Tải bản đầy đủ (.pdf) (117 trang)

Bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nhà đầu tư trong Công ty niêm yết ở Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.34 MB, 117 trang )



1

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT








NGUYỄN THỊ THU PHƯƠNG




BẢO VỆ QUYỀN VÀ LỢI ÍCH HỢP PHÁP CỦA
NHÀ ĐẦU TƯ TRONG CÔNG TY NIÊM YẾT Ở
VIỆT NAM






LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC








HÀ NỘI – 2012




2

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT






NGUYỄN THỊ THU PHƯƠNG






BẢO VỆ QUYỀN VÀ LỢI ÍCH HỢP PHÁP CỦA
NHÀ ĐẦU TƯ TRONG CÔNG TY NIÊM YẾT Ở
VIỆT NAM




Chuyên ngành : Luật Kinh tế
Mã số : 60 38 50


LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC




Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS LÊ THỊ THU THỦY
Hà nội – 2012



3

MỤC LỤC



Trang

MỞ ĐẦU

1

Chƣơng 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ PHÁP LUẬT

BẢO VỆ QUYỀN VÀ LỢI ÍCH HỢP PHÁP CỦA NHÀ
ĐẦU TƢ TRONG CÔNG TY NIÊM YẾT

11
1.1
Tổng quan về bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nhà đầu tư
trong công ty niêm yết
11
1.1.1.
Khái niệm, đặc điểm công ty niêm yết và nhà đầu tư chứng
khoán trong công ty niêm yết
11
1.1.1.1.
Khái niệm, đặc điểm công ty niêm yết
11
1.1.1.2.
Khái niệm, đặc điểm nhà đầu tư chứng khoán trong công ty
niêm yết
16
1.1.2.
Khái niệm, đặc điểm, phân loại các quyền và lợi ích hợp pháp
của nhà đầu tư trong công ty niêm yết
18
1.1.3.
Cơ sở của việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nhà đầu
tư trong công ty niêm yết
21
1.1.4.
Ý nghĩa của việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nhà đầu
tư trong công ty niêm yết

22
1.1.5.
Các biện pháp bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nhà đầu tư
trong công ty niêm yết
23
1.2.
Khái quát về pháp luật bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
nhà đầu tư trong công ty niêm yết
25
1.2.1.
Quá trình hình thành và phát triển của pháp luật về bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của nhà đầu tư trong công ty niêm
yết
25
1.2.2.
Nội dung pháp luật về bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
nhà đầu tư trong công ty niêm yết
28
1.2.2.1.
Bảo vệ quyền tham gia thị trường, quyền thực hiện các giao
dịch chứng khoán của nhà đầu tư trong công ty niêm yết
28
1.2.2.2.
Bảo vệ quyền sở hữu tài sản đầu tư của nhà đầu tư trong công
ty niêm yết
30
1.2.2.3.
Bảo vệ quyền được cung cấp thông tin của nhà đầu tư trong
công ty niêm yết
31

1.2.2.4.
Bảo vệ các quyền và lợi ích phát sinh từ quyền sở hữu đối với
tài sản của nhà đầu tư trong công ty niêm yết
36


4


KẾT LUẬN CHƢƠNG 1


41

Chƣơng 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ BẢO VỆ
QUYỀN VÀ LỢI ÍCH HỢP PHÁP CỦA NHÀ ĐẦU TƢ
TRONG CÔNG TY NIÊM YẾT Ở VIỆT NAM

42
2.1.
Bảo vệ quyền tham gia thị trường, quyền thực hiện các giao
dịch chứng khoán của nhà đầu tư trong công ty niêm yết

42
2.2.
Bảo vệ quyền được cung cấp thông tin của nhà đầu tư trong
công ty niêm yết
45
2.3.
Bảo vệ quyền sở hữu tài sản đầu tư của nhà đầu tư trong công

ty niêm yết
55
2.4.
Bảo vệ các quyền và lợi ích phát sinh từ quyền sở hữu đối với
tài sản của nhà đầu tư trong công ty niêm yết
57
2.5.
Nguyên nhân của những vướng mắc trong bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp của nhà đầu tư trong công ty niêm yết
61
2.5.1.
Quản trị công ty niêm yết ở mức sơ khai
61
2.5.1.1.
Trách nhiệm của Hội đồng quản trị chưa tương xứng với quyền
hạn
62
2.5.1.2
Mức độ công khai và minh bạch hóa thông tin chưa đáp ứng
được yêu cầu
68
2.5.1.3.
Chưa kiểm soát được các giao dịch của công ty niêm yết với
các bên có liên quan
70
2.5.1.4.
Kiểm soát nội bộ còn hình thức và kém hiệu quả
72
2.5.2.
Sự bất cập của pháp luật về một số vấn đề khác

74
2.5.3.
Ủy ban chứng khoán Nhà nước chưa có đủ thẩm quyền để bảo
vệ nhà đầu tư
75
2.5.3.1.
Vị thế của Ủy ban chứng khoán Nhà nước chưa tương xứng
với chức năng và nhiệm vụ của mình
76
2.5.3.2.
Ủy ban chứng khoán Nhà nước không có thẩm quyền điều tra
đối với các vi phạm trên thị trường chứng khoán
77
2.5.4.
Ý thức của cổ đông về quyền và lợi ích hợp pháp của mình
chưa cao và chưa đồng nhất
78
2.5.5.
Yếu tố văn hóa – lịch sử
78
2.5.6.
Chưa có khung pháp luật cho hoạt động của tổ chức xếp hạng
tính nhiệm các công ty niêm yết tại Việt Nam
80


KẾT LUẬN CHƢƠNG 2


82



5

Chƣơng 3: NHỮNG GIẢI PHÁP NHẰM HOÀN THIỆN
PHÁP LUẬT VỀ BẢO VỆ QUYỀN VÀ LỢI ÍCH HỢP
PHÁP CỦA NHÀ ĐẦU TƢ TRONG CÔNG TY NIÊM
YẾT Ở VIỆT NAM

83
3.1.
Hoàn thiện pháp luật về quản trị công ty niêm yết
83
3.1.1.
Nâng cao trách nhiệm của Hội đồng quản trị và thành viên Hội
đồng quản trị
83
3.1.2.
Tăng cường công khai, minh bạch hóa thông tin
87
3.1.3.
Tăng cường kiểm soát giao dịch của công ty niêm yết với các
bên có liên quan
89
3.1.4.
Ban kiểm soát hoạt động độc lập
89
3.2.
Hoàn thiện các quy định của pháp luật về bảo vệ quyền và lợi
ích của nhà đầu tư trong công ty niêm yết

91
3.3.
Tăng cường thẩm quyền cho Ủy ban chứng khoán Nhà nước
95
3.4.
Tuyên truyền và giáo dục nhằm nâng cao ý thức của nhà đầu tư
về quyền lợi của mình
97
3.5.
Xây dựng khung pháp luật về tổ chức xếp hạng tín nhiệm đối
với các công ty niêm yết
98




KẾT LUẬN


101

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

103

PHỤ LỤC
106




















6

DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

Thị trường chứng khoán
TTCK
Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước
UBCKNN
Sở giao dịch chứng khoán
SGDCK
Hội đồng quản trị
HĐQT
Ban kiểm soát
BKS






















7

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Thị trường chứng khoán là thị trường vốn bậc cao hoạt động với những
thiết chế phức tạp và chặt chẽ. Thị trường chứng khoán (TTCK) ban đầu phát
triển một cách rất tự phát và sơ khai, xuất phát từ nhu cầu đơn lẻ về trao đổi
hàng hóa. Vào giữa thế kỷ XV, tại những thành phố trung tâm buôn bán ở
Phương Tây, các thương gia thường tụ tập tại các quán cà phê để trao đổi,

mua bán các vật phẩm hàng hoá Lúc đầu chỉ một nhóm nhỏ, sau đó tăng dần
và hình thành một khu chợ riêng. Cuối thế kỷ XV, để thuận tiện cho việc làm
ăn, khu chợ trở thành “thị trường” với việc thống nhất các quy ước và dần dần
các quy ước này được sửa đổi và hoàn chỉnh thành những quy tắc có giá trị
bắt buộc chung cho mọi thành viên tham gia “thị trường”. Phiên chợ đầu tiên
diễn ra tại gia đình của Vanber ở Bruges (Bỉ), tại đó có một bảng hiệu hình ba
túi da với một từ tiếng Pháp là “Bourse” tức là “Mậu dịch thị trường” hay còn
gọi là “Sở giao dịch”, hình 3 túi da tượng trưng cho ba loại giao dịch là: giao
dịch hàng hóa, giao dịch ngoại tệ và giao dịch chứng khoán động sản. Vào
năm 1547, thành phố ở Bruges (Bỉ) mất đi sự phồn thịnh do eo biển Even bị
lấp cát nên mậu dịch thị trường ở đây bị sụp đổ và được chuyển qua thị trấn
Auvers (Bỉ). Ở đây, thị trường phát triển nhanh vào giữa thế kỷ XVI. Sau một
thời gian hoạt động, thị trường không chứng tỏ khả năng đáp ứng được yêu
cầu của ba loại giao dịch khác nhau. Vì vậy, theo tính chất tự nhiên nó lại
được phân ra thành nhiều thị trường khác nhau như: thị trường giao dịch hàng
hoá, thị trường giao dịch hối đoái, thị trường giao dịch các hợp đồng tương lai
và thị trường chứng khoán Quá trình các giao dịch chứng khoán hình thành


8
và diễn ra một cách tự phát như vậy cũng tương tự ở Pháp, Hà Lan, các nước
Bắc Âu, Tây Âu và Bắc Mỹ [8, 65].
Các phương thức giao dịch ban đầu được diễn ra ngoài trời với những
ký hiệu giao dịch bằng tay và có thư ký nhận lệnh của khách hàng. Cho đến
năm 1921, ở Mỹ, khu chợ ngoài trời được chuyển vào trong nhà, Sở giao dịch
chứng khoán (SGDCK) chính thức được thành lập. Với sự phát triển của khoa
học công nghệ, các phương thức giao dịch tại các SGDCK cũng được cải tiến.
Các Sở giao dịch dần sử dụng máy vi tính để truyền các lệnh đặt hàng và
chuyển dần từ giao dịch thủ công kết hợp với máy vi tính sang sử dụng hoàn
toàn hệ thống giao dịch điện tử. Giai đoạn thị trường phát triển một cách tự

phát thì chỉ có các nhà đầu cơ tham gia, dần dần về sau mới có sự tham gia
của công chúng đầu tư. Vào những năm 1875 – 1913, TTCK thế giới phát
triển huy hoàng cùng với sự tăng trưởng của nền kinh tế thế giới lúc đó.
Nhưng rồi đến “Ngày thứ năm đen tối”, tức ngày 29/10/1929, thị trường
chứng khoán Tây Âu, Bắc Âu và Nhật Bản lâm vào khủng hoảng. Mãi cho tới
khi Chiến tranh Thế giới thứ 2 kết thúc, các thị trường này mới dần hồi phục
và phát triển mạnh. Cho tới năm 1987, một lần nữa các TTCK trên thế giới
điên đảo với “Ngày thứ hai đen tối” do hệ thống thanh toán kém cỏi, không
đảm đương được yêu cầu của giao dịch, giá chứng khoán giảm mạnh, gây mất
lòng tin và phản ứng dây chuyền gây nên hậu quả còn nghiêm trọng hơn cuộc
khủng hoảng năm 1929. Gần đây nhất, thị trường chứng khoán các nước
Đông Á, Nga và một số thị trường ở Châu Mỹ cũng đã rơi vào vòng xoáy của
cơn lốc khủng hoảng tài chính tiền tệ, có tính chất lây lan và tạo ra sự suy
giảm ghê gớm của chỉ số giá chứng khoán. Cho đến nay, trên thế giới có
khoảng trên 160 SGDCK phân tán trên khắp các châu lục.
Mặc dù, thị trường chứng khoán được hình thành phát triển từ thế kỷ
XV nhưng các đạo luật đầu tiên về chứng khoán và thị trường chứng khoán


9
chỉ mới ra đời cách đây chưa đầy một trăm năm. Hai đạo luật về chứng khoán
và giao dịch chứng khoán của Mỹ ra đời vào năm 1933 và 1934 là hai đạo
luật đầu tiên trên thế giới về chứng khoán và TTCK. Cho đến nay thì hầu hết
các nước trên thế giới kể cả các nước đang phát triển, các nước có nền kinh tế
đang chuyển đổi cũng đã có Luật Chứng khoán và thị trường chứng khoán
như: Nhật Bản, Úc, Thái Lan, Bungari Ba Lan, Belarus…
Ở Việt Nam, ý nghĩa thực sự của sự ra đời thị trường chứng khoán đã
vượt ra ngoài khuôn khổ là kênh huy động vốn trung và dài hạn cho nền kinh
tế. Hơn thế nữa, nó còn là tiền đề cho quá trình cổ phần hóa các doanh nghiệp
Nhà nước, cải cách chế độ doanh nghiệp theo hướng kinh tế thị trường.

Dấu mốc đầu tiên đánh dấu sự hình thành thị trường chứng khoán nước
ta là Luật Công ty ra đời năm 1990 với quy định cho phép các công ty cổ
phần được phát hành cổ phiếu. Quy định này ra đời cùng với chương trình thí
điểm cổ phần hoá các doanh nghiệp Nhà nước vào năm 1992. Tuy nhiên, do
thiếu cơ sở pháp lý là các văn bản hướng dẫn thi hành nên hoạt động của thị
trường giao dịch chứng khoán còn diễn ra một cách tự phát và chưa có sự
quản lý của Nhà nước.
Sau đó, phải đến ngày 20/7/2000, trường chứng khoán Việt Nam mới
chính thức đi vào hoạt động được đánh dấu bằng sự đi vào hoạt động của
Trung tâm Giao dịch chứng khoán thành phố Hồ Chí Minh (nay là Sở Giao
dịch chứng khoán thành phố Hồ Chí Minh). Năm 2005, Trung tâm Giao dịch
chứng khoán Hà Nội (nay là Sở Giao dịch chứng khoán Hà Nội) triển khai
hoạt động. Để tạo cơ sở pháp lý cho tổ chức và hoạt động của thị trường
chứng khoán, Chính phủ ban hành Nghị định 75/1996/NĐ-CP về tổ chức và
hoạt động của Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước, Nghị định 48/1998/NĐ-CP
ngày 11/7/1998 về chứng khoán và thị trường chứng khoán, sau đó là Nghị


10
định 144/2003/NĐ-CP ngày 28/11/2003 của Chính phủ về chứng khoán và thị
trường chứng khoán (thay thế Nghị định 48). Các văn bản pháp luật này bước
đầu đã tạo được một khuôn khổ pháp lý cho thị trường chứng khoán Việt
Nam hình thành và phát triển dưới sự quản lý của Nhà nước. Tuy nhiên, sau
một số năm hoạt động cho thấy quy mô của thị trường chứng khoán Việt Nam
còn quá nhỏ bé so với tiềm năng phát triển của nền kinh tế và xu hướng hội
nhập quốc tế, chưa đáp ứng được kỳ vọng của Chính phủ là trở thành một
kênh huy động vốn trong nước hữu hiệu cho nền kinh tế bên cạnh thu hút
nguồn vốn đầu tư nước ngoài. Thực tế này xuất phát từ hệ thống pháp luật về
chứng khoán còn thiếu đồng bộ, chưa có Luật Chứng khoán để tạo môi trường
pháp lý thống nhất, đầy đủ, ổn định điều chỉnh mọi hoạt động diễn ra trên thị

trường chứng khoán. Nhận thức được vấn đề đó, ngày 29/6/2006 Quốc hội đã
thông qua Luật Chứng khoán, có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2007. Sau
gần 4 năm đi vào thực hiện, Luật Chứng khoán đã tạo ra khuôn khổ pháp lý
cao, đảm bảo cho một thị trường hoạt động công bằng, công khai, minh bạch,
giúp thị trường phát huy vai trò to lớn đối với nền kinh tế. Tuy nhiên, khi thị
trường chứng khoán phát triển thì một số quy định của Luật Chứng khoán lại
chưa phù hợp với hoạt động của thị trường như: phạm vi áp dụng còn hẹp,
một số quy định chưa rõ ràng, các quy định về thẩm quyền của cơ quan quản
lý còn thiếu linh hoạt. Để giải quyết những vướng mắc trên, ngày 24/11/2010
Quốc hội đã thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Chứng
khoán và có hiệu lực từ ngày 1/7/2011. Dựa trên cơ sở khuôn khổ pháp lý
trên, thị trường chứng khoán nước ta đã có những bước phát triển đáng ghi
nhận. Theo “Báo cáo việc tổng kết công tác chỉ đạo điều hành của Uỷ ban
Chứng khoán Nhà nước năm 2010 và chương trình công tác năm 2011” thì
tính đến hết năm 2010, có 631 công ty đã niêm yết trên hai Sở; trong năm
2010, tổng mức huy động trên thị trường chứng khoán thông qua phát hành cổ


11
phiếu, đấu giá cổ phần hóa và đấu thầu trái phiếu chính phủ đạt 109 nghìn tỷ
đồng (tăng gấp 3 lần so với năm 2009).
Bên cạnh sự phát triển nhanh của thị trường chứng khoán nước ta, yêu
cầu bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các nhà đầu tư trên thị trường trong
đó có các nhà đầu tư trong công ty niêm yết luôn được đặt ra đối với các cơ
quan quản lý nhà nước. Đây cũng là mục tiêu quản lý thị trường chứng khoán
do Tổ chức quốc tế các Uỷ ban chứng khoán (IOSCO) khuyến nghị. Bảo vệ
tốt nhà đầu tư giúp nhà đầu tư an tâm hơn khi bỏ vốn để mua chứng khoán và
dành sự ủng hộ cho các kế hoạch kinh doanh của các công ty niêm yết, ngược
lại các công ty niêm yết thu hút được nhiều vốn, tăng tiềm lực kinh tế, gia
tăng giá trị cổ phiếu và khuyếch trương danh tiếng của mình trên thương

trường. Ở phạm vi toàn thị trường, bảo vệ tốt nhà đầu tư giúp thị trường phát
triển ổn định, an toàn, giảm thiểu được những rủi ro vốn có của thị trường
chứng khoán. Do đó, không chỉ ở thị trường chứng khoán mới nổi như Việt
Nam mà cả các thị trường chứng khoán phát triển khác, các nhà lập pháp luôn
dành sự quan tâm thích đáng tới tiêu chí bảo vệ quyền lợi của các nhà đầu tư
khi đưa ra chính sách phát triển thị trường này.
Để cụ thể hoá Luật Chứng khoán; Luật sửa đổi, bổ sung một số điều
của Luật Chứng khoán; Luật Doanh nghiệp, Bộ Tài chính đã ban hành Điều lệ
mẫu áp dụng cho các công ty niêm yết (kèm theo Quyết định 15/2007/QĐ-
BTC ngày 19/3/2007 của Bộ trưởng Bộ Tài chính) và Quy chế quản trị công
ty áp dụng cho các công ty niêm yết trên Sở Giao dịch chứng khoán/Trung
tâm giao dịch chứng khoán – sau đây gọi tắt là Quy chế quản trị công ty niêm
yết (kèm theo Quyết định 12/2007/QĐ-BTC ngày 13/3/2007 của Bộ trưởng
Bộ Tài chính). Tuy nhiên, thực tế bảo vệ quyền lợi của nhà đầu tư trong các
công ty niêm yết vẫn chưa thực sự hiệu quả. Quyền của cổ đông thiểu số bị
lạm dụng, các nhóm cổ đông có sự phân hoá quyền lực và lợi ích rất sâu sắc,


12
chưa kiểm soát được các giao dịch tư lợi của thành viên quản lý công ty niêm
yết gây thiệt hại cho các nhà đầu tư khác…
Ngày 09/9/2010, Diễn đàn Kinh tế Thế giới (WEF) công bố “Báo cáo
năng lực cạnh tranh toàn cầu 2010 – 2011”, trong đó Việt Nam được thăng
hạng 16 bậc từ vị trí 75/133 lên vị trí 59/139. Mặc dù vậy, có nhiều yếu tố mà
Việt Nam đứng ở gần cuối bảng xếp hạng của WEF trong đó mức độ bảo vệ
nhà đầu tư đứng thứ 133/139 [4]. Chính mức độ bảo vệ nhà đầu thấp cũng là
một yếu tố khiến Việt Nam bị giảm điểm trong xếp hạng môi trường kinh
doanh do Tạp chí Forber công bố mới đây. Ở yếu tố này trong xếp hạng của
Tạp chí Forber, Việt Nam xếp 125/128 nền kinh tế được đưa vào báo cáo [9].
Trong các “Báo cáo Môi trường kinh doanh” do Ngân hàng Thế giới và Quỹ

tiền tệ Quốc tế công bố năm 2009 và năm 2010, Việt Nam thường xuyên
đứng cuối bảng về mức độ bảo vệ nhà đầu tư, đứng thứ 171/183 năm 2009
[10] và 172/183 năm 2010 [11]. Rõ ràng, vấn đề bảo vệ nhà đầu tư trên thị
trường chứng khoán là vô cùng cấp thiết để đảm bảo quyền và lợi ích hợp
pháp của chính các nhà đầu tư - một chủ thể quan trọng và không thể thiếu
của thị trường chứng khoán, đồng thời đảm bảo sự vận hành thị trường chứng
khoán một cách công bằng, hiệu quả; nâng cao thứ hạng quốc tế và cải thiện
hình ảnh của Việt Nam trước con mắt của các nhà đầu tư nước ngoài.
Xuất phát từ thực tiễn nêu trên, tác giả đã chọn đề tài “Bảo vệ quyền và
lợi ích hợp pháp của nhà đầu tư trong công ty niêm yết ở Việt Nam” để làm
luận văn thạc sỹ luật học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Vấn đề bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nhà đầu tư trên thị trường
chứng khoán nói chung trong thời gian gần đây đã được quan nghiên cứu bởi
một số tổ chức quốc tế. Trong số đó, phải kể đến “Báo cáo năng lực cạnh


13
tranh toàn cầu năm 2010 – 2011” của Diễn đàn Kinh tế Thế giới và “Báo cáo
về môi trường kinh doanh” được Ngân hàng Thế giới và Quỹ Tiền tệ Quốc tế
công bố năm 2010. Những nghiên cứu này đánh giá và xếp hạng mức độ bảo
vệ nhà đầu tư dựa trên một số tiêu chí nhất định mà không đi sâu phân tích về
vấn đề bảo vệ nhà đầu tư nói chung và bảo vệ nhà đầu tư trong công ty niêm
yết nói riêng.
Bên cạnh đó, nhiều nhà khoa học trong nước thuộc các lĩnh vực khác
nhau đã dành sự quan tâm nhất định tới vấn đề bảo vệ nhà đầu tư. Đáng chú ý
là công trình nghiên cứu: luận án tiến sỹ: “Bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của nhà đầu tư trên thị trường chứng khoán tập trung ở Việt Nam” của
Hoàng Thị Quỳnh Chi. Trong công trình nghiên cứu này, tác giả đã tập trung
luận giải một số vấn đề lý luận và thực tiễn xung quanh yêu cầu bảo vệ quyền

lợi của nhà đầu tư. Tuy nhiên, các công trình này mới chỉ dừng lại ở việc
nghiên cứu khung pháp lý điều chỉnh hoạt động bảo vệ nhà đầu tư trên thị
trường chứng khoán một cách bao quát, tổng thể. Ngoài ra, một số bài báo và
ấn phẩm đã bắt đầu nghiên cứu về mối quan hệ giữa nhà đầu tư và công ty
niêm yết trong việc bảo vệ nhà đầu tư như: “Bảo vệ nhà đầu tư nhỏ trên thị
trường chứng khoán Việt Nam” của PGS.TS Lê Hoàng Nga, “Bảo vệ quyền
lợi của cổ đông nhỏ: Biết bệnh nhưng chưa tìm thấy thuốc?” của tác giả Hà
Minh… Nhưng các bài báo, ấn phẩm này cũng mới chỉ đề cập đến hoặc
nghiên cứu một số khía cạnh của vấn đề này. Cho đến nay, ở Việt Nam chưa
có một công trình nghiên cứu nào đề cập, đánh giá một cách có hệ thống và
đầy đủ nhất về vấn đề bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nhà đầu tư trong
các công ty niêm yết. Vì vậy, tác giả đã chọn đề tài này để nghiên cứu nhằm
mục đích góp một tiếng nói vào vấn đề bảo vệ nhà đầu tư xét trong các công
ty niêm yết - các tổ chức phát hành cổ phiếu ra công chúng.
3. Phƣơng pháp nghiên cứu


14
Luận văn sử dụng một số phương pháp nghiên cứu cơ bản như sau:
3.1. Phương pháp phân tích, tổng hợp
Phương pháp phân tích được sử dụng để làm rõ các quy định của pháp
luật về quyền và lợi ích của nhà đầu tư trong công ty niêm yết. Trong đó, tập
trung vào các quy định tại Luật Doanh nghiệp; Luật Chứng khoán; Luật sửa
đổi, bổ sung một số điều của Luật Chứng khoán; Quy chế quản trị công ty
niêm yết; Điều lệ mẫu áp dụng cho công ty niêm yết. Ngoài ra, các số liệu
thống kê, một số tình huống nghiên cứu cũng được phân tích trên cơ sở quy
định của pháp luật. Từ sự phân tích này, tác giả sẽ tổng hợp vấn đề để đưa ra
ý kiến, nhận định cho vấn đề được xem xét.
3.2. Phương pháp so sánh
Khi xem xét các quy định của pháp luật về bảo vệ quyền và lợi ích hợp

pháp của nhà đầu tư trong công ty niêm yết, tác giả có so sánh với pháp luật
của một số nước để thấy được những điểm hợp lý hoặc còn bất cập trong việc
điều chỉnh cơ chế bảo vệ nhà đầu tư do các công ty niêm yết thực hiện. Từ đó,
có thể đề ra những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của các quy định đối
với vấn đề này.
Ngoài ra, luận văn còn sử dụng phương pháp thống kê, chủ nghĩa duy
vật biện chứng và chủ duy vật lịch sử.
4. Mục đích và phạm vi nghiên cứu
4.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích của luận văn là nghiên cứu làm sáng tỏ những vấn đề lý luận
và thực tiễn của các quy định pháp lý điều chỉnh hoạt động bảo vệ nhà đầu tư
trong các công ty niêm yết. Trên cơ sở đó, luận văn đề xuất các phương
hướng và giải pháp hoàn thiện pháp luật về bảo vệ nhà đầu tư trong công ty


15
niêm yết, góp phần vào việc đáp ứng tốt hơn yêu cầu hoàn thiện khung pháp
lý về chứng khoán và thị trường chứng khoán tại Việt Nam.
Để đạt được mục đích trên, luận án tập trung giải quyết những nhiệm
vụ cụ thể sau đây:
- Nghiên cứu làm rõ những vấn đề lý luận về pháp luật điều chỉnh các
hoạt động bảo vệ nhà đầu tư trong các công ty niêm yết, phân tích những nội
dung cơ bản của pháp luật Việt Nam hiện hành về bảo vệ nhà đầu tư trong
mối quan hệ với công ty niêm yết.
- Phân tích thực tiễn áp dụng pháp luật về bảo vệ nhà đầu tư trong công
ty niêm yết. Phân tích những yếu tố ảnh hưởng đến thực trạng trên. Đánh giá
những ưu điểm và nhược điểm của pháp luật Việt Nam hiện hành về vấn đề
này, từ đó rút ra những vấn đề cần phải tiếp tục xây dựng và hoàn thiện.
- Đề xuất các quan điểm, phương hướng và những giải pháp cụ thể
nhằm hoàn thiện pháp luật về bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nhà đầu

tư trong công ty niêm yết ở Việt Nam.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu của luận văn chỉ tập trung vào mối quan hệ giữa
nhà đầu tư và công ty niêm yết trong việc bảo vệ nhà đầu tư theo quy định của
Luật Doanh nghiệp; Luật Chứng khoán; Luật sửa đổi, bổ sung một số điều
của Luật Chứng khoán; Quy chế quản trị công ty niêm yết; Điều lệ mẫu áp
dụng cho công ty niêm yết. Luận văn không đề cập đến vấn đề này trong mối
quan hệ giữa nhà đầu tư với các cơ quan quản lý Nhà nước về chứng khoán và
thị trường chứng khoán hoặc giữa nhà đầu tư với các tổ chức kinh doanh dịch
vụ chứng khoán như: công ty chứng khoán, quỹ đầu tư chứng khoán, công ty
quản lý quỹ đầu tư chứng khoán. Bên cạnh đó, khái niệm nhà đầu tư được đề
cập trong luận văn chỉ đề cập đến những người sở hữu cổ phiếu của công ty


16
niêm yết (gắn với quyền sở hữu cổ phiếu là quyền mua cổ phần và chứng
quyền) hay cổ đông công ty; không bao gồm những nhà đầu tư sở hữu trái
phiếu, chứng chỉ quỹ, quyền chọn mua, quyền chọn bán, hợp đồng tương lai,
chỉ số chứng khoán. Do đó, chứng khoán được đề cập đến chỉ là cổ phiếu,
không bao gồm những loại chứng khoán khác.
5. Giới hạn thời điểm nghiên cứu
Các số liệu và quy định của pháp luật về bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của nhà đầu tư trong luận văn được cập nhật đến 30/01/2012.
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,
nội dung của luận văn gồm 3 chương được kết cấu như sau:
Chƣơng 1: Những vấn đề lý luận về pháp luật bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp của nhà đầu tư trong công ty niêm yết
Chƣơng 2: Thực tiễn áp dụng các quy định pháp luật về bảo vệ quyền
và lợi ích hợp pháp của nhà đầu tư trong công ty niêm yết ở Việt Nam

Chƣơng 3: Giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về bảo vệ quyền và
lợi ích hợp pháp của nhà đầu tư trong công ty niêm yết ở Việt Nam









17
Chƣơng 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ PHÁP LUẬT BẢO VỆ QUYỀN VÀ
LỢI ÍCH HỢP PHÁP CỦA NHÀ ĐẦU TƢ TRONG CÔNG TY
NIÊM YẾT
1.1. Tổng quan về bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nhà đầu tƣ trong
công ty niêm yết
1.1.1. Khái niệm, đặc điểm công ty niêm yết và nhà đầu tƣ chứng khoán
trong công ty niêm yết
1.1.1.1. Khái niệm, đặc điểm công ty niêm yết
* Khái niệm công ty niêm yết
Quy chế quản trị công ty niêm yết cho rằng: “Công ty niêm yết được
hiểu là công ty cổ phần được chấp thuận niêm yết cổ phiếu trên Sở giao dịch
chứng khoán/Trung tâm giao dịch chứng khoán trên lãnh thổ Việt Nam” [2,
1]. Theo khái niệm này, công ty niêm yết chỉ là các công ty cổ phần.
Trong khi đó, niêm yết chứng khoán là thủ tục cho phép một chứng
khoán nhất định được phép giao dịch trên Sở giao dịch chứng khoán [8, 151].
Từ khái niệm này cho thấy hai vấn đề: Thứ nhất, chứng khoán được niêm yết
bao gồm: cổ phiếu, trái phiếu, chứng chỉ quỹ, quyền mua cổ phần, chứng

quyền, quyền chọn mua, quyền chọn bán, hợp đồng tương lai, nhóm chứng
khoán hoặc chỉ số chứng khoán. Thứ hai, công ty niêm yết là công ty cổ phần
và công ty trách nhiệm hữu hạn.
Dù có nhiều cách hiểu khác nhau nhưng tựu chung lại, công ty niêm yết
cần được hiểu theo nghĩa rộng. Nó không chỉ là công ty cổ phần (có các loại
chứng khoán được niêm yết) mà còn có thể là công ty trách nhiệm hữu hạn
(có trái phiếu niêm yết) trên Sở giao dịch chứng khoán.


18
* Đặc điểm của công ty niêm yết
Xuất phát từ khái niệm trên, công ty niêm yết có những đặc điểm như
sau:
Thứ nhất, công ty niêm yết là loại hình công ty cổ phần hoặc công ty
trách nhiệm hữu hạn
Nếu công ty niêm yết là công ty cổ phần thì các loại chứng khoán đều
có thể được đưa vào niêm yết tại Sở giao dịch chứng khoán khi có đủ điều
kiện theo quy định của pháp luật. Đối với công ty niêm yết là công ty trách
nhiệm hữu hạn thì loại chứng khoán niêm yết tại Sở giao dịch chỉ là trái
phiếu.
Thứ hai, công ty niêm yết có cổ phiếu được chấp thuận niêm yết, giao
dịch tại Sở giao dịch chứng khoán trên lãnh thổ Việt Nam.
Để được Sở giao dịch chứng khoán chấp thuận niêm yết thì doanh
nghiệp phải đáp ứng được điều kiện niêm yết về vốn, tình hình hoạt động kinh
doanh và được thể hiện trong hồ sơ đăng ký niêm yết. Sau khi được Sở giao
dịch chứng khoán chấp thuận niêm yết, cổ phiếu của doanh nghiệp mới có thể
được tiếp tục mua, bán trên Sở giao dịch theo quy định của pháp luật.
Hoạt động giao dịch cổ phiếu tạo ra nhiều thuận lợi cho doanh nghiệp
niêm yết như: tăng cơ hội thu hút nguồn vốn để đầu tư vào sản xuất, kinh
doanh đồng thời công chúng đầu tư có thêm một kênh đầu tư mới để không

ngừng sinh lời cho đồng vốn của mình.
Từ đặc điểm thứ nhất và thứ hai của công ty niêm yết cho thấy công ty
niêm yết (loại hình công ty cổ phần) thực chất là công ty đại chúng. Hai loại
hình khác của công ty đại chúng là:
- Công ty cổ phần đã thực hiện chào bán cổ phiếu ra công chúng;


19
- Công ty cổ phần có cổ phiếu được ít nhất một trăm nhà đầu tư sở hữu,
không kể nhà đầu tư chứng khoán chuyên nghiệp và có vốn điều lệ đã góp từ
mười tỷ đồng Việt Nam trở lên [14, 12].
Có thể thấy, tính đại chúng đã làm cho công ty niêm yết dễ dàng tiếp
cận được nguồn vốn lớn để thực hiện các kế hoạch sản xuất, kinh doanh.
Thứ ba, công ty niêm yết có quyền và nghĩa vụ theo quy định của
Luật Doanh nghiệp và Luật Chứng khoán.
- Quyền của công ty niêm yết:
Với tư cách là một tổ chức kinh tế, công ty niêm yết được trao rất nhiều
quyền như: Tự chủ kinh doanh; chủ động lựa chọn ngành nghề, địa bàn, hình
thức kinh doanh, đầu tư; lựa chọn hình thức, phương thức huy động, phân bổ
và sử dụng vốn; tự chủ quyết định quan hệ nội bộ…[16, 10].
Ngoài những quyền trên, công ty niêm yết còn được pháp luật cho phép
mua lại cổ phiếu của chính mình [14, 13] và thu hồi lợi nhuận đối với các giao
dịch không công bằng [14, 14]. Quy định này là cần thiết nhằm hạn chế các
giao dịch tư lợi của người điều hành, quản lý công ty có khả năng ảnh hưởng
đến các cổ đông khác đặc biệt là cổ đông nhỏ.
- Nghĩa vụ của công ty niêm yết:
Do cổ phiếu được niêm yết và giao dịch tại thị trường tập trung, do vậy,
công ty niêm yết phải tuân thủ nghiêm túc các nghĩa vụ: Công bố thông tin;
tuân thủ các nguyên tắc quản trị công ty theo quy định của Luật Doanh nghiệp
và Quy chế quản trị công ty niêm yết, Điều lệ mẫu áp dụng cho công ty niêm

yết; thực hiện đăng ký, lưu ký chứng khoán tập trung tại Trung tâm lưu ký
chứng khoán [14, 12]. Việc yêu cầu công ty niêm yết tuân thủ các nghĩa vụ
này hướng tới mục tiêu quan trọng là minh bạch hóa thông tin, bảo vệ quyền
lợi nhà đầu tư.


20
Bên cạnh đó, một số nghĩa vụ khác mà công ty cũng phải thực hiện
trong hoạt động kinh doanh của mình như: Hoạt động kinh doanh theo đúng
ngành, nghề; tuân thủ quy định về kế toán, báo cáo tài chính; bảo đảm quyền
lợi của người lao động trong đơn vị…
Để đảm bảo công ty được thực hiện các quyền và đặc biệt là tuân thủ
đúng các nghĩa vụ như trên, nhiều quy định của Luật Doanh nghiệp; Luật
Chứng khoán; Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Chứng khoán, Quy
chế quản trị công ty niêm yết và Điều lệ mẫu áp dụng cho công ty niêm yết
đồng thời điều chỉnh đối với hoạt động của công ty niêm yết.
Thứ tư, cơ cấu tổ chức nội bộ của công ty niêm yết phức tạp hơn so
với công ty cổ phần
Công ty niêm yết có cơ cấu tổ chức nội bộ giống với công ty cổ phần ở
chỗ công ty có Đại hội đồng cổ đông, Hội đồng quản trị, Giám đốc (Tổng
Giám đốc), Ban kiểm soát. Ngoài ra, theo Quy chế quản trị công ty niêm yết
và Điều lệ mẫu thì công ty niêm yết còn có Thư ký công ty, cán bộ chuyên
trách công bố thông tin và các tiểu ban của Hội đồng quản trị. Cụ thể là:
- Thư ký công ty: Để hỗ trợ cho hoạt động quản trị công ty được tiến
hành một cách có hiệu quả, Hội đồng quản trị phải chỉ định ít nhất một người
làm thư ký công ty. Nhiệm kỳ của thư ký công ty do Hội đồng quản trị quyết
định. Thư ký công ty phải là người có hiểu biết về pháp luật. Thư ký công ty
không được đồng thời làm việc cho công ty kiểm toán hiện đang kiểm toán
công ty. Hội đồng quản trị có thể bãi nhiệm Thư ký công ty khi cần nhưng
không được trái với các quy định pháp luật hiện hành về lao động. Hội đồng

quản trị cũng có thể bổ nhiệm một hoặc nhiều Trợ lý thư ký công ty tuỳ vào
từng thời điểm.


21
- Cán bộ chuyên trách công bố thông tin: Hội đồng quản trị bổ nhiệm ít
nhất một cán bộ chuyên trách công bố thông tin. Cán bộ chuyên trách công bố
thông tin có thể là Thư ký công ty hoặc một cán bộ quản lý kiêm nhiệm.
- Các tiểu ban: Các tiểu ban do Hội đồng quản trị lập ra để hỗ trợ hoạt
động của Hội đồng quản trị bao gồm: tiểu ban chính sách phát triển, tiểu ban
lương thưởng, tiểu ban kiểm toán nội bộ, tiểu ban nhân sự và các tiểu ban đặc
biệt khác theo Nghị quyết của Đại hội đồng cổ đông. Đối với tiểu ban kiểm
toán phải có ít nhất một thành viên là người có chuyên môn về kế toán và
không phải là người làm việc trong bộ phận kế toán tài chính của công ty
(Phụ lục 3).
Thứ năm, công ty niêm yết chịu sự quản lý chủ yếu của Uỷ ban
chứng khoán Nhà nước.
Theo quy định của Luật Doanh nghiệp thì các công ty niêm yết chịu sự
quản lý của Sở Kế hoạch và Đầu tư (thuộc Bộ kế hoạch và Đầu tư). Sở Kế
hoạch và Đầu tư có nhiệm vụ cấp Giấy phép thành lập và hoạt động đồng thời
thực hiện quản lý Nhà nước đối với doanh nghiệp trong suốt quá trình hoạt
động cho đến khi phá sản hoặc giải thể theo quy định của Luật Doanh nghiệp.
Nhưng do tính chất đặc biệt của công ty niêm yết là có chứng khoán
được niêm yết và giao dịch trên Sở giao dịch chứng khoán nên các doanh
nghiệp phải chịu sự quản lý của cơ quan chuyên môn – đó là Uỷ ban chứng
khoán Nhà nước (UBCKNN). Cơ quan này thực hiện chức năng, nhiệm vụ
cấp phép đối với hoạt động chào bán chứng khoán; quản lý, giám sát các giao
dịch. Để thực hiện được nhiệm vụ trên, UBCKNN có hệ thống các cơ quan
giúp việc như Sở Giao dịch chứng khoán Hà Nội và Sở Giao dịch chứng
khoán thành phố Hồ Chí Minh, Trung tâm lưu ký chứng khoán Việt Nam.

Trong đó, hai Sở giao dịch chứng khoán có chức năng tổ chức và giám sát


22
hoạt động giao dịch chứng khoán niêm yết tại các Sở giao dịch [14, 15]. Còn
Trung tâm lưu ký chứng khoán có chức năng tổ chức và giám sát hoạt động
đăng ký, lưu ký, bù trừ và thanh toán chứng khoán [14, 19].
1.1.1.2. Khái niệm, đặc điểm của nhà đầu tƣ chứng khoán trong công ty
niêm yết
* Khái niệm nhà đầu tư chứng khoán trong công ty niêm yết
Theo quan niệm của Luật Chứng khoán thì nhà đầu tư là tổ chức, cá
nhân Việt Nam và tổ chức, cá nhân nước ngoài tham gia đầu tư trên thị trường
chứng khoán [14, 4].
Từ khái niệm trên và phạm vi nghiên cứu của luận văn thì nhà đầu tư
chứng khoán trong công ty niêm yết (sau đây gọi tắt là nhà đầu tư trong công
ty niêm yết) được hiểu là tổ chức, cá nhân Việt Nam và tổ chức, cá nhân nước
ngoài tham gia đầu tư cổ phiếu của các công ty niêm yết trên Sở giao dịch
chứng khoán.
* Đặc điểm của nhà đầu tư chứng khoán trong công ty niêm yết
Nhà đầu tư chứng khoán trong công ty niêm yết có đặc điểm như sau:
- Nhà đầu tư chứng khoán trong công ty niêm yết rất đa dạng. Họ có
thể là đầu tư chuyên nghiệp hoặc nhà đầu tư không chuyên nghiệp; có thể là
tổ chức hoặc cá nhân; có thể là tổ chức, cá nhân trong nước hoặc tổ chức, cá
nhân nước ngoài. Nhà đầu tư chuyên nghiệp được hiểu là những tổ chức có tư
cách pháp nhân, có lợi thế về vốn, am hiểu chuyên môn về chứng khoán và
thường xuyên mua bán chứng khoán với số lượng lớn trên thị trường, đó là:
ngân hàng thương mại, công ty tài chính, công ty cho thuê tài chính, tổ chức
kinh doanh bảo hiểm, tổ chức kinh doanh chứng khoán. Nhà đầu tư không
chuyên nghiệp là các cá nhân, tổ chức khác trong nền kinh tế.



23
Pháp luật chứng khoán không đưa ra những điều kiện cụ thể nào đối
với các nhà đầu tư nhằm khuyến khích tất cả chủ thể có khả năng đầu tư đều
có thể trở thành nhà đầu tư chứng khoán. Tuy nhiên, theo bản chất của quan
hệ dân sự thì nhà đầu tư phải có những điều kiện sau: có đủ năng lực hành vi
dân sự (đối với nhà đầu tư cá nhân) hoặc có tư cách pháp nhân (đối với nhà
đầu tư là tổ chức); có điều kiện về tài chính để tham gia đầu tư chứng khoán
và không bị pháp luật hoặc cơ quan Nhà nước có thẩm quyền cấm đầu tư
chứng khoán.
- Nhà đầu tư nước ngoài bị hạn chế quyền mua cổ phiếu trong một số
lĩnh vực nhất định. Thông qua quy định về tỷ lệ sở hữu cổ phiếu tối đa, nhà
đầu tư nước ngoài bị hạn chế quyền mua cổ phiếu của các công ty niêm yết
hoạt động trong một số ngành nghề như: ngân hàng, chứng khoán Sự hạn
chế này dần được dỡ bỏ một cách có lộ trình theo các cam kết của nước ta khi
gia nhập Tổ chức thương mại thế giới.
- Mục đích của nhà đầu tư khi đầu tư vào công ty niêm yết là tìm kiếm
lợi nhuận. Lợi nhuận kỳ vọng của nhà đầu tư có hai dạng:
Một là, nhà đầu tư có được lợi tức do chứng khoán mang lại. Khoản
tiền này do tổ chức phát hành chứng khoán chi trả dưới dạng cổ tức hoặc lãi
trái phiếu;
Hai là, nhà đầu tư có thể có được thu nhập bằng việc hưởng chênh lệch
từ hoạt động mua, bán chứng khoán trên thị trường.
Trong đầu tư thì lợi nhuận lại luôn gắn với rủi ro, kỳ vọng lợi nhuận
càng cao thì rủi ro càng lớn và ngược lại. Chính vì vậy, các nhà đầu tư cá
nhân luôn phải lựa chọn hình thức đầu tư phù hợp với khả năng và mức độ
chấp nhận rủi ro. Đối với các nhà đầu tư có tổ chức, mức độ rủi ro trong đầu


24

tư chứng khoán thường thấp hơn so với các nhà đầu tư cá nhân do các quyết
định đầu tư được thực hiện bởi chuyên gia có chuyên môn và kinh nghiệm.
1.1.2. Khái niệm, đặc điểm, phân loại các quyền và lợi ích hợp pháp của
nhà đầu tƣ trong công ty niêm yết
* Khái niệm quyền và lợi ích hợp pháp của nhà đầu tƣ trong công ty
niêm yết
Khái niệm “quyền” được tìm hiểu dưới nhiều góc độ khác nhau. Ở góc
độ ngôn ngữ học: Quyền là điều mà pháp luật hoặc xã hội công nhận cho
được hưởng, được làm, được đòi hỏi [18, 786]. Ở góc độ pháp lý, quyền là
những việc mà một người được làm mà không bị ai ngăn cản, hạn chế. Phân
loại quyền gồm có: 1. Quyền đương nhiên như quyền làm người, quyền được
sống, quyền được tự do, quyền mưu cầu hạnh phúc; 2. Quyền do luật pháp
cho phép làm hoặc luật pháp không cấm làm (quyền pháp lý); 3. Quyền do
điều lệ của tổ chức chính trị - xã hội, các tổ chức quần chúng cho phép hội
viên được làm; 4. Quyền do người khác uỷ quyền v.v. [17, 395-396].
Từ những khái niệm trên, quyền của nhà đầu tư trong công ty niêm yết
được hiểu là những việc mà nhà đầu tư được làm khi họ sở hữu chứng khoán
của công ty niêm yết.
“Lợi ích” là điều có lợi, điều cần thiết [31]. Ngoài ra, Từ điển tiếng Việt cũng
có cùng khái niệm như trên về lợi ích [26]. Như vậy, lợi ích của nhà đầu tư
trong công ty niêm yết là điều có lợi cho nhà đầu tư khi họ sở hữu chứng
khoán của công ty niêm yết.
* Đặc điểm của các quyền và lợi ích hợp pháp của nhà đầu tƣ trong công
ty niêm yết


25
Quyền và lợi ích hợp pháp của nhà đầu tư trong công ty niêm yết có
đặc điểm như sau:
Thứ nhất, quyền và lợi ích hợp pháp của nhà đầu tư trong công ty

niêm yết luôn gắn liền với nhà đầu tư.
Trên thị trường chứng khoán, nhà đầu tư bỏ vốn bằng tiền để mua
chứng khoán của các công ty được niêm yết. Bằng cách này, công ty niêm yết
đã huy động và sử dụng được nguồn vốn từ các nhà đầu tư, đổi lại các nhà
đầu tư có quyền sở hữu đối với chứng khoán của chính công ty niêm yết đó.
Dựa trên quyền sở hữu cổ phiếu, các nhà đầu tư được hưởng các quyền và lợi
ích nhất định. Cách thức thực hiện quyền lợi cũng linh hoạt: nhà đầu tư có thể
trực tiếp hoặc uỷ quyền bằng văn bản cho người khác và tổ chức phát hành có
trách nhiệm đảm bảo cho việc thực hiện các quyền lợi này của nhà đầu tư.
Thứ hai, quyền và lợi ích hợp pháp của nhà đầu tư trong công ty
niêm yết phát sinh trong quá trình đầu tư cổ phiếu của công ty niêm yết đó.
Quyền và lợi ích của nhà đầu tư phát sinh kể từ thời điểm nhà đầu tư sở
hữu cổ phiếu của công ty niêm yết, được đảm bảo thực hiện trong suốt thời
gian nhà đầu tư nắm giữ chứng khoán và chấm dứt khi nhà đầu tư chuyển
nhượng chứng khoán cho nhà đầu tư khác hoặc khi công ty mua lại theo yêu
cầu của nhà đầu tư.
Thứ ba, sự đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của nhà đầu tư trong
công ty niêm yết bị tác động bởi rủi ro.
Quyền và lợi ích hợp pháp của nhà đầu tư được pháp luật ghi nhận.
Nhưng trên thực tế, điều này không phải lúc nào cũng diễn ra một cách suôn
sẻ do sự tác động của những rủi ro. Rủi ro của cổ phiếu là tính chất không
chắc chắn trong nguồn lợi tức mà nó mang lại cho người nắm giữ. Theo đó,
cổ phiếu có thể chịu rủi ro hệ thống hoặc rủi ro không hệ thống. Rủi ro hệ

×