảm bảo sự phát triển an toàn và lành mạnh của hệ thống tài
chính quốc gia. Tính đặc thù của BHTG so với các loại hình bảo hiểm thương
mại khác được thể hiện ở các khía cạnh như: cơ chế bảo hiểm, chủ thể tham gia
bảo hiểm, đối tượng nộp phí, đối tượng được hưởng các quyền lợi bảo hiểm…
- Về cơ chế bảo hiểm

Ở các loại hình bảo hiểm thương mại khác, khi chủ thể tham gia bảo
hiểm thì sẽ xuất hiện mối quan hệ trực tiếp giữa một bên là đối tượng bảo
hiểm và một bên là đối tượng được bảo hiểm. Còn ở BHTG thì khác, mặc dù
người gửi tiền là người được hưởng lợi trực tiếp từ chính sách BHTG nhưng
không xuất hiện mối quan hệ trực tiếp về BHTG giữa người gửi tiền và tổ
chức BHTG trừ trường hợp xảy ra đổ vỡ TCTD.
- Chủ thể tham gia BHTG
Theo xu hướng chung của các nước, bất cứ một TCTD hoặc không phải
là TCTD nhưng có hoạt động huy động tiền gửi của dân cư thì phải tham gia
BHTG bắt buộc. Trách nhiệm đóng phí bảo hiểm thuộc về tổ chức tham gia BHTG.

16
- Đối tượng được hưởng các quyền lợi bảo hiểm
Mặc dù người gửi tiền được hưởng các quyền lợi trực tiếp từ chính
sách BHTG nhưng họ không phải trực tiếp tham gia BHTG. Theo đó, trong
trường hợp tổ chức tham gia BHTG bị giải thể hoặc phá sản thì tổ chức
BHTG sẽ thay mặt Chính phủ đứng ra chi trả tiền gửi được bảo hiểm cho
người gửi tiền theo quy định của pháp luật mỗi quốc gia. Số tiền vượt quá hạn
mức chi trả tiền gửi được bảo hiểm sẽ được nhận trong quá trình thanh lý tổ
chức tham gia BHTG với thứ tự ưu tiên về vị trí chủ nợ theo quy định của
pháp luật về giải thể hoặc phá sản.
- Đối tượng tham gia BHTG
Các TCTD hoặc không phải là TCTD nhưng có hoạt động huy động
tiền gửi của tổ chức hoặc cá nhân là đối tượng tham gia BHTG. Như vậy, chủ
thể tham gia BHTG chỉ giới hạn là các tổ chức hoạt động trong lĩnh vực tài
chính - ngân hàng có huy động tiền gửi. Đối tượng tham gia bảo hiểm của các
loại hình bảo hiểm thương mại là các tổ chức hoặc cá nhân.
- Cơ chế tham gia BHTG
Cơ chế tham gia BHTG thông thường là bắt buộc. Tất cả cả TCTD
hoặc không phải là TCTD được phép thực hiện một số hoạt động ngân hàng

theo quy định của pháp luật mà có nhận tiền gửi của tổ chức hoặc cá nhân
(gọi tắt là tổ chức tham gia BHTG) phải tham gia BHTG bắt buộc, còn đối
với các loại hình khác thì có thể tự nguyện hay thỏa thuận.
- Hình thức pháp lý tham gia
Tham gia BHTG là sự bắt buộc đối với tổ chức tham gia BHTG mà
không thông qua hợp đồng bảo hiểm (theo mô hình BHTG bắt buộc, công
khai). Sở dĩ, không xuất hiện hợp đồng BHTG giữa tổ chức BHTG và các tổ
chức tham gia BHTG vì hợp đồng phải dựa trên cơ sở thỏa thuận, còn mối
quan hệ giữa các chủ thể tham gia BHTG là theo hình thức bắt buộc. Đây là
sự khác biệt tương đối đặc trưng vì không chỉ bảo vệ người gửi tiền mà còn vì

17
sự an toàn lành mạnh trong lĩnh vực tài chính - ngân hàng. Còn ở các loại
hình bảo hiểm thương mại khác là sự thỏa thuận giữa tổ chức bảo hiểm và
người được bảo hiểm, phải thông qua hợp đồng bảo hiểm.
- Nội dung bảo hiểm
Ở BHTG là sự bắt buộc theo những quy định của pháp luật còn ở các
loại hình bảo hiểm khác thì có thể do sự lựa chọn của chủ thể về nội dung
tham gia bảo hiểm.
Ngoài sự khác biệt cơ bản nêu trên, giữa BHTG và các loại hình bảo
hiểm thương mại khác còn có những khác biệt về mô hình tổ chức, về cách
thức tổ chức hoạt động, sản phẩm dịch vụ…
1.3. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LIÊN QUAN ĐẾN MÔ HÌNH TỔ CHỨC VÀ HOẠT
ĐỘNG BẢO HIỂM TIỀN GỬI
1.3.1. Về mô hình bảo hiểm tiền gửi
Nghiên cứu BHTG trên nhiều góc độ khác nhau sẽ cho chúng ta cái
nhìn tổng quan về mô hình tổ chức và mô hình chức năng BHTG.
BHTG ra đời, có BHTG "ngầm" và "công khai". Khi BHTG công khai
chưa ra đời thì BHTG ngầm được các nước áp dụng. Hạn chế của BHTG
ngầm là không công khai, pháp luât không quy định cụ thể, minh bạch về

BHTG và không công khai mức chi trả BHTG. Việc chi trả tiền gửi cho người
gửi tiền được thực hiện thông qua cam kết không công khai của Chính phủ
hay Ngân hàng Trung ương khi có TCTD giải thể hoặc phá sản. Đây là hình
thức sơ khai của BHTG ở mỗi nước và xu thế chung hiện nay là BHTG công
khai. BHTG công khai với quy định về cơ quan có trách nhiệm chi trả tiền
bảo hiểm, phí BHTG, mức chi trả… như là cam kết công khai của Chính phủ
với người gửi tiền trong việc đảm bảo quyền lợi của họ khi một TCTD bị đổ
vỡ. BHTG công khai tăng cường niềm tin công chúng vào hệ thống ngân hàng;
hạn chế chi phí xử lý đổ vỡ và xác định rõ trách nhiệm của cơ quan chức năng
đối với người gửi tiền. Trên thế giới đã có các mô hình BHTG như sau:

×