Tải bản đầy đủ (.pdf) (99 trang)

Pháp luật về thế chấp tài sản trong hoạt động cho vay của ngân hàng thương mại Luận văn ThS Luật

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.37 MB, 99 trang )



ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT





NGUYỄN THÀNH NAM





PHÁP LUẬT VỀ THẾ CHẤP TÀI SẢN
TRONG HOẠT ĐỘNG CHO VAY
CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI








LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC












HÀ NỘI – NĂM 2006


i
MỤC LỤC

LỜI CAM ĐOAN

LỜI CẢM ƠN

LỜI NÓI ĐẦU
Trang 1
CHƢƠNG I. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ THẾ CHẤP TÀI SẢN TRONG
HOẠT ĐỘNG CHO VAY CỦA NGÂN HÀNG THƢƠNG MẠI

7
1.1. Hoạt động cho vay của ngân hàng thương mại và vấn đề
rủi ro tín dụng

7
1.1.1. Vị trí, vai trò của ngân hàng thƣơng mại trong nền kinh tế
7
1.1.2. Hoạt động cho vay của ngân hàng thƣơng mại

10
1.1.3. Rủi ro tín dụng trong hoạt động cho vay của NHTM
13
1.2. Sơ lược về các biện pháp bảo đảm tiền vay
14
1.2.1. Khái niệm về bảo đảm tiền vay
14
1.2.2. Phân loại bảo đảm tiền vay
16
1.3. Thế chấp tài sản trong hoạt động cho vay của NHTM
19
1.3.1. Khái niệm thế chấp tài sản
19
1.3.2. Đặc điểm thế chấp tài sản
21
1.3.3. Phân loại thế chấp tài sản
22
CHƢƠNG II. PHÁP LUẬT VỀ THẾ CHẤP TÀI SẢN TRONG HOẠT
ĐỘNG CHO VAY CỦA NHTM

25
2.1. Khái quát quá trình hình thành và phát triển của pháp
luật về thế chấp tài sản ở nước ta

25
2.2. Pháp luật hiện hành về thế chấp tài sản trong hoạt động
cho vay của NHTM

31



ii
2.2.1. Các chủ thể trong quan hệ thế chấp
31
2.2.2. Tài sản thế chấp
35
2.2.3. Nội dung thế chấp
44
2.2.4. Hình thức pháp lý của quan hệ thế chấp
50
2.2.5. Chấm dứt thế chấp
55
2.2.6. Xử lý tài sản thế chấp
56
CHƢƠNG III. HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ THẾ CHẤP TÀI SẢN
TRONG HOẠT ĐỘNG CHO VAY CỦA NGÂN HÀNG THƢƠNG MẠI

61
3.1. Cơ sở hoàn thiện pháp luật về thế chấp tài sản trong hoạt
động cho vay của NHTM
61
3.2. Định hướng hoàn thiện pháp luật về thế chấp tài sản
trong hoạt động cho vay của NHTM

62
3.3. Ưu điểm và hạn chế của pháp luật hiện hành về thế chấp
tài sản trong hoạt động cho vay của NHTM- Một số kiến nghị
hoàn thiện



65
KẾT LUẬN
84
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


Pháp luật về thế chấp tài sản trong hoạt động cho vay của NHTM



Luận văn thạc sỹ 1 Nguyễn Thành Nam

LỜI NÓI ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài.
Cho vay là một hình thức cấp tín dụng đem lại lợi nhuận chủ yếu cho
ngân hàng thƣơng mại, song hoạt động này cũng đem lại nhiều rủi ro cho
ngân hàng. Rủi ro này có rất nhiều nguyên nhân, chẳng hạn nhƣ khách hàng
thua lỗ trong kinh doanh nhƣng cũng có trƣờng hợp khách hàng cố tình chây
ỳ trốn tránh nghĩa vụ trả nợ. Những khoản cho vay lớn nếu bị tổn thất có thể
đẩy ngân hàng đến chỗ phá sản, không những thế nó còn đe doạ đến tính an
toàn và ổn định của toàn hệ thống. Vì vậy, để nâng cao hiệu quả và đảm bảo
an toàn cho hoạt động ngân hàng thì điều kiện quan trọng nhất khi ngân hàng
xét duyệt cho vay đó là khách hàng phải có khả năng hoàn trả nợ vay. Đối với
những khách hàng có uy tín trong việc vay trả nợ ngân hàng, có khả năng tài
chính mạnh và có triển vọng kinh doanh trong tƣơng lai thì ngân hàng có thể
cho vay không cần bảo đảm. Ngƣợc lại, đối với khách hàng không đạt đƣợc
các điều kiện trên thì để hạn chế rủi ro ngân hàng chỉ cho vay khi có tài sản
bảo đảm. Việc cho vay có tài sản bảo đảm có một số tác dụng sau đây:
+ Để có nguồn thu nợ thứ hai khi nguồn trả nợ thứ nhất không đúng

nhƣ dự kiến. Nguồn thu nợ thứ nhất là cơ sở để ngân hàng quyết định cho
vay. Trong cho vay kinh doanh, nguồn thu nợ thứ nhất từ doanh thu thực tế
đối với cho vay ngắn hạn, từ khấu hao và lợi nhuận đối với cho vay trung và
dài hạn. Trong cho vay tiêu dùng, nguồn thu nhập thứ nhất từ thu nhập của cá
nhân nhƣ tiền lƣơng, các khoản thu nhập tài chính (lãi tiền gửi, cổ tức, trái
tức) và các khoản thu nhập khác[54, tr.85-86]. Trƣờng hợp vì lý do nào đó mà
nguồn thu thứ nhất không thực hiện đƣợc nhƣ kinh doanh thua lỗ, bị sa thải
dẫn đến khách hàng không trả đƣợc nợ cho ngân hàng, khi đó nguồn thu từ
Pháp luật về thế chấp tài sản trong hoạt động cho vay của NHTM



Luận văn thạc sỹ 2 Nguyễn Thành Nam

việc xử lý tài sản sẽ bù đắp tổn thất cho ngân hàng. Mặt khác, việc cho vay có
bảo đảm bằng tài sản sẽ bảo đảm quyền ƣu tiên của NHTM trong việc thu hồi
nợ trong trƣờng hợp khách hàng gặp khó khăn trong thanh toán, đặc biệt trong
trƣờng hợp khách hàng là doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản.
+ Ràng buộc trách nhiệm, ngăn chặn tƣ tƣởng chây ỳ không trả nợ mặc
dù có khả năng trả. Việc cho vay có tài sản bảo đảm, đặc biệt là trƣờng hợp
giá trị tài sản bảo đảm lớn hơn nhiều giá trị khoản vay sẽ khiến khách hàng
tích cực trong việc trả nợ để có thể thu hồi đƣợc tài sản.
+ Giới hạn khả năng vay của bên vay. Nhu cầu của khách hàng có thể
rất nhiều nhƣng tài sản của họ chỉ có giới hạn. Nếu ngân hàng cho vay vƣợt
quá nhiều tài sản của khách hàng sẽ tiềm ẩn rủi ro cho ngân hàng vì khi đó,
khách hàng kinh doanh chủ yếu bằng vốn vay chứ không bằng vốn tự có. Khi
dự án ít hoặc không có vốn tự có, khách hàng có thể đƣa ra các quyết định
kinh doanh táo bạo, chứa đựng nhiều rủi ro. Nếu rủi ro xảy ra, thì việc thu hồi
toàn bộ khoản nợ là không thể vì khách hàng không có đủ tài sản để xử lý.
+ Chống lừa đảo, giân lận. Việc ngân hàng yêu cầu khách hàng phải có

tài sản bảo đảm cho khoản vay sẽ hạn chế rất nhiều những vụ lừa đảo làm giả
hồ sơ vay vốn nhằm chiếm đoạt vốn của ngân hàng một cách bất hợp pháp.
+ Giúp ngân hàng nắm đƣợc số liệu tài sản của bên vay. Việc cho vay
có bảo đảm bằng tài sản sẽ bảo đảm cho NHTM quản lý, theo dõi đƣợc hoạt
động của khách hàng vay một cách chặt chẽ hơn, từ đó bảo dảm an toàn cho
NHTM trong việc thu hồi nợ vay.
Nhƣ vậy, bảo đảm tiền vay có ý nghĩa rất lớn trong hoạt động cho vay
của ngân hàng thƣơng mại, bởi lẽ đây chính là các biện pháp nhằm hạn chế
rủi ro khi ngân hàng cho khách hàng vay vốn. Ngoài ra, việc áp dụng các biện
pháp bảo đảm còn có ý nghĩa quan trọng đối với nền kinh tế do hoạt động
Pháp luật về thế chấp tài sản trong hoạt động cho vay của NHTM



Luận văn thạc sỹ 3 Nguyễn Thành Nam

ngân hàng có ảnh hƣởng sâu sắc, lâu dài và mang tính chất dây truyền đối với
toàn bộ nền kinh tế quốc dân.
Tuy nhiên, nếu quá chú trọng yếu tố này chƣa hẳn đã tốt, trong thời
gian qua một số cán bộ ngân hàng đã quá chú trọng vai trò của tài sản bảo
đảm, coi bảo đảm là cơ sở để quyết định cho vay không quan tâm đến các
điều kiện khác, điều này chính là nguyên nhân làm giảm chất lƣợng tín
dụng[55, tr.172].
Chính vì vậy việc nghiên cứu một cách khoa học về bảo đảm tiền vay,
làm rõ các vấn đề lý thuyết của bảo đảm tiền vay để có một cách hiểu đúng
đắn về vai trò của nó trong hoạt động cho vay của NHTM là thực sự cần thiết.
Tuy nhiên do sự giới hạn về thời gian nghiên cứu, luận văn chỉ nghiên cứu
một biện pháp trong bảo đảm tiền vay, đó là biện pháp thế chấp tài sản.
Trong điều kiện nền kinh tế chuyển đổi của nƣớc ta hiện nay, các quy
định về thế chấp tài sản đƣợc quy định trong các văn bản pháp luật thuộc

nhiều ngành luật khác nhau nhƣ: luật dân sự, luật đất đai, luật ngân hàng,
hàng không, hàng hải, luật doanh nghiệp, luật đầu tƣ , điều này thể hiện sự
quan tâm của Nhà nƣớc ta đối với vấn đề bảo đảm tiền vay của tổ chức tín
dụng nói chung và thế chấp tài sản nói riêng. Tuy nhiên, hiện nay một số quy
định hiện hành về thế chấp tài sản tỏ ra bất cập không còn phù hợp khi áp
dụng vào thực tiễn, chƣa đáp ứng đƣợc sự vận động đa dạng, phức tạp của
quan hệ tín dụng. Mặt khác, Bộ luật Dân sự, Luật Đất đai và một số văn bản
khác đã đƣợc sửa đổi và ban hành mới đã dẫn đến những thay đổi quan trọng
trong quan niệm về thế chấp và tài sản thế chấp trong khi đó pháp luật ngân
hàng lại chƣa có sự sửa đổi kịp thời dẫn đến sự mâu thuẫn trong các quy định
pháp luật hiện hành về thế chấp tài sản. Ngoài ra, pháp luật về thế chấp tài sản
Pháp luật về thế chấp tài sản trong hoạt động cho vay của NHTM



Luận văn thạc sỹ 4 Nguyễn Thành Nam

còn có một số nội dung không theo thông lệ quốc tế (nhƣ đăng ký thế chấp,
xử lý tài sản thế chấp ).
Vì thế, để hiểu đúng và thực hiện đúng các quy định về thế chấp tài
sản, cũng nhƣ phát hiện những điểm thiếu sót, chƣa đồng bộ trong hệ thống
pháp luật về thế chấp tài sản, thì việc nghiên cứu đề đề tài này càng trở nên rất
cần thiết nhằm kịp thời sửa đổi các quy định pháp luật ngân hàng hiện hành
về thế chấp tài sản, góp phần đảm bảo sự đồng bộ của hệ thống pháp luật và
phù hợp với thông lệ quốc tế.

2. Tình hình nghiên cứu:
Liên quan đến việc nghiên cứu các quy định pháp luật về thế chấp tài
sản, đã có một số đề tài, công trình nghiên cứu, bài báo khoa học nhƣ sau:
Chế độ pháp lý về giao dịch bảo đảm trong hoạt động cho vay của tổ chức tín

dụng (khoá luận tốt nghiệp - Vũ Diệu Huyền), Pháp luật về xử lý tài sản bảo
đảm tiền vay của các tổ chức tín dụng (Luận văn thạc sỹ luật học - Trần Thị
Minh Tâm), Các biện pháp bảo đảm thực hiện hợp đồng kinh tế (Luận văn
thạc sỹ luật học - Lê Quốc Hiền); Thế chấp quyền sử dụng đất bảo đảm hợp
đồng tín dụng ngân hàng ở nƣớc ta hiện nay (Luận văn thạc sỹ - Bùi Thị
Thanh Hằng), bài “Về các biện pháp bảo đảm thực hiện hợp đồng tín dụng”
của PTS. Lê Hồng Hạnh - Tạp chí Luật học số 1/1996; bài “Xử lí tài sản thế
chấp là giá trị quyền sử dụng đất để bảo đảm tiền vay trong ngân hàng và các
tổ chức tín dụng” của ThS. Doãn Hồng Nhung - Tạp chí Luật học số 03/2002,
bài “Về thế chấp tài sản trong bảo đảm thực hiện hợp đồng tín dụng ngân
hàng” của Nguyễn Văn Hoạt - Tạp chí Nhà nƣớc và pháp luật số 10/1998; bài
“Xử lý những vƣớng mắc nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của các tổ chức
Pháp luật về thế chấp tài sản trong hoạt động cho vay của NHTM



Luận văn thạc sỹ 5 Nguyễn Thành Nam

tín dụng Việt Nam trong quá trình hội nhập quốc tế” của ThS. Nguyễn Trọng
Nghĩa - Tạp chí Thị trƣờng Tài chính tiền tệ 15/11/2004
Tuy nhiên, các đề tài, bài báo nêu trên vẫn chƣa nghiên cứu một cách
đồng bộ và toàn diện về biện pháp thế chấp tài sản trong hoạt động cho vay
của ngân hàng thƣơng mại. Hơn nữa, những đề tài, bài báo này có thời gian
nghiên cứu cách đây đã nhiều năm nên chƣa cập nhật đƣợc các nội dung mới
trong các quy định của pháp luật, không đáp ứng đƣợc đòi hỏi của thực tiễn.

3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
Mục tiêu của luận văn là làm sáng tỏ cơ sở lý luận, bản chất và các quy
định pháp luật hiện hành của biện pháp thế chấp tài sản trong hoạt động cho
vay của ngân hàng thƣơng mại tại Việt Nam trong giai đoạn hiện nay. Trên cơ

sở đó, luận văn đề xuất một số kiến nghị nhằm hoàn thiện và nâng cao hiệu
quả của chế định này.
Để đạt mục tiêu trên, luận văn tập trung nghiên cứu những vấn đề sau:
- Tìm hiểu cơ sở lý luận và thực tiễn của các biện pháp bảo đảm tiền
vay nói chung và biện pháp thế chấp tài sản nói riêng. Đƣa ra cách hiểu đúng
đắn về thế chấp tài sản, mục đích, vai trò và ý nghĩa của biện pháp này trong
hoạt động ngân hàng, góp phần làm cơ sở để hiểu và vận dụng biện pháp này
trong thực tiễn
- Đánh giá thực trạng pháp luật về thế chấp tài sản và việc thực thi các
quy định này trong thực tiễn từ đó rút ra các ƣu điểm, hạn chế của chế định
này.
- Đƣa ra những kiến nghị hoàn thiện chế định thế chấp tài sản, góp
phần đảm bảo sự đồng bộ của hệ thống pháp luật
Pháp luật về thế chấp tài sản trong hoạt động cho vay của NHTM



Luận văn thạc sỹ 6 Nguyễn Thành Nam


4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu:
Đối tƣợng nghiên cứu của đề tài là các quy định pháp luật về thế chấp
tài sản trong hoạt động cho vay của ngân hàng thƣơng mại, mối quan hệ của
các quy định này với các quy định khác về bảo đảm tiền vay và trong tổng thể
hệ thống pháp luật.
Phạm vi nghiên cứu của luận văn bao gồm các khía cạnh pháp lý, cơ sở
lý luận, thực tiễn và nội dung của các quy định về thế chấp tài sản trong hoạt
động cho vay của ngân hàng thƣơng mại.

5. Phƣơng pháp nghiên cứu.

Phƣơng pháp luận khoa học mà tác giả sử dụng là phƣơng pháp biện
chứng Mác- Lênin.
Ngoài ra, các phƣơng pháp cụ thể đƣợc sử dụng trong quá trình nghiên
cứu và thực hiện luận văn bao gồm: phƣơng pháp thống kê, phân tích, đánh
giá, đối chiếu, so sánh, tổng hợp.

6. Bố cục của luận văn.
Ngoài Lời nói đầu, kết luận, mục lục, danh mục tài liệu tham khảo,
Luận văn gồm 3 chƣơng, đƣợc bố cục nhƣ sau:
Chƣơng I. Khái quát chung về thế chấp tài sản trong hoạt động cho vay
của ngân hàng thƣơng mại;
Chƣơng II. Pháp luật về thế chấp tài sản trong hoạt động cho vay của
ngân hàng thƣơng mại;
Pháp luật về thế chấp tài sản trong hoạt động cho vay của NHTM



Luận văn thạc sỹ 7 Nguyễn Thành Nam

Chƣơng III. Hoàn thiện pháp luật về thế chấp tài sản trong hoạt động
cho vay của ngân hàng thƣơng mại.

Pháp luật về thế chấp tài sản trong hoạt động cho vay của NHTM



Luận văn thạc sỹ 8 Nguyễn Thành Nam

CHƢƠNG I.
KHÁI QUÁT CHUNG VỀ THẾ CHẤP TÀI SẢN

TRONG HOẠT ĐỘNG CHO VAY CỦA NGÂN HÀNG THƢƠNG MẠI

1.1. Hoạt động cho vay của ngân hàng thƣơng mại và vấn đề rủi ro
tín dụng
1.1.1. Vị trí, vai trò của ngân hàng thương mại trong nền kinh tế
Ngân hàng là một trong các tổ chức tài chính quan trọng nhất của nền
kinh tế. Ngân hàng bao gồm nhiều loại tuỳ thuộc vào sự phát triển của nền
kinh tế nói chung và hệ thống tài chính nói riêng. Tuỳ theo mục đích và tính
chất hoạt động, ngân hàng đƣợc phân thành: ngân hàng thƣơng mại, ngân
hàng đầu tƣ, ngân hàng phát triển, ngân hàng chính sách, ngân hàng hợp tác,
ngân hàng tiết kiệm, ngân hàng địa ốc [52,tr.126]. Trong các loại hình đó,
ngân hàng thƣơng mại (NHTM) chiếm tỷ trọng lớn nhất về quy mô tài sản, thị
phần và số lƣợng ngân hàng.
Hiện nay, có nhiều định nghĩa khác nhau về NHTM. Đạo Luật ngân
hàng của Pháp năm 1941 định nghĩa: ngân hàng thƣơng mại là những xí
nghiệp hay cơ sở mà nghề nghiệp thƣờng xuyên là nhận tiền gửi của công
chúng dƣới hình thức ký thác hoặc dƣới hình thức khác và sử dụng tài sản đó
cho chính họ trong các nghiệp vụ về chiết khấu, tín dụng và tài chính[52,
tr.127].
Luật Ngân hàng thƣơng mại của nƣớc Cộng hoà nhân dân Trung Hoa
năm 1995, Điều 1 quy định: Các ngân hàng thƣơng mại đƣợc thành lập theo
Luật này và Luật Công ty của nƣớc Cộng hoà nhân dân Trung Hoa, đƣợc
nhận các khoản tiền gửi từ công chúng, cấp các khoản vay, cung cấp các dịch
Pháp luật về thế chấp tài sản trong hoạt động cho vay của NHTM



Luận văn thạc sỹ 9 Nguyễn Thành Nam

vụ thanh toán và tiến hành các loại hình kinh doanh có liên quan khác[52,

tr.127-128].
Theo quy định của pháp luật Việt Nam, ngân hàng thƣơng mại là loại
hình ngân hàng đƣợc thực hiện toàn bộ hoạt động ngân hàng và các hoạt động
kinh doanh khác có liên quan vì mục tiêu lợi nhuận, góp phần thực hiện các
mục tiêu kinh tế của Nhà nƣớc[8].
Từ định nghĩa trên, ta rút ra các đặc điểm cơ bản của NHTM:
Thứ nhất, NHTM thực hiện toàn bộ hoạt động ngân hàng. Đó là hoạt
động huy động vốn, hoạt động tín dụng, hoạt động thanh toán, ngân quỹ và
các hoạt động khác. NHTM huy động vốn thông qua việc nhận tiền gửi của
các tổ chức, cá nhân dƣới các hình thức: tiền gửi không kỳ hạn, tiền gửi có kỳ
hạn, phát hành các chứng chỉ tiền gửi, kỳ phiếu, trái phiếu NHTM hoạt
động tín dụng thông qua việc NHTM sử dụng vốn tự có, vốn huy động để cấp
tín dụng dƣới các hình thức: cho vay, bảo lãnh, chiết khấu thƣơng phiếu và
các giấy tờ có giá khác NHTM đƣợc thực hiện các hoạt động thanh toán và
ngân quỹ nhƣ: cung ứng các phƣơng tiện thanh toán, thực hiện các dịch vụ
thanh toán trong nƣớc, thực hiện các dịch vụ thanh toán quốc tế khi đƣợc
Ngân hàng Nhà nƣớc cho phép, thực hiện dịch vụ thu hộ và chi hộ, dịch vụ
thu và phát tiền mặt cho khách hàng Ngoài ra, NHTM còn thực hiện một số
hoạt động khác nhƣ: góp vốn, mua cổ phần, kinh doanh ngoại hối và vàng,
cung ứng các dịch vụ bảo hiểm, tƣ vấn tài chính, tiền tệ, bảo quản giấy tờ có
giá và hiện vật quý [8]. Đặc điểm này cho thấy, NHTM ở Việt Nam là ngân
hàng kinh doanh tổng hợp[52, tr.130].
Thứ hai, NHTM hoạt động vì mục tiêu lợi nhuận. Mặc dù hoạt động
của NHTM góp phần thực hiện các chính sách kinh tế, đặc biệt là chính sách
tiền tệ của Nhà nƣớc, nhƣng mục tiêu hàng đầu trong hoạt động của NHTM là
Pháp luật về thế chấp tài sản trong hoạt động cho vay của NHTM



Luận văn thạc sỹ 10 Nguyễn Thành Nam


lợi nhuận kinh doanh. Đặc điểm này giúp ta phân biệt NHTM với ngân hàng
chính sách, ngân hàng hợp tác[52, tr.130].
Là một trong các tổ chức tài chính quan trọng của nền kinh tế, NHTM
hoạt động chủ yếu trên nguyên tắc chuyển tiết kiệm thành đầu tƣ[51, tr.11].
NHTM huy động vốn từ tiền nhàn rỗi của ngƣời dân, của các doanh nghiệp,
từ thặng dƣ ngân sách của chính quyền. Sau đó nó phân phối lại cho những
ngƣời có nhu cầu vay tiền sử dụng để tiêu dùng hoặc sản xuất kinh doanh.
Nhƣ vậy, sự gặp gỡ giữa ngƣời thừa vốn và ngƣời thiếu vốn trở lên hết sức
đơn giản với vai trò trung gian của NHTM. Thông qua chức năng này NHTM
đã kích thích sự luân chuyển của nguồn vốn trong toàn xã hội, thúc đẩy sự
tăng trƣởng kinh tế, tăng thêm việc làm, cải thiện mức sống của dân cƣ, góp
phần quan trọng vào điều hoà lƣu thông tiền tệ, ổn định sức mua của đồng
tiền, kiềm chế lạm phát.
NHTM còn là một tổ chức trung gian thanh toán. Các hoạt động thanh
toán qua NHTM đƣợc diễn ra một cách nhanh chóng, tiện lợi, ít tốn kém và
an toàn. Trong khi làm trung gian thanh toán, NHTM đƣa ra cho khách hàng
nhiều hình thức thanh toán nhƣ séc, uỷ nhiệm chi, uỷ nhiệm thu, các loại thẻ
cung cấp mạng lƣới thanh toán điện tử, kết nối các quỹ và cung cấp tiền giấy
khi khách hàng cần[51, tr.14]. Các ngân hàng còn thực hiện thanh toán bù trừ
với nhau thông qua ngân hàng trung ƣơng hoặc thông qua các trung tâm thanh
toán. Qua việc thực hiện chức năng trung gian thanh toán, NHTM có điều
kiện huy động tiền gửi của xã hội, trƣớc hết là của các doanh nghiệp một cách
tối đa, tạo nguồn vốn cho vay và đầu tƣ, đẩy mạnh hoạt động kinh doanh ngân
hàng. Việc thanh toán qua ngân hàng cũng tạo cho việc giao lƣu hàng hoá,
dịch vụ trở lên thuận tiện, nhanh chóng và tiết kiệm.
Pháp luật về thế chấp tài sản trong hoạt động cho vay của NHTM




Luận văn thạc sỹ 11 Nguyễn Thành Nam

Thông qua việc thực hiện nghiệp vụ thanh toán và tín dụng nói trên,
NHTM còn là tác nhân tạo phƣơng tiện thanh toán . Khi khách hàng có số dƣ
trên tài khoản tiền gửi thanh toán, họ có thể chi trả để có đƣợc hàng hoá và
dịch vụ theo yêu cầu. Khi ngân hàng cho vay, số dƣ trên tài khoản tiền gửi
thanh toán của khách hàng tăng lên, khách hàng có thể dùng để mua hàng và
dịch vụ. Do đó, bằng việc cho vay (hay tạo tín dụng) các ngân hàng đã tạo ra
phƣơng tiện thanh toán[51, tr.14]. Phƣơng tiện thanh toán đƣợc tạo ra gấp bội
khi ngân hàng cho vay thông qua cơ chế thanh toán chuyển khoản giữa các
ngân hàng.
Chính vì các lý do trên, NHTM đóng một vai trò đặc biệt quan trọng
trong nền kinh tế của nƣớc ta hiện nay.
1.1.2. Hoạt động cho vay của ngân hàng thương mại
1.1.2.1. Khái niệm hoạt động cho vay
Theo quy định của pháp luật hiện hành, cho vay là một hình thức cấp
tín dụng, theo đó tổ chức tín dụng giao cho khách hàng một khoản tiền để sử
dụng vào mục đích và thời gian nhất định theo thoả thuận với nguyên tắc có
hoàn trả cả gốc và lãi[14].
Nhƣ vậy, cho vay là một trong các hình thức cấp tín dụng mà tổ chức
tín dụng cung cấp cho khách hàng. Đối với hoạt động chiết khấu, khách hàng
chuyển nhƣợng thƣơng phiếu chƣa đáo hạn cho tổ chức tín dụng để đổi lấy
một số tiền bằng mệnh giá của thƣơng phiếu trừ lãi chiết khấu và hoa hồng
phí (nếu có)[54, tr.152]. Đối với hoạt động cho thuê tài chính thì việc cấp tín
dụng đƣợc thực hiện qua việc mua tài sản để cho khách hàng thuê[52, tr.211].
Mặt khác, theo quy định hiện hành của pháp luật thì tổ chức tín dụng muốn
thực hiện nghiệp vụ cho thuê tài chính phải thành lập công ty cho thuê tài
chính chứ không đƣợc trực tiếp thực hiện[2]. Đối với hoạt động bảo lãnh, tổ
Pháp luật về thế chấp tài sản trong hoạt động cho vay của NHTM




Luận văn thạc sỹ 12 Nguyễn Thành Nam

chức tín dụng cam kết với bên có quyền về việc thực hiện nghĩa vụ tài chính
thay cho khách hàng khi khách hàng không thực hiện đúng nghĩa vụ đã cam
kết. Trong hoạt động bảo lãnh, tổ chức tín dụng không phải xuất quỹ, trừ
trƣờng hợp khách hàng không thực hiện đƣợc nghĩa vụ bảo lãnh, khi đó tổ
chức tín dụng có nghĩa vụ trả nợ thay.
Khác các hình thức cấp tín dụng nói trên, trong nghiệp vụ cho vay, tổ
chức tín dụng giao một khoản tiền nhất định cho bên vay để dùng vào một
mục đích nhất định trong một thời gian nhất định và bên vay có nghĩa vụ hoàn
trả cả gốc và lãi cho tổ chức tín dụng khi đến hạn thanh toán.
Hoạt động cho vay thực chất là quan hệ hợp đồng, việc cho vay phải
đƣợc lập thành hợp đồng tín dụng[52, tr.211]. Chủ thể tham gia quan hệ hợp
đồng tín dụng bao gồm bên cho vay (tổ chức tín dụng) và bên vay (khách
hàng vay). Tuy nhiên, trong phạm vi nghiên cứu của luận văn, bên cho vay
đƣợc xem xét dƣới góc độ là các NHTM. Theo quy định của pháp luật hiện
hành, NHTM chủ động tìm kiếm các dự án sản xuất kinh doanh khả thi, có
hiệu quả để cho vay. Trong trƣờng hợp cần thiết, NHTM nhà nƣớc đƣợc cho
vay theo quyết định của Thủ tƣớng Chính phủ. NHTM đƣợc quyền yêu cầu
khách hàng cung cấp tài liệu chứng minh phƣơng án kinh doanh khả thi, khả
năng tài chính của mình và của ngƣời bảo lãnh trƣớc khi quyết định cho vay,
có quyền chấm dứt việc cho vay, thu hồi nợ trƣớc hạn khi phát hiện khách
hàng cung cấp thông tin sai sự thật, vi phạm hợp đồng tín dụng[8].
Theo quy định của pháp luật, NHTM xem xét và quyết định cho vay
khi khách hàng có đủ các điều kiện: (1) Có năng lực pháp luật dân sự, năng
lực hành vi dân sự và chịu trách nhiệm dân sự theo quy định của pháp luật;
(2) Mục đích sử dụng vốn vay hợp pháp; (3) Có khả năng tài chính đảm bảo
khả năng trả nợ trong thời hạn cam kết; (4) Có dự án đầu tƣ, phƣơng án sản

Pháp luật về thế chấp tài sản trong hoạt động cho vay của NHTM



Luận văn thạc sỹ 13 Nguyễn Thành Nam

xuất, kinh doanh, dịch vụ khả thi và có hiệu quả; hoặc có dự án đầu tƣ,
phƣơng án phục vụ đời sống khả thi và phù hợp với quy định của pháp luật;
(5) Thực hiện các quy định về bảo đảm tiền vay theo quy định của pháp
luật[14].
Kể từ thời điểm nhận tiền vay, bên vay trở thành chủ sở hữu đối khoản
tiền vay đó[52, tr.203]. Tuy nhiên, bên vay không đƣợc sử dụng tiền vay một
cách tuỳ ý mà phải sử dụng tiền vay đúng mục đích đã thoả thuận trong hợp
đồng tín dụng. NHTM có quyền kiểm tra, giám sát quá trình vay vốn, sử dụng
vốn vay của khách hàng. Trong trƣờng hợp khách hàng sử dụng vốn vay
không đúng mục đích, NHTM có quyền chấm dứt việc cho vay và thu hồi nợ
trƣớc hạn[14].
Khi đến hạn thanh toán, bên vay có trách nhiệm hoàn trả tiền vay cho
NHTM cả gốc và lãi theo thoả thuận trong hợp đồng tín dụng[14]. Điều này có
nghĩa là, bên vay chỉ đƣợc sử dụng tiền vay trong một thời hạn nhất định (thời
hạn vay), hết thời hạn vay, bên vay phải hoàn trả toàn bộ gốc và lãi cho
NHTM. Tuỳ theo thoả thuận trong hợp đồng tín dụng mà tiền gốc và lãi vay
đƣợc trả dần hoặc trả một lần khi đến hạn thanh toán.
Hoạt động cho vay của NHTM có vai trò rất quan trọng trong sự phát
triển kinh tế và đời sống xã hội, đây cũng là hoạt động đem lại thu nhập chủ
yếu cho các NHTM.
1.1.2.2. Phân loại cho vay
Tuỳ theo tiêu chí phân loại, cho vay có thể phân thành các loại sau:
- Theo mục đích vay: gồm có cho vay bất động sản, cho vay kinh
doanh, cho vay tiêu dùng

Pháp luật về thế chấp tài sản trong hoạt động cho vay của NHTM



Luận văn thạc sỹ 14 Nguyễn Thành Nam

- Theo thời hạn vay: gồm có cho vay ngắn hạn (thời hạn đến 12 tháng),
cho vay trung hạn (thời hạn trên 12 tháng đến 60 tháng), cho vay dài hạn (thời
hạn trên 60 tháng)[14].
- Theo mức độ tín nhiệm đối với khách hàng: gồm có cho vay có bảo
đảm bằng tài sản và cho vay không có bảo đảm bằng tài sản[54, tr.24].
- Theo phƣơng thức hoàn trả: gồm có cho vay không có thời hạn và cho
vay có thời hạn. Cho vay có thời hạn bao gồm các loại: cho vay có một kỳ
hạn trả nợ, cho vay có nhiều kỳ hạn trả nợ cụ thể (cho vay trả góp), cho vay
hoàn trả nợ nhiều lần nhƣng không có kỳ hạn trả nợ cụ thể[54, tr.25].
- Theo phƣơng thức cho vay: gồm có cho vay từng lần, cho vay theo
hạn mức tín dụng, cho vay theo dự án đầu tƣ, cho vay hợp vốn, cho vay trả
góp, cho vay theo hạn mức tín dụng dự phòng, cho vay thông qua nghiệp vụ
phát hành và sử dụng thẻ tín dụng, cho vay theo hạn mức thấu chi [14].
1.1.3. Rủi ro tín dụng trong hoạt động cho vay của NHTM
Rủi ro luôn gắn liền với hoạt động của NHTM. Có rất nhiều rủi ro khi
NHTM thực hiện các hoạt động nghiệp vụ nhƣ: rủi ro tín dụng, rủi ro hối
đoái, rủi ro lãi suất, rủi ro thanh khoản, rủi ro đọng vốn [51, tr.125], các rủi ro
này nếu xảy ra sẽ gây tổn thất cho NHTM, ảnh hƣởng tỷ suất lợi nhuận và uy
tín của NHTM. Trong hoạt động cho vay, NHTM phải tìm mọi cách để hạn
chế rủi ro tín dụng.
Rủi ro tín dụng là rủi ro về sự tổn thất tài chính (trực tiếp hoặc gián
tiếp) xuất phát từ người đi vay không thực hiện nghĩa vụ trả nợ đúng hạn theo
cam kết hoặc mất khả năng thanh toán[54, tr.421].
Để ra quyết định cho vay, NHTM phải tiến hành thẩm định khách hàng

và chỉ quyết định cho vay khi đã phân tích đầy đủ các yếu tố liên quan đến
Pháp luật về thế chấp tài sản trong hoạt động cho vay của NHTM



Luận văn thạc sỹ 15 Nguyễn Thành Nam

thiện chí trả nợ, phƣơng án trả nợ, khả năng trả nợ của khách hàng vay sao
cho có độ an toàn cao nhất và nhìn chung NHTM chỉ quyết định cho vay khi
thấy rằng rủi ro tín dụng sẽ không xảy ra. Tuy nhiên, không một nhà kinh
doanh ngân hàng tài ba nào có thể dự đoán chính xác các vấn đề sẽ xảy ra[51,
tr.129]. Khả năng hoàn trả tiền vay của khách hàng có thể bị thay đổi do nhiều
nguyên nhân. Có thể tóm lƣợc một số nguyên nhân chính nhƣ sau:
- Nguyên nhân khách quan: những nguyên nhân khách quan có thể kể
đến nhƣ thiên tai, chiến tranh, thay đổi chính sách kinh tế theo hƣớng bất lợi
cho ngƣời đi vay , những thay đổi này vƣợt quá tầm kiểm soát của NHTM
cũng nhƣ khách hàng vay, ảnh hƣởng đến khả năng trả nợ của khách hàng vay
dẫn đến tổn thất cho NHTM.
- Nguyên nhân từ phía khách hàng vay: nhƣ khách hàng có chủ ý lừa
đảo; khách hàng lâm vào tình trạng khó khăn về tài chính (do điều hành, quản
lý kinh doanh yếu kém, do cạnh tranh ) hoặc tƣ tƣởng chây ỳ của khách hàng
sau khi đã nhận vốn vay làm phát sinh rủi ro tín dụng.
- Nguyên nhân từ phía NHTM: những nguyên nhân thuộc loại này có
thể kể đến nhƣ trình độ yếu kém của một số cán bộ tín dụng trong việc thẩm
định khoản vay, không kiểm tra và kịp thời xử lý các vi phạm trong quá trình
sử dụng vốn vay của khách hàng, các quyết định cho vay vội vã hoặc có động
cơ vụ lợi là nguyên nhân dẫn tới rủi ro tín dụng trong hoạt động của
NHTM[51, tr.129].
Để kiểm soát rủi ro mang lại từ hoạt động cho vay, hạn chế đến mức
thấp nhất các thiệt hại gây ra, NHTM phải thực hiện nhiều biện pháp nhƣ:

tuân thủ các quy định về an toàn tín dụng (những trƣờng hợp cấm cho vay
hoặc không đƣợc cho vay ƣu đãi; tổng dƣ nợ cho vay đối với một khách hàng
không vƣợt quá 15% vốn tự có của tổ chức tín dụng ), xác định danh mục
Pháp luật về thế chấp tài sản trong hoạt động cho vay của NHTM



Luận văn thạc sỹ 16 Nguyễn Thành Nam

các khoản tài trợ với các mức rủi ro khác nhau, xây dựng chính sách tín dụng
và quy trình tín dụng, thiết lập quỹ dự phòng để bù đắp tổn thất và áp dụng
những biện pháp bảo đảm tiền vay[51, tr.133-134]. Nhƣ đã phân tích ở Mục 1
trong Lời nói đầu Luận văn này, việc áp dụng các biện pháp bảo đảm tiền vay
bằng tài sản sẽ giảm thiểu rủi ro, tăng khả năng thu hồi nợ cho NHTM.

1.2. Sơ lƣợc về các biện pháp bảo đảm tiền vay
1.2.1. Khái niệm về bảo đảm tiền vay
Bảo đảm tiền vay không phải là yếu tố bắt buộc khi vay vốn ngân hàng.
Việc bảo đảm tiền vay cũng không hoàn toàn quyết định việc khoản vay sẽ
đƣợc hoàn trả nhƣng việc áp dụng các biện pháp bảo đảm tiền vay phần nào
sẽ giảm bớt rủi ro cho hoạt động cho vay của NHTM[52, tr.227].
Theo nghĩa rộng, bảo đảm tiền vay là việc tổ chức tín dụng áp dụng các
biện pháp nhằm phòng ngừa rủi ro, tạo cơ sở kinh tế và pháp lý để thu hồi
được các khoản nợ cho khách hàng vay[11].
Nói cách khác, bảo đảm tiền vay là những biện pháp mà NHTM áp
dụng nhằm ngăn chặn và hạn chế tới mức thấp nhất những rủi ro có thể xảy ra
trong hoạt động cho vay của mình, cụ thể là bảo đảm cho việc thu hồi vốn
gốc, lãi vay, lãi quá hạn và các khoản phí phát sinh (nếu có). Theo nghĩa này,
bảo đảm tiền vay không chỉ đơn thuần là việc cho vay phải có cầm cố, thế
chấp tài sản hoặc bảo lãnh của bên thứ ba mà còn bao gồm hàng loạt các giải

pháp khác nhằm bảo đảm NHTM thu hồi đƣợc toàn bộ gốc và lãi vay sau một
chu kỳ cho vay nhất định. Chẳng hạn nhƣ biện pháp bảo đảm tiền vay khi cho
vay không có bảo đảm bằng tài sản là việc NHTM lựa chọn khách hàng có uy
tín, có khả năng tài chính để cho vay. Mặc dù tiền vay không đƣợc bảo đảm
bằng tài sản nhƣng có thể nói khoản vay vẫn đƣợc bảo đảm cao vì khách hàng
Pháp luật về thế chấp tài sản trong hoạt động cho vay của NHTM



Luận văn thạc sỹ 17 Nguyễn Thành Nam

vay trong trƣờng hợp này là các chủ thể có kinh nghiệm, có khả năng tài
chính và có uy tín trong việc vay và trả nợ ngân hàng. Việc áp dụng biện pháp
này rất cần thiết và hiệu quả nên nó cần đƣợc áp dụng trƣớc tiên trong các
biện pháp bảo đảm tiền vay. Pháp luật hiện hành còn quy định các biện pháp
bảo đảm tiền vay khác trong trƣờng hợp cho vay không có bảo đảm bằng tài
sản nhƣ: tổ chức tín dụng nhà nƣớc cho vay không có bảo đảm theo theo chỉ
định của Chính phủ, bảo đảm bằng tín chấp của tổ chức chính trị - xã hội cho
cá nhân, hộ gia đình nghèo vay vốn[11].
Theo nghĩa hẹp, bảo đảm tiền vay là những biện pháp đảm bảo việc trả
nợ vốn vay (cầm cố tài sản, thế chấp tài sản, bảo lãnh của bên thứ ba). Theo
nghĩa này, bảo đảm tiền vay bao gồm các biện pháp bảo đảm thuộc phạm trù
chủ quan, thể hiện ở chỗ các chủ thể thoả thuận thiết lập, áp dụng dựa trên các
quy định của pháp luật về bảo đảm tiền vay để tạo sự yên tâm cho nhau trong
quan hệ nghĩa vụ, có tác dụng dự phòng đối với những hành vi không hợp
pháp, tạo cơ sở kinh tế khắc phục thiệt hại vật chất cho bên bị thiệt hại. Các
thoả thuận của các chủ thể phải phù hợp với quy định của pháp luật, khi các
chủ thể chỉ thoả thuận áp dụng biện pháp nào đó mà không thoả thuận nội
dung cụ thể thì mặc nhiên sẽ áp dụng quy định của pháp luật về biện pháp bảo
đảm đó; ngƣợc lại các biện pháp bảo đảm - các quy định của pháp luật chỉ

thực sự phát huy hiệu lực khi các bên có thoả thuận áp dụng và phù hợp với ý
chí nguyện vọng của các bên[52, tr.229-230].
1.2.2. Phân loại bảo đảm tiền vay
Theo quy định của các nƣớc và trên thực tế có thể phân loại theo các
nhóm sau đây:
1.2.2.1. Bảo đảm tiền vay hữu hình và bảo đảm tiền vay vô hình
Pháp luật về thế chấp tài sản trong hoạt động cho vay của NHTM



Luận văn thạc sỹ 18 Nguyễn Thành Nam

- Bảo đảm tiền vay hữu hình là bảo đảm bằng những tài sản hiện hữu
nhƣ nhà ở, công trình xây dựng, phƣơng tiện vận tải, hàng hoá
- Bảo đảm tiền vay vô hình là bảo đảm bằng những tài sản phi vật chất
nhƣ các quyền tài sản. Quyền tài sản thuộc sở hữu của bên bảo đảm bao gồm
quyền tài sản phát sinh từ quyền tác giả, quyền sở hữu công nghiệp, quyền đối
với giống cây trồng, quyền đòi nợ, quyền nhận bảo hiểm, quyền đối với phần
vốn góp trong doanh nghiệp, quyền tài sản phát sinh từ quan hệ hợp đồng
Theo quy định của pháp luật Việt Nam, quyền sử dụng đất và quyền khai thác
tài nguyên cũng đƣợc coi là các quyền tài sản[1].
1.2.2.2. Bảo đảm đối nhân và bảo đảm đối vật
- Bảo đảm đối nhân: đƣợc hiểu là ngƣời thứ ba cam kết với ngƣời có
quyền về việc thực hiện nghĩa vụ thay cho ngƣời có nghĩa vụ khi nghĩa vụ
không đƣợc thực hiện đúng theo thoả thuận. Trong bảo đảm đối nhân, các bên
không xác định cụ thể tài sản của bên bảo đảm để thực hiện nghĩa vụ, ngƣời
nhận bảo đảm không có quyền ƣu tiên đối với tài sản của ngƣời bảo đảm.
Biện pháp bảo đảm đối nhân tiêu biểu là bảo lãnh.
- Bảo đảm đối vật: quyền của bên nhận bảo đảm đƣợc xác định là tập
hợp các quyền đối với tài sản cụ thể nhằm bảo đảm cho việc thực hiện nghĩa

vụ thanh toán. Tài sản này phải thuộc quyền sở hữu và/hoặc quyền sử dụng
hợp pháp của ngƣời có nghĩa vụ hoặc ngƣời thứ ba. Ngƣời có quyền đƣợc
quyền yêu cầu xử lý tài sản đó theo thoả thuận hoặc theo quy định của pháp
luật để thanh toán nghĩa vụ trong trƣờng hợp nghĩa vụ không đƣợc thực hiện
hoặc thực hiện không đúng. Biện pháp bảo đảm đối vật có thể kể đến nhƣ:
cầm cố, thế chấp, đặt cọc, ký cƣợc, ký quỹ
1.2.2.3. Bảo đảm tiền vay bằng tài sản và bảo đảm tiền vay không bằng
tài sản:
Pháp luật về thế chấp tài sản trong hoạt động cho vay của NHTM



Luận văn thạc sỹ 19 Nguyễn Thành Nam

Theo quy định của Nghị định số 178/1999/NĐ-CP ngày 29/12/1999
của Chính phủ về bảo đảm tiền vay của các tổ chức tín dụng, bảo đảm tiền
vay trong hoạt động ngân hàng đƣợc phân loại nhƣ sau:
a) Biện pháp bảo đảm tiền vay bằng tài sản bao gồm:
- Cầm cố, thế chấp tài sản của khách hàng vay,
- Bảo lãnh bằng tài sản của bên thứ ba,
- Bảo đảm bằng tài sản hình thành từ vốn vay.
Cũng theo quy định tại Nghị định số 178 nói trên, cho vay có bảo đảm
bằng tài sản là việc cho vay vốn của tổ chức tín dụng mà theo đó nghĩa vụ trả
nợ của khách hàng vay được cam kết bảo đảm thực hiện bằng tài sản cầm cố,
thế chấp, tài sản hình thành từ vốn vay của khách hàng vay hoặc bảo lãnh
bằng tài sản của bên thứ ba.
Theo khái niệm trên, bảo đảm tiền vay bằng tài sản đƣợc hiểu là biện
pháp sử dụng tài sản để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ trả nợ. Tài sản bảo đảm
có thể là động sản hoặc bất động sản, là tài sản hiện có hoặc tài sản hình thành
trong tƣơng lai. Biện pháp bảo đảm tiền vay bằng cầm cố, thế chấp tài sản của

khách hàng vay có đối tƣợng đƣợc bảo đảm là nghĩa vụ của chính ngƣời đó.
Trong biện pháp bảo lãnh bằng tài sản của bên thứ ba, ngƣời thứ ba là ngƣời
không có quan hệ tín dụng với NHTM sử dụng tài sản thuộc sở hữu của mình
để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ cho khách hàng vay. Trong trƣờng hợp khách
hàng vay không thực hiện đúng nghĩa vụ trả nợ đối với NHTM, thì ngƣời thứ
ba có trách nhiệm thực hiện thay, trong trƣờng hợp họ không thực hiện hoặc
thực hiện không đúng thì tài sản của họ sẽ đƣợc xử lý để thực hiện nghĩa vụ
trả nợ đã cam kết[11].
Pháp luật về thế chấp tài sản trong hoạt động cho vay của NHTM



Luận văn thạc sỹ 20 Nguyễn Thành Nam

b) Biện pháp bảo đảm tiền vay trong trƣờng hợp cho vay không có bảo
đảm bằng tài sản:
- Chủ động lựa chọn khách hàng để cho vay không có bảo đảm bằng tài
sản.
- Cho vay không có tài sản bảo đảm theo chỉ định của Chính phủ (chỉ
áp dụng với tổ chức tín dụng nhà nƣớc).
- Cho cá nhân, hộ gia đình nghèo vay có bảo lãnh bằng tín chấp của tổ
chức đoàn thể chính trị- xã hội[11].
Trong trƣờng hợp chủ động lựa chọn khách hàng để cho vay không có
bảo đảm bằng tài sản, NHTM chỉ cho vay khi khách hàng thoả mãn các điều
kiện: sử dụng vốn hiệu quả, có tín nhiệm với NHTM và các tổ chức tín dụng
khác, có dự án khả thi, có khả năng tài chính, cam kết thực hiện biện pháp bảo
đảm bằng tài sản nếu sử dụng vốn vay không đúng cam kết trong hợp đồng
tín dụng, cam kết trả nợ trƣớc hạn nếu không thực hiện đƣợc các biện pháp
bảo đảm tiền vay bằng tài sản[11].
Tổ chức tín dụng nhà nƣớc cho vay không có bảo đảm đối với khách

hàng vay để thực hiện các dự án đầu tƣ thuộc chƣơng trình kinh tế đặc biệt,
chƣơng trình kinh tế trọng điểm của Nhà nƣớc, chƣơng trình kinh tế - xã hội
và đối với một số khách hàng thuộc đối tƣợng đƣợc hƣởng chính sách tín
dụng ƣu đãi về điều kiện vay vốn[11]. Trong trƣờng hợp khách hàng vay
không trả đƣợc nợ do các nguyên nhân khách quan (thiên tai, hoả hoạn, Nhà
nƣớc thay đổi chính sách ) thì Chính phủ xử lý tổn thất cho các tổ chức tín
dụng nhà nƣớc đã cho vay.

1.3. Thế chấp tài sản trong hoạt động cho vay của NHTM:
Pháp luật về thế chấp tài sản trong hoạt động cho vay của NHTM



Luận văn thạc sỹ 21 Nguyễn Thành Nam

1.3.1. Khái niệm thế chấp tài sản
Thế chấp tài sản là một trong các biện pháp bảo đảm tiền vay bằng tài
sản đƣợc áp dụng phổ biến trong các quan hệ kinh tế, dân sự tại nhiều quốc
gia trên thế giới.
Bộ luật dân sự Cộng hoà Pháp dành một chƣơng quy dịnh về quyền thế
chấp (chƣơng III, Thiên XVIII). Điều 2114 Bộ luật này quy định: “Quyền thế
chấp là một quyền tài sản trên những bất động sản được sử dụng vào việc
bảo đảm thi hành một nghĩa vụ. Về bản chất, quyền thế chấp không thể phân
chia và tồn tại trên tất cả các bất động sản thế chấp, trên từng bất động sản
và mỗi phần của bất động sản ấy. Quyền thế chấp tiếp tục trên các bất động
sản dù bất động sản đã chuyển dịch sang tay người khác”[47]. Bộ luật này
cũng quy định: chỉ có thể đem thế chấp những bất động sản trong thƣơng mại
và những vật phụ của bất động sản đƣợc coi nhƣ bất động sản; quyền hƣởng
hoa lợi trên một tài sản và những vật phụ trong thời gian có quyền hƣởng hoa
lợi. Động sản không thể đem thế chấp. Những tài sản chƣa có thì không thể

đem thế chấp.
Luật Dân sự và thƣơng mại Thái Lan quy định thế chấp tài sản là một
hợp đồng để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ. Điều 703 Bộ luật này quy định:
„Bất cứ loại bất động sản nào cũng có thể được thế chấp”[48].
Luật Dân sự Nhật Bản coi thế chấp là một chế định bảo đảm nghĩa vụ
trong đó không có việc chuyển giao tài sản thế chấp. Bộ luật này quy định:
“Đối tượng của thế chấp được xác định theo ý chí của các bên và quy định
của pháp luật về quyền tài sản”[49].
Nhƣ vậy, thế chấp tài sản theo quy định pháp luật của các nƣớc cơ bản
theo hai quan điểm: quan điểm thứ nhất cho rằng đối tƣợng của thế chấp phải
Pháp luật về thế chấp tài sản trong hoạt động cho vay của NHTM



Luận văn thạc sỹ 22 Nguyễn Thành Nam

là bất động sản, quan điểm thứ hai cho rằng đối tƣợng thế chấp có thể là động
sản hoặc bất động sản nhƣng không đƣợc chuyển giao tài sản thế chấp.
Pháp luật về ngân hàng của Việt Nam chỉ quy định về các biện pháp
bảo đảm tiền vay, các khái niệm về từng biện pháp bảo đảm đƣợc quy định
trong Bộ luật Dân sự (BLDS).
Điều 346 BLDS 1995 quy định: “Thế chấp tài sản là việc bên có nghĩa
vụ dùng tài sản là bất động sản thuộc sở hữu của mình để bảo đảm thực hiện
nghĩa vụ đối với bên có quyền”[21].
BLDS 2005 đƣợc Quốc hội thông qua ngày 14/06/2005, có hiệu lực từ
ngày 01/01/2006, tại Điều 342 quy định “Thế chấp tài sản là việc một bên
(sau đây gọi là bên thế chấp) dùng tài sản thuộc sở hữu của mình để bảo đảm
thực hiện nghĩa vụ dân sự đối với bên kia (sau đây gọi là bên nhận thế chấp)
và không chuyển giao tài sản đó cho bên nhận thế chấp”[1].
Nhƣ vậy, quan niệm về thế chấp tài sản trong pháp luật Việt Nam có sự

thay đổi quan trọng. Theo quy định tại BLDS 1995 thì tiêu chí quan trọng để
phân biệt thế chấp với các biện pháp bảo đảm khác là tài sản thế chấp phải là
bất động sản. Nhƣng theo quy định tại BLDS 2005 thì tiêu chí để phân biệt
thế chấp với các biện pháp bảo đảm khác là việc có chuyển giao hay không
chuyển giao tài sản. Nếu có chuyển giao tài sản thì đó là cầm cố, nếu không
chuyển giao tài sản thì đó là thế chấp. Một điểm mới khác cũng rất quan trọng
đó là theo quy định tại BLDS 2005, thì bên thế chấp không bắt buộc phải là
bên có nghĩa vụ với bên nhận thế chấp. Hay nói cách khác, bên thế chấp có
thể dùng tài sản cụ thể thuộc sở hữu của mình để bảo đảm cho nghĩa vụ của
chính mình hoặc nghĩa vụ của ngƣời khác. Trong trƣờng hợp bên thế chấp
dùng tài sản cụ thể thuộc sở hữu của mình bảo đảm cho nghĩa vụ của ngƣời
khác mà không chuyển giao tài sản cho bên có quyền thì đƣợc hiểu là thế

×