1
2
đại học quốc gia hà nội
khoa luật
tạ văn giang
điều hòa lợi ích giữa chủ nợ và con nợ
thông qua thủ tục phá sản ở việt nam
luận văn thạc sĩ luật học
Hà nội - 2011
3
4
đại học quốc gia hà nội
khoa luật
tạ văn giang
điều hòa lợi ích giữa chủ nợ và con nợ
thông qua thủ tục phá sản ở việt nam
Chuyên ngành : Luật kinh tế
Mã số : 60 38 50
luận văn thạc sĩ luật học
Ng-ời h-ớng dẫn khoa học: TS. Bùi Nguyên Khánh
Hà nội - 2011
1
2
MỤC LỤC CỦA LUẬN VĂN
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
MỞ ĐẦU
1
Chƣơng 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ ĐIỀU HÒA
LỢI ÍCH GIỮA CHỦ NỢ VÀ CON NỢ THÔNG QUA THỦ TỤC
PHÁ SẢN
5
1.1.
Phá sản và các chức năng của pháp luật phá sản hiện đại
5
1.1.1.
Khái niệm phá sản
5
1.1.2.
Phân loại phá sản
7
1.1.2.1.
Phá sản trung thực và phá sản gian trá
8
1.1.2.2.
Phá sản tự nguyện và phá sản bắt buộc
8
1.1.2.3.
Phá sản doanh nghiệp và phá sản cá nhân
9
1.1.3.
Lịch sử hình thành và phát triển pháp luật phá sản
10
1.1.3.1.
Sơ khảo sự hình thành và phát triển của Luật phá sản phương Tây
10
1.1.3.2.
Sự hình thành và phát triển của các quy định pháp luật về phá sản ở
Việt Nam
12
1.1.4.
Các chức năng của pháp luật phá sản hiện đại
15
1.1.4.1.
Bảo vệ lợi ích chính đáng của các chủ nợ
17
1.1.4.2.
Bảo vệ lợi ích của con nợ
17
1.1.4.3.
Bảo vệ lợi ích của người lao động
18
1.1.4.4.
Bảo đảm trật tự, an toàn xã hội, góp phần tạo môi trường kinh doanh
lành mạnh
19
1.2.
Nội dung cơ bản của việc điều hòa lợi ích giữa chủ nợ và con nợ
qua thủ tục phá sản
20
1.2.1.
Nhu cầu điều hòa lợi ích giữa chủ nợ và con nợ thông qua thủ tục phá
sản
20
1.2.2.
Các nội dung cơ bản của việc điều hòa lợi ích giữa chủ nợ và con nợ
24
1.2.2.1.
Tối đa hóa việc thu hồi nợ cho các chủ nợ
24
1.2.2.2.
Đưa ra những cơ hội cho việc phục hồi lại con nợ khi mà quyền lợi của
chủ nợ và nhu cầu xã hội có thể được đáp ứng tốt hơn bằng cách duy trì
hoạt động của con nợ chứ không phải là thanh lí sản nghiệp của con nợ
27
1.2.2.3.
Tôn trọng sự tự do ý chí của chủ nợ và con nợ trong việc thỏa thuận
để giải phóng nợ
31
1.2.2.4.
Quy định cách thức đối xử một cách công bằng giữa các chủ nợ
32
1.2.2.5.
Đem tới cơ hội bắt đầu lại cho các con nợ trung thực sau khi bị đổ vỡ
36
Chƣơng 2: THỰC TRẠNG ĐIỀU HÒA LỢI ÍCH GIỮA CHỦ
39
3
4
NỢ VÀ CON NỢ THÔNG QUA THỦ TỤC PHÁ SẢN Ở VIỆT
NAM HIỆN NAY
2.1.
Tố quyền trong thủ tục phá sản
39
2.1.1.
Các chủ thể có quyền yêu cầu mở thủ tục phá sản
39
2.1.2.
Căn cứ phát sinh tố quyền
44
2.2.
Hội nghị chủ nợ
46
2.2.1.
Thành phần tham dự hội nghị chủ nợ
47
2.2.2.
Nội dung của hội nghị chủ nợ
50
2.3.
Điều hòa lợi ích giữa chủ nợ và con nợ thông qua thủ tục phục
hồi
53
2.3.1.
Nội dung của phương án phục hồi
58
2.3.2.
Thực hiện phương án phục hồi và hệ quả pháp lý
63
2.4.
Điều hòa lợi ích giữa chủ nợ và con nợ thông qua thủ tục thanh lí tài sản
67
2.4.1.
Căn cứ mở thủ tục thanh lý tài sản
67
2.4.2.
Các nội dung cơ bản của thủ tục thanh lí
69
2.5.
Hệ quả pháp lí của quyết định tuyên bố phá sản
73
Chƣơng 3: PHƢƠNG HƢỚNG, GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG
CAO HIỆU QUẢ ĐIỀU HÒA LỢI ÍCH GIỮA CHỦ NỢ VÀ
CON NỢ THÔNG QUA THỦ TỤC PHÁ SẢN
77
3.1.
Nhu cầu nâng cao hiệu quả của việc điều hòa lợi ích giữa chủ nợ
và con nợ thông qua thủ tục phá sản
77
3.2.
Phƣơng hƣớng
80
3.3.
Các giải pháp cự thể nhằm nâng cao hiệu quả điều hòa lợi ích
giữa chủ nợ và con nợ thông qua thủ tục phá sản
81
3.3.1.
Các giải pháp lý
81
3.3.1.1.
Tuyên bố xóa nợ cho chủ doanh nghiệp tư nhân và thành viên hợp
danh sau quyết định phá sản
82
3.3.1.2.
Bổ sung các quy định về xử lý đối với từng loại tài sản cụ thể của
doanh nghiệp bị tuyên bố phá sản, những tài sản được miễn trừ ra
khỏi tài sản phá sản
83
3.3.1.3.
Quy định cụ thể, đầy đủ về các cơ chế xác định chính xác tài sản phá
sản
84
3.3.1.4.
Cần ghi nhận sự xuất hiện của các chủ nợ mới trong thủ tục phá sản
và dành cho loại chủ nợ này đặc quyền thanh toán so với các chủ nợ cũ
nhằm tạo điều kiện cho việc áp dụng thành công thủ tục phục hồi con
nợ
84
3.3.1.5.
Hoàn thiện các quy định pháp luật khác có liên quan đến giải quyết
phá sản
86
3.3.2.
Các giải pháp bổ trợ khác
87
3.3.2.1.
Nâng cao năng lực và trình độ đội ngũ cán bộ tham gia giải quyết phá
87
5
6
sản
3.3.2.2.
Chuyên nghiệp hóa hoạt động quản lý tài sản phá sản
89
3.3.2.3.
Tăng cường kỷ luật tài chính kế toán
90
KẾT LUẬN
92
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
93
7
8
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Tự do cạnh tranh và phá sản là những thuộc tính vốn có của kinh tế thị trường.
Trong nền kinh tế thị trường, doanh nghiệp nào không đáp ứng được những đòi hỏi
nghiệt ngã của thương trường, của sức ép cạnh tranh sẽ bị đào thải. Để loại bỏ những
doanh nghiệp làm ăn thua lỗ kéo dài, mất khả năng thanh toán các khoản nợ đến hạn,
đồng thời phòng ngừa, khắc phục những hậu quả, rủi ro mà những doanh nghiệp này
có thể gây ra cho nền kinh tế, mỗi quốc gia đều phải xây dựng và thực thi một cơ chế
phá sản có hiệu quả. Tuy nhiên, do tính chất nhạy cảm và mức độ ảnh hưởng rộng tới
nhiều đối tượng khác nhau trong đời sống kinh tế nên cơ chế phá sản luôn đòi hỏi sự
can thiệp mềm dẻo, linh hoạt của Nhà nước, phù hợp với những yêu cầu thực tiễn mà
hoạt động kinh doanh đặt ra. Bên cạnh những mục tiêu dài hạn mà pháp luật phá sản
hiện đại thường hướng đến như: tái cấu trúc nền kinh tế thông qua việc đào thải các
doanh nghiệp thua lỗ, sử dụng có hiệu quả các nguồn lực kinh tế và xã hội tới bảo vệ
quyền và lợi ích của người lao động…còn có mục tiêu quan trọng nhất - điều hòa lợi
ích giữa chủ nợ và con nợ.
Luật Phá sản doanh nghiệp năm 1993 là văn bản luật đầu tiên về phá sản ở
Việt Nam. Sau nhiều chương trình nghiên cứu, sửa đổi và hoàn thiện, thực hiện Nghị
quyết số 12/2002/QH11 ngày 16/12/2002 của Quốc hội nhiệm kỳ khóa XI về chương
trình xây dựng pháp luật, pháp lệnh năm 2003 và Nghị quyết số 222/2003/NQ-
UBTVQH 11 ngày 10/02/2003 của Ủy ban thường vụ Quốc hội, Tòa án nhân dân tối
cao đã cùng với các cơ quan hữu quan tổng kết thực tiễn thi hành Luật Phá sản doanh
nghiệp và xây dựng dự thảo Luật Phá sản mới. Qua 6 lần dự thảo, tại kỳ họp thứ 5 của
Quốc hội khoá XI, Luật Phá sản 2004 đã được thông qua, thay thế cho Luật Phá sản
doanh nghiệp 1993. Tiếp thu có chọn lọc pháp luật về phá sản của một số nước trên
thế giới, Luật Phá sản năm 2004, với thiên hướng ưu tiên việc phục hồi con nợ đã chú
ý rất nhiều tới việc điều hòa lợi ích giữa các chủ nợ và con nợ, tạo điều kiện cho việc
giải quyết các vụ việc phá sản một cách công bằng, hiệu quả, đảm bảo được lợi ích của
các bên liên quan.
Tuy nhiên, thực tế lại cho thấy, sau hơn sáu năm thực thi, vai trò của Luật phá
9
10
sản 2004 cũng vẫn mờ nhạt như Luật phá sản doanh nghiệp 1993 - một đạo luật đã bị
coi là "phá sản". Chỉ một số ít các doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản được rút
lui một cách có trật tự khỏi thương trường. Đặc biệt là các quy định về thủ tục phục
hồi và thủ tục thanh lí tài sản còn nhiều bất cập trong việc dàn xếp lợi ích giữa chủ nợ
và con nợ cũng như giữa các chủ nợ với nhau một cách hài hòa qua đó làm mất đi
những ưu việt của thủ tục phá sản so với thủ tục đòi nợ dân sự.
Từ những lý do kể trên, tác giả luận văn mạnh dạn lựa chọn đề tài "Điều hòa
lợi ích giữa chủ nợ và con nợ thông qua thủ tục phá sản ở Việt Nam" làm đề tài
nghiên cứu cho luận văn của mình. Đây là một chủ đề nghiên cứu vừa có ý nghĩa sâu
sắc về mặt lý luận vừa có tính thực tiễn cao ở Việt Nam hiện nay.
2. Tình hình nghiên cứu
Đã từ lâu, việc nghiên cứu về phá sản và pháp luật phá sản không còn là một
hướng nghiên cứu xa lạ ở Việt Nam. Đã có rất nhiều các công trình nghiên cứu công
phu về chùm chủ đề này được công bố, trong đó có những công trình tiêu biểu như:
"Giáo trình Luật Kinh tế", "Giáo trình Luật thương mại" của Khoa Luật - Đại học
Quốc gia Hà Nội, Đại học Luật Hà Nội, Đại học Kinh tế quốc dân, Đại học Mở Hà
Nội, Đại học Công nghiệp Thành phố Hồ Chí Minh,… và các sách tham khảo như:
"Pháp luật phá sản của Việt Nam 2005" của PGS.TS Dương Đăng Huệ; "Báo cáo rà
soát, đánh giá thực tiễn thi hành Luật phá sản năm 2004" do Bộ Tư pháp xây dựng;
hoặc các bài viết như: "Đi tìm triết lý của Luật phá sản" của PGS.TS Phạm Duy
Nghĩa; "Luật phá sản năm 2004 với việc cải thiện môi trường kinh doanh tại Việt
Nam" của PGS.TS Dương Đăng Huệ; "Một số ý kiến về dự thảo Luật phá sản (sửa
đổi)" của PGS.TS Dương Đăng Huệ - Cao Đăng Vinh…; cho tới các khóa luận tốt
nghiệp bậc cử nhân, luận văn thạc sĩ và luận án tiến sĩ đã bảo vệ thành công.
Tuy nhiên, đến nay ít có những công trình khoa học đánh giá pháp luật về phá
sản trên tiêu chí điều hòa lợi ích của chủ nợ và con nợ thông qua thủ tục phá sản. Bởi
vậy, việc nghiên cứu chuyên sâu, toàn diện về thủ tục phá sản như là một thủ tục đòi
nợ, trong đó chú trọng tới vấn đề điều hòa lợi ích của các chủ nợ và con nợ để làm nổi
bật lên tính hiệu quả của thủ tục này so với thủ tục dân sự thì chưa có bất kỳ một công
trình nghiên cứu nào.
3. Mục đích và phạm vi nghiên cứu của đề tài
11
12
3.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của đề tài là làm sáng tỏ những vấn đề lý luận chung về
điều hòa lợi ích của chủ nợ và con nợ thông qua thủ tục phá sản; phân tích, đánh giá
thực trạng pháp luật về phá sản hiện nay dưới tiêu chí điều hòa lợi ích của chủ nợ và
con nợ đề từ đó đề xuất các phương hướng, giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của
pháp luật phá sản ở nước ta hiện nay.
Để thực hiện được mục đích trên, đề tài có các nhiệm vụ cụ thể sau:
- Làm sáng tỏ những vấn đề lý luận chung về điều hòa lợi ích của chủ nợ và
con nợ thông qua thủ tục phá sản;
- Phân tích, đánh giá thực trạng pháp luật về phá sản hiện nay dưới tiêu chí
điều hòa lợi ích của chủ nợ và con nợ;
- Nghiên cứu so sánh về pháp luật về phá sản của một số quốc gia trên thế giới
dưới tiêu chí điều hòa lợi ích của chủ nợ và con nợ;
- Đề xuất các phương hướng, giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của pháp luật
phá sản ở nước ta hiện nay.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Trong khuôn khổ của một luận văn tốt nghiệp thạc sĩ luật học, tác giả luận văn
chỉ tập trung khai thác và nghiên cứu đề tài ở phạm vi những vấn đề pháp lý liên quan
đến việc điều hòa lợi ích giữa chủ nợ và con nợ thông qua thủ tục phá sản ở Việt Nam.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng phương pháp luận duy vật biện chứng của chủ nghĩa Mác -
Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh.
Để thực hiện các nhiệm vụ nghiên cứu của mình, luận văn đã sử dụng phối hợp
các phương pháp tổng hợp, phân tích, thống kê, so sánh.
Phương pháp được sử dụng chủ yếu trong luận văn này là phương pháp tổng
hợp, phân tích nhằm đánh giá thực trạng điều chỉnh và áp dụng pháp luật về phá sản
dưới tiêu chí điều hòa lợi ích của chủ nợ và con nợ
5. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của
13
14
luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận chung về điều hòa lợi ích giữa chủ nợ và con
nợ thông qua thủ tục phá sản.
Chương 2: Thực trạng điều hòa lợi ích giữa chủ nợ và con nợ thông qua thủ tục
phá sản ở Việt Nam hiện nay.
Chương 3: Phương hướng, giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả điều hòa lợi ích
giữa chủ nợ và con nợ thông qua thủ tục phá sản
15
16
Chƣơng 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ ĐIỀU HÒA LỢI ÍCH
GIỮA CHỦ NỢ VÀ CON NỢ THÔNG QUA THỦ TỤC PHÁ SẢN
1.1. Phá sản và các chức năng của pháp luật phá sản hiện đại
1.1.1. Khái niệm phá sản
Phá sản là hiện tượng kinh tế - xã hội phát sinh từ rất sớm trong lịch sử loài
người. Về mặt học thuật, phá sản là một thuật ngữ gây khá nhiều tranh luận về xuất xứ
của nó. Một số nhà nghiên cứu cho rằng, thuật ngữ phá sản bắt nguồn từ chữ "Ruin"
trong tiếng Latin có nghĩa là sự "khánh tận". Thuật ngữ này được dùng đề chỉ tình
trạng mất cân đối giữa thu và chi của một chủ doanh nghiệp mà biểu hiện trực tiếp của
sự mất cân đối đó là tình trạng mất khả năng thanh toán các khoản nợ đến hạn.
Một số nhà nghiên cứu khác cho rằng, thuật ngữ phá sản bắt nguồn từ chữ
"Banca Rotta" của La Mã với ý nghĩa là "chiếc ghế bị gãy". Điều này có cơ sở là một
tập quán thương mại, người nào mất khả năng thanh toán nợ thì cũng mất luôn quyền
tham gia các đại hội thương gia và do đó chiếc ghế ngồi của người đó bị đem ra khỏi
hội trường. Từ đó, "chiếc ghế bị gãy" trở thành hình ảnh tượng trưng cho sự vỡ nợ hay
mất khả năng thanh toán nợ của một thương nhân. Và vì vậy, hiện nay thuật ngữ phá
sản được gọi trong tiếng Anh là Bankrupcy và trong tiếng pháp là Banqueroute.
Cùng với hướng giải thích như trên, các luật gia Mỹ khi tiếp cận về thuật ngữ
phá sản lại cho rằng phá sản bắt nguồn từ chữ Latin "Banque" có nghĩa là cái bàn hoặc
ghế dài và từ "Ruptus" có nghĩa là bị gãy. Và hình tượng này được sử dụng để chỉ sự
thất thế của một thương gia trên thương trường khi mất khả năng thanh toán nợ đến
hạn. Như vậy, thuật ngữ phá sản dù được lý giải rất khác nhau về xuất xứ, song khái
niệm này đều được sử dụng để chỉ sự đổ vỡ trong hoạt động kinh doanh của một
thương nhân hay của một doanh nghiệp.
Trong tiếng Việt, theo tinh thần của Luật Thương mại năm 1972 của chính
quyền Sài Gòn trước đây, thuật ngữ khánh tận dùng để chỉ phá sản thương gia còn vỡ
nợ được dùng để chỉ sự phá sản của cá nhân, ngoài ra, phá sản còn được nhìn nhận là
một thủ tục tư pháp thanh toán tài sản. Hiện nay, trên cơ sở Luật Phá sản doanh nghiệp
17
18
năm 1993 và Luật Phá sản năm 2004, Khái niệm phá sản được xem xét dưới hai bình
diện: thứ nhất là doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản và thứ hai là phá sản là thủ
tục phục hổi hoặc xử lí nợ đặc biệt.
Lịch sử phá sản của thế giới đã ghi nhận Italia là nước khai sinh ra đạo luật phá
sản đầu tiên của thời kỳ La Mã. Đến thời kỳ Trung cổ, các quốc gia châu Âu cũng ban
hành luật phá sản. Lúc đầu luật này được áp dụng vào lĩnh vực thương nghiệp, sau đó
mở rộng ra nhiều lĩnh vực hoạt động sản xuất kinh doanh. Hiện tượng phá sản trở nên
phổ biến trong thời kỳ tư bản chủ nghĩa, nó là một trong những nguyên nhân thúc đẩy
sự phát triển kinh tế, hình thành nên những tập đoàn kinh tế tư bản độc quyền.
Phá sản là hiện tượng bình thường trong nền kinh tế. Nhưng nó mới chỉ xuất
hiện và phổ biến ở nước ta từ khi nước ta chuyển sang nền kinh tế thị trường. Trong
nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung bao cấp trước đây, phá sản và pháp luật về phá sản
không tồn tại. Bởi lẽ, đặc trưng của nền kinh tế này là thừa nhận nguyên tắc nhà nước
lãnh đạo nền kinh tế (nguyên tắc này được ghi nhận tại Điều 22 và Điều 23 Hiến pháp
Việt Nam năm 1980); ghi nhận sự thống lĩnh của chế độ sở hữu xã hội chủ nghĩa dưới
hai hình thức là sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể (Điều 18, Điều 23, Điều 26 Hiến
pháp Việt Nam 1980); phủ nhận quyền tự do kinh doanh thông qua việc khẳng định sự
độc quyền ngoại thương nhà nước (Điều 21 Hiến pháp năm 1980) và cấm đoán các
hình thức sản xuất, kinh doanh phi xã hội chủ nghĩa (Điều 24, Điều 25 Hiến pháp năm
1980). Như vậy, trong nền kinh tế này không có sự tồn tại của nhiều hình thức sở hữu,
nhiều thành phần kinh tế, không có tự do kinh doanh, tức là không có đầy đủ các tiền
đề kinh tế - pháp lý để tạo ra được sự cạnh tranh thực sự trên thương trường. Trong
hoàn cảnh như vậy, không thể có phá sản và do đó, không thể có pháp luật về phá sản.
Tại Việt Nam sau đổi mới kinh tế, các doanh nghiệp được quyền tự chủ kinh
doanh kèm theo đó là hiện tượng phá sản cũng xuất hiện. Kinh tế càng phát triển, cạnh
tranh càng gay gắt thì phá sản càng có xu hướng gia tăng, đòi hỏi phải có sự điều
chỉnh của pháp luật. Luật phá sản doanh nghiệp 1993 được Quốc hội nước Cộng hòa
xã hội chủ nghĩa Việt Nam thông qua ngày 30 tháng 12 năm 1993 là văn bản đầu tiên
có giá trị pháp lý cao nhất điều chỉnh vấn đề về phá sản. Nhưng sau hơn 10 năm thực
hiện đã bộc lộ nhiều điểm lạc hậu cần thay đổi, để phù hợp hơn với sự phát triển của
nền kinh tế, của xã hội. Vì vậy, ngày 15/6/2004, Quốc hội đã thông qua Luật phá sản
19
20
2004 thay thế Luật phá sản doanh nghiệp 1993, có hiệu lực từ ngày 15/10/2004. Theo
Điều 3 Luật phá sản 2004 thì "doanh nghiệp, hợp tác xã không có khả năng thanh toán
được các khoản nợ đến hạn khi chủ nợ có yêu cầu thì coi là lâm vào tình trạng phá
sản" [45].
Như vậy, có thể định nghĩa phá sản như sau: Phá sản là thủ tục giải quyết
thanh toán nợ được Tòa án thực hiện theo một trình tự, thủ tục luật định (thủ tục phá
sản) do doanh nghiệp, hợp tác xã không có khả năng thanh toán được các khoản nợ
đến hạn khi chủ nợ yêu cầu.
1.1.2. Phân loại phá sản
Phân loại phá sản có ý nghĩa rất quan trọng trong việc xem xét và xử lý các
quan hệ phát sinh trong khi giải quyết phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã. Việc phân
loại phá sản nhằm xác lập cơ chế giải quyết phù hợp với tính chất của từng loại phá
sản. Dựa vào những căn cứ khác nhau, người ta phân chia phá sản thành nhiều loại
khác nhau nhưng thường được chia thành ba dạng chủ yếu thường gặp là: phá sản
trung thực và phá sản gian trá, phá sản tự nguyện và phá sản bắt buộc, phá sản doanh
nghiệp và phá sản cá nhân.
1.1.2.1. Phá sản trung thực và phá sản gian trá
Căn cứ vào tính xác thực của việc phá sản ta có thể chia phá sản thành phá sản
trung thực và phá sản gian trá. Phá sản trung thực là trường hợp phá sản đúng theo quy
định của Luật phá sản, là hậu quả của việc mất khả năng thanh toán do những nguyên
nhân khách quan hay những rủi ro trong kinh doanh gây ra. Doanh nghiệp có thể bị
phá sản theo nhiều nguyên nhân khác nhau như: bị ảnh hưởng của khủng hoảng kinh
tế, sự thay đổi chính sách pháp luật của nhà nước, sự chuyển đổi xu hướng người tiêu
dùng, sự biến động giá cả trên thị trường, thiên tai, dịch bệnh ; hoặc có thể do yếu tố
nội tại của bản thân doanh nghiệp như tình trạng quản lý kém, chọn hướng đầu tư kinh
doanh không phù hợp, bị mất uy tín trên thương trường , nhưng những nguyên nhân
này đều nằm ngoài ý muốn của con nợ.
Ngược lại, phá sản gian trá lại hoàn toàn do chủ ý của con nợ, là hiện tượng
phá sản do con nợ có những thủ đoạn gian trá, có sắp đặt trước, cố tình tạo nên tình
trạng mất khả năng thanh toán nhằm chiếm đoạt tài sản của người khác. Đối với phá
sản trung thực, pháp luật chủ yếu nhằm vào giải quyết vấn đề xử lý tài sản hoặc phục
21
22
hồi doanh nghiệp (nếu có thể phục hồi); đối với phá sản gian trá, ngoài những vấn đề
này, pháp luật còn phải truy cứu trách nhiệm đối với những cá nhân có vi phạm pháp
luật. Khoản 3 Điều 8 Luật phá sản 2004 quy định "trong quá trình tiến hành thủ tục
phá sản nếu phát hiện có dấu hiệu tội phạm thì Thẩm phán cung cấp tài liệu (bản sao)
cho Viện kiểm sát nhân dân cùng cấp để xem xét việc khởi tố về hình sự và vẫn tiến
hành thủ tục phá sản theo quy định của Luật này" [45].
1.1.2.2. Phá sản tự nguyện và phá sản bắt buộc
Căn cứ vào cơ sở pháp lý làm phát sinh quan hệ pháp luật phá sản, cụ thể là
căn cứ vào chủ thể nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản, phá sản được chia thành phá
sản tự nguyện và phá sản bắt buộc. Phá sản tự nguyện là phá sản do chính con nợ yêu
cầu khi thấy mình lâm vào tình trạng phá sản.
Ngược lại, phá sản bắt buộc là trường hợp phá sản được thực hiện theo yêu cầu
của các chủ thể không phải là doanh nghiệp mắc nợ (chủ nợ, người lao động ). Việc
phân loại phá sản tự nguyện và bắt buộc rất có ý nghĩa trong việc xây dựng luật thủ tục
áp dụng cho việc giải quyết các vụ việc phá sản, đặc biệt là trong xác định nghĩa vụ
chứng minh của người nộp đơn.
1.1.2.3. Phá sản doanh nghiệp và phá sản cá nhân
Căn cứ vào đối tượng áp dụng của Luật phá sản, người ta phân chia phá sản
thành: phá sản doanh nghiệp và phá sản cá nhân. Thực tế cho thấy, việc ban hành Luật
phá sản ở đa số các nước xuất phát trực tiếp từ nhu cầu giải quyết tình trạng mất khả
năng thanh toán cùng với những hậu quả của nó trong hoạt động kinh doanh của các
thương nhân, vì vậy đa số các nước chỉ áp dụng pháp luật phá sản với các thương nhân
để giải quyết các khoản nợ phát sinh trong kinh doanh. Tuy nhiên, cũng có nước
không giới hạn phạm vi áp dụng của Luật phá sản ở các thương nhân; pháp luật phá
sản được áp dụng đối với mọi chủ thể pháp luật dân sự lâm vào tình trạng phá sản,
không phân biệt thương nhân hay không phải là thương nhân. Ví dụ, "Luật phá sản Mỹ
quy định: Bất kể cá nhân hay pháp nhân, thương gia hay người kinh doanh không
hưởng quy chế thương gia, khi đã lâm vào tình trạng mất khả năng thanh toán nợ đến
hạn thì đều thuộc đối tượng điều chỉnh của luật này" [49, tr. 10].
Ở Việt Nam hiện nay, Luật phá sản được áp dụng đối với các doanh nghiệp
thuộc mọi thành phần kinh tế và hợp tác xã được thành lập và hoạt động theo quy định
23
24
của pháp luật. Như vậy, theo pháp luật Việt Nam hiện hành, không phải tất cả các
thương nhân khi lâm vào tình trạng phá sản đều được áp dụng Luật phá sản để giải
quyết; những thƣơng nhân không phải là hợp tác xã và doanh nghiệp (nhƣ tổ hợp
tác có đăng ký kinh doanh, kinh doanh cá thể) khi lâm vào tình trạng phá sản sẽ
không được giải quyết theo quy định của pháp luật phá sản. Về lý luận, xét từ yêu cầu
của việc đảm bảo nguyên tắc bình đẳng trong kinh doanh, vấn đề đối tƣợng áp dụng
của Luật phá sản ở Việt Nam cần đƣợc nghiên cứu thêm.
1.1.3. Lịch sử hình thành và phát triển pháp luật phá sản
1.1.3.1. Sơ khảo sự hình thành và phát triển của Luật phá sản phương Tây
Từ khi xã hội bắt đầu xuất hiện hàng hóa thì quan hệ mua bán cũng xuất hiện
để đáp ứng nhu cầu của con người, và ắt sẽ có tình trạng không trả được nợ. Cách thức
giải quyết tình trạng vỡ nợ ở mỗi xã hội, mỗi thời kỳ lịch sử là khác nhau. Xã hội nào
cũng tồn tại trong một trật tự nhất định, và cách thức giải quyết tình trạng vỡ nợ có thể
được coi như là luật lệ trong cái trật tự đó. Cùng với sự phát triển của xã hội, cách nhìn
nhận về tình trạng vỡ nợ cũng thay đổi, kèm theo đó là sự thay đổi về cách thức giải
quyết tình trạng này.
Lịch sử phá sản của thế giới ghi nhận rằng, Italia là nước khai sinh ra Luật phá
sản (Actof Bankrep Tcy) từ thời La Mã. Vào thời La Mã cổ đại, các chế định về phá
sản đã xuất hiện mặc dù ban đầu chỉ là những chế định riêng lẻ về thủ tục đòi nợ tập
thể trong một số đạo luật. Trong thời kỳ này, người gây ra phá sản bị coi như đã phạm
một tội hình sự và cần phải bị trừng phạt. Cách thức giải quyết tình trạng vỡ nợ là đưa
ra những hình phạt hết sức dã man để trừng trị con nợ. Ví dụ, Luật 12 bảng (năm 449
TCN) của La Mã đã quy định: "trường hợp con nợ đi vay nợ của nhiều người mà
không trả được các chủ nợ có quyền băm con nợ ra thành nhiều mảnh" (Bảng 3, Điều
6).
Từ khi La Mã trở thành đế quốc, một thị trường thống nhất trải rộng từ Lon
Don tới Constantinople (Istanbul ngày nay) đã hình thành. Lệ băm xác con nợ thành
nhiều mảnh đã dần được thay thế bởi một luật văn minh hơn. Tài sản của con nợ được
thâu tóm và phân chia theo một trật tự nhất định - một trình tự thanh toán tài sản tư
pháp đã ra đời (cesio bonorum). Tài sản của con nợ được tòa án địa phương (của con
nợ) đứng ra quản lý, rồi phân chia số tài sản này cho các chủ nợ tùy theo vốn, lãi của
25
26
mỗi người. Về sau, những quy định này được cải tiến, hoàn chỉnh và nâng lên thành
luật phá sản của La Mã thời cổ đại.
Sau khi đế quốc La Mã tan rã vào thế kỷ thứ 5 sau Công nguyên, châu Âu bước
vào thời kỳ Trung Cổ với sự chia sẻ quyền lực của nhà thờ và các lãnh chúa phong kiến.
Nền thương mại của người La Mã sụp đổ, thủ tục thanh toán tài sản bị lãng quên cùng với
một hệ thống pháp luật vốn đã hoàn chỉnh và phát triển. Người vỡ nợ bị tống giam và đối
xử như tội phạm - một hiện tượng còn kéo dài nhiều thập kỷ và chỉ bắt đầu chấm dứt
trong thế kỷ 19 theo pháp luật Anh Mỹ. Từ thế kỷ thứ X, nền kinh tế thương mại tái xuất
hiện, thương nhân là những người đầu tiên áp dụng lại trình tự thanh toán khi vỡ nợ của
người La Mã. Nếu vỡ nợ, thương nhân bị mất nơi bán hàng trên chợ, tài sản bị thu và
phân chia cho chủ nợ tương tự như cesio bonorum. Mặc dù luật lệ của thương nhân hoặc
được thu nạp từng phần vào thông luật Anh, hoặc được pháp điển hóa trong Bộ luật
thương mại Pháp 1807 - bộ luật của những người hàng xén, nhưng nó vẫn không thay đổi
được thói quen xem vỡ nợ như tội phạm ở các nước phương Tây trong một thời gian dài.
So với sự khắc nghiệt của hình phạt đối với người vỡ nợ ở phương Tây thời kỳ này, tư
duy phân chia tài sản trong Điều 592 Bộ luật Hồng Đức năm 1460 của nhà làm luật thời Lê
có nhiều điểm tiến bộ và nhân đạo hơn hẳn.
Cho đến đầu thế kỷ XX, vỡ nợ vẫn được pháp luật nhiều nước Âu Mỹ xem
như một dạng tội phạm, có thể bị trừng phạt từ tù giam cho tới tử hình. Vào những
năm 1820 ở nhiều bang của nước Mỹ, 3 trong số 5 tội phạm bị bắt giam vì tội vỡ nợ.
Chủ nợ có thể bắt giữ người mắc nợ vì hai lý do: (i) để cưỡng bách người mắc nợ xuất
hiện trước tòa án, (ii) để cưỡng bách trả nợ. Luật phá sản kế tiếp nhau ra đời từ Tây
Ban Nha, Pháp, Đức cho tới Anh quốc, song mục đích trước hết của chúng là bảo vệ
lợi ích của chủ nợ và trừng phạt người vỡ nợ. Từ đạo luật Anne năm 1705 của nước
Anh, một tư duy mới manh nha xuất hiện: thay vì trừng phạt, pháp luật nước Anh
tuyên bố xóa nợ cho con nợ trung thực với những điều kiện nhất định. Sau khi đã giao
nộp sản nghiệp và hoàn tất thủ tục thanh toán, con nợ được tuyên bố xóa mọi khoản nợ
và có thể bắt đầu một sự nghiệp mới. Từ thủ tục phá sản chỉ dành riêng cho thương
nhân, pháp luật mở rộng đối tượng áp dụng thủ tục phá sản cho mọi cá nhân. Cho đến
khi các công ty và thuyết về pháp nhân xuất hiện, luật phá sản cũng được áp dụng cho
công ty và những pháp nhân khác. Do lịch sử phát triển đặc thù đó, ở Anh và Mỹ
người ta vẫn duy trì các quy định về phá sản cá nhân (hoặc người tiêu dùng) riêng biệt
27
28
với phá sản công ty, trong khi ở nhiều nước châu Âu, pháp luật về phá sản về cơ bản
vẫn chỉ áp dụng cho thương nhân. Đối với phá sản cá nhân, pháp luật ngày càng mang
tính nhân đạo, nhấn mạnh sự xóa nợ và tạo cơ hội lập thân mới cho người vỡ nợ hoặc
định rõ các nguồn thu và tài sản không bị thâu gom để thanh toán cho chủ nợ.
1.1.3.2. Sự hình thành và phát triển của các quy định pháp luật về phá sản ở
Việt Nam
Từ khi Việt Nam còn là một xã hội phong kiến, nhà làm luật thời đó cũng đã
dự liệu đến trường hợp người mắc nợ không trả được nợ, và đưa ra những cách thức
giải quyết tình trạng này. Ví dụ, Điều 592 Bộ luật Hồng Đức (1460) có quy định nếu
người mắc nợ:
Là quan từ cửu phẩm trở lên, mắc nợ nhiều quá mà không có đủ tài sản
trả hết tất cả các chủ nợ, được quyền tâu xin thanh toán tài sản, chia cho các
chủ nợ tùy theo số nợ nhiều hay ít. Người mắc nợ không được giấu giếm tài
sản, trái luật bị phạt 80 trượng. Chủ nợ nào tìm được tài sản giấu được phép
xin lấy đủ số nợ [Dẫn theo 41].
Như vậy, ở đây nhà làm luật cũng đã quy định một trình tự để thu hồi tài sản
của người mắc nợ và phân chia cho các chủ nợ theo một trật tự nhất định. Tuy nhiên,
những quy định này lại chỉ áp dụng cho người có quan tước từ cửu phẩm trở lên mà
không áp dụng cho dân thường. Còn Bộ luật Gia Long lại quy định chủ nợ có thể cầm
tù người mắc nợ để cưỡng bách trả nợ:
(i) nếu số nợ dưới 30 lạng bạc, sau khi bị giam giữ quá 1 năm, nếu
quả thực mất khả năng thanh toán, con nợ sẽ không bị đòi nợ nữa và bị đánh
trượng tùy theo số nợ; (ii) nếu số nợ vượt quá 30 lạng bạc, quá hạn giam giữ
1 năm, vụ việc được tâu lên nhà vua để tùy vua chung quyết [Dẫn theo 41].
Năm 1857, thực dân Pháp bắt đầu xâm lược nước ta và đến 1887 thì Việt Nam
bị chia thành 3 miền Bắc Kỳ, Trung Kỳ, Nam Kỳ dưới sự cai quản của thực dân Pháp.
Ban đầu người Pháp áp dụng Bộ luật thương mại Pháp vào nhượng địa Nam Kỳ, sau
Hòa ước Giáp Thân 1884 đạo luật này được áp dụng cho cả Bắc Kỳ, và sau 1892 thì
áp dụng vào tất cả các tòa án Pháp tại Trung Kỳ. Về lý thuyết, Bộ luật thương mại
Pháp chỉ chính thức hết hiệu lực ở miền Nam sau ngày 20/12/1972 khi chính quyền
Việt Nam Cộng hòa ban hành Luật thương mại. Là một phần của thương luật Pháp,
29
30
pháp luật về phá sản và thanh toán tư pháp được áp dụng trực tiếp vào nước ta mà
không có một thử nghiệm đáng kể nào để chuyển hóa chúng thành tiếng Việt trong
suốt một nửa thế kỷ đầu tiên của thời đô hộ.
Bộ luật thương mại Trung phần được ban hành ngày 12/06/1942 theo Dụ số 46
của Bảo Đại là đạo luật thương mại đầu tiên của người Việt Nam, có hiệu lực từ
25/01/1944 và chính thức hết hiệu lực ở miền Nam ngày 20/12/1972. Vay mượn pháp
luật phá sản Pháp, đạo luật này phân tách "khánh tận" và "thanh toán tư pháp", và
"khánh tận" là thuật ngữ đầu tiên được dùng để gọi tên cho tình trạng mất khả năng
thanh toán của một thương nhân ở Việt Nam. Theo quy định của Bộ luật thương mại
Trung phần thì quy chế khánh tận chỉ áp dụng cho thương nhân, và người vỡ nợ bị
xem như tội phạm, bị bắt giam với một số tội danh (tội tiểu hình liên quan đến khánh
tận) (Điều 180, 189, 253-255 Bộ luật thương mại Trung phần). Người khánh tận ngoài
việc bị mất quyền quản trị, tài sản bị niêm phong, còn bị tước quyền bầu cử, bị cấm
một số hành vi kinh doanh và quản lý, án khánh tận được ghi vào lịch sử tư pháp của
người vỡ nợ (Điều 201 Bộ luật thương mại Trung phần). So với khánh tận, thanh toán
tư pháp là một thủ tục mang tính khoan hồng so với người vỡ nợ ngay tình. Khi lâm
vào tình trạng không trả được nợ, con nợ ngay tình có thể nộp đơn yêu cầu thụ lý án
thanh toán tư pháp. Theo trình tự này, người mắc nợ được hưởng một vài quy chế
giảm nhẹ như sau: (i) không bị bắt giam (Điều 240 Bộ luật thương mại Trung phần);
(ii) không bị mất quyền quản trị mà được tiếp tục chiếm giữ và quản lý sản nghiệp
dưới sự giám sát của kiểm soát viên do tòa án ấn định; (iii) tiếp tục được hành nghề và
thực hiện các hành vi mà tòa án cho phép; (iv) có thể thỏa hiệp với các chủ nợ, tòa sẽ
ban hành án công nhận thỏa hiệp này. Nếu có dấu hiệu gian tình, thủ tục thanh toán tư
pháp có thể chuyển thành một vụ án khánh tận.
Năm 1954, sau khi người Pháp rút chạy khỏi Việt Nam, lãnh thổ nước ta chia
làm hai miền với hai chế độ chính trị khác nhau. Tại miền Nam, những chế định về
phá sản cũ vẫn được áp dụng cho đến ngày 20/12/1972, chính quyền Việt Nam Cộng
hòa ban hành luật thương mại thay thế. Tuy nhiên, ngoài một số cải biên mang tính kỹ
thuật, đạo luật này không có gì mới mẻ so với Bộ luật thương mại Trung phần 1942,
vẫn duy trì hai thủ tục khánh tận và thanh toán tư pháp. Còn tại miền Bắc, trong suốt
một giai đoạn dài từ 1945 đến 1985, chúng ta áp dụng mô hình kinh tế kế hoạch hóa
tập trung, nhà nước kiểm soát và định đoạt mọi nguồn lực sản xuất nên pháp luật về
31
32
phá sản không tồn tại.
Sau Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI, nền kinh tế thị trường được thừa nhận
và phát triển, vấn đề phá sản doanh nghiệp mới được đặt ra, tuy nhiên lúc này nó mới
chỉ được quy định trong hai văn bản pháp lý của Nhà nước ta là Luật doanh nghiệp tư
nhân và Luật công ty (ban hành cùng ngày 21/12/1990). Theo Điều 24 Luật công ty thì
"Công ty gặp khó khăn hoặc bị thua lỗ trong hoạt động kinh doanh đến mức, tại một
thời điểm, tổng giá trị các tài sản còn lại của công ty không đủ thanh toán tổng số các
khoản nợ đến hạn, là doanh nghiệp đang lâm vào tình trạng phá sản" [43]. Tương tự
như vậy, Điều 17 Luật doanh nghiệp tư nhân cũng đã đưa ra khái niệm về tình trạng
phá sản đối với doanh nghiệp này. Đến năm 1993, Nhà nước ta đã ban hành một văn
bản pháp luật rất quan trọng là Luật phá sản doanh nghiệp, trong đó không chỉ đưa ra
khái niệm về "tình trạng phá sản" mà còn quy định về nhiều vấn đề khác có liên quan
đến việc giải quyết một vụ phá sản cụ thể. Để Luật phá sản doanh nghiệp để đi vào
thực tiễn, một loạt các văn bản dưới luật đã được ban hành để hướng dẫn áp dụng và
thi hành luật phá sản doanh nghiệp. Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện Luật phá sản
doanh nghiệp đã bộc lộ nhiều điểm hạn chế cần khắc phục. Do đó, Luật phá sản 2004
đã ra đời thay thế Luật phá sản doanh nghiệp 1993. Luật phá sản 2004 đƣợc Quốc
hội nƣớc Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XI, kỳ họp thứ 5 thông qua
ngày 15/06/2004, có hiệu lực từ ngày 15 tháng 10 năm 2004.
1.1.4. Các chức năng của pháp luật phá sản hiện đại
Phá sản - một hiện tượng không còn xa lạ trong nền kinh tế thị trường ngày
nay. Một doanh nghiệp ra đời, hoạt động thì cũng có trường hợp bị giải thể hoặc phá
sản. Đó là quá trình tồn tại của một chủ thể kinh doanh. Khoản 1 Điều 4 Luật cạnh
tranh 2004 quy định: "Doanh nghiệp được tự do cạnh tranh trong khuôn khổ pháp luật.
Nhà nước bảo hộ quyền cạnh tranh hợp pháp trong kinh doanh" [46]. Cạnh tranh có
thể được coi như cuộc chạy đua giữa các chủ thể kinh doanh trong nền kinh tế, và bất
cứ cuộc đua nào cũng có kẻ thắng, người thua. Cạnh tranh cũng nằm trong quy luật đó.
Đó là sự cạnh tranh giữa các doanh nghiệp để giành giật thị trường, khách hàng nhằm
mang lại lợi nhuận cao nhất cho mình. Doanh nghiệp nào hoạt động tốt, đáp ứng được
yêu cầu của nền kinh tế thị trường thì sẽ tồn tại và phát triển, ngƣợc lại doanh nghiệp
nào hoạt động yếu kém thì sẽ phải rút khỏi nền kinh tế bằng hai con đƣờng giải
thể hoặc phá sản. Phá sản vừa mang ý nghĩa tích cực vừa mang ý nghĩa tiêu cực đối với
33
34
đời sống kinh tế - xã hội. Theo Điều 3 Luật phá sản 2004: "Doanh nghiệp, hợp tác xã
không có khả năng thanh toán được các khoản nợ đến hạn khi chủ nợ có yêu cầu thì
coi là lâm vào tình trạng phá sản" [45]. Nói một cách đơn giản thì, doanh nghiệp, hợp
tác xã (gọi chung là doanh nghiệp) là những con nợ, vay nợ của người khác nhưng đến
hạn không trả được cho các chủ nợ nên mới lâm vào tình trạng phá sản. Và khi con nợ
đã lâm vào tình trạng đó thì chủ nợ rất có thể sẽ không thu hồi được đầy đủ giá trị tài
sản của mình. Như vậy, khi bị lâm vào tình trạng phá sản thì không chỉ con nợ bị rủi
ro mà các chủ nợ cũng phải chịu rủi ro theo. Do đó, một doanh nghiệp bị phá sản sẽ
kéo theo sự ảnh hưởng dây chuyền đến các doanh nghiệp khác, có thể làm chậm tốc độ
tăng trưởng kinh tế. Bên cạnh đó, doanh nghiệp hoạt động kinh tế cũng là nơi tập
trung nguồn lao động dồi dào. Doanh nghiệp bị phá sản sẽ làm cho một khối lượng lớn
người lao động bị thất nghiệp, tác động xấu đến vấn đề an sinh xã hội. Nhưng bên
cạnh những mặt tiêu cực đó, phá sản cũng có mặt tích cực của nó. Phá sản là hậu quả
tất yếu của quá trình cạnh tranh, là sự đào thải những mô hình kinh doanh yếu kém.
Không có ai kinh doanh mà lại muốn bị phá sản, vì vậy, các chủ thể kinh doanh phải
không ngừng cố gắng để tồn tại trong nền kinh tế thị trường, và có thể nói phá sản là
một trong những động lực để các doanh nghiệp phát triển, phát triển để tránh
khỏi tình trạng phá sản. Ngoài ra, như trên đã nói, phá sản là kết quả của quá trình
chọn lọc, chỉ những doanh nghiệp hoạt động hiệu quả mới có thể tồn tại và phát triển,
do đó, có thể nói phá sản góp phần làm cho nền kinh tế trở nên lành mạnh, trong
sạch hơn.
Như vậy, phá sản là hiện tượng tất yếu trong nền kinh tế thị trường, và nó cũng
có những ý nghĩa nhất định đối với kinh tế - xã hội. Vì vậy, điều chỉnh phá sản bằng
pháp luật là một việc làm cần thiết. Pháp luật phá sản là tổng thể những quy phạm pháp
luật điều chỉnh những quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình giải quyết yêu cầu mở
thủ tục phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã. Các quan hệ xã hội đó có thể được chia
thành hai nhóm cơ bản là: (i) quan hệ giữa các chủ nợ và doanh nghiệp lâm vào tình
trạng phá sản, và (ii) quan hệ giữa các đương sự với cơ quan nhà nước có thẩm quyền
(quan hệ tố tụng phá sản). Văn bản pháp luật đóng vai trò chủ đạo trong hệ thống pháp
luật về phá sản là Luật phá sản. Theo Điều 1 Luật phá sản 2004, Luật này quy định
điều kiện và việc nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản; xác định nghĩa vụ về tài sản và
các biện pháp bảo toàn tài sản trong thủ tục phá sản; điều kiện, thủ tục phục hồi hoạt
35
36
động kinh doanh, thủ tục thanh lý tài sản và tuyên bố phá sản; quyền, nghĩa vụ và
trách nhiệm của người nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản, của doanh nghiệp, hợp tác
xã bị yêu cầu tuyên bố phá sản và của người tham gia giải quyết yêu cầu tuyên bố phá
sản. Với những quy định đó, Luật phá sản ra đời vì những mục đích sau:
1.1.4.1. Bảo vệ lợi ích chính đáng của các chủ nợ
Như trên đã nói, phá sản là một hiện tượng mang tính chất dây chuyền. Khi
một doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản thì không chỉ có doanh nghiệp đó bị
khủng hoảng tài chính có nguy cơ phải đóng cửa, mà còn nhiều lợi ích khác có nguy
cơ bị xâm hại. Trong đó, chủ nợ là những người có quyền lợi bị ảnh hưởng trực tiếp và
có nguy cơ bị thiệt hại lớn nhất. Vì chủ nợ là người rất có khả năng bị mất trắng những
khoản tín dụng đã cấp cho con nợ. Vì vậy, pháp luật phá sản được xây dựng trước hết
và chủ yếu là nhằm bảo vệ quyền và lợi ích của các chủ nợ. Sự ưu tiên bảo vệ đó được
thể hiện qua hàng loạt những quy định pháp luật liên quan đến quyền năng của chủ nợ
như quy định quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản khi nhận thấy doanh nghiệp,
hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản (Điều 13 Luật phá sản 2004), quyền khiếu nại
việc trả lại đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản, quyền khiếu nại danh sách chủ nợ, quyền
có đại diện trong thiết chế quản lý, thanh lý tài sản của con nợ (Khoản 2 Điều 9 Luật
phá sản 2004 có quy định trong thành phần của Tổ quản lý, thanh lý tài sản có đại diện
chủ nợ), quyền tham gia hội nghị chủ nợ, quyền đề xuất phương án phục hồi hoạt động
kinh doanh của con nợ, quyền khiếu nại quyết định không mở thủ tục phá sản
1.1.4.2. Bảo vệ lợi ích của con nợ
Luật phá sản từ xưa đến nay đều đặt ra mục đích chủ yếu là bảo vệ quyền và
lợi ích chính đáng của chủ nợ. Còn đối với con nợ, pháp luật phá sản thời kỳ đầu
không những không bảo vệ mà còn trừng phạt bằng nhiều hình thức. Ví dụ, luật phá
sản thời La Mã cổ đại quy định con nợ có thể bị băm ra thành nhiều mảnh nếu không
trả được nợ, hoặc cũng có thể bị bắt làm nô lệ. Còn luật phá sản Việt Nam ngày xưa
lại quy định con nợ có thể bị bắt giam. Ngày nay, quan điểm của nhà nước về việc
kinh doanh đã được thay đổi, do đó, thái độ, cách ứng xử của nhà nước và pháp luật
đối với các hoạt động kinh doanh cũng khác đi, thay đổi theo chiều hướng tích cực,
khoan dung và nhân đạo hơn. Hoạt động kinh doanh có tác động rất lớn đến sự phát
triển của kinh tế - xã hội, nhưng cũng tiềm ẩn rất nhiều rủi ro, nhất là trong nền kinh tế
37
38
thị trường, khi mà sự cạnh tranh ngày càng gay gắt. Do đó, phá sản là hiện tượng
không thể tránh khỏi, nó có thể xảy ra bất cứ lúc nào. Hậu quả của nó sẽ ảnh hưởng
đến nhiều chủ thể, ảnh hưởng đến môi trường kinh doanh nên phải hạn chế một cách
tối đa tình trạng đó. Chính vì vậy, Luật phá sản đã quy định thủ tục phục hồi hoạt động
kinh doanh, nhằm tìm cách để giúp đỡ doanh nghiệp thoát khỏi tình trạng khó khăn
này. Đây là quy định rất có ý nghĩa đối với con nợ. Luật phá sản cho phép doanh
nghiệp mắc nợ đề xuất phương án, giải pháp tổ chức lại hoạt động kinh doanh, trình
Hội nghị chủ nợ xem xét thông qua. Nếu được Hội nghị chủ nợ thông qua, và doanh
nghiệp mắc nợ thực hiện thành công phương án phục hồi thì doanh nghiệp sẽ thoát
khỏi tình trạng phá sản. Trong trƣờng hợp không thể khắc phục đƣợc nữa, Luật
phá sản giúp cho con nợ thoát khỏi thƣơng trƣờng một cách có trật tự, giúp con
nợ giải thoát khỏi quan hệ nợ nần. Tuy nhiên, điều này không áp dụng đối với chủ
doanh nghiệp tư nhân và thành viên hợp danh của công ty hợp danh.
1.1.4.3. Bảo vệ lợi ích của người lao động
Các doanh nghiệp hoạt động kinh doanh là nơi tập trung nhiều nguồn lực lao
động nên khi doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản thì sẽ làm cho khối lượng lớn
người lao động bị thất nghiệp. Do đó, trong pháp luật phá sản hiện đại, vấn đề bảo vệ
quyền lợi của người lao động được đặc biệt quan tâm. Điều đó được thể hiện qua
những quy định liên quan đến quyền lợi của người lao động như quyền được nộp đơn
yêu cầu mở thủ tục phá sản trong trường hợp doanh nghiệp, hợp tác xã không trả được
lương, các khoản nợ khác cho người lao động và nhận thấy doanh nghiệp, hợp tác xã
lâm vào tình trạng phá sản, quyền có đại diện trong thiết chế quản lý, thanh lý tài sản
của doanh nghiệp, quyền được ưu tiên thanh toán nợ lương và các khoản tiền hợp pháp
khác mà họ được hưởng trước các khoản nợ thông thường của doanh nghiệp Ngoài
ra, cơ chế phục hồi doanh nghiệp cũng là một chế định có mục đích bảo vệ quyền lợi
người lao động, vì nếu doanh nghiệp có thể phục hồi được thì người lao động cũng
được thoát khỏi tình trạng thất nghiệp.
1.1.4.4. Bảo đảm trật tự, an toàn xã hội, góp phần tạo môi trường kinh doanh
lành mạnh
Như trên đã phân tích, khi doanh nghiệp bị phá sản, chủ nợ sẽ là người có
quyền lợi bị ảnh hưởng trực tiếp, có nguy cơ bị thiệt hại lớn nhất, nên chủ nợ nào
39
40
cũng muốn thu hồi lại món nợ cho mình. Trường hợp con nợ có nhiều chủ nợ, nếu
như để họ tự giải quyết thì dẫn đến việc các chủ nợ tranh giành nhau tài sản của con
nợ, và cũng có thể có trường hợp sử dụng những biện pháp bất hợp pháp để lấy lại
tài sản, chủ nợ nào mạnh thì sẽ lấy được, còn chủ nợ nào yếu thì sẽ bị thiệt thòi. Như
vậy sẽ gây nên những hệ quả tiêu cực cho xã hội. Để ngăn chặn tình trạng đó, việc
đòi nợ nói chung và trong trường hợp phá sản nói riêng cần phải được điều chỉnh
bằng pháp luật. Pháp luật phá sản với những cơ chế đòi nợ tập thể, và những quy
định về thứ tự phân chia tài sản do Tòa án đứng ra giải quyết đã góp phần bảo
đảm trật tự, an toàn xã hội.
Pháp luật phá sản là công cụ pháp lý, mà qua đó doanh nghiệp lâm vào tình
trạng phá sản có cơ hội để khôi phục tình hình tài chính và hoạt động sản xuất kinh
doanh, nếu thành công doanh nghiệp sẽ thoát ra khỏi tình trạng phá sản. Như vậy, cơ
chế này sẽ góp phần làm ổn định nền kinh tế. Nếu doanh nghiệp không thể khôi phục
được nữa, Tòa án sẽ thanh lý tài sản và tuyên bố phá sản doanh nghiệp. Trong trường
hợp này, pháp luật phá sản đã giúp nền kinh tế loại bỏ được những doanh nghiệp yếu
kém, lạc hậu, góp phần làm lạnh mạnh hóa nền kinh tế. Như vậy, bằng những quy định
pháp luật, luật phá sản đã góp phần bảo đảm trật tự, an toàn xã hội, tạo một môi trường
kinh doanh lành mạnh.
1.2. Nội dung cơ bản của việc điều hòa lợi ích giữa chủ nợ và con nợ qua
thủ tục phá sản
1.2.1. Nhu cầu điều hòa lợi ích giữa chủ nợ và con nợ thông qua thủ tục phá
sản
Như đã phân tích ở trên, một đạo luật phá sản hiện đại thường hướng đến rất
nhiều những mục tiêu điều chỉnh khác nhau, là công cụ bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp cho nhiều loại chủ thể khác nhau từ chủ nợ, con nợ cho tới người lao động và
đồng thời cũng là một công cụ hiệu quả trong điều tiết kinh tế. Tuy nhiên, xét về bản
chất pháp lí, thủ tục phá sản luôn đƣợc xem là một thủ tục đòi nợ tập thể. Pháp
luật phá sản ra đời cung cấp thêm cho các chủ nợ một công cụ đòi nợ mới tồn tại song
hành nhưng có tính chất khác biệt hoàn toàn so với thủ tục tố tụng dân sự.
Khi phải giải quyết mối quan hệ nợ nần giữa một con nợ với nhiều chủ nợ ở
41
42
trạng thái mà sản nghiệp còn lại của con nợ không còn đủ để thực hiện đầy đủ nghĩa
vụ với tất cả các chủ nợ thì thủ tục dân sự đã thể hiện một số những khiếm khuyết
nhƣ:
Thứ nhất, nếu sử dụng thủ tục lấy nợ dân sự trong trường hợp một con nợ có
nhiều chủ nợ thì sẽ có sự xuất hiện đồng thời của nhiều vụ kiện dân sự trên thực tế và
điều này dẫn đến hệ quả là sự quá tải của hệ thống tòa án cũng như chi phí đòi nợ lớn
cũng sẽ làm tiêu hao sản nghiệp vốn đã hạn hẹp của con nợ và trực tiếp ảnh hưởng đến
lợi ích của các chủ nợ;
Thứ hai, thủ tục dân sự chỉ cho phép chủ nợ thực hiện quyền đòi nợ của mình
khi khoản nợ đã đáo hạn. Vì vậy khi các khoản nợ không đáo hạn cùng một lúc sẽ dẫn
đến tình trạng "lo âu" của các chủ nợ có các khoản nợ đáo hạn sau khi mà họ nhìn thấy
sản nghiệp của con nợ đã không còn hoặc còn rất ít và chắc chắn sẽ không đủ để thực
hiện nghĩa vụ thanh toán đối với mình. Ngay cả khi các khoản nợ đáo hạn cùng một
lúc thì theo thủ tục dân sự, cơ quan tài phán cũng chỉ có thể ra phán quyết buộc con nợ
có nghĩa vụ phải thanh toán chứ không thể giải quyết thỏa đáng vấn đề con nợ không
còn khả năng thực hiện đồng thời tất cả các nghĩa vụ bằng tài sản của mình.
Tất cả những khiếm khuyết kể trên của thủ tục dân sự chỉ có thể đƣợc
khỏa lấp bằng cơ chế lấy nợ tập thể của thủ tục phá sản. Để đảm bảo sự công bằng
của các chủ nợ có vị thế giống nhau khi tiếp cận tài sản của con nợ, thay vì việc để cho
các chủ nợ có thể kiện đòi nợ một cách riêng rẽ, thủ tục phá sản tạo ra một cơ chế lấy
nợ tập thể giữa một bên là toàn bộ các chủ nợ (nhiều hơn một chủ nợ) đối với một con
nợ duy nhất.
Trong điều kiện sản nghiệp của con nợ không còn đủ để đồng thời thanh toán
hết tổng số nợ, dù con nợ có trao toàn bộ sản nghiệp của mình cho các chủ nợ thì rủi
ro vẫn là quá lớn đồi với các chủ nợ. Nếu có thể, bằng một giải pháp nào đó và với sự
trợ giúp của các chủ nợ, mà con nợ còn có thể tiếp tục tồn tại thì cơ hội để thu hồi đủ
số nợ cho các chủ nợ lại trở lên khả quan hơn. Như vậy, việc tối đa hóa trong thu hồi
nợ không thể tách rời khỏi vai trò và sự thiện chí của chính con nợ. Bên cạnh đó, con
nợ, khi không còn khả năng phục hồi nhưng đã thiện chí trả nợ, đáng được pháp luật
bảo vệ để có thể rút lui một cách an toàn khỏi thị trường, được giải phóng nợ để có thể
tạo lập cho mình một sản nghiệp mới. Tính chất này của thủ tục phá sản cho thấy,
43
44
trọng tâm của việc giải quyết một vụ việc phá sản chính là việc giải quyết quan hệ vay
nợ giữa một bên là các chủ nợ với một bên là con nợ. Như vậy, Pháp luật phá sản, như
chức năng tự thân của nó, có nghĩa vụ đảm bảo việc thu hồi nợ một cách tối đa và
công bằng cùng lúc cho nhiều chủ nợ nhưng đồng thời cũng phải đảm bảo tính nhân
văn trong mối quan hệ với con nợ.
Ngoài ra, cũng cần lưu ý rằng, khi xem xét điều chỉnh cho một vụ việc phá sản
cụ thể nào đó, pháp luật phá sản phải đồng thời cân nhắc, đánh giá và điều tiết một cách
hợp lý nhất lợi ích của các đối tượng khác mà nó có nghĩa vụ bảo vệ. Điều đáng lưu ý
nhất, "để giải quyết đúng đắn yêu cầu tuyên bố phá sản một doanh nghiệp thì không thể
chỉ đơn thuần hướng đến các quan hệ tài sản mà còn phải chú ý đúng mức đến các
nhóm quan hệ xã hội khác" [50, tr. 443].
Phá sản doanh nghiệp để lại nhiều hậu quả tiêu cực về mặt xã hội. Trước hết,
phá sản doanh nghiệp làm tăng số lượng những người thất nghiệp và làm cho sức ép
về việc làm ngày càng lớn, đặc biệt là ở các đô thị lớn và các khu công nghiệp. Tỷ
trọng người thất nghiệp cao do phá sản đem lại luôn ẩn chứa những nguy cơ bất ổn
định về mặt xã hội và ảnh hưởng trực tiếp đến chế độ an sinh của mỗi quốc gia. Như
vậy, nhóm đối tượng liên quan trước tiên mà pháp luật phá sản phải xem xét là những
người lao động làm công ăn lương cho các thương nhân mắc nợ. Nhóm này có thể
được nhìn nhận như các chủ nợ của con nợ đối với các khoản lương và thu nhập khác
mà con nợ còn thiếu của họ. Do tính chất đặc thù của quan hệ lao động, trong trường
hợp này, pháp luật sẽ nhìn nhận họ như những chủ nợ đặc biệt được ưu tiên lấy nợ
trước nhất từ sản nghiệp của con nợ. Tuy nhiên, khi thương nhân mắc nợ bị tuyên bố
phá sản, cơ sở kinh doanh không còn nữa họ sẽ mất việc làm, mất thu nhập đảm bảo
cuộc sống. Khi đó, chắc chắn, họ sẽ mong muốn cơ sở sản xuất tiếp tục được tồn tại để
duy trì thu nhập thường xuyên thay vì nó đổ vỡ để nhận về khoản nợ nhỏ nhoi. Một
đạo luật phá sản hiện đại luôn phải tính toán tới khía cạnh này để cân bằng và bảo đảm
lợi ích tối đa cho họ.
Ở khía cạnh nền kinh tế, tính tiêu cực của hiện tượng phá sản thể hiện ở chỗ
khi một doanh nghiệp đổ vỡ có thể làm cho nhiều doanh nghiệp phải gánh chịu hậu
quả to lớn. Sự phá sản của doanh nghiệp là chủ nợ, con nợ, bạn hàng đều có thể làm
cho công việc sản xuất kinh doanh của họ bị đình đốn vì các kế hoạch kinh doanh bị
đảo lộn, tài chính khó khăn. Khi quy mô của doanh nghiệp phá sản càng lớn, tham gia
45
46
vào quá trình phân công lao động của ngành nghề đó càng sâu và rộng, số lượng bạn
hàng càng đông, thì sự phá sản của nó có thể dẫn đến sự phá sản hàng loạt của các
doanh nghiệp khác hay còn gọi là phá sản dây chuyền. Phá sản dây chuyền là một
trong những nguyên nhân dẫn đến khủng hoảng kinh tế.
Phá sản là hiện tượng kinh tế khách quan trong nền kinh tế thị trường mà hậu
quả của nó là sự xung đột lợi ích của các bên tham gia quan hệ kinh doanh. Phá sản
không chỉ là sự xung đột lợi ích giữa con nợ mất khả năng thanh toán với các chủ nợ
của nó mà còn dẫn đến sự xung đột với lợi ích của tập thể người lao động làm việc tại
cơ sở của con nợ, đến lợi ích chung của xã hội, đến tình hình trật tự trị an tại một địa
phương, vùng lãnh thổ nhất định nào đó. Ban hành pháp luật phá sản là mong muốn của
nhà làm luật sử dụng những thuộc tính của pháp luật với tư cách là công cụ điều chỉnh
các quan hệ xã hội trong điều kiện tồn tại Nhà nước như tính quy phạm, tính bắt buộc
chung… nhằm tác động một cách hiệu quả nhất đến quan hệ giữa các chủ thể quan hệ
phá sản, giải quyết xung đột lợi ích của các chủ thể đó theo đúng bản chất vốn có của nó.
Ngoài ra, việc giải quyết xung đột lợi ích này cũng không thể không tính đến những
nhiệm vụ cụ thể đặt ra trước các nhà làm luật ở mỗi quốc gia trong từng thời kỳ phát triển
kinh tế của mình. Như chúng ta đều biết, trên thế giới, Luật phá sản có hai xu hướng
khác nhau. Xu hướng thứ nhất có mục tiêu là "hướng vào con nợ" tập trung vào việc
cứu các công ty thoát khỏi tình trạng khó khăn về tài chính, bảo đảm việc làm cho
người lao động, thông qua việc tổ chức lại công ty. Xu hướng thứ hai có mục tiêu
"hướng vào chủ nợ" bằng cách tạo điều kiện loại bỏ những doanh nghiệp quá yếu kém.
Tuy nhiên, trong những năm gần đây dường như là đã có sự kết hợp cả hai mục tiêu
này theo hướng nghiêng về mục tiêu "hướng vào con nợ", vì người ta nhận thấy rằng
tạo điều kiện cho sự tiếp tục tồn tại đối với các doanh nghiệp gặp khó khăn về tài
chính sẽ có lợi hơn cho nền kinh tế trong tình trạng thất nghiệp cao.
Trong nền kinh tế thị trường, việc doanh nghiệp phá sản là điều khó tránh khỏi,
đòi hỏi phải có sự can thiệp của Nhà nước vào hiện tượng này nhằm hạn chế tối đa
những hậu quả tiêu cực và khai thác những mặt tích cực của nó. Thông qua pháp luật
phá sản, Nhà nước có thể can thiệp vào quá trình hoạt động kinh doanh của các doanh
nghiệp một cách năng động và hết sức mềm dẻo. Để đảm bảo điều đó, thủ tục phá sản
cũng phải linh hoạt, mềm dẻo trong việc điều tiết một cách có hiệu quả mối quan hệ về
lợi ích giữa các chủ nợ và con nợ qua đó nhằm đạt được các chức năng điều chỉnh của