Tải bản đầy đủ (.docx) (39 trang)

THẨM ĐỊNH TÀI CHÍNH VÀ CHẤT LƯỢNG THẨM ĐỊNH TÀI CHÍNH DỰ ÁN ĐỒNG TÀI TRỢ TRONG HOẠT ĐỘNG CHO VAY CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (242.98 KB, 39 trang )

THẨM ĐỊNH TÀI CHÍNH VÀ CHẤT LƯỢNG THẨM ĐỊNH TÀI CHÍNH
DỰ ÁN ĐỒNG TÀI TRỢ TRONG HOẠT ĐỘNG CHO VAY CỦA NGÂN
HÀNG THƯƠNG MẠI.
1.1 HOẠT ĐỘNG ĐỒNG TÀI TRỢ CỦA CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI.
1.1.1 Khái niệm và vai trò hoạt động đồng tài trợ của ngân hàng thương
mại.
1.1.1.1 Khái niệm:
Hoạt động đồng tài trợ (ĐTT) xuất hiện từ rất sớm, khởi đầu chỉ là sự trợ giúp về
mặt hàng hoá, nhu yếu phẩm với sự đồng ý tham gia tài trợ bởi nhiều người, nhiều
tổ chức. Sau này hoạt động ĐTT được phát triển dần lên, không chỉ tài trợ bằng
hiện vật mà còn bằng tiền và được hoàn trả sau một thời gian nhất định, hay đó
chính là manh nha hình thành một hình thức cho vay. Việc trợ giúp dần không chỉ
đơn giản là sự đồng ý bằng miệng giữa giữa nhóm các nhà tài trợ với bên nhận tài
trợ mà phải được làm thành văn bản và dần được hoàn thiện qua hàng loạt các
khâu các thủ tục phức tạp cùng các điều kiện khắt khe yêu cầu cả các bên tài trợ
cũng như bên nhận tài trợ phải tuân thủ nghiêm ngặt. Điều này làm cho hoạt động
ĐTT không còn là hoạt động cho vay đơn thuần mà
Ngày nay hoạt động ĐTT đã trở nên phổ nó chứa đựng nhiều yếu tố kỹ thuật
phức tạp. biến và phát triển trên thế giới. Nó được thực hiện trên nhiều lĩnh vực
khác nhau nhưng đặc biệt sôi động và phát triển trong lĩnh vực kinh tế với sự tham
gia của nhiều tổ chức, cá nhân thuộc nhiều thành phần kinh tế khác nhau. Mỗi tổ
chức thâm gia lại có quan niệm riêng về ĐTT.
• Theo các tổ chức tài chính quốc tế như World Bank, IMF, ADB… “
Đồng tài trợ là việc cho vay tài trợ các dự án hay các chương trình đặc
biệt bằng các nguồn vốn khác nhau trong đó có nguồn vốn ngân hàng”.
• Đối với các nhà tài trợ và luật gia thì “ Một khoản ĐTT là một phương
diện trợ giúp tài chính do từ hai hay nhiều định chế tài chính tham gia
cung cấp trên cơ sở một số điều khoản có sử dụng tài liệu văn bản
chung và được (hoặc không được) quản lý bởi một đơn vị chung”.
• Theo Quy chế ĐTT ban hành theo Quyết định 286/2002/NHNN ngày
3/4/2002 của Thống đốc NHNN Việt Nam “ Đồng tài trợ là quá trình


tổ chức thực hiện việc cấp tín dụng của bên ĐTT với sự tham gia của 2
hay nhiều tổ chức tín dụng cho một hoặc một phần dự án, phương án
sản xuất kinh doanh, dịch vụ đầu tư phát triển và đời sống”.
Các khái niệm trên xét về bản chất đều thống nhất ở một điểm đó là ĐTT là hoạt
động cho vay của một nhóm từ 2 định chế tài chính trở lên, cho vay đối với các
dự án đầu tư nhằm mục đích cùng thu lợi nhuận và chia sẻ rủi ro.
Trong thực tế với khả năng và uy tín của mình trong lĩnh vực kinh doanh tiền tệ,
các ngân hàng thương mại có nhiều ưu thế để phát triển hoạt động ĐTT. Hoạt
động ĐTT của các ngân hàng thương mại là việc 2 hay nhiều ngân hàng cùng hợp
tác cho vay hoặc bảo lãnh một dự án đầu tư nhằm cùng thu lợi nhuận và chia sẻ rủi
ro”.
Từ khái niệm trên có thể hiểu dự án ĐTT của các ngân hàng thương mại là dự án
đầu tư được 2 hay nhiều ngân hàng thương mại cùng hợp tác cho vay hoặc bảo
lãnh. Đặc điểm của các dự án ĐTT thường là các dự án có số vốn vay lớn, thời
gian trả nợ kéo dài do đó có mức độ rủi ro cao hoặc các dự án đầu tư vào những
lĩnh vực có nhiều biến động, mức độ rủi ro cao nhưng có triển vọng đem lại nhiều
lợi ích to lớn về mặt kinh tế- xã hội. Đối với những dự án loại này, nếu chỉ dựa
vào khả năng của một tổ chức tín dụng thì mức độ rủi ro rất cao và ảnh hưởng tiêu
cực đến hoạt động bình thường của tổ chức. Trong nhiều trường hợp các ngân
hàng thương mại bị giới hạn về hạn mức tín dụng không thể cho vay một lượng
vốn quá lớn đối với một dự án. Vì thế để cho vay được các dự án này, nhiều ngân
hàng sẽ cùng hợp tác, mỗi ngân hàng sẽ nhận tài trợ một phần số vốn vay. Việc
này tuy khá phức tạp nhưng tạo ra hiệu quả rất lớn, giúp các ngân hàng thương
mại vượt qua được hạn chế về hạn mức tín dụng, chia sẻ rủi ro.
Việt Nam hiện nay đang trong quá trình CNH-HĐH rất cần đầu tư xây dựng các
công trình cơ sở hạ tầng trọng điểm với số vốn khổng lồ mà ngân sách Nhà nước
không thể đáp ứng đủ. Nhưng thông qua hoạt động của các ngân hàng thương mại,
trong đó có hoạt động ĐTT đã tập trung được nguồn vốn nhỏ lẻ trong dân cư
thành những nguồn vốn lớn đủ sức đáp ứng yêu cầu đầu tư.
1.1.1.2 Vai trò của hoạt động ĐTT trong hoạt động cho vay của các ngân hàng

thương mại.
Xu thế phát triển mạnh mẽ của ĐTT trong hoạt động cho vay của các ngân hàng
thương mại ngày nay chứng tỏ ưu thế rõ rệt và vị trí chiến lược trong định hướng
phát triển và cho vay của các ngân hàng thương mại. Điều này là do vai trò ngày
càng tăng của hoạt động ĐTT. Vai trò đó được thể hiện ở mấy điểm chính sau:
• Giảm thiểu rủi ro trong hoạt động tín dụng của các ngân hàng thương
mại.
Trong nền kinh tế thị trường, cho vay theo dự án là hình thức cho vay chủ yếu
của các ngân hàng thương mại. Tuy nhiên hình thức cho vay này cũng tiềm ẩn
nhiều rủi ro cho ngân hàng, nhất là đối với các dự án có nhu cầu vốn vay lớn, thời
hạn vay dài, mức độ rủi ro khó xác định. Nếu chỉ một ngân hàng cho vay có thể sẽ
không đáp ứng đủ nhu cầu vốn hoặc quá mạo hiểm. Trong trường hợp này ĐTT tỏ
ra là phương pháp hữu hiệu giúp các ngân hàng vẫn có thể cho vay đồng thời lại
hạn chế và chia sẻ rủi ro. Hoạt động ĐTT có ưu điểm là ngoài việc có thể phân tán
rủi ro cho các nhà tài trợ khác, các ngân hàng còn có thêm đối tác để đối chiếu
phân tích đánh giá dự án làm cho mức độ rủi ro giảm xuống. Với các nguyên tắc
và đặc điểm riêng có của mình, ĐTT ngày càng được các ngân hàng thương mại
coi là một giải pháp khả thi, hiệu quả cao nhằm hạn chế rủi ro trong hoạt động tín
dụng trung và dài hạn.
• Tăng khả năng liên kết giữa các ngân hàng trong hoạt động cho vay:
Hoạt động kinh doanh của các ngân hàng thương mại luôn phải cạnh tranh rất
quyết liệt nhưng đồng thời cũng phải hợp tác để chia sẻ cơ hội kinh doanh. Đa số
các ngân hàng thương mại thường hoạt động chuyên doanh, đầu tư chuyên sâu vào
một số ngành nghề nhất định, do đó sẽ thiếu kinh nghiệm trong việc thẩm định,
kiểm tra giám sát cũng như điều phối quá trình đầu tư đối với các ngành nghề
khác. Chính vì vậy họ có thể bổ sung cho nhau, khắc phục nhược điểm của chuyên
môn hoá cao và chuyển đổi sang đa dạng hoá cũng như hợp tác hoá. Việc tham gia
ĐTT một dự án khiến các ngân hàng có thể hiểu biết nhau hơn từ đó có thể cùng
nhau phối hợp, giữ vững thị phần tài trợ, tìm kiếm và phát triển thị trường mới.
Một tổ chức riêng lẻ có thể không tồn tại được trong cạnh tranh song khi liên kết

với nhau có thể giúp họ không những đứng vững mà còn phát triển mạnh mẽ hơn
mở rộng thị trường và ổn định thị phần của ngân hàng.
• Tăng khả năng cho vay của các ngân hàng thương mại:
Một thực tế phổ biến hiện nay là với những khoản vốn vay không quá lớn, không
vượt quá khả năng tài trợ của một ngân hàng thương mại, người ta vẫn áp dụng
phương pháp ĐTT. Sở dĩ như vậy là vì ĐTT giúp các ngân hàng thương mại phát
huy hết khả năng, thế mạnh của mình trong hoạt động tín dụng:
+ Hoạt động ĐTT giúp các ngân hàng thương mại có thể tận dụng hết khả
năng của mình trong quá trình cùng nhau thẩm định và quản lý khoản vay thông
qua việc trao đổi thông tin, kinh nghiệm phòng ngừa rủi ro và cách thức quản lý
hiệu quả… từ đó tăng khả năng cho mỗi ngân hàng.
+ Đồng tài trợ giúp các ngân hàng thương mại thực hiện tốt công tác kiểm
soát tín dụng: các ngân hàng khác nhau có thể trợ giúp nhau trong việc theo dõi
sử dụng vốn vay của chủ đầu tư, đặc biệt trong trường hợp vốn tín dụng được
giải ngân ngoài địa bàn hoạt động của ngân hàng cấp tín dụng.
+ Đồng tài trợ giúp các ngân hàng thương mại vượt qua khỏi các giới hạn
quy định của luật pháp: để đảm bảo an toàn trong hoạt động của các ngân hàng
thương mại, luật pháp mỗi nước quy định tỷ lệ mà các ngân hàng không được
cho vay vượt quá so với số vốn tự có (luật Các tổ chức tín dụng của Việt Nam
quy định tỷ lệ này là 15%). Trong khi nhu cầu vốn cho nền kinh tế rất lớn thì
các ngân hàng thương mại lại bị giới hạn về hạn mức tín dụng. Ngân hàng có
thể dư thừa vốn song lại không thể độc lập cho vay nếu dự án đó yêu cầu số vốn
vượt quá mức quy định của pháp luật, điều này có thể làm cho ngân hàng mất đi
một cơ hội kinh doanh, một mối quan hệ lâu dài với khách hàng, hạn chế khả
năng mở rộng thị phần. Để giải quyết các vấn đề này thì thực hiện hoạt động
ĐTT là cần thiết và thoả đáng, mang lại lợi ích cho tất cả các bên tham gia.
Như vậy vai trò của hoạt động ĐTT rất quan trọng. Nó có ưu thế hơn hẳn các
hình thức cấp tín dụng truyền thống khi các ngân hàng phải phải đầu tư một khoản
vốn lớn, có thời hạn dài.
1.1.2 Các loại hình dự án ĐTT.

Dự án ĐTT được thực hiện trong nhiều lĩnh vực khác nhau với đối tượng tham
gia đa dạng. Vì vậy việc phân chia loại hình dự án phụ thuộc nhiều yếu tố như :
lĩnh vực tài trợ, đối tượng tài trợ, nhà tài trợ. Nhưng cách thông dụng nhất là dựa
vào phương thức tài trợ để phân chia dự án ĐTT. Theo phương thức tài trợ có 4
loại hình dự án ĐTT sau :
 Dự án ĐTT song song: phương thức này thường áp dụng đối với các dự án
có thể chia thành nhiều phần độc lập riêng biệt. Việc đầu tư từng phần của
dự án không ảnh hưởng hoặc ảnh hưởng không đáng kể đến kết quả của
phần khác. Trên cơ sở đó, ngân hàng thương mại sẽ tài trợ từng phần của dự
án. Việc tài trợ có thể được các ngân hàng thoả thuận hoặc không thoả
thuận trước với nhau cũng như có hoặc không có sự dàn xếp của bên thứ ba.
 Dự án ĐTT kết hợp: đây là phương thức phổ biến nhất của ĐTT. Theo
phương thức này các ngân hàng thương mại thoả thuận với nhau về tỷ lệ
vốn góp nhằm cấp tín dụng cho một dự án. Tỷ lệ vốn góp được thoả thuận
tuỳ theo khả năng của mỗi ngân hàng và vốn được giải ngân theo tiến độ dự
án.
 Dự án ĐTT theo phương thức câu lạc bộ: Phương thức này thường xuất
hiện dưới hình thức tài trợ uỷ thác hoặc góp vốn đầu tư thông qua việc
thành lập quỹ đầu tư hoặc quỹ uỷ thác. Mỗi ngân hàng đều là hội viên của
câu lạc bộ góp vốn vào câu lạc bộ. Khi có dự án được thoả thuận tài trợ thì
câu lạc bộ sẽ rót vốn theo tiến độ dự án.
 Dự án ĐTT tuần hoàn: áp dụng đối với các dự án tương đối phức tạp, khó
chia thành các phần nhỏ và có thời gian đầu tư, thu hồi vốn tương đối dài.
Theo đó, một ngân hàng tài trợ cho giai đoạn đầu của dự án sẽ bán hay
chuyển giao quyền đòi nợ cho ngân hàng kế tiếp với tỷ lệ nhất định đã thoả
thuận. Thực chất đây là hoạt động ĐTT thông qua việc mua bán nợ. Tuy
nhiên ngân hàng bán nợ vẫn có trách nhiệm về khoản dư nợ đã bán trong
phạm vi thoả thuận ĐTT đã ký giữa các ngân hàng tham gia. Chủ nợ cuối
cùng có quyền truy đòi các chủ nợ trước theo hợp đồng đã ký.
Ngoài cách phân chia theo phương thức tài trợ, các dự án ĐTT còn được phân

chia chủ yếu theo hình thức cấp tín dụng. Theo đó có ba loại hình dự án ĐTT là:
 Cho vay, cho vay hợp vốn: đây là hình thức cấp tín dụng chủ yếu nhất của
hoạt động ĐTT. Đó là việc các ngân hàng cùng tham gia cho vay một dự án.
Sở dĩ cho vay hợp vốn là hình thức phổ biến là vì nó khắc phục nhược điểm
của các ngân hàng thương mại về hạn mức tín dụng , khả năng tài chính,
khả năng thẩm định về quản lý khoản vay đồng thời góp phần mở rộng quan
hệ hợp tác giữa các ngân hàng với nhau.
 Bảo lãnh, đồng bảo lãnh: bản chất của bảo lãnh chính là hoạt động tín dụng
vì trong trường hợp doanh nghiệp không thực hiện được cam kết trả nợ của
mình thì ngân hàng tổ chức bảo lãnh phải trả nợ thay doanh nghiệp. Vì vậy
hoạt động bảo lãnh cũng mang nhiều rủi ro cho ngân hàng như hoạt động tín
dụng. Đối với các khoản bảo lãnh lớn khi xảy ra rủi ro ngân hàng phải trả
nợ thay có thể sẽ bị mất khả năng thanh toán. Vì vậy các ngân hàng thực
hiện hoạt động đồng bảo lãnh nhằm mục đích cùng thu phí bảo lãnh và cùng
chia sẻ khi gặp rủi ro.
 Kết hợp các hình thức trên.
Ngoài ra tuỳ theo quy định của luật pháp từng nước mà ĐTT còn được thực
hiện dưới các hình thức cấp tín dụng khác.
1.1.3 Qui trình cho vay một dự án ĐTT.
Việc cho vay một dự án ĐTT điển hình gồm 3 giai đoạn: dàn xếp, giải ngân và
cuối cùng là thu nợ. Trong đó giai đoạn dàn xếp được coi là giai đoạn quan trọng
nhất và là nền tảng của quá trình ĐTT.
1.1.3.1 Dàn xếp ĐTT
Sau khi nhận hồ sơ đề nghị cấp tín dụng theo quy định đối với từng loại hình
cấp tín dụng do khách hàng gửi, ngân hàng thương mại thực hiện thẩm định sơ bộ,
nhận định tính khả thi của dự án đề nghị vay vốn. Ngay sau khi thẩm định sơ bộ
xong nếu dự án có tính khả thi và cần thiết phải ĐTT, ngân hàng thương mại nhận
hồ sơ sẽ dự kiến các tổ chức tín dụng tham gia để gửi thư mời ĐTT kèm theo kết
quả thẩm định. Nếu dự án không có tính khả thi, ngân hàng thương mại sẽ trả lời
khách hàng bằng văn bản có nêu rõ lý do từ chối cấp tín dụng

Giai đoạn này có thể chia nhỏ như sau:
• Chuẩn bị dàn xếp: là quá trình kể từ khi ngân hàng chấp nhận đề nghị của
bên nhận tài trợ cho đến khi có biên bản ghi nhớ. Ngân hàng dàn xếp có
nhiệm vụ xác định độ tin cậy tín dụng của bên nhận tài trợ tiềm năng.
Thông thường, độ tin cậy tín dụng của bên nhận tài trợ được các ngân
hàng thương mại đánh giá một cách thường xuyên liên tục thông qua hệ
thống thông tin về khách hàng tiềm năng. Căn cứ đánh giá đó là tư cách
pháp lý, kết quả tài chính, uy tín trong quá khứ, giá trị cổ phiếu trên thị
trường.
Dựa trên kết quả đánh giá độ tin cậy tín dụng và tính khả thi của dự án, ngân
hàng dàn xếp sẽ dự thảo một văn bản nêu rõ các điều kiện và điều khoản ĐTT.
Khi biên bản này được bên nhận tài trợ chấp nhận, ngân hàng dàn xếp và bên
nhận tài trợ sẽ ký kết một biên bản ghi nhớ về các điều kiện và điều khoản tài
trợ cũng như thông tin về dự án. Trong biên bản ghi nhớ còn phải ghi rõ phương
thức ủy quyền. Việc lựa chọn phương thức ủy quyền nào phụ thuộc vào mô
hình ĐTT mà 2 bên lựa chọn. Có 2 phương thức ủy quyền là:
+ Cam kết chắc chắn: ngân hàng dàn xếp cam kết chắc chắn với bên nhận tài
trợ về việc dàn xếp một khoản tài trợ cụ thể. Nếu việc mời các ngân hàng tham
gia không được dàn xếp thành công, ngân hàng dàn xếp sẽ phải đảm nhận tài trợ
toàn bộ số tiền đã cam kết hoặc tổ chức một cuộc dàn xếp mới.
+ Cam kết với nỗ lực tối đa: ngân hàng dàn xếp sẽ thông báo cho bên nhận
tài trợ việc họ sẵn sàng dàn xếp với một số điều kiện nhất định. Nếu khoản ĐTT
không được dàn xếp thành công, bên nhận tài trợ sẽ phải tìm kiếm một nguồn
tài trợ mới từ một nơi khác.
• Lựa chọn các bên tham gia: việc lựa chọn các bên tham gia phải tuân thủ
các thỏa thuận trong bản ghi nhớ và ủy quyền của bên nhận tài trợ. Do
vậy khi ngân hàng dàn xếp dự định mời ngân hàng nào tham gia phải
xem xét tới một số yếu tố như: quy mô khoản ĐTT có thích hợp với ngân
hàng mời tham gia hay không, ý thích của khách hàng về ngân hàng mời
tham gia, khả năng đón nhận khoản ĐTT này trên thị trường…. Trên thực

tế các ngân hàng dàn xếp thường lựa chọn các ngân hàng tham gia là bạn
hàng truyền thống hay cụ thể hơn là những ngân hàng đã từng cùng họ
đạt được thành công trong quá khứ trên lĩnh vực ĐTT.
• Mời tham gia: ngân hàng dàn xếp gửi thư mời các ngân hàng có thể là đối
tác tiềm tàng nhất tham gia ĐTT cho dự án. Thư mời ĐTT phải có các
nội dung chủ yếu về dự án như tên dự án, chủ đầu tư, tổng vốn đầu tư,
nhu cầu ĐTT để thực hiện dự án, thời gian vay và trả nợ, thời gian bảo
lãnh, dự kiến lãi suất và phí các loại, phương án trả nợ và các thông tin
chủ yếu về dự kiến đề nghị tham gia ĐTT: phương thức tham gia ĐTT,
thời hạn ĐTT, cơ cấu ĐTT, điều kiện cho vay…
Về phía các tổ chức tín dụng được mời tham gia căn cứ vào đề nghị của ngân
hàng dàn xếp và các tài liệu gửi kèm cũng như nguồn thông tin về khách hàng
của mình phân tích dự án trước khi quyết định có tham gia hay không. Sau khi
có quyết định, ngân hàng được mời sẽ trả lời ngân hàng dàn xếp về nguyên tắc
có tham gia ĐTT không, nếu tham gia thì sẽ cho vay với số tiền tối đa bao
nhiêu và các điều kiện kèm theo.
• Thẩm định dự án ĐTT: Sau khi đạt được thỏa thuận đồng ý tham gia ĐTT,
các ngân hàng lựa chọn và quyết định ngân hàng đầu mối ĐTT, thành viên
đầu mối cấp tín dụng, tổ chức đầu mối thanh toán. Tiếp theo các ngân hàng
sẽ quyết định phương thức tổ chức thẩm định dự án. Thông thường có hai
phương thức tổ chức thẩm định dự án là:
+ Thành lập hội đồng thẩm định chung với thành viên là các chuyên viên của
các ngân hàng. Sau khi thành lập Hội đồng thẩm định chung, các thành viên
cùng thẩm định dự án sẽ áp dụng quy trình, nội dung thẩm định dự án ĐTT như
một dự án bình thường. Việc thành lập Hội đồng thẩm định chung có ưu điểm
có thể kết hợp tối đa nguồn thông tin về khách hàng và dự án cũng như thế
mạnh của mỗi ngân hàng. Tuy nhiên việc thành lập Hội đồng thẩm định chung
có thể gây ra khó khăn cho việc đưa ra đánh giá chung phù hợp quan điểm của
mỗi ngân hàng.
+ Nếu không thành lập Hội đồng thẩm định chung thì các ngân hàng có thể

thống nhất ủy quyền cho ngân hàng đầu mối thẩm định hoặc mỗi ngân hàng sẽ
tự thẩm định riêng.
. Trường hợp ngân hàng đầu mối được ủy quyền thẩm định đòi hỏi các ngân
hàng phải hoàn toàn tin tưởng nhau và kết quả thu được sẽ thống nhất
. Trường hợp các ngân hàng tự tiến hành thẩm định riêng tuy có tính an toàn
cao hơn nhưng đòi hỏi các ngân hàng mất nhiều thời gian công sức hơn và có
thể đưa ra những kết quả thẩm định khác nhau. Nếu như một ngân hàng có kết
quả thẩm định trái với đa số và ngân hàng đầu mối phải mời một ngân hàng
khác tham gia thì sẽ mất nhiều thời gian để đưa ra quyết định cho vay.
• Cơ cấu khoản ĐTT: Bước tiếp theo các ngân hàng sẽ thảo luận về cơ cấu
của khoản ĐTT. Cơ cấu khoản ĐTT phải thỏa mãn được yêu cầu của các
bên tham gia và đòi hỏi của thị trường. Ttrong cơ cấu khoản ĐTT có các
thành phần cơ bản sau:
+ Giá của khoản ĐTT: bao gồm tất cả các chi phí để nhận được khoản ĐTT,
chia thành: chi phí thanh toán ngay lúc bắt đầu nhận khoản vay (chi phí dàn
xếp, phí bảo lãnh, phí bảo hiểm tín dụng…) và chi phí được tính hàng năm (lãi
tính trên dư nợ, phí quản lý, phí thanh toán, phí cam kết sử dụng vốn).
. Lãi suất ĐTT thường được tính như sau:
Lãi suất ĐTT = lãi suất cơ bản + mức chênh lệch
Lãi suất cơ bản do thị trường Liên ngân hàng Lonđon đưa ra (LIBOR).
Chọn LIBOR với thời hạn 1,3, 6, 12 tháng hay bất kỳ một kỳ hạn nào đều do
thỏa thuận của bên tài trợ với bên nhận tài trợ.
Mức chênh lệch phản ánh độ tín nhiệm của người vay và phụ thuộc vào quy
mô, thời gian, tính phức tạp và các điều kiện khác của khoản vay cũng như độ
tin cậy tín dụng của bên nhận tài trợ. Như vậy có thể nói mức chênh lệch cụ thể
mà bên nhận tài trợ phải trả phụ thuộc vào mức xếp hạng tín dụng, khả năng
chấp nhận khoản ĐTT trên thị trường tín dụng, tính sẵn có của nguồn vốn trên
thị trường, khuynh hướng vận động lãi suất trên thị trường. Bên cạnh đó chất
lượng của các biện pháp bảo đảm khoản vay cũng ảnh hưởng đến việc xác định
mức chênh lệch.

. Phí dàn xếp là lệ phí mà ngân hàng dàn xếp được hưởng trên cơ sở là
người đứng ra dàn xếp khoản ĐTT. Phần lệ phí này cao hay thấp phụ thuộc vào
sự thỏa thuận giữa ngân hàng dàn xếp và bên nhận tài trợ hay nói cách khác nó
phụ thuộc vào mức độ ủy quyền. Nếu ngân hàng dàn xếp thực hiện một cam
kết chắc chắn thì mức phí thường cao hơn từ 2-3 lần phí cam kết thực hiện với
nỗ lực tối đa. Ngoài ra phí dàn xếp còn phụ thuộc vào uy tín và kinh nghiệm
của ngân hàng đầu mối trong quá khứ. Ngân hàng càng uy tín, nổi tiếng thì
mức phí càng cao . Phí này được tính là tỷ lệ % trên tổng số tiền cấp tín
dụngcho dự án theo phương thức ĐTT. Các bên thanh toán phí này (1 lần ) cho
ngân hàng đầu mối sau khi dàn xếp ĐTT thành công vào ngày giải ngân đầu
tiên/ngày ký phát chứng thư bảo lãnh/ngày mở LC trả chậm.
. Phí quản lý: các bên tham gia quản lý khoản ĐTT được hưởng phần phí
này do họ là người đứng ra quản lý vốn đóng góp tham gia ĐTT , đảm bảo vốn
đó được sử dụng đúng mục đích, theo dõi thu nợ gốc, lãi, quản lý tài sản thế
chấp cầm cố. Phí này được tính là tỷ lệ % nằm trong lãi suất tài trợ cho dự án
(tính trên dư nợ thực tế của số tiền cấp tín dụng trong thời gian dự án còn dư
nợ). Trường hợp ngân hàng đầu mối thực hiện dàn xếp ĐTT và thực hiện luôn
các nghiệp vụ liên quan đến cấp tín dụng thì được hưởng cả hai loại phí trên.
Mức phí có thể tính chung tỷ lệ % trong lãi suất tài trợ cho dự án hoặc tính như
trên.
. Phí thanh toán: trong quá trình thực hiện ĐTT, khi cung cấp các dịch vụ
thanh toán, tổ chức đầu mối thanh toán thu phí này từ bên nhận tài trợ.
. Phí cam kết sử dụng vốn: phí này là tỷ lệ % tính trên số tiền chưa giải
ngân cho dự án, tính từ ngày hợp đồng cấp tín dụng có hiệu lực cho đến ngày
bên nhận tài trợ rút hết số tiền tài trợ. Phí này nhằm đảm bảo bên nhận tài trợ
sẽ thực hiện rút hết vốn cho dự án.
• Các thỏa thuận và cam kết:
Ngân hàng đầu mối phác thảo sơ lược các thỏa thuận ĐTT .
Để tăng tính chính xác tránh những sơ sót về mặt pháp lý, tài liệu này thường
thuê các luật gia soạn thảo. Chi phí phát sinh này do bên nhận tài trợ chịu. Các

thỏa thuận được thể hiện trong hợp đồng ĐTT và hợp đồng cấp tín dụng. Nội
dung của hợp đồng ĐTT và hợp đồng cấp tín dụng theo Quy chế ĐTT của các
tổ chức tín dụng.
• Kí kết và công bố khoản ĐTT: Sau khi các bên tham gia thống nhất với
nhau các điều kiện, mức tham gia tài trợ và các văn bản tài trợ… thì các
bên sẽ tiến hành lễ kí kết chính thức. Đây là nghi lễ được tổ chức với sự
tham gia của đại diện bên nhận tài trợ, các ngân hàng tài trợ và được tổ
chức theo trật tự của việc kí kết.
1.1.3.2 Thực hiện cho vay
Sau khi kí kết và công bố khoản ĐTT, các ngân hàng tham gia phải chuẩn bị
sẵn sàng các khoản vốn theo thỏa thuận cho ngân hàng đầu mối theo đúng tiến độ
đã thỏa thuận. Ngân hàng đầu mối phải đảm bảo trước khi giải ngân, bên nhận tài
trợ đã thực hiện đầy đủ các điều khoản quy định tiền giải ngân. Theo quy định này
bên nhận tài trợ phải thực hiện đầy đủ các thủ tục giấy tờ, các phê chuẩn cho phép
cần thiết để tái xác nhận sự tồn tại của các tài sản đảm bảo và cam kết không có gì
bất trắc xảy ra.
Trường hợp ĐTT song song, các ngân hàng sẽ trực tiếp giải ngân cho khách
hàng theo tiến độ dự án và thỏa thuận đã kí.
Trong quá trình thực hiện ĐTT, bên tài trợ còn phải giám sát việc triển khai dự
án của chủ đầu tư. Trách nhiệm này thuộc về ngân hàng đầu mối hoặc ngân hàng
dàn xếp. Nội dung giám sát gồm:
. Tình hình sản xuất kinh doanh của bên nhận tài trợ
. Các vấn đề phát sinh trong quá trình thực hiện dự án ảnh hưởng đến tiến độ
dự án.
. Tình trạng tài sản thế chấp và sự thay đổi giá trị của tài sản thế chấp trên thị
trường.
. Các vấn đề được ủy quyền khác
Bên cạnh đó còn thực hiện giám sát cả việc thực hiện hợp đồng ĐTT của chính
các ngân hàng thành viên.
1.1.3.3 Thu nợ

Trước khi đến hạn thanh toán 10 ngày làm việc, ngân hàng đầu mối thông báo
bằng văn bản cho bên nhận tài trợ số tiền phải trả bao gồm cả gốc lãi và phí. Căn
cứ số tiền thu được từ bên nhận tài trợ, ngân hàng đầu mối tính và thu phí dàn xếp
và phí quản lý (phí đầu mối), thanh toán gốc và lãi cho các thành viên theo tỷ
trọng tham gia ĐTT. Nếu số tiền thu được không đủ so với số tiền đến hạn thanh
toán thì ngân hàng đầu mối thông báo cho các thành viên cùng biết và cùng giải
quyết.
1.2 THẨM ĐỊNH TÀI CHÍNH DỰ ÁN ĐTT VÀ CHẤT LƯỢNG THẨM
ĐỊNH TÀI CHÍNH DỰ ÁN ĐTT TẠI NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI.
1.2.1 Thẩm định tài chính dự án ĐTT.
1.2.1.1 Khái niệm và sự cần thiết phải thẩm định tài chính dự án ĐTT.
a. Khái niệm
Như trên đã trình bày, sau khi đạt được các thỏa thuận về phương thức thẩm
định dự án, các ngân hàng tham gia sẽ tùy theo thỏa thuận mà thành lập Hội đồng
thẩm định chung hoặc không thành lập Hội đồng thẩm định chung để thẩm định
dự án.
Theo quan niệm thông thường, thẩm định dự án đầu tư là việc tổ chức xem xét
một cách khách quan, có khoa học và toàn diện các nội dung cơ bản ảnh hưởng
trực tiếp tới tính khả thi của một dự án, từ đó ra quyết định đầu tư và cho phép đầu
tư. Đây là một quá trình kiểm tra, đánh giá các nội dung của dự án một cách độc
lập tách biệt với quá trình soạn thảo dự án. Thẩm định dự án tạo ra cơ sở vững
chắc cho hoạt động đầu tư có hiệu quả. Các kết luận rút ra từ quá trình thẩm định
là cơ sở để các ngân hàng thương mại ra quyết định có nên đầu tư cho dự án
không.
Có nhiều chủ thể tham gia thẩm định dự án, tuỳ mục tiêu mà nội dung thẩm định
có khác nhau. Tuy nhiên nội dung thẩm định dự án thường có:
• Thẩm định các điều kiện pháp lý của dự án.
• Thẩm định về sự cần thiết phải đầu tư.
• Thẩm định về phương diện thị trường.
• Thẩm định về phương diện kỹ thuật.

• Thẩm định về phương diện tổ chức, quản lý, thực hiện dự án.
• Thẩm định về mặt tài chính.
• Thẩm định về các chỉ tiêu kinh tế, xã hội, môi trường của dự án.
Trong các phương diện đó, thẩm định về mặt tài chính luôn là một khâu quan
trọng nhất, đặc biệt là ở các ngân hàng thương mại với tư cách là một nhà tài trợ.
Thẩm định tài chính dự án là việc đánh giá, xác định khả năng tạo ra các nguồn
thu của dự án trên cơ sở các khoản vốn đầu tư cho dự án, hay nói cách khác nó là
việc xem xét dự án sẽ tạo ra được những lợi ích tài chính gì trong tương lai từ
những nguồn lực tài chính ban đầu đầu tư cho dự án. Đây có thể nói là nội dung
phức tạp nhất trong quá trình thẩm định dự án. Bởi lẽ, nó đòi hỏi sự tổng hợp của
tất cả các biến số tài chính, kỹ thuật, thị trường đã được lượng hoá trong các nội
dung thẩm định trước nhằm phân tích, xây dựng những bảng dự trù doanh thu-chi
phí, những chỉ tiêu tài chính tổng hợp có ý nghĩa. Phức tạp như vậy nhưng đây lại
là khâu không thể coi nhẹ mà phải được xem xét tính toán khoa học vì sự tối cần
thiết của nó trong công tác cho vay theo dự án.
b. Sự cần thiết phải thẩm định tài chính dự án ĐTT tại các ngân hàng thương mại.
Với tư cách là nhà tài trợ cho dự án, các ngân hàng thương mại đặc biệt quan
tâm đến phương diện thẩm định tài chính vì nó thể hiện rõ nhất mục tiêu tài trợ của
ngân hàng và cũng là phù hợp về sở trường chuyên môn nghiệp vụ của ngân hàng
thương mại.Vì thế thẩm định tài chính luôn được các ngân hàng thương mại chú
trọng cả về nội dung lẫn hình thức thẩm định tài chính. Tuy nhiên các ngân hàng
thương mại hoạt động chuyên sâu trên các lĩnh vực cụ thể khác nhau sẽ có những
thế mạnh riêng về nguồn thông tin và phương pháp thẩm định từ đó ảnh hưởng đến
cách thức tính toán các chỉ tiêu hiệu quả tài chính. Mà kết quả của các chỉ tiêu này
là căn cứ quan trọng quyết định tài trợ cho dự án. Vì thế nếu quá trình thẩm định

×