Tải bản đầy đủ (.pdf) (110 trang)

Pháp luật về các biện pháp hạn chế rủi ro trong hoạt động cho vay của các ngân hàng thương mại ở Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.11 MB, 110 trang )

Đại học Quốc gia Hà nội
Khoa luật



Đinh Thị Thùy Nga




Pháp luật về các biện pháp
hạn chế rủi ro trong hoạt động cho vay
của các ngân hàng thương mại ở việt nam




Luận văn thạc sĩ luật học










Hà nội - 2010








Đại học Quốc gia Hà nội
Khoa luật



Đinh Thị Thùy Nga




Pháp luật về các biện pháp
hạn chế rủi ro trong hoạt động cho vay
của các ngân hàng thương mại ở việt nam

Chuyên ngành : Luật kinh tế
Mã số : 60 38 50


luận văn thạc sĩ luật học



Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Lê Thị Thu Thủy



Hà nội - 2010




MỤC LỤC



Trang

Trang phụ bìa


Lời cam đoan


Mục lục


Danh mục các từ viết tắt


Danh mục các sơ đồ


MỞ ĐẦU
1

Chương 1: TỔNG QUAN VỀ RỦI RO VÀ CÁC BIỆN PHÁP HẠN

CHẾ RỦI RO TRONG HOẠT ĐỘNG CHO VAY CỦA
NGÂN HÀNG THƢƠNG MẠI
5
1.1.
Những vấn đề chung về hoạt động cho vay của ngân hàng
thương mại
5
1.1.1.
Khái niệm về hoạt động cho vay
6
1.1.2.
Đặc điểm của hoạt động cho vay
8
1.1.3.
Vai trò của hoạt động cho vay
9
1.1.3.1.
Vai trò đối với nền kinh tế
9
1.1.3.2.
Vai trò đối với người đi vay
10
1.1.3.3.
Vai trò đối với ngân hàng
11
1.2.
Rủi ro trong hoạt động cho vay của ngân hàng thương mại
11
1.2.1.
Khái niệm rủi ro trong hoạt động cho vay

11
1.2.2.
Các chỉ tiêu đánh giá độ rủi ro trong hoạt động cho vay của
ngân hàng thương mại
16
1.2.2.1.
Tỷ lệ nợ quá hạn
16
1.2.2.2.
Tỷ trọng nợ xấu
17
1.2.2.3.
Hệ số rủi ro tín dụng
20
1.2.3.
Hậu quả rủi ro trong hoạt động cho vay của ngân hàng
thương mại đối với nền kinh tế - xã hội và các ngân hàng
20
1.2.4.
Nguyên nhân gây ra rủi ro
22
1.2.4.1.
Rủi ro do nguyên nhân khách quan
22
1.2.4.2.
Rủi ro do nguyên nhân chủ quan
24
1.3.
Các biện pháp hạn chế rủi ro trong hoạt động cho vay của
ngân hàng thương mại

27

Chương 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT CÁC BIỆN PHÁP HẠN
CHẾ RỦI RO TRONG HOẠT ĐỘNG CHO VAY CỦA
NGÂN HÀNG THƢƠNG MẠI VÀ GIẢI PHÁP HOÀN
THIỆN PHÁP LUẬT VỀ CÁC BIỆN PHÁP HẠN CHẾ
RỦI RO TRONG HOẠT ĐỘNG CHO VAY CỦA
NGÂN HÀNG THƢƠNG MẠI Ở VIỆT NAM
34
2.1.
Sự hình thành và phát triển pháp luật về các biện pháp hạn
chế rủi ro trong hoạt động cho vay của ngân hàng thương
mại ở Việt Nam
34
2.2.
Thực trạng pháp luật các biện pháp hạn chế rủi ro trong
hoạt động cho vay của ngân hàng thương mại ở Việt Nam
hiện nay
43
2.2.1.
Các qui định về tỷ lệ an toàn trong hoạt động cho vay của
các ngân hàng thương mại
44
2.2.1.1.
Qui định về tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu
44
2.2.1.2.
Các qui định về giới hạn cho vay
46
2.1.2.3.

Qui định về tỷ lệ khả năng chi trả
49
2.1.2.4.
Qui định về tỷ lệ cấp tín dụng
53
2.2.2.
Qui định về cấm cho vay và hạn chế cho vay
59
2.2.3.
Các qui định về loại nợ và trích lập dự phòng
62
2.2.4.
Các qui định về biện pháp đảm bảo tiền vay
66
2.2.5.
Các biện pháp khác về hạn chế rủi ro trong hoạt động cho
vay của ngân hàng thương mại
76
2.2.5.1.
Qui định về kiểm soát, kiểm toán nội bộ
76
2.2.5.2.
Qui định về hoạt động giám sát của Ngân hàng nhà nước
81
2.2.5.3.
Qui định về thông tin tín dụng
85
2.3.
Giải pháp hoàn thiện pháp luật về các biện pháp hạn chế rủi
ro trong hoạt động cho vay của ngân hàng thương mại ở

Việt Nam
87
2.3.1.
Hoàn thiện các qui định về tỷ lệ đảm bảo an toàn vốn tối thiểu
87
2.3.2.
Hoàn thiện các qui định pháp luật về đánh giá xếp loại rủi
ro, phòng ngừa rủi ro, chống rủi ro
88
2.3.3.
Hoàn thiện pháp luật về các biện pháp bảo đảm tiền vay
91
2.3.4.
Hoàn thiện pháp luật về hệ thống kiểm soát nội bộ
93
2.3.5.
Hoàn thiện thiết chế giám sát thực thi pháp luật của Ngân
hàng nhà nước
94
2.3.6.
Các giải pháp khác để hạn chế rủi ro trong hoạt động cho
vay của ngân hàng thương mại ở Việt Nam
96

KẾT LUẬN
98

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
99










DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT



KSNB
Kiểm soát nội bộ
KTNB
Kiểm toán nội bộ
NHNN
Ngân hàng nhà nước
NHTM
Ngân hàng thương mại
TCTD
Tổ chức tín dụng





Danh mục các sơ đồ



Số hiệu
sơ đồ
Tên sơ đồ
Trang
1.1
Hoạt động cho vay của ngân hàng
9
1.2
Các loại rủi ro trong hoạt động cho vay
15


1
MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Ngân hàng ra đời và phát triển gắn liền với sự ra đời và phát triển của
nền kinh tế hàng hóa để giải quyết nhu cầu phân phối vốn, nhu cầu thanh
toán…, phục vụ cho việc phát triển, mở rộng sản xuất kinh doanh của các tổ
chức kinh tế, cá nhân. Với tư cách là chế định tài chính trung gian, hoạt động
tín dụng của các ngân hàng thương mại được thực hiện dưới nhiều hình thức
khác nhau như: cho vay, bảo lãnh ngân hàng, chiết khấu, tái chiết khấu, cung
ứng các dịch vụ thanh toán qua tài khoản, cho thuê tài chính, bao thanh toán
Tuy nhiên hoạt động cho vay vẫn được coi là hoạt động mang tính truyền thống
không chỉ của các ngân hàng thương mại Việt Nam mà còn của ngân hàng ở các
nước có hệ thống ngân hàng phát triển như: Pháp, Mỹ Hoạt động này vẫn là
hoạt động cơ bản của các ngân hàng thương mại, đem lai nguồn lợi nhuận chủ
yếu cho các ngân hàng.
Quá trình toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế tác động rất lớn đối
với hệ thống ngân hàng. Các ngân hàng thương mại Việt Nam cũng đứng

trước cơ hội và thách thức lớn. Cơ hội là mở rộng được hoạt động kinh doanh,
học hỏi những kinh nghiệm quản trị trong đó có quản trị rủi ro của các ngân
hàng nước ngoài có uy tín, những thách thức đó là: gánh chịu những áp lực
của hoạt động cạnh tranh của các tổ chức tín dụng (TCTD) đặc biệt là các
ngân hàng nước ngoài và chịu ảnh hưởng bởi những tác động của cơn bão tài
chính từ một số các quốc gia trên thế giới bắt nguồn từ việc cho vay dưới
chuẩn nhà đất của Mỹ, sự sụp đổ của ngân hàng Societe General của Pháp.
Điều này đã làm cho hoạt động của các ngân hàng thương mại ở Việt Nam
phức tạp và rủi ro nhiều hơn.
Lợi nhuận và rủi ro là hai hiện tượng luôn đi song hành với nhau, lợi
nhuận càng lớn thì rủi ro càng cao đó là một nguyên tắc luôn đúng với hoạt

2
động của mọi chủ thể kinh doanh trong đó có ngân hàng. Phát triển hoạt động
kinh doanh và hạn chế rủi ro là yêu cầu cấp thiết quan trọng đối với ngân
hàng, chỉ khi hạn chế được rủi ro ngân hàng mới thực sự phát triển và tạo sự
ổn định cho nền kinh tế. Việc thực hiện các biện pháp hạn chế rủi ro là nhân
tố quan trọng quyết định tính sống còn của hoạt động kinh doanh ngân hàng
và nền kinh tế. Trong đó hoạt động cho vay là hoạt động chủ yếu và mang lại
nhiều lợi nhuận nhất vì vậy việc thực hiện các biện pháp hạn chế rủi ro trong
hoạt động cho vay là hoạt động quan trọng góp phần đảm bảo tính thanh
khoản của ngân hàng và đảm bảo an toàn cho toàn bộ hệ thống.
Nghiên cứu về rủi ro trong hoạt động cho vay và các biện pháp hạn
chế rủi ro, pháp luật về các biện pháp hạn chế rủi ro sẽ giúp cho các ngân
hàng thương mại nâng cao được năng lực quản lý rủi ro của mình, giúp cho
các nhà lập pháp, quản lý nhà nước hoàn thành nhiệm vụ của mình trong lĩnh
vực tiền tệ và góp phần hoàn thiện pháp luật về hạn chế rủi ro đáp ứng yêu
cầu hội nhập và phát triển kinh tế. Vì vậy, tôi đã chọn đề tài "Pháp luật về
các biện pháp hạn chế rủi ro trong hoạt động cho vay của các ngân hàng
thương mại ở Việt Nam" làm đề tài luận văn tốt nghiệp thạc sĩ của mình

2. Tình hình nghiên cứu
Pháp luật về các biện pháp hạn chế rủi ro trong hoạt động cho vay của
ngân hàng thương mại ở Việt Nam là một đề tài khá mới và đang thu hút sự
quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu. Mỗi nhà nghiên cứu có các cách tiếp cận
khác nhau về vấn đề này do xuất phát điểm, góc độ nghiên cứu khác nhau.
Các bài viết và nghiên cứu về các biện pháp hạn chế rủi ro trong hoạt động
cho vay của ngân hàng thương mại đa số tồn tại dưới dạng các bài báo, nghiên
cứu, bình luận trên các tạp chí chuyên ngành hoặc tại một số công trình
chuyên khảo, luận văn thạc sĩ của các tác giả. Khó tìm được một công trình
nghiên cứu chuyên sâu về vấn đề này dưới góc độ pháp luật của các nhà
nghiên cứu Việt Nam. Nội dung nghiên cứu của một số bài viết đăng trên các

3
tạp chí chuyên ngành thường được tiếp cận từ một góc độ nhỏ ví dụ như: ThS.
Trần Vũ Hải, Một số vấn đề pháp lý về quản lý rủi ro tín dụng,
; ThS. Nguyễn Thị Minh Huệ, Thực trạng
hoạt động giám sát giám sát của ngân hàng nhà nước Việt Nam đối với ngân
hàng thương mại, Nguyễn Văn Bình,
Một số thách thức đối với hệ thống thanh tra, giám sát ngân hàng trong tình
hình mới, Tạp chí Ngân hàng, tháng 1/2007 Các công trình nghiên cứu
chuyên sâu dưới góc độ pháp lý, kinh tế chỉ đề cập một số lĩnh vực nhỏ của
biện pháp hạn chế rủi ro rủi ro như: sách chuyên khảo chủ biên TS. Lê Thị
Thu Thủy, Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội, Các biện pháp bảo đảm tiền
vay bằng tài sản của các tổ chức tín dụng, Nhà xuất bản Tư pháp, Hà Nội,
2006; Dương Thị Bình, Pháp luật về xử lý nợ xấu của ngân hàng thương mại
nhà nước Việt Nam, Luận văn thạc sĩ, Khoa Luật đại học Quốc gia Hà Nội;
Phạm Kim Thoa, Pháp luật vê giao dịch bảo đảm trong hoạt động cho vay
của các tổ chức tín dụng ở Việt Nam, Luận văn thạc sĩ, Khoa Luật Đại học
Quốc gia Hà Nội; Trương Thị Lan Vi, các biện pháp hạn chế rủi ro trong
hoạt động cho vay của ngân hàng công thương Thanh Hóa, Luận văn thạc sĩ,

Học viện Ngân hàng.
Các biện pháp hạn chế rủi ro trong hoạt động cho vay đã được nghiên
cứu dưới hai góc độ kinh tế và pháp luật nhưng khó có thế tìm được một công
trình, đề tài nghiên cứu tổng quát pháp luật về các biện pháp hạn chế rủi ro
trong hoạt động cho vay của các ngân hàng thương mại ở Việt Nam. Vì vậy,
việc nghiên cứu một cách tổng quát các vấn đề pháp luật về các biện pháp hạn
chế rủi ro trong hoạt động cho vay của Ngân hàng thương mại ở Việt Nam là
rất cấp thiết trong giai đoạn hiện nay.
3. Mục đích nghiên cứu và nhiệm vụ của luận văn
- Nghiên cứu tổng quan về rủi ro và các biện pháp hạn chế rủi ro trong
hoạt động cho vay của ngân hàng thương mại ở Việt Nam.

4
- Nghiên cứu thực trạng pháp luật về các biện pháp hạn chế rủi ro
trong hoạt động cho vay tại Việt Nam.
- Đề xuất các giải pháp hoàn thiện pháp luật về các biện pháp hạn chế
rủi ro trong hoạt động cho vay của ngân hàng thương mại tại Việt Nam.
4. Đối tƣợng nghiên cứu, phạm vi nghiên cứu và phƣơng pháp
nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: Rủi ro và các biện pháp hạn chế rủi ro trong
hoạt động cho vay của ngân hàng thương mại ở Việt Nam, pháp luật về các biện
pháp rủi ro trong hoạt động cho vay của ngân hàng thương mại tại Việt Nam.
Phạm vi nghiên cứu: Trong giới hạn của sự hiểu biết, luận văn chủ yếu
nghiên cứu các qui định của pháp luật Việt Nam về hạn chế rủi ro trong hoạt động
cho vay của ngân hàng thương mại, thực tiễn áp dụng tại một số ngân hàng cụ thể
là Ngân hàng Đầu tư và phát triển (BIDV), Ngân hàng Ngoại thương (Vietcombank).
Pháp luật nước ngoài về vấn đề này chỉ được đề cập một cách hạn chế trên cơ
sở có sự phân tích và so sánh với các qui định của pháp luật trong nước.
Phương pháp nghiên cứu: Để đạt được mục tiêu và nhiệm vụ nghiên
cứu đã nêu trên, Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu duy vật biện

chứng, duy vật lịch sử, kết hợp với các phương pháp phân tích pháp luật, tổng
hợp, so sánh pháp luật.
5. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung của luận văn gồm 2 chương:
Chương 1: Tổng quan về rủi ro và các biện pháp hạn chế rủi ro trong
hoạt động cho vay của ngân hàng thương mại
Chương 2: Thực trạng pháp luật về các biện pháp hạn chế rủi ro trong
hoạt động cho vay của ngân hàng thương mại ở Việt Nam và giải pháp hoàn
thiện pháp luật về các biện pháp hạn chế rủi ro trong hoạt động cho vay của
ngân hàng thương mại tại Việt Nam.

5
Chương 1
TỔNG QUAN VỀ RỦI RO VÀ CÁC BIỆN PHÁP HẠN CHẾ RỦI RO
TRONG HOẠT ĐỘNG CHO VAY CỦA NGÂN HÀNG THƢƠNG MẠI

1.1. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ HOẠT ĐỘNG CHO VAY CỦA NGÂN
HÀNG THƢƠNG MẠI
Cho vay là một hiện tượng kinh tế khách quan xuất hiện khi trong xã
hội có tình trạng tạm thời thừa và tạm thời thiếu vốn. Cho đến nay, cho vay
tài sản đã trở thành một hoạt động phổ biến trong nền kinh tế các nước không
riêng gì ở Việt Nam.
Hiểu theo nghĩa chung nhất, cho vay là việc một người thỏa thuận để
cho người khác sử dụng tài sản (vật cùng loại) của mình trong một thời gian
nhất định với điều kiện có hoàn trả dựa trên cơ sở sự tin tưởng hay tín nhiệm
của mình đối với người đó. Lúc đầu quan hệ cho vay chỉ là hoạt động cung
cấp vốn tạm thời cho người cần vốn, tồn tại trong các giao dịch dân cư nhỏ lẻ,
dần cùng với sự phát triển của xã hội và nền kinh tế, hoạt động cho vay trở
thành nghề nghiệp. Cùng với sự cho phép của luật pháp đã khuyến khích việc

thành lập các tổ chức cho vay chuyên nghiệp, có qui mô lớn và nhanh chóng
đáp ứng nhu cầu thiết yếu của thị trường. Hoạt động cho vay được thực hiện
bởi nhiều chủ thể khác nhau trong xã hội, trong đó chủ thể phổ biến nhất là
các ngân hàng thương mại.
Cùng với sự phát triển của nền kinh tế thị trường, thị trường tiền tệ và
sức ép của sự cạnh tranh. Các ngân hàng thương mại luôn tìm mọi cách là
tăng nguồn vốn huy động và mở rộng các hoạt động cho vay của mình bằng
cách đa dạng hóa các loại hình cho vay làm cho hoạt động cho vay của các
ngân hàng thương mại trở nên vô cùng đa dạng. Tính đa dạng của hoạt động
cho vay được thể hiện như sau: nếu căn cứ thời hạn cho vay, thì cho vay bao

6
gồm: cho vay ngắn hạn, cho vay trung hạn và cho vay dài hạn; nếu căn cứ vào
mục đích sử dụng khoản vay thì có cho vay phục vụ cho sản xuất kinh doanh
của các tổ chức, cá nhân kinh doanh, cho vay phục vụ cho tiêu dùng… Để
đảm bảo an toàn cho hoạt động của mình, mối quan tâm thường xuyên của
các ngân hàng thương mại khi tiến hành các hoạt động cho vay là cho ai vay,
người đi vay sử dụng khoản vay như thế nào?, làm thế nào để khoản vay của
mình có thể được đảm bảo thanh toán của bởi người đi vay. Xuất phát từ tình
chất quan trọng của các hoạt động cho vay của ngân hàng thương mại, nên
hoạt động này luôn được sự quan tâm đặc biệt của các nhà làm luật, vậy hoạt
động cho vay là gì?.
1.1.1. Khái niệm về hoạt động cho vay
Hoạt động cho vay với tư cách là một loại hoạt động tín dụng và nó có
những đặc điểm chung với đặc điểm của tín dụng, vì vậy việc nghiên cứu khái
niệm về hoạt động cho vay trước hết được xem xét thông qua việc tìm hiểu
các khái niệm về tín dụng. Tín dụng có nhiều cách hiểu khác nhau, theo các
nhà kinh tế học mác-xít quan niệm: "Đem tiền cho vay với tư cách là một việc
có đặc điểm là sẽ quay trở về điểm xuất phát của nó mà vẫn giữ nguyên vẹn
giá trị của nó đồng thời lại lớn lên thêm trong quá trình hoạt động" [9, tr. 52].

Điều đó có nghĩa là:
Tiền chẳng qua chỉ rời khỏi tay người sở hữu trong một thời
gian và chẳng qua chỉ tạm thời chuyển từ tay người sở hữu sang nhà
tư bản hoạt động, cho nên tiền không được bỏ ra để thanh toán,
cũng không phải tự đem bán đi mà chỉ đem cho vay, tiền chỉ đem
nhượng lại với điều kiện là nó sẽ quay trở về điểm xuất phát một kỳ
hạn nhất định [9, tr. 52].
Theo nhà kinh tế pháp Louis Baundin, tín dụng như là "Một sự trao
đổi tài hóa hiện tại lấy một tài hóa tương lai". Ở đây, chúng ta thấy yếu tố
thời gian đã xen lẫn vào. Cũng vì có sự xen lẫn đó, cho nên có sự bất trắc, rủi

7
ro xảy ra và cần có sự tín nhiệm, sử dụng sự tín nhiệm của nhau nên mới có
danh từ tín dụng.
Như vậy tín dụng, theo các định nghĩa này không chỉ rõ cụ thể ai là
người có vốn, ai là người cần vốn mà chỉ nêu lên bản chất của quan hệ vay
mượn. Khi xem xét tín dụng với hai tư cách, một là chức năng cơ bản quan
trọng của ngân hàng, hai là một nghiệp vụ kinh doanh mang lại phần lớn thu
nhập cho ngân hàng và nó quyết định sự thành công hay thất bại của ngân
hàng trên thị trường. Do vậy dưới giác độ đó tín dụng được hiểu là:
Tín dụng là một giao dịch về tài sản (tiền hoặc hàng hóa)
giữa bên đi vay và bên cho vay trong đó bên cho vay chuyển giao
tài sản cho bên đi vay sử dụng trong một thời gian nhất định theo
thỏa thuận, bên đi vay có trách nhiệm hoàn trả vô điều kiện gốc và
lãi cho bên cho vay khi đến hạn thanh toán [9, tr. 52].
Hoạt động cho vay là một hình thức cấp tín dụng của ngân hàng cho
khách hàng trong một thời hạn nhất định (gọi là thời hạn cho vay). Thời hạn
cho vay là khoảng thời gian được tính từ khi khách hàng bắt đầu nhận vốn
vay cho đến khi trả hết nợ gốc và lãi vay theo thỏa thuận trong HĐTD.
Dưới góc độ pháp luật, hoạt động cho vay được qui định trong Bộ

Luật Dân sự 2005, Luật các tổ chức tín dụng 2004, Quyết định số
1627/2001/QĐ-NHNN ngày 31/12/2001 về qui chế cho vay của tổ chức tín
dụng đối với khách hàng, Quyết định số 127/2005/QĐ-NHNN ngày 3/2/2005
về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Quy chế cho vay của tổ chức tín
dụng đối với khách hàng ban hành theo Quyết định số 1627/2001/QĐ-NHNN
ngày 31/12/2001 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước. Cho vay được định
nghĩa như sau: "Cho vay là một hình thức cấp tín dụng, theo đó tổ chức tín
dụng giao cho khách hàng sử dụng một khoản tiền để sử dụng vào mục đích
và thời gian nhất định theo thỏa thuận với nguyên tắc có hoàn trả cả gốc và
lãi" [21].

8
1.1.2. Đặc điểm của hoạt động cho vay
Hoạt động cho vay của ngân hàng thương mại có những đặc trưng cơ
bản sau đây:
Thứ nhất, Xét về bản chất hoạt động cho vay của TCTD là giao dịch
hợp đồng, có sự thỏa thuận giữa hai bên, một bên là bên cho vay và một bên
là khách hàng (bên đi vay), hai bên thỏa thuận về mức vay, lãi suất và thời
hạn vay và tất cả những điều kiện khác có liên quan đến hoạt động cho vay, từ
đó ký kết hợp đồng tín dụng. Một trong những đặc điểm quan trọng của hoạt
động cho vay của các ngân hàng thương mại là các ngân hàng thương mại cho
vay trên cơ sở nguồn vốn huy động là chủ yếu. Điều đó có nghĩa là, nguồn
vốn cho vay của các ngân hàng chủ yếu là nguồn vốn "đi vay" bởi lẽ các tổ
chức này hoạt động theo nguyên tắc "đi vay" để "cho vay", tức là không (hoặc
ít) cho vay tiền của bản thân mình mà nó sử dụng nguồn vốn huy động để cho
vay là chủ yếu.
Thứ hai, hoạt động cho vay của ngân hàng thương mại luôn tiềm ẩn
nhiều rủi ro. Theo quan điểm của một số tác giả thì hoạt động cho vay là hoạt
động tiêu biểu nhất của hầu hết các ngân hàng, hoạt động này đòi hỏi các
ngân hàng phải tìm mọi cách để kiểm soát được khả năng trả nợ của khách

hàng, ít nhất cũng là dự tính, phán đoán khả năng này. Tuy nhiên không phải
bao giờ dự tính này cũng chính xác tuyệt đối và thời gian qua đi khả năng
pháp đoán này càng trở nên khó khăn hơn. Do vậy, rủi ro chính mà ngân hàng
phải đối mặt là rủi ro tín dụng [39]. Có thể nói, hoạt động cho vay luôn đi liền
với rủi ro, kinh doanh tín dụng là chấp nhận đối đầu với rủi ro. Tính rủi ro này
xuất phát từ những đặc thù của đối tượng hoạt động cho vay, đặc thù của
nguồn vốn cho vay của bên vay. Nếu trong hoạt động kinh doanh khác, tiền tệ
chỉ được coi là thước đo giá trị, là phương tiện thanh toán thì trong hoạt động
cho vay, tiền tệ trở thành hàng hóa. Bên cho vay chỉ có thể đòi tiền của bên
vay sau một thời hạn nhất định. Nếu thời hạn cho vay càng dài thì nguy cơ rủi

9
ro bất trắc càng lớn, khả năng thu hồi nợ của ngân hàng có thể khó thực hiện.
Ngoài ra, việc cho vay của ngân hàng chủ yếu dựa vào nguồn vốn huy động
của các tổ chức, cá nhân trong xã hội. Chính vì vậy, do chức năng trung gian
này của các ngân hàng mà các rủi ro trong hoạt động kinh doanh của khách
hàng (người đi vay) sẽ ảnh hưởng ngay đến ngân hàng và qua đó ảnh hưởng
đến quyền lợi của người gửi tiền. Và như vậy, so với hoạt động cho vay tài
sản thông thường thì trong hoạt động này, người cho vay dùng tài sản của
chính mình để cho vay nên khi người đi vay không thực hiện được nghĩa vụ
trả nợ thì chính người cho vay phải gánh chịu hậu quả. Bên cạnh những rủi ro,
bất trắc của hoạt động cho vay của ngân hàng, thì hoạt động này cũng có
những vai trò nhất định đối với nền kinh tế, đối với người đi vay và ngay cả
đối với ngân hàng
1.1.3. Vai trò của hoạt động cho vay
1.1.3.1. Vai trò đối với nền kinh tế
- Cho vay góp phần thu hút vốn đầu tư cho nền kinh tế.
Xuất phát từ tính chất của hoạt động cho vay của các ngân hàng
thương mại là có quy mô lớn, khách hàng đa dạng và là hình thức kinh doanh
chủ yếu của ngân hàng. Với vai trò là trung gian tài chính, ngân hàng đóng

vai trò là cầu nối vốn cho nền kinh tế, giữa người thừa vốn và người cần vốn
để đầu tư.



Sơ đồ 1.1: Hoạt động cho vay của ngân hàng
Vậy, ngân hàng tập hợp các nguồn vốn nhàn rỗi trong xã hội để cho
các tổ chức, cá nhân vay để thực hiện các dự án kinh doanh, biến ý tưởng kinh
* Doanh nghiệp
*Cá nhân
* Hộ gia đình…

Ngân hàng
* Doanh nghiệp
*Cá nhân
* Hộ gia đình…


10
doanh thành thực tế. Chính vì vậy nó góp phần giải quyết được các vấn kinh
tế - xã hội như tăng trưởng, phát triển kinh tế, giải quyết công ăn việc làm cho
người lao động…
- Hoạt động cho vay góp phần mở rộng sản xuất, thúc đẩy đổi mới
công nghệ, thiết bị, cải tiến khoa học kỹ thuật…
Việc vay vốn không những giải quyết được nhu cầu vốn kinh doanh
mà còn làm thay đổi cách nghĩ, cách làm … làm thế nào để sử dụng nguồn
vốn vay một cách có hiệu quả. Việc vay vốn của các tổ chức, cá nhân đều
xuất phát từ nhu cầu mở rộng sản xuất hoặc đổi mới công nghệ, thiết bị, cải
tiến khoa học kỹ thuật để nâng cao năng suất lao động và khả năng cạnh tranh
của doanh nghiệp trên thương trường. Điều này sẽ làm tiền đề cho sự phát

triển có hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh của các tổ chức, cá nhân.
Muốn làm được điều đó doanh nghiệp cần phải có rất nhiều vốn để đầu tư.
Bên cạnh nguồn vốn tự có, các doanh nghiệp còn có nhu cầu rất lớn về nguồn
vốn và đây là vấn đề quan trọng cần giải quyết của các doanh nghiệp Việt Nam.
1.1.3.2. Vai trò đối với người đi vay
Hiện nay, hoạt động cho vay của ngân hàng thương mại có nhiều kỳ
hạn khác nhau như: ngắn hạn, trung hạn và dài hạn với các mức lãi suất thỏa
thuận linh hoạt. Vì thế khách hàng có thể tùy ý lựa chọn kỳ hạn vay và thỏa
thuận về mức lãi suất vay với ngân hàng phù hợp với mục tiêu kinh doanh của
mình [31].
Mặt khác việc vay vốn ngân hàng giúp khách hàng tập trung được vốn
kinh doanh, giảm chi phí huy động và chủ động trong việc hoàn trả gốc và lãi
theo hợp đồng. Bên cạnh đó, có thể là do xuất phát từ những nguyên nhân
khách quan mà khách hàng không thể thanh toán được gốc và lãi cho ngân
hàng đúng hạn thì việc có những thỏa thuận khác giữa ngân hàng và khách
hàng khi hết hợp đồng cho vay như: trợ giúp vốn cho doanh nghiệp, gia hạn
hợp đồng cho vay đã tạo điều kiện cho khách hàng giải quyết được các khó

11
khăn tạm thời về vốn trong kinh doanh để tiếp tục kinh doanh và tránh được
nguy cơ phá sản doanh nghiệp.
1.1.3.3. Vai trò đối với ngân hàng
Hoạt động cho vay là hoạt động chứa nhiều rủi ro tiềm ẩn, nhưng nó
lại là hoạt động chính của ngân hàng cho vay. Bên cạnh rủi ro tiềm ẩn thì
ngân hàng cho vay thu được lãi suất phù hợp với các khoản vay đó và đó cũng
là thu nhập chính của ngân hàng cho vay.
Cho vay là chức năng kinh tế cơ bản của ngân hàng. Đối với các hầu
hết các ngân hàng, dư nợ tín dụng chiếm tới hơn 50% tổng tài sản có và thu
nhập từ hoạt động cho vay chiếm khoảng từ ½ đến 2/3 tổng thu nhập của ngân
hàng [17]. Tuy nhiên hoạt động cho vay của ngân hàng cũng tiềm ẩn nhiều rủi

ro không thể lường trước được. Có rất nhiều nguyên nhân dẫn đến rủi ro trong
hoạt động cho vay của ngân hàng có thể do nguyên nhân khách quan như:
môi trường kinh tế không ổn định hoặc do môi trường pháp lý chưa thuận lợi,
cũng có thể xuất phát từ những nguyên nhân chủ quan như: nguyên nhân từ
phía khách hàng vay hoặc nguyên nhân từ phía ngân hàng cho vay [38]. Vậy
rủi ro trong hoạt động cho vay là gì? Các nguyên nhân dẫn đến rủi ro cụ thể
như thế nào và tác động của rủi ro ra sao chúng ta lần lượt nghiên cứu và
tìm hiểu.
1.2. RỦI RO TRONG HOẠT ĐỘNG CHO VAY CỦA NGÂN HÀNG
THƢƠNG MẠI
1.2.1. Khái niệm rủi ro trong hoạt động cho vay
Hoạt động ngân hàng đã và đang góp phần quan trọng vào sự phát
triển của nền kinh tế của mỗi quốc gia. Ngân hàng không những giữ vị trí
trung gian tài chính mà còn là công cụ để nhà nước thực hiện chính sách tiền
tệ quốc gia thông qua việc điều tiết hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Tuy
nhiên, hoạt động kinh doanh tiền tệ và dịch vụ ngân hàng không những ẩn

12
chứa trong nó những rủi ro kinh doanh nói chung mà còn có những rủi ro
riêng biệt, có tính nhạy cảm cao ảnh hưởng mạnh mẽ tới nền kinh tế. Luật các
tổ chức tín dụng qui định "hoạt động ngân hàng là hoạt động kinh doanh tiền
tệ và dịch vụ ngân hàng với nội dung thường xuyên là nhận tiền gửi, sử dụng
số tiền này để cấp tín dụng và cung ứng các dịch vụ thanh toán" [34].
Theo đó rủi ro trong hoạt động ngân hàng có thể gồm các loại rủi ro:
rủi ro tín dụng, rủi ro trong hoạt động nhận tiền gửi…. Theo cách phân loại
của Hiệp ước Basel II, rủi ro ngân hàng được chia thành ba loại rủi ro chính
là: rủi ro thị trường, rủi ro tín dụng, rủi ro hoạt động và các loại rủi ro khác
như: rủi ro lãi suất, rủi ro ngoại hối, rủi ro danh tiếng.
Như vậy, hoạt động cấp tín dụng chỉ là một bộ phận hợp thành của
hoạt động ngân hàng và tất cả rủi ro trong hoạt động ngân hàng đều ảnh

hưởng đến toàn bộ hệ thống, có tác động qua lại giữa các loại rủi ro. Tuy
nhiên trong hoạt động cấp tín dụng thì hoạt động cho vay là hoạt động cơ bản,
mang lại nhiều lợi nhuận nhất trong các hoạt động ngân hàng, do đó cũng là
hoạt động mang rủi ro cao nhất. Rủi ro tín dụng theo quan điểm của các nhà
kinh tế được định nghĩa "là khả năng xảy ra những tổn thất ngoài dự kiến cho
ngân hàng do khách hàng vay không trả đúng hạn, không trả hoặc không trả
đầy đủ vốn và lãi [9, tr. 78].
Ngoài ra, rủi ro tín dụng còn được giải thích tại Điều 2 Quyết định
493/2005/QĐ-NHNN, theo đó "rủi ro tín dụng trong hoạt động ngân hàng của
tổ chức tín dụng là khả năng xảy ra các tổn thất trong hoạt động ngân hàng
của tổ chức tín dụng do khách hàng không thực hiện hoặc không có khả năng
thực hiện nghĩa vụ của mình theo cam kết" [24]. Như vậy rủi ro tín dụng là rủi
ro khi TCTD thực hiện nghiệp vụ cấp tín dụng cho khách hàng, trong đó "cấp
tín dụng là việc tổ chức tín dụng thỏa thuận để khách hàng sử dụng một khoản
tiền với nguyên tắc có hoàn trả bằng các nghiệp vụ cho vay, chiết khấu, cho
thuê tài chính, bảo lãnh ngân hàng và các nghiệp vụ khác"

[35].

13
Từ sự phân tích ở trên cho thấy rằng rủi ro trong hoạt động cho vay là
một trong những rủi ro tín dụng và là loại rủi ro nhiều nhất trong hoạt động
kinh doanh tiền tệ. Nó xảy ra dưới nhiều hình thức có mức độ khác nhau do
xuất phát từ những nguyên nhân sau:
* Tiền là nguyên liệu chính tạo ra sản phẩm cho vay. Tiền được
dùng để giao dịch giữa người cho vay và khách hàng vay. Mặt khác tiền là
thứ nguyên liệu độc tôn không thể thay thế, nguyên liệu này chịu tác động
rất nhiều yếu tố như kinh tế, chính trị xã hội, chiến tranh, thiên tai … một
trong các yếu tố này thay đổi thì hoạt động cho vay của ngân hàng sẽ bị
ảnh hưởng.

* Ngân hàng thương mại là tổ chức tín dụng chịu sự quản lý vĩ mô của
nhà nước theo hành lang pháp lý quy định. Nhà nước can thiệp vĩ mô vào nền
kinh tế thị trường. Đặc biệt lĩnh vực tài chính tiền tệ chịu sự quản lý chặt chẽ
của NHNN Việt Nam. Mỗi khi có sự điều chỉnh của Chính phủ hoặc của
Ngân hàng nhà nước làm cho các ngân hàng thương mại gặp không ít khó
khăn trong hoạt động kinh doanh, thậm chí có thể phải gánh chịu những tổn
thất trong hoạt động kinh doanh của mình. Ví dụ qui định về tăng tỷ lệ dự trữ
bắt buộc của NHNN sẽ làm giảm khối lượng tín dụng trong nền kinh tế thông
qua việc giảm trực tiếp khối lượng tiền tại các ngân hàng thương mại. Các
ngân hàng phải thắt chặt tín dụng thông qua giảm tốc độ tăng trưởng tín dụng
và điều chỉnh tăng lãi suất cho vay. Điều này sẽ ảnh hưởng đến lợi nhuận của
ngân hàng.
* Ngân hàng thương mại là tổ chức tài chính có quan hệ mật thiết với
nhiều lĩnh vực, thành phần kinh tế của nền kinh tế quốc dân. Bất cứ một sự
thay đổi nào của các lĩnh vực, thành phần kinh tế cũng đều tác động gây phản
ứng dây chuyền đối với các ngân hàng. Ví dụ: hiện nay tình trạng chiếm dụng
vốn, nợ đọng trong xây dựng cơ bản đã làm nhiều doanh nghiệp xây dựng gặp
phải khó khăn, mất khả năng thanh toán, không thể trả nợ cho các ngân hàng

14
thương mại làm cho nợ quá hạn của ngân hàng tăng cao, chiếm tỉ lệ lớn trong
tổng dư nợ cho vay.
Do những đặc điểm trên, rủi ro trong cho vay tồn tại như một tất yếu
khách quan và mang tính qui luật. Ông P.Volker, Cựu Chủ tịch Cục dự trữ
liên bang Mỹ cho rằng "Nếu ngân hàng không có những khoản nợ xấu thì đó
không phải là kinh doanh". Điều đó cho thấy rủi ro trong hoạt động cho vay
luôn tồn tại và nợ xấu là một thực trạng tất yếu ở tất cả các TCTD, kể cả các
ngân hàng đứng ở vị trí hàng đầu thế giới, bởi có những rủi ro nằm ngoài tầm
kiểm soát của con người. Vì vậy, rủi ro trong hoạt động cho vay là một tất
yếu. Vấn đề quan trọng là nhìn nhận nó như thế nào và có những biện pháp

xử lý nó ra sao. Vậy rủi ro trong hoạt động cho vay là gì?.
Rủi ro cho vay là rủi ro về sự tổn thất tài chính trực tiếp hoặc gián
tiếp xuất phát từ người cho vay không thực hiện nghĩa vụ trả nợ đúng hạn
theo cam kết hoặc mất khả năng thanh toán [9, tr. 79].

Trong nền kinh tế thị trường đầy rủi ro, vấn đề nhận thức rủi ro đặc
thù và quản lý rủi ro đang là vấn đề cấp bách trong hệ thống ngân hàng cả
nước. Bộ máy quản lý ngân hàng kém năng động, rủi ro càng dễ phát sinh.
Khiến nó không thể hiện được hết khả năng vốn có của mình, thiệt hại cho
nền kinh tế sẽ xẩy ra.
Rủi ro ngân hàng không những là nổi ám ảnh của hệ thống ngân hàng
một nước mà còn là nổi ám ảnh chung của hệ thống ngân hàng trên thế giới.
Những bất ngờ luôn xẩy ra ngay cả đối với các ngân hàng có đội ngũ nhân sự
giỏi nhất, nhiều kinh nghiệm nhất cũng khó lường trước được rủi ro. Vì thế
nhận thức được rủi ro trong cho vay là những vấn đề thời sự cho hệ thống
ngân hàng. Rủi ro đối với hoạt động cho vay là một loại rủi ro tín dụng bao
gồm các loại sau:

15







Sơ đồ 1.2: Các loại rủi ro trong hoạt động cho vay
- Rủi ro giao dịch: Là một hình thức của rủi ro tín dụng mà nguyên
nhân phát sinh là do những hạn chế trong quá trình giao dịch và xét duyệt cho
vay, đánh giá khách hàng. Rủi ro giao dịch có 03 bộ phận chính là rủi ro lựa

chọn, rủi ro bảo đảm và rủi ro nghiệp vụ.
+ Rủi ro lựa chọn: Là rủi ro có liên quan đến quá trình đánh giá và
phân tích tín dụng, khi ngân hàng lựa chọn những phương án vay vốn có hiệu
quả để ra quyết định cho vay.
+ Rủi ro bảo đảm: Phát sinh từ các tiêu chuẩn bảo đảm như các điều
khoản trong hợp đồng cho vay, các loại tài sản đảm bảo, chủ thể bảo đảm,
cách thức đảm bảo và mức cho vay trên giá trị của tài sản đảm bảo.
+ Rủi ro nghiệp vụ: Là rủi ro liên quan đến công tác quản lý khoản
vay và hoạt động cho vay, bao gồm cả việc sử dụng hệ thống xếp hạng rủi ro
và kỹ thuật xử lý các khoản cho vay có vấn đề.
- Rủi ro danh mục: Là một hình thức của rủi ro tín dụng mà nguyên
nhân phát sinh là do những hạn chế trong quản lý danh mục cho vay của ngân
hàng, được phân chia thành 02 loại: rủi ro nội tại và rủi ro tập trung.
+ Rủi ro nội tại: Xuất phát từ các yếu tố, các đặc điểm riêng có, mang
tính riêng biệt bên trong của mỗi chủ thể đi vay hoặc ngành, lĩnh vực kinh tế.
Rủi ro
tín dụng
Rủi ro
giao dịch
Rủi
ro danh
mục
Rủi ro
nội tại
Rủi ro
tập trung
Rủi ro bảo
đảm
Rủi ro
nghiệp vụ

Rủi ro
lựa chọn

16
Nó xuất phát từ đặc điểm hoạt động hoặc đặc điểm sử dụng vốn của khách
hàng vay vốn.
+ Rủi ro tập trung: Là trường hợp ngân hàng tập trung vốn cho vay
quá nhiều đối với một số khách hàng, cho vay quá nhiều doanh nghiệp hoạt
động trong cùng một ngành, lĩnh vực kinh tế; hoặc trong cùng một vùng địa lý
nhất định; hoặc cùng một loại hình cho vay có rủi ro cao.
1.2.2. Các chỉ tiêu đánh giá độ rủi ro trong hoạt động cho vay của
ngân hàng thƣơng mại
Để kiểm soát rủi ro trong hoạt động cho vay, điều trước tiên NHTM
phải đánh giá độ rủi ro trong hoạt động cho vay của mình. Trong đó đánh giá
độ rủi ro trong hoạt động cho vay có ý nghĩa quan trọng cả về mặt lý luận và
thực tiễn giúp cho các nhà quản trị đưa ra các biện pháp kịp thời để xử lý các
rủi ro. Các chỉ số thường được sử dụng để đánh giá rủi ro hoạt động cho vay là:
1.2.2.1. Tỷ lệ nợ quá hạn
Tû lÖ nî
qu¸ h¹n
=
D- nî qu¸ h¹n
x 100%
Tæng D- nî
cho vay
Theo qui định khoản 5 Điều 2 Quyết định số 493/2005/QĐ-NHNN
"Nợ quá hạn là khoản nợ mà một phần hoặc toàn bộ nợ gốc và /hoặc lãi đã
quá hạn" [24]. Theo cách tiếp cận khác nợ quá hạn là những khoản tín dụng
không hoàn trả đúng hạn, không được phép và không đủ điều kiện để được
gia hạn nợ để đảm bảo quản lý chặt chẽ, các khoản nợ quá hạn trong hệ thống

NHTM Việt Nam. Tuy nhiên, hiện nay pháp luật Việt Nam không có bất kỳ
qui định về tỷ lệ nợ quá hạn của ngân hàng thương mại là bao nhiêu theo
nhưng theo Thông tư số 04/1999/TT-NHNN về điều kiện để các NHTM
thành lập công ty chứng khoán, NHTM có nợ quá hạn dưới 5% tổng dư nợ
cho vay [19], nghĩa là trong 100 đồng vốn ngân hàng bỏ ra cho vay thì nợ quá

17
hạn tối đa chỉ được phép là 5 đồng và nợ quá hạn được chia theo thời hạn
thành 04 nhóm [24]:
- Nợ quá hạn dưới 90 ngày - Nợ cần chú ý.
- Nợ quá hạn từ 90 đến 180 ngày - Nợ dưới tiêu chuẩn.
- Nợ quá hạn từ 181 đến 360 ngày - Nợ nghi ngờ.
- Nợ quá hạn trên 361 ngày - Nợ có khả năng mất vốn.
Do việc phân loại chất lượng tín dụng được tính theo thời gian như
vậy, nên những khoản tín dụng ở Việt Nam tiềm ẩn rất nhiều rủi ro.
1.2.2.2. Tỷ trọng nợ xấu
Nợ xấu: là những khoản nợ quá hạn trên 90 ngày mà không đòi được
và không được tái cơ cấu (Điều 2 Quyết định 493/2005/QĐ-NHNN).
Hiện nay, pháp luật Việt Nam không có qui định hạn chế về tỷ lệ nợ
xấu, tuy nhiên TCTD và NHNN đang sử dụng khuyến cáo của WB là không
quá 5% làm tiêu chuẩn cho quá trình quản lý nợ xấu. Các khoản nợ xấu ở Việt
Nam thông thường là những khoản nợ liên quan đến các vụ án chờ xử lý và
những khoản nợ quá hạn không được Chính phủ xử lý rủi ro.
Nợ xấu (hay nợ có vấn đề, nợ không lành mạnh, nợ khó đòi, nợ không
thể đòi,…) là những khoản nợ mang các đặc trưng:
- Khách hàng đã không thực hiện nghĩa vụ trả nợ ngân hàng khi các
cam kết này đã hết hạn.
- Tình hình tài chính của khách hàng đang và có chiều hướng xấu dẫn
đến có khả năng ngân hàng không thu hồi được cả vốn lẫn lãi.
- Tài sản đảm bảo (thế chấp, cầm cố, bảo lãnh) được đánh giá là giá trị

phát mãi không đủ trang trải nợ gốc và lãi.
- Thông thường về thời gian là các khoản nợ quá hạn ít nhất là 90 ngày.

18
Do nợ xấu ảnh hưởng lớn và trực tiếp đến hoạt động kinh doanh ngân
hàng. Việc xác định tiêu chí phân loại nợ xấu có ý nghĩa rất quan trọng trong
hoạt động của bất kỳ chủ thể kinh doanh nào, đặc biệt là các ngân hàng
thương. Trước đây các khoản nợ xấu được chia thành 3 nhóm theo Quyết định
149/2001/QĐ-TTg.
Theo Quyết định 149/QĐ-TTg ngày 05/01/2001 thì nợ xấu có thể chia
thành 03 nhóm:
● Nhóm 1: Nợ xấu có tài sản đảm bảo, gồm có: Nợ tồn
đọng ngân hàng đã thu giữ tài sản dưới hình thức gán, xiết nợ; Nợ
ngân hàng chưa thu giữ tài sản như nợ có tài sản liên quan đến vụ án
chờ xét xử, nợ có tài sản đảm bảo đã quá hạn trên 360 ngày.
● Nhóm 2: Nợ xấu không có tài sản đảm bảo và không có
đối tượng để thu, gồm có: Nợ xóa thiên tai chưa có nguồn và còn
hạch toán nội bảng; nợ khoanh doanh nghiệp đã giải thể, phá sản;
nợ khoanh doanh nghiệp thuộc các vụ án; nợ khoanh do thiên tai
của hộ sản xuất…
● Nhóm 3: Nợ xấu không có tài sản đảm bảo nhưng con nợ
vẫn còn tồn tại, đang hoạt động, gồm có: Nợ khoanh doanh nghiệp
khó thu hồi; nợ tín dụng chính sách còn có khả năng thu hồi; nợ quá
hạn trên 360 ngày.
● Ngoài ra còn có nhóm nợ phát sinh sau ngày 31/12/2000,
là những khoản nợ không thu được nhưng không đủ điều kiện để
khoanh, xóa [3].
Cũng từ cách phân loại nợ quá hạn theo thời gian như vậy nên phần
lớn nợ quá hạn ở nước ta đều là nợ xấu. Các khoản nợ xấu tồn tại hiện nay ở
các NHTM bao gồm:

+ Nợ quá hạn từ 90 ngày trở lên.

×