1
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
BÙI THỊ HẢI HUYỀN
BẢO VỆ QUYỀN LỢI CỦA DOANH NGHIỆP
TRONG THI HÀNH PHÁP LUẬT THUẾ GIÁ TRỊ GIA TĂNG
Ở VIỆT NAM
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
HÀ NỘI - 2014
2
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
BÙI THỊ HẢI HUYỀN
BẢO VỆ QUYỀN LỢI CỦA DOANH NGHIỆP
TRONG THI HÀNH PHÁP LUẬT THUẾ GIÁ TRỊ GIA TĂNG
Ở VIỆT NAM
Chuyên ngành : Luật kinh tế
Mã số : 60 38 50
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Người hướng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Thị Lan Hƣơng
HÀ NỘI - 2014
3
Lời cam đoan
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên
cứu khoa học của riêng tôi. Các số liệu, ví dụ và
trích dẫn trong luận văn đảm bảo độ tin cậy, chính
xác và trung thực. Những kết luận khoa học của
luận văn ch-a từng đ-ợc ai công bố trong bất kỳ
công trình nào khác.
Tác giả luận văn
Bùi Thị Hải Huyền
4
MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các từ viết tắt
Danh mục các bảng
MỞ ĐẦU
1
Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ THUẾ GIÁ TRỊ GIA
TĂNG, PHÁP LUẬT THUẾ GIÁ TRỊ GIA TĂNG VÀ
QUYỀN LỢI CỦA DOANH NGHIỆP TRONG PHÁP
LUẬT THUẾ GIÁ TRỊ GIA TĂNG
5
1.1.
Những vấn đề cơ bản về thuế giá trị gia tăng và pháp luật thuế
giá trị gia tăng
5
1.1.1.
Khái niệm và đặc điểm thuế giá trị gia tăng
5
1.1.2.
Vai trò của thuế giá trị gia tăng và pháp luật thuế giá trị gia tăng
6
1.1.3.
Lịch sử hình thành phát triển của pháp luật thuế giá trị gia tăng
10
1.2.
Những vấn đề cơ bản về quản lý thuế và pháp luật quản lý thuế
11
1.2.1.
Khái niệm quản lý thuế
11
1.2.2.
Khái niệm luật quản lý thuế và mối quan hệ đối với Luật thuế
giá trị gia tăng trong việc bảo vệ quyền lợi của doanh nghiệp
12
1.2.3.
Cơ chế quản lý thuế
14
1.2.4.
Mô hình quản lý thuế giá trị gia tăng
18
1.3.
Nội dung chủ yếu của pháp luật thuế giá trị gia tăng điều
chỉnh quyền và nghĩa vụ nộp thuế của doanh nghiệp
22
5
1.3.1.
Chủ thể quản lý thuế
22
1.3.2.
Chủ thể nộp thuế là doanh nghiệp
23
1.3.3.
Phạm vi, mức độ nghĩa vụ thuế giá trị gia tăng
29
1.3.4.
Cơ chế thực hiện thuế giá trị gia tăng
37
Chương 2: THỰC TRẠNG THI HÀNH PHÁP LUẬT THUẾ GIÁ TRỊ
GIA TĂNG VỀ BẢO VỆ QUYỀN LỢI CỦA DOANH NGHIỆP
VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN
43
2.1.
Bảo vệ quyền lợi của doanh nghiệp theo luật thuế giá trị gia tăng
43
2.1.1.
Thực hiện nghĩa vụ kê khai hàng hóa, dịch vụ chịu thuế
43
2.1.2.
Quyền được khấu trừ thuế
52
2.1.3.
Quyền được hoàn thuế giá trị gia tăng
71
2.1.4.
Quản lý hóa đơn giá trị gia tăng
73
2.2.
Bảo vệ quyền lợi doanh nghiệp theo luật quản lý thuế
78
2.2.1.
Hình thức kê khai thuế giá trị gia tăng
78
2.2.2.
Phương thức kê khai thuế giá trị gia tăng
79
2.2.3.
Thời hạn nộp thuế giá trị gia tăng
83
2.2.4.
Cơ chế hỗ trợ doanh nghiệp
85
2.3.
Một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật thuế giá trị gia tăng
93
2.3.1.
Kiến nghị đối với Luật Thuế giá trị gia tăng
93
2.3.2.
Kiến nghị đối với Luật Quản lý thuế
96
KẾT LUẬN
100
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
101
6
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
GTGT
: Giá trị gia tăng
NNT
: Người nộp thuế
NSNN
: Ngân sách nhà nước
TTĐB
: Tiêu thụ đặc biệt
7
DANH MỤC CÁC BẢNG
Số hiệu
bảng
Tên bảng
Trang
1.1
Phân loại quy mô các doanh nghiệp vừa và nhỏ năm 2009
26
1.2
Tiêu chí xác định doanh nghiệp lớn ở Việt Nam
26
8
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Chính sách thuế là một trong những nội dung quan trọng của chính
sách tài chính quốc gia được xuất phát từ vai trò quan trọng của thuế trong
việc điều tiết kinh tế vĩ mô nền kinh tế quốc dân, điều tiết mọi hoạt động giữa
các thành phần kinh tế, giữa các ngành, giữa các vùng nhằm đảm bảo sự công
bằng, bình đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ của mọi tổ chức, cá nhân trong xã
hội. Đặc biệt trong giai đoạn hiện nay, khi nước ta đã gia nhập Tổ chức
Thương mại Thế giới (WTO), trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa, các doanh nghiệp với đủ mọi loại hình được tự do, tự chủ, cạnh
tranh công bằng trong hoạt động kinh doanh, hoạt động kinh tế đa dạng,
phong phú thì chính sách thuế ngày càng đóng vai trò quan trọng.
Trong thời gian qua, chính sách và cơ chế quản lý thu thuế đã có nhiều
đổi mới góp phần tăng thu cho ngân sách, khuyến khích sản xuất, kinh doanh
đúng hướng. Chính sách thuế là một bộ phận không thể thiếu được trong hệ
thống chính sách tài chính quốc gia, là một trong những công cụ quản lý vĩ mô
quan trọng trong việc thực hiện đường lối phát triển kinh tế - xã hội của đất
nước. Trong đó, không thể không nhắc đến Luật Thuế giá trị gia tăng (GTGT)
năm 2008, Luật sửa đổi, bổ sung thuế GTGT đã được Quốc hội khóa VIII
thông qua và có hiệu lực từ ngày 1/7/2013. Luật Thuế GTGT sửa đổi, bổ sung
có tác động trực tiếp đến doanh nghiệp và được xem như là một trong các giải
pháp hỗ trợ doanh nghiệp, kích thích nền kinh tế, củng cố nguồn thu cho ngân
sách nhà nước (NSNN) mà Chính phủ đề xuất. Luật thuế GTGT bao gồm các
quy định điều chỉnh các quan hệ thuế GTGT, tác động vào các quan hệ thuế
GTGT nhằm thiết lập và duy trì một trật tự nhất định trong quá trình thực hiện
nghĩa vụ thuế GTGT. Bằng việc điều chính quan hệ thuế GTGT bằng Luật
thuế GTGT, kết hợp với Luật Quản lý thuế điều chỉnh các quan hệ trong hoạt
9
động quản lý thuế, Nhà nước đảm bảo thực hiện chính sách thuế GTGT một
cách hài hòa.
Chính vì thế, vừa để tạo nguồn thu cho ngân sách vừa đảm bảo quyền,
lợi ích của doanh nghiệp nộp thuế thì việc nghiên cứu văn bản quy phạm pháp
luật điều chính về thuế GTGT cũng như cơ chế thực hiện Luật thuế GTGT có
ý nghĩa quan trọng trong đánh giá thực trạng và những giải pháp để hoàn
thiện pháp luật thuế GTGT. Xuất phát từ những điều đó tôi đã mạnh dạn
nghiên cứu đề tài "Bảo vệ quyền lợi của doanh nghiệp trong thi hành pháp
luật thuế giá trị gia tăng ở Việt Nam".
2. Tình hình nghiên cứu
Thời gian qua, thuế GTGT thu hút được sự quan tâm đặc biệt từ các
nhà nghiên cứu luật, do đó đã có nhiều công trình nghiên cứu khoa học công
bố trong lĩnh vực thuế: các công trình nghiên cứu về thuế GTGT, về pháp luật
quản lý thuế, về luật thuế GTGT nhằm hoàn thiện pháp luật thuế ở nước ta.
Các công trình nghiên cứu chủ yếu tập trung nghiên cứu, đánh giá dựa trên
góc độ quản lý Nhà nước nhằm hoàn thiện các quy định về thuế GTGT, tăng
cường hiệu quả chức năng quản lý của cơ quan thuế. Tình trạng này bắt
nguồn từ việc nghiên cứu trên cơ sở luật thực định chưa có sự tách biệt giữa
hai bộ phận pháp luật là pháp luật quy định nội dung sắc thuế GTGT và Luật
Quản lý thuế. Hơn nữa, mô hình quản lý thuế ở Việt Nam mới chuyển mô
hình quản lý chuyên quản sang mô hình quản lý chủ yếu theo chức năng, kết
hợp quản lý theo đối tượng và người nộp thuế (NNT) được đặt ở vị trí trung
tâm trong pháp luật thuế. Vì vậy, luận văn "Bảo vệ quyền lợi của doanh
nghiệp trong thi hành pháp luật thuế giá trị gia tăng ở Việt Nam" là một đề
tài độc lập không có sự lặp lại. Luận văn đi sâu vào nghiên cứu để tìm ra
những tồn tại, hạn chế, đề xuất giải pháp khắc phục cho vấn đề "bảo vệ quyền
lợi của doanh nghiệp".
10
3. Mục đích, lý do chọn đề tài
Vấn đề bảo vệ quyền lợi của doanh nghiệp trong thi hành pháp luật
thuế GTGT được nghiên cứu theo mục đích sau:
- Nghiên cứu những vấn đề lý luận về thuế GTGT và vấn đề bảo vệ
quyền lợi của doanh nghiệp trong pháp luật thuế GTGT.
- Nghiên cứu một cách có hệ thống các quy định của pháp luật hiện
hành về thuế GTGT và pháp luật bảo vệ quyền lợi của doanh nghiệp trong
pháp luật thuế GTGT.
- Thực tiễn áp dụng các quy định của luật, từ đó tìm ra những vấn đề tồn
tại của pháp luật thuế GTGT trong việc bảo vệ quyền lợi ích của doanh nghiệp.
- Đưa ra những kiến nghị hoàn thiện các quy định trong pháp luật thuế
GTGT nhằm bảo vệ một cách có hiệu quả hơn quyền lợi của doanh nghiệp
góp phần tăng tính khả thi của pháp luật thuế GTGT.
4. Phạm vi nghiên cứu đề tài
Bảo vệ quyền lợi của doanh nghiệp trong thi hành pháp luật thuế
GTGT ở Việt Nam được nghiên cứu theo hai phạm vi:
4.1. Về không gian
Vấn đề bảo vệ quyền lợi của doanh nghiệp trong pháp luật thuế
GTGT diễn ra trên phạm vi toàn quốc, theo từng khu vực và đặc biệt ở
những khu vực trung tâm như: Hà Nội, Hải Phòng, Thành phố Hồ Chí
minh… Bên cạnh đó, luận văn nghiên cứu tình hình bảo về quyền lợi doanh
nghiệp trong pháp luật thuế GTGT ở nhiều quốc gia phát triển đã đi trước
mở đường cho Luật Thuế GTGT áp dụng trên phạm vi toàn cầu như Anh,
Hàn Quốc, Đức, Nhật… Như vậy, chúng ta sẽ có cái nhìn toàn cảnh về tình
hình bảo vệ quyền lợi của doanh nghiệp trong pháp luật thuế GTGT theo
pháp luật Việt Nam.
11
4.2. Về thời gian
Nghiên cứu vấn đề bảo vệ quyền lợi của doanh nghiệp trong pháp luật
thuế GTGT theo Luật Thuế GTGT năm 2008, Luật sửa đổi, bổ sung Luật
Thuế GTGT năm 2013, Luật Quản lý thuế năm 2006 và Luật sửa đổi, bổ sung
Luật Quản lý thuế năm 2012.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu đề tài
Luận văn nghiên cứu về bảo về quyền lợi của doanh nghiệp trong thi
hành pháp luật thuế GTGT chủ yếu sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau:
sưu tầm tài liệu, phân tích tài liệu, tổng hợp, so sánh, thống kê số liệu. Trên cơ
sở phân tích các vấn đề lý luận cũng như thực tiễn trong các quy định pháp
luật thuế GTGT ở Việt Nam trong bảo vệ quyền lợi của doanh nghiệp. Luận
văn trình bày một cách trung thực những ưu và nhược điểm của pháp luật hiện
hành và quyền lợi của doanh nghiệp khi thi hành pháp luật thuế GTGT, từ đó
đưa ra một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật thuế GTGT nhằm cân bằng giữa
lợi ích của doanh nghiệp nộp thuế và Nhà nước, bảo vệ tối đa nhất quyền lợi
của doanh nghiệp nộp thuế.
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung của luận văn gồm 2 chương:
Chương 1: Một số vấn đề cơ bản về thuế giá trị gia tăng, pháp luật
thuế giá trị gia tăng và quyền lợi của doanh nghiệp trong pháp luật thuế giá trị
gia tăng.
Chương 2: Thực trạng thi hành pháp luật thuế giá trị gia tăng về quyền
lợi của doanh nghiệp và một số kiến nghị hoàn thiện.
12
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ THUẾ GIÁ TRỊ GIA TĂNG,
PHÁP LUẬT THUẾ GIÁ TRỊ GIA TĂNG VÀ QUYỀN LỢI CỦA
DOANH NGHIỆP TRONG PHÁP LUẬT THUẾ GIÁ TRỊ GIA TĂNG
1.1. NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ THUẾ GIÁ TRỊ GIA TĂNG VÀ PHÁP
LUẬT THUẾ GIÁ TRỊ GIA TĂNG
1.1.1. Khái niệm và đặc điểm thuế giá trị gia tăng
1.1.1.1. Khái niệm thuế giá trị gia tăng
Thuế GTGT là thuế tính trên khoản giá trị tăng thêm của hàng hoá,
dịch vụ phát sinh trong quá trình từ sản xuất, lưu thông đến tiêu dùng (dưới
đây viết tắt là VAT - Value Added Tax). VAT là loại thuế gián thu, đã được
nhiều nước áp dụng để thay cho thuế doanh thu. Được gọi là thuế VAT vì
thuế chỉ đánh trên phần giá trị tăng thêm qua mỗi khâu của quá trình sản xuất -
kinh doanh, và tổng số thuế thu được ở mỗi khâu bằng chính số thuế tính trên
giá bán cho người tiêu dùng cuối cùng. Về bản chất, thuế VAT do các nhà sản
xuất kinh doanh nộp hộ người tiêu dùng thông qua việc tính gộp thuế này vào
giá bán mà người tiêu dùng phải thanh toán bằng chính số thuế tính trên giá
bán cho người tiêu dùng cuối cùng. Theo Luật thuế GTGT số 13/2008/QH12,
thuế GTGT được định nghĩa như sau: "Thuế giá trị gia tăng là thuế thu trên
phần giá trị tăng thêm của hàng hóa, dịch vụ phát sinh trong quá trình tư sản
xuất, lưu thông đến tiêu dùng" [29].
1.1.1.2. Đặc điểm thuế giá trị gia tăng
Thứ nhất, thuế GTGT có đối tượng chịu thuế rất rộng. Mọi đối tượng
tồn tại trong xã hội cho dù là tổ chức hay cá nhân, là người nghèo hay người
có thu nhập cao đều phải chi trả thu nhập của mình để thụ hưởng kết quả sản
xuất kinh doanh tạo ra cho nền kinh tế - xã hội. Điều này có nghĩa, mọi đối
13
tượng trong xã hội đều là chủ thể chịu thuế, chủ thể thực tế phải trả quan
trọng tới sự tác động của pháp luật thuế GTGT, đối với đời sống kinh tế, xã
hội. Việc đánh thuế đối với mọi đối tượng trên phạm vi lãnh thổ thể hiện rõ
nét sự công bằng của thuế đồng thời thể hiện thái độ của nhà nước đối với các
loại tiêu dùng trong xã hội [39, tr. 149].
Thứ hai, thuế GTGT tính trên giá trị tăng thêm của hàng hóa, dịch vụ.
Việc đánh thuế chỉ trên phần giá trị tăng thêm mà không phải đối với toàn bộ
giá trị hàng hóa dịch vụ làm cho số thuế GTGT áp dụng trong mỗi khâu của
quá trình lưu thông không gây ra những đột biến về giá cả cho người tiêu
dùng. Đặc điểm này của thuế GTGT còn yêu cầu pháp luật điều chỉnh phải
tìm ra cách thức, phương thức phù hợp, có tính khả thi để xác định chính xác
phần giá trị tăng thêm làm căn cứ tính thuế.
Thứ ba, nếu dựa trên giá mua cuối cùng của hàng hóa dịch vụ, số thuế
GTGT phải nộp không thay đổi phụ thuộc vào các giai đoạn lưu thông khác
nhau. Đánh thuế ở tất cả các khâu của quá trình sản xuất, lưu thông hàng hóa
ở trong nước, khâu nhập khẩu và lưu thông hàng nhập khẩu nhưng cơ sở xác
định số thuế phải nộp chỉ là phần giá trị mới tăng thêm của khâu sau so với
khâu trước nên nếu coi giá thanh toán tính đến khi người tiêu dùng thụ hưởng
hàng hóa dịch vụ đã xác định trước và không thay đổi các phần giá trị hàng
hóa dịch vụ có bị chia nhỏ và đánh thuế, tổng số thuế GTGT phải nộp qua các
khâu chính là số thuế cuối cùng tính trên tổng giá trị hàng hóa dịch vụ mà
người tiêu dùng phải chịu. Đây vừa là đặc điểm vừa là ưu việt của thuế GTGT
so với thuế hàng hóa dịch vụ thông thường mà Việt Nam và nhiều quốc giá
khác đã áp dụng trong giai đoạn trước đây [39, tr. 149].
1.1.2. Vai trò của thuế giá trị gia tăng và pháp luật thuế giá trị gia tăng
1.1.2.1. Vai trò của thuế giá trị gia tăng
- Khắc phục được nhược điểm trùng lắp "Thuế thu trên thuế" nên góp
phần khuyến khích chuyên môn hóa, hợp tác hóa để nâng cao năng suất chất
14
lượng, hạ giá thành sản phẩm, phù hợp với nền kinh tế sản xuất hàng hóa theo
cơ chế thị trường.
- Thuế GTGT được áp dụng rộng rãi với mọi tổ chức và cá nhân có
tiêu dùng sản phẩm, hàng hóa hoặc được cung ứng dịch vụ, thuế GTGT chỉ
tính vào phần giá trị tăng thêm, không tính vào vốn nên thuế GTGT không
những đảm bảo được nguồn thu cho NSNN tương ứng với số thuế doanh thu
trước đây mà còn góp phần thúc đẩy sản xuất kinh doanh. Trên cơ sở đó để
tăng thu cho NSNN. Thuế GTGT hàng năm ở các nước thuộc OECD (Tổ
chức Hợp tác và Phát triển kinh tế) chiếm 18,7%. Ở Việt Nam, thuế GTGT
đóng góp vào NSNN liên tục tăng, đem lại 742.650 tỷ đồng, chiếm 26,08%
trong tổng nguồn thu về thuế trong năm 2012 [15], Có thể thấy, thuế GTGT
đóng góp phần quan trọng với tỷ lệ lớn nguồn thuế nộp vào NSNN hàng năm.
Đối với nhận thức của người nộp sắc thuế này thì đây là một sắc thuế hấp dẫn
hơn các sắc thuế khác vì bản chất của nó: NNT biết những gì họ phải trả và
nếu họ không mua hàng hóa thì họ không phải trả tiền thuế. Do có ít tác động
tiêu cực đối với tâm lý của NNT nên số thuế GTGT thu được cũng chiếm tỷ lệ
cao và tốt cho tăng trưởng kinh tế hơn so với thuế khác (điển hình như thuế
thu nhập).
- Thuế GTGT thu cả đối với hàng hóa nhập khẩu tạo sự bình đẳng
trong kinh doanh giữa các doanh nghiệp nhập khẩu và doanh nghiệp sản xuất
kinh doanh trong nước.
- Khi áp dụng Luật thuế GTGT đã tạo cho doanh nghiệp cơ chế tự
kiểm tra, hạn chế việc kinh doanh trốn thuế. Thuế GTGT đã góp phần vào
việc hoàn thiện hệ thống chính sách thuế ở nước ta phù hợp với thông lệ quốc
tế, phù hợp với kinh tế thị trường, tạo điều kiện để tham gia mở rộng quan hệ
kinh tế quốc tế, nhanh chóng hội nhập với kinh tế khu vực và thế giới.
Tuy nhiên, bên cạnh những điểm lợi của thuế GTGT thì thuế GTGT
cũng có mặt hạn chế nhất định bởi chi phí về quản lý thu thuế GTGT rất tốn
15
kém. Thuế GTGT có ít thuế suất nên tính chất điều tiết của thuế không cao.
Người tiêu dùng có thu nhập cao hay thấp thường phải chịu thuế như nhau.
Thuế GTGT không đảm bảo yêu cầu công bằng trong chính sách động viên
giữa người giàu và người nghèo.
1.1.2.2. Vai trò của pháp luật thuế giá trị gia tăng
Thuế GTGT có tầm quan trọng như vậy nên việc pháp điển hóa thuế
GTGT càng có ý nghĩa sâu sắc. Hệ thống thuế của một quốc gia có nhiều sắc
thuế khác nhau mà thuế GTGT là một trong số đó. Phụ thuộc vào tình hình
kinh tế xã hội ở mỗi nước và trình độ lập pháp, sự lựa chọn của các nhà làm
luật khác nhau mà việc xây dựng pháp luật thuế lại khác nhau. Có nước quy
định tất cả các sắc thuế trong một Bộ luật, trong đó vừa có quy định về nội
dung điều chỉnh đối với các đối tượng chịu thuế vừa quy định về trình tự, thủ
tục thực hiện và cơ chế quản lý, xử lý vi phạm, giải quyết tranh chấp đối với
sắc thuế đó. Có nước lại có một đạo luật riêng về nội dung từng sắc thuế và
đạo luật riêng về quản lý thuế. Tuy nhiên nhìn vào bản chất khi doanh nghiệp
thực thi một sắc thuế cụ thể thì doanh nghiệp cần thực hiện theo nội dung các
quy định của sắc thuế cũng như các quy định về trình tự để thực hiện sắc thuế
đó. Vì vậy, dù pháp luật thuế GTGT dù được xây dựng theo hình thức nào thì
pháp luật thuế GTGT cũng gồm hai bộ phận: luật nội dung là luật thuế GTGT
và luật hình thức là luật quản lý thuế.
* Vai trò của Luật Thuế GTGT
Luật thuế GTGT khuyến khích việc sản xuất hàng hoá xuất khẩu và
xuất khẩu thay vì luật thuế cũ khuyến khích sản xuất hàng thay thế hàng nhập
khẩu, đặc biệt Luật thuế GTGT đã khuyến khích sản xuất, kinh doanh những mặt
hàng mà Việt Nam có thế mạnh: nông sản, lâm sản, hải sản, thủ công mỹ nghệ.
Đặc biệt Luật thuế GTGT góp phần đến công tác quản lý của doanh
nghiệp tạo điều kiện cho cơ quan Nhà nước kiểm tra, giám sát hoạt động kinh
doanh của các doanh nghiệp, tăng cường công tác hạch toán, kế toán và thúc
16
đẩy việc mua bán hoá đơn GTGT ở các doanh nghiệp. Do yêu cầu của việc kê
khai thuế GTGT, khấu trừ thuế GTGT đầu vào, tính đúng thu nhập của doanh
nghiệp nên những người làm công tác quản lý kinh doanh đã bắt đầu trú trọng
đến công tác mở sổ kế toán, ghi chép, quản lý và sử dụng hoá đơn chứng từ.
Thông qua việc chấp hành công tác kế toán, hoá đơn chứng từ của các doanh
nghiệp, qua việc kê khai thuế, hoàn thuế, quyết toán thuế đã giúp cơ quan
chức năng và cơ quan thuế từng bước nắm được tình hình kinh doanh của các
doanh nghiệp.
Luật thuế GTGT có tác động trực tiếp đến doanh nghiệp và được xem
như là một trong những giải pháp hỗ trợ doanh nghiệp, kích thích nền kinh.
góp phần thúc đẩy sản xuất phát triển, mở rộng lưu thông hàng hoá và đẩy
mạnh xuất khẩu. Quá trình triển khai thực hiện Luật thuế GTGT đã đi vào
cuộc sống, tác động tích cực đến nhiều mặt kinh tế - xã hội của đất nước và đã
đạt được những mục tiêu đề ra khi ban hành luật là góp phần thúc đẩy sản
xuất kinh doanh phát triển, bảo đảm nguồn thu cho NSNN.
* Vai trò của Luật Quản lý thuế
- Luật quản lý thuế là căn cứ để cơ quan nhà nước xác định rõ hơn vai
trò, trách nhiệm tổ chức, cá nhân có liên quan trong quản lý thuế; trách nhiệm,
quyền lợi, nghĩa vụ, tính chủ động của NNT được đề cao thông qua cơ chế tự
tính, tự khai, tự nộp thuế, đảm bảo phù hợp với thông lệ quốc tế.
- Luật quản lý thuế đã góp phần thay đổi cơ bản diện mạo công tác thu
thuế, quản lý của cơ quan thuế, chuyển từ quản lý truyền thống mang tính thủ
công sang phương thức quản lý hiện đại theo cơ chế NNT tự tính, tự khai, tự
nộp thuế và tự chịu trách nhiệm về thực hiện nghĩa vụ thuế theo pháp luật
thuế, hỗ trợ NNT thực hiện tốt nghĩa vụ thuế.
- Luật quản lý thuế tạo sự đồng bộ , nâng cao tính rõ ràng , minh bạch
trong công tác hành thu ; tăng cường vai trò kiểm tra giám sát của Nhà nước ,
xã hội trong công tác quản lý thuế; là cơ sở pháp lý để NNT thực hiện thuế
17
GTGT, góp phần tạo môi trường thuận lợi cho NNT tuân thủ pháp luật về
thuế, tự giác nộp đúng, đủ, kịp thời tiền thuế vào NSNN.
1.1.3. Lịch sử hình thành phát triển của pháp luật thuế giá trị gia tăng
Thuế GTGT ra đời muộn trong lịch sử phát triển của thuế. Một doanh
nhân người Đức, Wilhelm von Siemens đưa ra ý tưởng đầu tiên vào năm 1920.
Ông đặt ra ý tưởng là đặt ra một loại thuế dựa trên phần giá trị tăng thêm ở
từng giai đoạn sản xuất. Tuy nhiên phải đến khi một người Pháp là Maruice
Laure, một quan chức thuế đề xướng và giúp hiện thực sắc thuế này trên thực tế.
Năm 1954 thuế GTGT được áp dụng tại Pháp dưới hình thức đánh thuế vào
giai đoạn sản xuất. Đến năm 1968, thuế này được nhập vào thuế lưu thông
đánh vào dịch vụ và thuế địa phương đánh vào lưu thông bán lẻ thành một
loại thuế thống nhất chung [42]. Từ đó đến này, thuế GTGT đã thể hiện tính
ưu việt của mình nên thuế GTGT ngày càng được áp dụng rộng rãi ở nhiều
nước trên thế giới dưới các tên gọi khác nhau như TVA (Pháp); VAT (Anh);
Thuế hàng hóa và dịch vụ (Úc, Cannada, Singapore), Thuế tiêu dùng (Nhật
Bản)… Thuế GTGT được sớm áp dụng ở Châu Âu, chỉ hơn hai mươi năm sau
khi ra đời hình thức sơ khai đầu tiên, nó đã được coi là một trong những điều
kiện tiên quyết để gia nhập khối EC (năm 1977). Sau 80 năm, thuế GTGT phủ
sóng khắp Tây Châu Âu và Mỹ La tinh. Ngày nay, Thuế GTGT được áp dụng
ở 150 quốc gia và chiếm tỉ lệ 1/5 tổng nguồn thu về thuế. Tất cả các nước
OECD, ngoại trừ Mỹ đều có hệ thống thuế GTGT của riêng mình [42].
Trước khi Luật Quản lý thuế được ban hành, ở nước ta các thủ tục
hành chính thuế được quy định rải rác trong nhiều văn bản pháp luật. Chỉ đến
khi luật quản lý thuế được ban hành ngày 29/11/2006 quy định thống nhất
chính sách quản lý thuế thì pháp luật thuế GTGT mới cơ bản hoàn chỉnh, khắc
phục được những hạn chế của các quy định về thủ tục hành chính, thay đổi
căn bản phương thức quản lý thuế, NNT tự tính, tự khai, tự nộp thuế và tự
chịu trách nhiệm về nghĩa vụ thuế, tạo điều kiện cho NNT chấp hành tốt pháp
18
luật thuế GTGT nói riêng và pháp luật thuế nói chung. Luật quản lý thuế được
coi là một bước tiến quan trọng trong công tác cải cách thủ tục hành chính về
quản lý thuế và các khoản phải thu nộp NSNN.
Ngược lại, đối với luật nội dung: Luật thuế GTGT đã trải qua nhiều
lần thay thế, sửa đổi, bổ sung. Năm 1997, Quốc hội khóa X thông qua Luật
thuế GTGT thay thế cho Luật thuế doanh thu; trải qua hai lần sửa đổi, bổ sung
năm 2003 và 2005, đến năm 2008, Quốc hội khóa XII thông qua Luật thuế
GTGT mới và đến nay năm 2013, tại kỳ họp Quốc hội khóa XIII, Luật thuế
GTGT một lần nữa được sửa đổi, bổ sung để ngày càng phù hợp với thực thế,
đáp ứng yêu cầu với chiến lược cải cách thuế tới năm 2020.
1.2. NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ QUẢN LÝ THUẾ VÀ PHÁP LUẬT
QUẢN LÝ THUẾ
1.2.1. Khái niệm quản lý thuế
Theo Luật quản lý thuế Trung Quốc: "Quản lý thuế là một chuỗi các
hoạt động bảo đảm mục tiêu thu ngân sách nhà nước bao gồm: quản lý đăng
ký thuế, quản lý sổ sách chứng từ, quản lý khai báo nộp thuế, truy thu tièn
thuế, kiểm tra thuế và đảm bảo trách nhiệm pháp luật về thuế" [13, tr. 18].
Theo Điều 3 Luật Quản lý thuế hiện hành của Việt Nam liệt kê các nội dung
quản lý thuế gồm:
Đăng ký thuế, khai thuế, nộp thuế, ấn định thuế; thủ tục
hoàn thuế, miễn thuế, giảm thuế; xóa nợ tiền thuế, tiền phạt; quản lý
thông tin về người nộp thuế; kiểm tra thuế, thanh tra thuế; cưỡng
chế thi hành quyết định hành chính thuế; xử lý vi phạm pháp luật về
thuế; giải quyết khiếu nại, tố cáo về thuế [28].
Luật Quản lý thuế của Trung Quốc và Việt Nam đều đưa ra khái niệm
quản lý thuế dựa trên sự liệt kê các nhiệm vụ quản lý, các hoạt động tổ chức
điều hành của cơ quan thuế.
19
Theo Tổng cục Thuế Latvia cho rằng:
Quản lý thuế là hệ thống các quá trình có mối quan hệ chặt
chẽ nhằm đảm bảo mục tiêu thu thuế đúng, đủ và công bằng trên cơ
sở của pháp luật thuế, bao gồm các hoạt động thu nhận, hồ sơ khai
thuế, tính toán số thuế phải nộp, đôn đốc thu nộp thuế và cung cấp
dịch vụ tư vấn cho người nộp thuế [32, tr. 25].
Theo tài liệu của Viện Nghiên cứu lập pháp - Quốc hội Việt Nam năm
2011: Quản lý thuế là hoạt động quản lý hành chính trong lĩnh vực thuế. Cụ
thể, quản lý thuế là việc tổ chức và điều khiển của các cơ quan có thẩm quyền
đối với cá nhân, doanh nghiệp hay các chủ thể khác nhằm tuân thủ các quy
định của pháp luật thuế [32, tr. 25]. Cùng với sự ra đời của thuế thì quản lý ra
đời như một dạng quản lý của Nhà nước gắn với quyền lực nhà nước, quản lý
thuế bao gồm tất cả các hoạt động của Nhà nước liên quan đến thuế như: tổ
chức, điều hành thực hiện thuế, ban hành các văn bản pháp luật về thuế, xử lý
vi phạm pháp luật thuế.
1.2.2. Khái niệm luật quản lý thuế và mối quan hệ đối với Luật
thuế giá trị gia tăng trong việc bảo vệ quyền lợi của doanh nghiệp
Trên thế giới hiện nay, hệ thống pháp luật thuế ở các quốc gia có cấu
trúc khác nhau. Ở nhiều quốc gia, tất cả các sắc thuế được tập hợp quy định
trong một bộ luật chung về thuế, gọi là Bộ luật thuế vụ. Trong bộ luật này, cơ
quan nhà lập pháp vừa quy định về nội dung cụ thể của các sắc thuế trong hệ
thống thuế vừa quy định trình tự, thủ tục hành chính, cơ chế quản lý thuế và
cơ chế xử lý vi phạm, giải quyết tranh chấp về thuế. Ở những quốc gia khác
thì mỗi sắc thuế lại được quy định trong một đạo luật riêng, độc lập với nhau,
các quy định về quản lý thuế được tách ra thành một đạo luật riêng, độc lập
với các sắc thuế. Tuy nhiên, các quy định trong các đạo luật này tương thích
với nhau. Cấu trúc này được cho là phù hợp với điều kiện kinh tế toàn cầu,
nền kinh tế có nhiều biến động, vì nó cho phép nhà làm luật có thể sửa đổi các
20
quy định trong đạo luật thuế dễ dàng hơn, so với việc đưa tất cả các quy định
về thuế trong một bộ luật chung về thuế. Như vậy pháp luật thuế GTGT (một
bộ phận của pháp luật thuế có tính độc lập tương đối) dù được xây dựng, thiết
kế theo xu hướng nào thì giữa pháp luật quản lý thuế và pháp luật quy định
từng sắc thuế bao giờ cũng có mối quan hệ biện chứng, thống nhất với nhau.
Theo TS. Nguyễn Thị Thương Huyền:
Xét về lý thuyết, pháp luật thuế bao gồm: pháp luật vật chất
hay còn gọi pháp luật nội dung và pháp luật thủ tục hay còn gọi là
pháp luật hình thức; Trong đó pháp luật nội dung ghi nhận, phản
ánh chính sách thuế, còn pháp luật thủ tục quy định các vấn đề về
quản lý thuế [19, tr. 51].
Pháp luật về nội dung từng sắc thuế là cơ sở, tiền đề để xây dựng và
hoàn thiện pháp luật quản lý thuế trong khi pháp luật quản lý thuế là pháp luật
về tổ chức thực hiện các luật thuế, đưa luật thuế vào cuộc sống, hiện thực hóa
các quy định của luật thuế. Theo cách hiểu này, pháp luật thuế GTGT được
cấu thành từ hai bộ phận chính: Một là các quy định về thuế GTGT gọi là
Luật thuế GTGT, hai là các quy định về quyền, nghĩa vụ của NNT, cơ quan
quản lý thuế và các chủ thể liên quan đến quản lý thuế GTGT; quy định trình
tự thủ tục, cách thức, phương pháp tổ chức thực hiện luật thuế GTGT.
Rõ ràng, luật quản lý thuế GTGT là một bộ phận quan trọng trong
pháp luật thuế GTGT ở các quốc gia, là công cụ chủ yếu được nhà nước sử
dụng để thực hiện công tác quản lý thuế GTGT. Luật Thuế GTGT và Luật
quản lý thuế cùng tham gia điều chỉnh quan hệ giữa cơ quan quản lý thuế với
NNT phát sinh trong quá trình quản lý thu, nộp các loại thuế; quan hệ giữa cơ
quan quản lý thuế với NNT với các cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan,
quan hệ giữa NNT với các chủ thể khác có liên quan đến việc thực hiện quyền
và nghĩa vụ của NNT, ngoài ra còn quan hệ phát sinh trong nội bộ cơ quan
quản lý thuế. Luật quản lý thuế có phạm vi điều chỉnh các quan hệ xã hội phát
21
sinh trong hoạt động quản lý thuế của Nhà nước, hay nói cách khác là các mối
quan hệ phát sinh trong quá trình tổ chức thực hiện luật các sắc thuế riêng.
Chính vì thế, doanh nghiệp khi tham gia vào quan hệ thuế GTGT sẽ là đối
tượng nộp thuế chịu sự chi phối không chỉ bởi Luật nội dung là luật thuế
GTGT mà còn bởi Luật hình thức là Luật quản lý thuế. Luật Quản lý thuế
hiện hành của Việt Nam liệt kê các nội dung quản lý thuế gồm: Đăng ký thuế,
khai thuế, nộp thuế, ấn định thuế; Thủ tục hoàn thuế, miễn thuế, giảm thuế;
Xoá nợ tiền thuế, tiền phạt; Quản lý thông tin về người nộp thuế; Kiểm tra
thuế, thanh tra thuế; Cưỡng chế thi hành quyết định hành chính thuế; Xử lý vi
phạm pháp luật về thuế; Giải quyết khiếu nại, tố cáo về thuế [28]. Doanh
nghiệp nộp thuế GTGT đều phải tuân theo trình tự theo như luật quản lý thuế
đã quy định. Vì vậy, để bảo đảm quyền và lợi ích cho doanh nghiệp, phù hợp
với các quy định về thuế GTGT thì khi xây dựng và hoàn thiện luật quản lý
thuế cần có sự cân nhắc cẩn trọng.
1.2.3. Cơ chế quản lý thuế
Trong khoa học quản lý thì:
Cơ chế quản lý là hệ thống các quy tắc điều chỉnh các hành
vi, hoạt động của các chủ thể trong hệ thống quản lý; là hệ thống
các biện pháp, hình thức, cách thức tổ chức, điều khiển nhằm duy
trì các mối quan hệ các chủ thể trong hệ thống quản lý đó phù hợp
với những quy luật khách quan theo mục tiêu đã xác định để đảm
bảo cho hoạt động của hệ thống thông suốt [14].
Theo đó, cơ chế quản lý cấu thành từ hai bộ phận: một là các quy tắc
điều chỉnh của từng bộ phận trong hệ thống quản lý đó, hai là hệ thống bộ
máy tổ chức, quản lý thực hiện. Trong quản lý thuế GTGT, NNT có trách
nhiệm thực hiện nghĩa vụ thuế với Nhà nước theo quy định trong pháp luật
thuế GTGT, còn các cơ quan quản lý thuế được giao trách nhiệm tổ chức điều
hành giám sát, đảm bảo việc thực hiện đúng pháp luật thuế GTGT, đảm bảo
22
mục tiêu thu đúng thu đủ thuế cho NSNN. Cách thức, tổ chức thực hiện các
hoạt động này được gọi là cơ chế quản lý thuế.
Pháp luật thuế GTGT là một yếu tố tiên quyết cấu thành nên cơ chế
thế. Đối với cơ chế quản lý thuế khác nhau mà pháp luật có những điều chỉnh
khác nhau.
Trên thế giới có hai loại cơ chế quản lý thuế: cơ chế cơ quan quản lý tính
thuế và cơ chế NNT tự tính thuế, hay còn lại là thuế NNT tự khai, tự nộp thuế.
- Cơ chế cơ quan tính thuế: Theo cơ chế này đòi hỏi cán bộ thuế phải
kiểm tra các tờ khai thuế, các khoản thu dựa trên những số liệu mà cơ quan
thuế có được để xác định số thuế chính thức phải nộp và ra thông báo thuế
cho doanh nghiệp nộp thuế thực hiện. Cơ chế này không khuyến khích NNT
tự giác tuân thủ mà đặt nặng trách nhiệm của cơ quan quản lý thuế. Vì vậy, hệ
thống quản lý thuế sẽ trở nên cồng kềnh hơn do số lượng cán bộ thuế gia tăng
để đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của nền kinh tế, số lượng các doanh nghiệp
đóng thuế ngày càng nhiều. Cơ chế tính thuế này mang tính chất truyền thống
khi doanh nghiệp nộp thuế không được đặt ở vị trí trung tâm, mọi cải cách
đều hướng đến nhằm tăng cường hoạt động của cơ quan quản lý thuế trong việc
thu thuế cho NSNN, doanh nghiệp có vị trí là đối tượng bị quản lý, bị cai trị.
- Cơ chế tự khai, tự nộp thuế: Khi nền kinh tế thị trường phát triển và
lan rộng ở khắp các quốc gia trên thế giới đồng thời nền dân chủ cũng được
mở rộng, nâng cao và tác động đến nhận thức của doanh nghiệp và cơ quan
thuế. Việc đăng ký, kê khai, nộp thuế không chỉ đơn thuần là nghĩa vụ của đối
tượng là doanh nghiệp nộp thuế mà xét ở góc độ nào đó còn là quyền của đối
tượng nộp thuế: quyền được đăng ký nộp thuế, quyền được kê khai thuế,
quyền được tính thuế, quyền được chủ động nộp thuế vào NSNN. Ngày nay,
doanh nghiệp ngày càng có ý thức nghĩa vụ thuế của mình, vai trò ý nghĩa của
việc nộp thuế đối với NSNN, cơ quan thuế ý thức được chức năng, nhiệm vụ
của mình trong hoạt động quản lý thuế, hệ thống thuế. Do đó, nhiều quốc gia
23
đã thay đổi cơ chế quản lý thuế của mình, chuyển sang áp dụng quản lý thuế
theo cơ chế tự khai, tự nộp. Việc áp dụng cơ chế tự khai, tự nộp thuế đã là vấn
đề nổi bật trong quản lý thuế vào những năm đầu thập kỷ 90 của thế kỷ 20.
Một số nước như: Anh, Pháp thực hiện cơ chế tự khai, tự nộp thuế từng bước,
trước tiên là áp dụng đối với thuế GTGT, sau đó được đưa vào áp dụng cho
các sắc thuế khác. Tại một số nước như: Mỹ, Nhật Bản, Đan Mạch, Thụy
Điển, cơ chế tự khai, tự nộp thuế đã được áp dụng từ nhiều thập kỷ trước,
nhằm mục tiêu thực hiện dân chủ hóa hệ thống quản lý thuế. Tại các nước có
nền kinh tế mới nổi, các nước ASEAN như: Philipin, Inđônêxia, Thái Lan,
Malaixia, Việt Nam…, việc áp dụng cơ chế tự khai tự nộp thuế được coi là
trọng tâm của cải cách pháp luật về quản lý thuế [34].
Theo cơ chế này, việc kê khai, tính thuế, nộp thuế được thực hiện trên
nền tảng sự tuân thủ tự giác về nghĩa vụ thuế của doanh nghiệp nộp thuế.
NNT căn cứ các quy định của pháp luật thuế để xác định các loại thuế phải nộp,
tự kê khai, tự tính thuế, tự nộp số thuế đã tính vào NSNN. Đặc điểm cốt lõi của
cơ chế tự khai - tự nộp là xác định trách nhiệm của doanh nghiệp nộp thuế tự
xác định doanh thu, chi phí và từ đó lập tờ khai thuế đúng kỳ hạn và nộp thuế.
Tờ khai được gửi đến cơ quan thuế trực tiếp quản lý và sẽ được cơ quan thuế
chuyển thông tin sang hệ thống Kho bạc, ngân hàng để thực hiện thủ tục nộp
thuế. NNT có trách nhiệm lưu giữ chứng từ, sổ sách kế toán để chứng minh
các số liệu đã kê khai còn cơ quan thuế có nhiệm vụ hướng dẫn để doanh nghiệp
nộp thuế hiểu rõ chính sách thuế, các thủ tục về thuế và giám sát, quản lý việc
tuân thủ nghĩa vụ thuế thông qua công tác, kiểm tra, thanh tra để phát hiện, xử
lý kịp thời, đúng đắn những hành vi gian lận, trốn thuế của doanh nghiệp.
Cơ chế tự khai tự nộp thuế có nhiều ưu điểm: đảm bảo cân bằng quyền
lợi giữa cơ quan quản lý thuế và doanh nghiệp bởi cơ chế tự khai, tự nộp thuế
giảm bớt sức ép về thuế lên doanh nghiệp, cơ quan quản lý thuế không khoán
thuế, ép thuế đối với doanh nghiệp mà để doanh nghiệp tự tính và tự nộp thuế
đồng thời tự chịu trách nhiệm với hành vi của mình. Theo cơ chế này, doanh
24
nghiệp được đặt ở vị trí trung tâm, cơ quan quản lý thuế hỗ trợ, hướng dẫn
doanh nghiệp thực hiện đầy đủ nghĩa vụ của họ đối với nhà nước, đề cao
quyền, nghĩa vụ của doanh nghiệp trong quá trình thực hiện Luật Thuế
GTGT. Doanh nghiệp tự chủ trong hoạt động kê khai và nộp thuế đồng thời
chịu trách nhiệm đối với hành vi của mình trong từng khâu của việc thực hiện
thuế GTGT. Cơ quan quản lý thuế thực hiện cân bằng giữa hai chức năng:
chức năng phục vụ, cung cấp dịch vụ thuế cho doanh nghiệp và chức năng
giám sát, chức năng quản lý nhà nước, kiểm tra hoạt động tuân thủ pháp luật
thuế đối với doanh nghiệp nộp thuế. Cơ quan thuế không can thiệp vào quá
trình kê khai, nộp thuế của doanh nghiệp nhưng cơ quan thuế sẽ tiến hành
thanh tra, kiểm tra và áp dụng các biện pháp xử phạt, cưỡng chế theo luật định
đối với những trường hợp có hành vi vi phạm pháp luật về thuế như không
nộp thuế, trốn thuế, gian lận thuế… Áp dụng cơ chế tự khai, tự nộp thuế này,
cơ quan thuế còn tiết kiệm được chi phí hành chính về thuế, công sức, nguồn
nhân lực khi mà cơ quan thuế không phải gửi hàng triệu thông báo thuế hàng
tháng. Cơ quan quản lý thuế có điều kiện để đầu tư vào chức năng như: hỗ
trợ, tư vấn cho doanh nghiệp, thanh tra, kiểm tra, cưỡng chế về thuế.
Tuy nhiên, áp dụng cơ chế tự khai, tự nộp có hiệu quả hay không còn
phụ thuộc vào các điều kiện sau:
+ Nhà nước phải có hệ thống thuế thực sự minh bạch, doanh nghiệp
có thể dễ dàng tiếp cận, tìm hiểu chính sách thuế. Đặc biệt các thủ tục như
đăng ký thuế, kê khai, nộp thuế, hoàn thuế … phải đơn giản để doanh nghiệp
hoàn thành nghĩa vụ thuế một cách thuận tiện.
+ Cơ quan thuế phải tăng cường công tác tuyên truyền, phổ biến và
giải đáp các vướng mắc về chính sách, chế độ thủ tục về thuế mà các tổ chức,
cá nhân thường gặp trong quá trình kê khai, nộp thuế để doanh nghiệp thực
hiện tốt nghĩa vụ thuế của mình đối với Nhà nước.
+ Chế tài đủ sức răn đe đối với các hành vi vi phạm để đảm bảo hiệu
quả của hoạt động quản lý thuế, tính thực tiễn của luật thuế GTGT, luật quản
25
lý thuế và đảm bảo nguồn thu cho NSNN. Thanh tra thuế phải kịp thời phát
hiện, ngăn chặn đối với các hành vi vi phạm, trốn thuế, gian lận thuế, … tránh
tình trạng thất thoát đi NSNN.
1.2.4. Mô hình quản lý thuế giá trị gia tăng
Mô hình quản lý thuế là việc xác định cơ cấu tổ chức, bộ máy quản lý
thuế theo một nguyên tắc chủ đạo nhất định, đồng thời xác định số lượng các
bộ phận, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn cho từng bộ phận trong cơ cấu tổ
chức đó; thực hiện phân bổ nguồn nhân lực một cách hợp lý nhằm hình thành
bộ máy quản lý thuế phù hợp, đảm bảo tính thống nhất, thực hiện đầy đủ, có
hiệu quả các chức năng quản lý thuế. Trên thế giới, có nhiều mô hình tổ chức
quản lý thuế, chẳng hạn như: Mô hình tổ chức quản lý thuế theo sắc thuế, mô
hình tổ chức bộ máy theo nhóm đối tượng nộp thuế, mô hình tổ chức bộ máy
theo chức năng, mô hình kết hợp giữa các nguyên tắc quản lý thuế… Mỗi mô
hình điều có ưu nhược điểm riêng, nhưng nhìn chung đều đáp ứng yêu cầu
quản lý thuế nhằm tạo điều kiện thực hiện phương pháp quản lý và phân bổ
nguồn lực phù hợp với những rủi ro về quản lý thuế đối với các nhóm đối
tượng nộp thuế khác nhau, tạo ra sự an toàn cho việc thu ngân sách.
Trong các mô hình quản lý thuế thì mô hình quản lý thuế thì mô hình
quản lý thuế hỗn hợp được áp dụng phổ biến nhất và có nhiều ưu điểm vượt
trội. Mô hình quản lý thuế hỗn hợp là mô hình quản lý kết hợp giữa ba tiêu
chí của ba loại mô hình phía trên. Hiện nay, mô hình quản lý thuế hỗn hợp,
kết hợp giữa hai tiêu chí: chức năng và nhóm đối tượng nộp thuế được áp
dụng rộng rãi ở nhiều quốc gia tiên tiến trên thế giới.
Ở mô hình quản lý thuế GTGT ở các quốc gia trên thế giới khi tổ
chức theo mô hình quản lý thuế hỗn hợp thường có sự kết hợp giữa tiêu chí
quản lý thuế GTGT theo chức năng và quản lý sắc thuế thuế GTGT theo
nhóm đối tượng nộp thuế. Nhóm đối tượng nộp thuế có thể được phân chia
theo mức độ tuân thủ, đặc điểm của NNT: quy mô, ngành nghề… nhằm giúp