Tải bản đầy đủ (.pdf) (119 trang)

Pháp luật về thương mại điện tử trong cung cấp dịch vụ nội dung số ở Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.28 MB, 119 trang )


đại học quốc gia hà nội
khoa luật




nguyễn thị tố lan





pháp luật về th-ơng mại điện tử
trong cung cấp dịch vụ nội dung số ở việt nam




luận văn thạc sĩ luật học







Hà nội - 2008




đại học quốc gia hà nội
khoa luật



nguyễn thị tố lan





pháp luật về th-ơng mại điện tử
trong cung cấp dịch vụ nội dung số ở việt nam

Chuyên ngành : Luật kinh tế
Mã số : 60 38 50


luận văn thạc sĩ luật học



Ng-ời h-ớng dẫn khoa học: PGS.TS Nguyễn Nh- Phát




Hà nội - 2008



MỤC LỤC



Trang

MỞ ĐẦU
1

Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ DỊCH VỤ NỘI DUNG
SỐ VÀ PHÁP LUẬT VỀ THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ TRONG
CUNG CẤP DỊCH VỤ NỘI DUNG SỐ
6
1.1.
Thương mại điện tử
6
1.1.1.
Khái niệm thương mại điện tử
6
1.1.2.
Đặc điểm của thương mại điện tử
10
1.2.
Dịch vụ nội dung số
12
1.3.
Thương mại điện tử cung cấp dịch vụ nội dung số
18
1.3.1.
Đặc điểm của việc thương mại điện tử cung cấp dịch vụ nội

dung số
18
1.3.2.
Phân loại thương mại điện tử cung cấp dịch vụ nội dung số
21
1.3.3.
Vai trò, ý nghĩa của công nghiệp nội dung số trong nền kinh
tế của quốc gia và kinh tế toàn cầu
23
1.4.
Các vấn đề pháp luật trong lĩnh vực thương mại điện tử cung
cấp dịch vụ nội dung số
25

Chương 2: MỘT SỐ VẤN ĐỀ PHÁP LÝ CƠ BẢN TRONG LĨNH VỰC
THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ CUNG CẤP DỊCH VỤ NỘI
DUNG SỐ Ở VIỆT NAM
32
2.1.
Pháp luật về quảng cáo/chào bán dịch vụ nội dung số và trách
nhiệm của người bán hàng đối với dịch vụ nội dung số đăng
tải trên mạng
32
2.2.
Pháp luật về Hợp đồng điện tử và giao kết hợp đồng điện tử
cung cấp dịch vụ nội dung số
36
2.2.1.
Hợp đồng điện tử
37

2.2.2.
Giao kết hợp đồng điện tử
48
2.2.3.
Giá trị pháp lý của chữ ký điện tử
59
2.3.
Các vấn đề pháp lý trong quá trình thực hiện hợp đồng điện
tử cung cấp dịch vụ nội dung số
64
2.3.1.
Thanh toán điện tử
64
2.3.2.
Vấn đề thuế
70
2.3.3.
Vấn đề hải quan
74
2.4.
Giải quyết tranh chấp trong hợp đồng điện tử cung cấp dịch
vụ nội dung số
77
2.5.
Đảm bảo bí mật và bảo vệ người tiêu dùng
82
2.6.
Bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ
85


Chương 3: ĐỀ XUẤT, KIẾN NGHỊ NHẰM HOÀN THIỆN MÔI
TRƯỜNG PHÁP LÝ ĐỂ PHÁT TRIỂN THƯƠNG MẠI
ĐIỆN TỬ TRONG CUNG CẤP DỊCH VỤ NỘI DUNG
SỐ TẠI VIỆT NAM
90
3.1.
Nhu cầu điều chỉnh pháp luật trong lĩnh vực vực thương mại
điện tử cung cấp dịch vụ nội dung số
90
3.2.
Dự báo về sự phát triển công nghiệp nội dung số tại Việt Nam
94
3.2.1.
Dự báo về sự phát triển công nghiệp công nghệ thông tin và
các sản phẩm/ dịch vụ
94
3.2.2.
Dự báo về sự thay đổi của thị trường nội dung số
95
3.2.3.
Nhu cầu của khách hàng ngày càng tăng
96
3.3.
Một số giải pháp nhằm thúc đẩy hoạt động thương mại điện
tử trong lĩnh vực cung cấp dịch vụ nội dung số ở Việt Nam
97
3.3.1.
Nhóm giải pháp nhằm hoàn thiện môi trường pháp lý cho lĩnh
vực thương mại điện tử cung cấp dịch vụ nội dung số
97

3.2.2.
Nhóm các giải pháp khác
104

KẾT LUẬN
109

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
110

1
MỞ ĐẦU

1. Cơ sở khoa học và thực tiễn của đề tài
Thế kỷ hai mươi, chúng ta đã chứng kiến sự phát triển và bùng nổ của
công nghệ thông tin. Từ các phương thức giao dịch điện tử thô sơ và hạn chế
như điện tín (telex), các công nghệ và dịch vụ thông tin hiện đại ra đời như
máy fax, điện thoại cố định, điện thoại di động, máy tính cá nhân, e-mail,
mạng LAN, mạng WAN và đặc biệt là Internet - mạng kết nối toàn cầu. Công
nghệ thông tin đã đóng góp to lớn vào sự phát triển của nền kinh tế toàn cầu
đến tư duy thương mại và các phương thức giao kết thương mại. Thương mại
điện tử ra đời.
Thế kỷ hai mươi mốt, chúng ta đã và đang chứng kiến những thành
quả mới mà tin học và công nghệ thông tin đem lại - sự ra đời và phát triển
của công nghiệp nội dung số (digital content industry - DCI). Các sản phẩm
đáp ứng nhu cầu sinh hoạt và sản xuất kinh doanh của con người như phim
ảnh, âm nhạc, sách, báo, truyện, phần mềm máy tính, các chương trình tin học
đã hội tụ với công nghệ số (digital technology) để tạo nên một loại sản phẩm
mới của thời đại - sản phẩm/dịch vụ nội dung số. Giờ đây, chúng ta có thể bắt
gặp nội dung số ở khắp nơi: mở báo là thấy các trò chơi SMS, bật tivi cũng

thấy pop-up quảng cáo game SMS; nghe nhạc, radio, xem phim, tải phim
online, viết blog, chia sẻ ảnh, video…; người dùng di động có thể xem truyền
hình kỹ thuật số, tải game, phim, nhạc, duyệt web…; tra cứu thư viện số, sách
số Thị trường công nghiệp nội dung số được coi là một trong các ngành
kinh tế mới mẻ và hứa hẹn nhiều tiềm năng phát triển trong thời gian tới.
Các sản phẩm/ dịch vụ nội dung số đem đến những cơ hội mới cũng
như các thách thức mới trong kinh doanh và pháp luật. Người ta có thể tự do
giao dịch các dịch vụ nội dung số trên môi trường Internet mà không cần quan
tâm đến yếu tố địa lý, biên giới quốc gia, đến thuế và hải quan. Bởi lẽ, đặc

2
điểm rất lớn và khác biệt của thương mại điện tử cung cấp dịch vụ nội dung
số với các loại hình thương mại điện tử hàng hóa khác là ở chỗ: dịch vụ nội
dung số đó là loại hàng hóa ảo, phi vật thể và giao dịch thương mại điện tử
loại hình sản phẩm và dịch vụ đặc biệt này được thực hiện toàn trình trên
mạng điện tử và có thể thực hiện ngay lập tức. Từ đặc tính nhạy cảm của
thương mại điện tử cung cấp dịch vụ nội dung số đã đặt ra vấn đề là làm thế
nào để quản lý các hoạt động thương mại điện tử trong lĩnh vực này vừa để
khuyến khích phát triển vừa đảm bảo được các lợi ích của những người tham
gia giao dịch thương mại điện tử cung cấp dịch vụ nội dung số cũng như của
toàn xã hội Điều này đòi hỏi mỗi quốc gia phải xây dựng cho mình một
khung pháp lý đầy đủ, tiến tiến, phù hợp với thực tiễn thương mại quốc tế và
phù hợp với khả năng dự báo các vấn đề sẽ nảy sinh trong kinh doanh trên
một môi trường ảo. Đây cũng là nhu cầu cấp thiết đặt ra đối với Việt Nam.
Trong một vài năm gần đây, Nhà nước Việt Nam đã tích cực xây dựng
khung pháp lý cho các giao dịch thương mại điện tử và đã bước đầu xây dựng
khung pháp lý cho nội dung số. Cụ thể là: Luật Giao dịch điện tử được ban
hành ngày 19 tháng 11 năm 2005, Nghị định 57/2006/NĐ-CP của Chính phủ
về thương mại điện tử ngày 09 tháng 6 năm 2006, Luật Công nghệ thông tin
ngày 29/06/2006 và Nghị định số 71/2007/NĐ-CP ngày 03/05/2007 của

Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thực hiện một số điều của Luật
Công nghệ thông tin về công nghiệp công nghệ thông tin Tuy nhiên, các văn
bản pháp luật này chưa chú trọng đầy đủ đến các khía cạnh đặc biệt của việc
cung cấp dịch vụ nội dung số trực tuyến. Một trong các lý do chính là nội
dung số còn quá mới mẻ đối với Việt Nam và Việt Nam cũng đang ở giai
đoạn đầu tiên của phát triển thương mại điện tử. Do đó, các chế định pháp lý
của Nhà nước về vấn đề này còn hạn chế và còn cần phải tiếp tục hoàn thiện.
Trong kế hoạch phát triển thương mại điện tử và công nghiệp thông tin của
nước ta trong giai đoạn 2006-2020, Nhà nước ta đã đưa ra mục tiêu là tiếp tục
hoàn thiện môi trường pháp lý về thương mại điện tử và nội dung số để đưa

3
pháp luật vào thực tiễn đời sống. Việc hiểu rõ được các quy định pháp luật về
thương mại điện tử và nội dung số cũng như dự báo xu hướng vận động của
các quy định pháp luật đó sẽ tạo ra một cơ sở để thúc đẩy thương mại điện tử
và công nghiệp nội dung số của nước ta phát triển. Chính vì vậy, đề tài "Pháp
luật về thương mại điện tử trong cung cấp dịch vụ nội dung số ở Việt Nam"
được lựa chọn nghiên cứu và làm luận văn tốt nghiệp bậc học thạc sĩ.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Thương mại điện tử và công nghiệp nội dung số là một trong các lĩnh
vực mới mẻ tại Việt Nam. Các lĩnh vực này mới phát triển ở một mức độ sơ
khai và đang dần được hoàn thiện. Đa phần các đề tài nghiên cứu đều xem xét
các vấn đề về thương mại điện tử độc lập với công nghiệp nội dung số và
chưa có bất kỳ đề tài nghiên cứu nào đề cập đến tính chất đặc biệt của các
giao dịch thương mại điện tử cung cấp dịch vụ nội dung số. Các đề tài nghiên
cứu về thương mại điện tử mới tiếp cận nhiều dưới góc độ kinh tế và chỉ một
số ít đề tài, bài báo tiếp cận vấn đề dưới giác độ pháp luật về thương mại điện
tử. Lĩnh vực nội dung số cũng chỉ mới được nghiên cứu trong phạm vi hẹp ở
mức độ ngành tại các hội thảo chuyên đề hoặc các bài báo đăng trên tạp chí
của ngành thông tin và truyền thông. Do đó, việc tiếp tục tìm hiểu dịch vụ nội

dung số từ đó đề xuất mô hình vận động cho pháp luật trong lĩnh vực thương
mại điện tử phù hợp với xu hướng phát triển của pháp luật quốc tế, phù hợp
với sự vận động không ngừng của các quan hệ xã hội trong môi trường kinh
doanh mạng, cũng như đáp ứng được sự thay đổi không ngừng của công nghệ
thông tin và viễn thông là một vấn đề cần thiết và có ý nghĩa to lớn.
3. Mục đích và phạm vi nghiên cứu
* Mục đích
- Phân tích các quy định pháp luật hiện tại của pháp luật về thương mại
điện tử và dịch vụ nội dung số ở Việt Nam.

4
- Dự báo xu hướng vận động của các quy định pháp luật về thương mại
điện tử cung cấp nội dung số ở Việt Nam. Nhận định được xu hướng vận động
của công nghiệp nội dung số tác động đến phát triển và biến đổi của pháp luật
về thương mại điện tử.
- Đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện môi trường pháp lý tạo điều
kiện cho thương mại điện tử cung cấp nội dung số tại Việt Nam phát triển ổn
định và lành mạnh.
* Phạm vi nghiên cứu
Xuất phát từ mục đích nêu trên, luận văn có phạm vi nghiên cứu như
sau: các vấn đề thương mại điện tử và nội dung số, các quy định của pháp luật
về thương mại điện tử, nội dung số ở Việt Nam và các quy định pháp luật
quốc tế trong lĩnh vực này.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu
Luận văn sẽ sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau: phương pháp
so sánh, phương pháp tổng hợp, phương pháp phân tích. Đặc biệt, phương
pháp so sánh có ý nghĩa quan trọng trong việc nghiên cứu đề tài này. Xuất
phát từ thực tiễn điều chỉnh thương mại điện tử bằng pháp luật tại nước ta là
khá mới mẻ nên việc so sánh các chế định pháp luật Việt Nam với pháp luật
quốc tế và pháp luật nước ngoài trong lĩnh vực này góp phần tạo ra cái nhìn

bao quát và tổng thể, từ đó giúp cho việc xây dựng và hoàn thiện pháp luật
về thương mại điện tử và nội dung số tại Việt Nam phù hợp với các quy định
hiện hành của pháp luật quốc tế và thông lệ thương mại quốc tế, giảm thiểu
các vấn đề bất cập chưa hợp lý. Bên cạnh đó, phương pháp phân tích và tổng
hợp cũng tạo nên một góc nhìn tổng thể và chi tiết trong quá trình nghiên
cứu đề tài.
5. Kết cấu luận văn
Ngoài phần Mở đầu và Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung của luận văn gồm 3 chương:

5
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về dịch vụ nội dung số và pháp luật
về thương mại điện tử trong cung cấp dịch vụ nội dung số.
Chương 2: Một số vấn đề pháp lý cơ bản trong lĩnh vực thương mại
điện tử trong cung cấp dịch vụ nội dung số.
Chương 3: Đề xuất, kiến nghị nhằm phát triển thương mại điện tử
trong cung cấp dịch vụ nội dung số.

6
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ DỊCH VỤ NỘI DUNG SỐ
VÀ PHÁP LUẬT VỀ THƢƠNG MẠI ĐIỆN TỬ TRONG CUNG CẤP
DỊCH VỤ NỘI DUNG SỐ

1.1. THƢƠNG MẠI ĐIỆN TỬ
1.1.1 . Khái niệm thƣơng mại điện tử
Thương mại điện tử còn được sử dụng với nhiều tên gọi khác nhau như
thương mại trực tuyến (Online - Trade), thương mại điều khiển học (Cyber
Trade), kinh doanh điện tử (Electronic Business), thương mại không giấy tờ
(paperless trade), thương mại số hóa (digital commerce), thương mại internet

(internet commerce) nhưng phổ biến nhất vẫn là thuật ngữ thương mại điện tử
(e-commerce). Khi nói đến thương mại điện tử, người ta nghĩ ngay đến
Internet và cho rằng thương mại điện tử gắn liền với Internet. Trên thực tế, có
rất nhiều quan điểm đề cập đến vấn đề này, có nhiều định nghĩa và cách hiểu
khác nhau về thương mại điện tử. Tùy theo mục tiêu nghiên cứu mà người ta
hiểu thương mại điện tử theo những góc độ khác nhau.
Dưới góc độ công nghệ thông tin, thương mại điện tử được hiểu là
việc cung cấp, phân phối thông tin, các sản phẩm/ dịch vụ, các phương tiện
thanh toán qua đường dây điện thoại, các mạng truyền thông hoặc qua các
phương tiện điện tử khác.
Dưới góc độ kinh doanh, thương mại điện tử là việc ứng dụng công
nghệ (chủ yếu là công nghệ thông tin) để tự động hóa các giao dịch kinh
doanh và các kênh thông tin kinh doanh.
Dưới góc độ dịch vụ, thương mại điện tử là công cụ để các doanh
nghiệp, người tiêu dùng, các nhà quản lý cắt giảm các chi phí dịch vụ, đồng
thời nâng cao chất lượng hàng hóa, dịch vụ và tăng tốc độ cung cấp dịch vụ
cho khách hàng.

7
Dưới góc độ trực tuyến, thương mại điện tử cung cấp khả năng tiến
hành các hoạt động mua bán hàng hóa, trao đổi thông tin trực tiếp trên
internet cùng nhiều dịch vụ trực tuyến khác.
Thương mại điện tử có thể được hiểu theo nghĩa rộng là toàn bộ các
giao dịch mang tính thương mại được các bên tham gia thực hiện thông qua
các phương tiện điện tử từ điện thoại, telex, facimile, hệ thống thanh toán và
chuyển tiền điện tử… tới các máy tính kết nối với nhau trong một mạng lưới
kín hay một mạng lưới mở như Internet.
Đạo luật về thương mại điện tử do Ủy ban Pháp luật Thương mại
Quốc tế của Liên hợp quốc (UNCITRAL - CNUDCI) được thông qua trong
phiên họp toàn thể thứ 85 Đại hội đồng Liên hợp quốc ngày 16-12-1996, quy

định phạm vi điều chỉnh của văn bản này như sau: "Đạo luật này có hiệu lực
áp dụng đối với mọi loại thông tin thể hiện dưới hình thức thông tin số hóa
được sử dụng trong khuôn khổ các hoạt động thương mại". Thông tin số hóa
là thông tin được tạo ra, chuyển đi, tiếp nhận, lưu trữ bằng phương tiện điện
tử, quang điện hoặc các phương tiện tương tự, đặc biệt là dưới hình thức trao
đổi số liệu được tin học hóa, thư điện tử, điện tín, telex và telefax. Hoạt động
"thương mại" cũng được UNCITRAL khuyến nghị là cần phải được hiểu theo
nghĩa rộng, chỉ mối quan hệ mang tính thương mại bao hàm hầu hết các hình
thái của hoạt động kinh tế, không chỉ đơn thuần chỉ có mua bán hàng hóa và
dịch vụ. Theo Luật Mẫu về Thương mại điện tử của UNCITRAL thì "thương
mại" trong khái niệm thương mại điện tử được hiểu là mọi vấn đề phát sinh từ
các mối quan hệ mang tính chất thương mại dù có hay không có hợp đồng.
Các mối quan hệ mang tính chất thương mại bao gồm bất cứ giao dịch thương
mại nào về cung cấp hoặc trao đổi hàng hóa dịch vụ, thỏa thuận về phân phối,
đại diện hoặc đại lý thương mại, ủy thác hoa hồng, cho thuê dài hạn, xây dựng
các công trình, tư vấn, thiết kế, chuyển nhượng quyền sử dụng (li-xăng), đầu
tư, tài chính, ngân hàng, bảo hiểm, các hợp đồng khai thác hoặc chuyển
nhượng, liên doanh hoặc các hình thức hợp tác kinh doanh hay sản xuất, vận

8
chuyển hành khách hay hàng hóa bằng đường biển, đường không, đường sắt
hay đường bộ… Như vậy, phạm vi của thương mại điện tử là rất rộng, bao
quát hầu như mọi hình thái hoạt động kinh tế mà không chỉ bao gồm mua bán
hàng hóa và dịch vụ, vì mua bán hàng hóa và dịch vụ chỉ là một trong hàng
ngàn lĩnh vực áp dụng của thương mại điện tử.
Ủy ban Châu Âu đưa ra định nghĩa như sau: Thương mại điện tử được
hiểu là việc thực hiện hoạt động kinh doanh qua các phương tiện điện tử. Nó
dựa trên việc xử lý và truyền số liệu điện tử dưới dạng chữ, âm thanh và hình
ảnh. Thương mại điện tử gồm nhiều hành vi trong đó có hoạt động mua bán
hàng hóa và dịch vụ qua phương tiện điện tử, giao nhận các nội dung kỹ thuật

số trên mạng, chuyển tiền điện tử, mua bán cổ phiếu điện tử, vận đơn điện tử,
đấu giá thương mại, hợp tác thiết kế, tài nguyên mạng, mua sắm công cộng,
tiếp thị trực tiếp tới người tiêu dùng, và các dịch vụ sau bán hàng (hậu mãi).
Thương mại điện tử được thực hiện đối với cả thương mại hàng hóa (ví dụ
như hàng tiêu dùng, các thiết bị y tế chuyên dụng) và thương mại dịch vụ (ví
dụ như dịch vụ cung cấp thông tin, dịch vụ pháp lý, tài chính); các hoạt động
truyền thống (như chăm sóc sức khỏe, giáo dục) và các hoạt động mới (như
siêu thị ảo).
Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) đưa ra khái niệm về thương mại
điện tử, theo đó hiểu một cách đơn giản nhất: thương mại điện tử bao gồm việc
sản xuất, quảng cáo, bán hàng và phân phối sản phẩm được mua bán và thanh
toán trên mạng Internet nhưng được giao nhận một cách hữu hình và cả các sản
phẩm được giao nhận như những thông tin số hóa thông qua mạng Internet.
Theo Tổ chức Hợp tác Phát triển Kinh tế của Liên hợp quốc (OECD):
Thương mại điện tử được định nghĩa sơ bộ là các giao dịch thương mại dựa
trên truyền dữ liệu qua các mạng truyền thông như Internet.
Từ các định nghĩa trên có thể thấy rằng, nếu hiểu theo nghĩa rộng,
thương mại điện tử gồm tất cả các hoạt động mang tính thương mại được thực
hiện thông qua các phương tiện thông tin liên lạc điện tử từ điện thoại, telex, fax,

9
hệ thống thanh toán và chuyển tiền điện tử, Internet… Còn hiểu theo nghĩa hẹp
nhất, hay nói một cách chặt chẽ hơn cả thì thương mại điện tử chỉ gồm các
hoạt động thương mại được tiến hành trên mạng máy tính mở như Internet.
Tại Việt Nam, khái niệm "thương mại điện tử" chưa được định nghĩa
cụ thể trong các văn bản pháp luật hiện hành. Tuy nhiên, nội hàm của khái
niệm này được đề cập đến trong một số luật liên quan và được dùng dưới các
thuật ngữ như "giao dịch điện tử" hoặc "hoạt động thương mại trên môi
trường mạng".
Theo Luật Giao dịch điện tử số 51/2005/QH11 ngày 29 tháng 11

năm 2005, thương mại điện tử là quá trình mua, bán hoặc trao đổi sản phẩm,
dịch vụ và những dịch vụ hỗ trợ các quá trình trên có sử dụng các phương tiện
điện tử, các mạng máy tính, Internet, và có sử dụng các tiêu chuẩn truyền
thông chung: "Giao dịch điện tử là giao dịch được thực hiện bằng phương tiện
điện tử" [35, Điều 4.6]. Phương tiện điện tử là các phương tiện hoạt động dựa
trên công nghệ điện tử kỹ thuật số từ tính, truyền dẫn không dây, quang học,
điện từ hoặc công nghệ tương tự.
Luật Công nghệ thông tin số 67/2006/QH11 ngày 29 tháng 6 năm 2006
quy định nguyên tắc ứng dụng công nghệ thông tin trong thương mại là: (i) tổ
chức, cá nhân có quyền ứng dụng công nghệ thông tin trong thương mại; (ii) hoạt
động thương mại trên môi trường mạng phải tuân thủ quy định của luật này,
pháp luật về thương mại và pháp luật về giao dịch điện tử.
Từ các quy định trên, có thể hiểu nội hàm khái niệm thương mại điện
tử tại Việt Nam là các hoạt động (giao dịch) thương mại sử dụng phương tiện
điện tử. Theo đó khái niệm hoạt động thương mại cũng được hiểu theo nghĩa
rộng, đó là hoạt động nhằm mục đích sinh lợi, bao gồm mua bán hàng hóa,
cung ứng dịch vụ, đầu tư, xúc tiến thương mại và các hoạt động nhằm mục
đích sinh lợi khác (Luật Thương mại năm 2005). Phương tiện điện tử được luật
quy định là phương tiện hoạt động dựa trên công nghệ điện, điện tử, kỹ thuật
số, từ tính, truyền dẫn không dây, quang học, điện từ hoặc công nghệ tương tự

10
(Luật Giao dịch điện tử năm 2005). Luật Giao dịch điện tử năm 2005 cũng đưa
ra nguyên tắc: không một loại công nghệ nào được xem là duy nhất trong giao
dịch điện tử. Điều đó có nghĩa là thương mại điện tử không chỉ giới hạn là
thương mại thông qua mạng Internet mà còn là các loại hình thương mại sử
dụng các phương tiện khác như: điện thoại, hệ thống thiết bị thanh toán điện
tử, telex, facimile, các mạng nội bộ (intranet), mạng ngoại bộ (extranet) và các
ứng dụng khác như videotext, truyền thông (mua hàng từ xa) và môi trường
ngoài mạng (catolo bán hàng trên đĩa CD-ROM) cũng như các mạng lưới nội

bộ của các công ty (đặc biệt là trong lĩnh vực ngân hàng)
1.1.2. Đặc điểm của thƣơng mại điện tử
Từ định nghĩa trên có thể thấy rằng thương mại điện tử các các đặc
điểm sau:
- Thương mại điện tử là một phương thức thương mại sử dụng các
phương tiện điện tử để thực hiện hành vi thương mại. Nói chính xác hơn, thương
mại điện tử là việc trao đổi thông tin thương mại thông qua các phương tiện
công nghệ điện tử, mà nói chung là không cần phải in ra giấy trong bất kỳ
công đoạn nào của toàn bộ quá trình giao dịch.
- Hoạt động thương mại điện tử được thực hiện trên cơ sở các nguồn
thông tin dưới dạng số hóa của các mạng điện tử. Đó là các thông điệp dữ
liệu. Nó cho phép hình thành những dạng thức kinh doanh mới và những cách
thức mới để tiến hành hoạt động kinh doanh.
- Các bên tiến hành giao dịch trong thương mại điện tử không nhất
thiết phải gặp gỡ nhau trực tiếp và không phải biết nhau trước. Việc sử dụng
các phương tiện điện tử, các thông tin thương mại được số hóa cho phép giao
dịch Người - Máy - Máy - Người giữa các bên được tiến hành.
- Thương mại điện tử là một hệ thống bao gồm nhiều giao dịch thương
mại. Các giao dịch này không chỉ tập trung vào việc mua - bán hàng hóa và
dịch vụ để trực tiếp tạo ra thu nhập cho doanh nghiệp, mà còn bao gồm nhiều

11
giao dịch hỗ trợ tạo ra lợi nhuận (ví dụ: hệ thống hỗ trợ việc chào bán, cung
cấp các dịch vụ khách hàng hoặc tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình thông
tin, liên lạc giữa các đối tác kinh doanh…












Sơ đồ 1.1: Quy trình thương mại điện tử
So với các hoạt động thương mại truyền thống thì thương mại điện tử
có rất nhiều điểm khác nhau cơ bản. Trong thương mại truyền thống, các bên
thường gặp gỡ nhau trực tiếp để tiến hành giao dịch hoặc là những người đã
quen biết nhau từ trước. Còn trong thương mại điện tử, các chủ thể không tiếp
xúc trực tiếp với nhau và không đòi hỏi phải biết nhau từ trước. Các giao dịch
mang tính thương mại truyền thông được thực hiện với sự phân định rõ về
gianh giới quốc gia trong khi đó thương mại điện tử lại được thực hiện trong
một môi trường hay có thể gọi là thị trường phi biên giới. Một điểm khác nữa
là hầu hết các hoạt động hay giao dịch thương mại điện tử đều có sự tham gia
của ít nhất ba chủ thể trong đó có một bên không thể thiếu được là người cung
cấp dịch vụ mạng.
Ngay giữa thương mại điện tử truyền thống với thương mại điện tử
trên mạng mở Internet cũng có nhiều điểm khác biệt. Đối với thương mại điện

12
tử truyền thống thì mạng lưới là một phương tiện để trao đổi dữ liệu; còn đối
với thương mại điện tử trên mạng Internet thì mạng lưới chính là thị trường.
Do vậy, vấn đề pháp lý đặt ra là phải xây dựng khung pháp luật điều chỉnh
các quan hệ nảy sinh trong một thị trường ảo dựa trên các mạng lưới máy tính
và thiết bị điện tử. Các giao dịch thương mại điện tử truyền thống được điều
chỉnh bởi các quy định trong các ngành luật riêng biệt và đã được ghi nhận
một phần trong pháp luật quốc gia cũng như pháp luật quốc tế.
Đến nay, thương mại điện tử không còn là hiện tượng mới nữa. Trong

nhiều năm vừa qua, các công ty đã trao đổi với nhau số liệu kinh doanh qua
rất nhiều mạng lưới thông tin liên lạc, chủ yếu là qua các phương tiện viễn
thông. Cung với sự phát triển của Internet, thương mại điện tử đã có một sự
thay đổi đáng kể và mở rộng nhanh chóng. Nếu như cách đây khoảng năm,
bẩy năm việc trao đổi thông tin qua các phương tiện điện tử chỉ giới hạn trong
các quan hệ giữa các doanh nghiệp, công ty với nhau thì ngày nay thương mại
điện tử đang mở rộng nhanh chóng sang các trang web và phát triển đa dạng
trên phạm vi toàn cầu với số lượng người tham gia tăng nhanh chưa từng có.
Những người tham gia có thể là các cá nhân, các doanh nghiệp, những người
đã biết và những người chưa biết nhau bao giờ trên các mạng lưới mở toàn
cầu như là Internet. Hai năm gần nay, thế giới đã bắt đầu xuất hiện các khái
niệm "cộng đồng mạng", "cư dân mạng" và khái niệm web 2.0 - mạng xã
hội và bắt đầu nhìn nhận sự tồn tại, phát triển của các quan hệ xã hội mang
tính chất "ảo" này và nhu cầu cần thiết phải quản lý và điều chỉnh các quan hệ
xã hội đó.
1.2. DỊCH VỤ NỘI DUNG SỐ
Cách đây 3 năm, nói đến nội dung số ở Việt Nam, ai cũng chỉ nghĩa
đến báo điện tử. Hai năm trở lại đây, bên cạnh báo điện tử, người ta bắt đầu
đề cập đến game online và nhạc số. Giờ đây, khái niệm này đang được định
nghĩa lại với nhiều dịch vụ khác khi hàng loạt doanh nghiệp như FFPT, VTC,
VDC, Vincom, Vega Technology Group, Peacesoft, Vinagame… đang chuẩn

13
bị cho một cuộc chiến ngầm. Có thể thấy rằng, hiện nay người tiêu dùng Việt
Nam bắt gặp nội dung số ở khắp nơi: mở báo là thấy các trò chơi SMS, bật tivi
cũng thấy pop-up quảng cáo game SMS; dân mạng có thể nghe nhạc, radio, xem
phim, tải phim online, tham gia viết nhật ký trực tuyến, chia sẻ ảnh, video ;
người dùng di động có thể xem truyền hình kỹ thuật số, tải game, phim, nhạc,
duyệt web… Vậy, nội dung số là gì?
Công nghiệp nội dung số bao gồm việc sáng chế, thiết kế, quản lý và

phân bổ sản phẩm và dịch vụ nội dung số cũng như các công nghệ hỗ trợ cho
phát triển nội dung số. Công nghiệp nội dung số là sản phẩm của sự hội tụ
giữa các nhà sản xuất nội dung truyền thống, giải trí và truyền thông, phần
mềm và đa phương tiện, phần cứng điện tử với sự phát triển mạnh mẽ của
công nghệ thông tin, của viễn thông và truyền dẫn băng rộng, Internet với các
thiết bị truy cập hữu tuyến và vô tuyến. Sự hội tụ này đã tạo ra nhu cầu cho
việc phân phối các sản phẩm nội dung theo phương thức điện tử. Đó chính là
các sản phẩm và dịch vụ nội dung số. Ngành công nghiệp mới mẻ này đã đã
đem lại nguồn doanh thu khổng lồ cho thị trường các nước trên thế giới trong
thời gian chỉ vài năm và đang hứa hẹn một tiềm năng phát triển tốt. Tổng giá
trị sản phẩm và dịch vụ nội dung số toàn thế giới năm 2001 mới đạt 178 triệu
đô-la Mỹ nhưng đến năm 2006 đã đạt 434 triệu đô-la Mỹ với mức tăng trưởng
hàng năm khoảng 29%.
Do công nghiệp và dịch vụ nội dung số là một ngành mới mẻ mới chỉ
phát triển trên thế giới vào đầu thế kỷ 21 và mới chỉ xuất hiện tại Việt Nam
khoảng 3 năm trở lại đây nên cho đến nay trên thế giới chưa có định nghĩa
chuẩn và thống nhất về khái niệm "nội dung số", mỗi quốc gia có cách hiểu về
lĩnh vực này khác nhau. Trên thế giới, người ta sử dụng một số thuật ngữ để chỉ
về loại hình công nghiệp và dịch vụ số như: nội dung số (digital contents),
công nghiệp nội dung số (digital content industry - DCI) hoặc phân phối nội
dung số (digital content distribution) Phần lớn các quốc gia đều giới hạn
khái niệm công nghiệp nội dung số trong những lĩnh vực mà nước đó có thế
mạnh hoặc tiềm năng lớn để phát triển.

14
Thuật ngữ "nội dung số" luôn luôn bao hàm hai khía cạnh là thông tin
và truyền tải, phân phối thông tin đó bằng phương tiện điện tử.
Ở Hàn Quốc, ngành công nghiệp nội dung số được xác định bao gồm:
giải pháp (solution), trò chơi (games), hình ảnh số (digital image), thông tin
web (web information), giáo dục điện tử (e-learning) và phân phối điện tử

(distribution). Ông Leo Hwa Chiang - chuyên gia về công nghệ thông tin của
Hàn Quốc, đã đưa ra một khái niệm đơn giản về nội dung số là "nội dung
cộng với công nghệ số".
Ở Nhật Bản, ngành nội dung số được xác định bao gồm: nội dung video
(video content), nội dung nhạc (music content), nội dung trò chơi (games content),
nội dung sách (book content) và nội dung truyền thông số (digital broascasting).
Ở Đài Loan, ngành công nghiệp nội dung số được xác định gồm: hoạt hình
computer (computer animation), trò chơi (games), giáo dục điện tử (e-learning),
dịch vụ và ứng dụng di động (mobile application and services), truyền tải dữ
liệu và họp số (data streaming and video conferencing), truyền hình tương tác
(interative TV), kho dữ liệu số (digital archiving), xuất bản số (digital publishing),
truyền thông số (digital broascating), nhạc số (digital music) và sản phẩm,
dịch vụ phần mềm đa phương tiện (multimedia sofwares and services).
Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) đã đưa ra một khái niệm liên
quan đến nội dung số là "Digital Products" (tạm dịch là "các sản phẩm số").
Theo đó, "các sản phẩm số là một trong các loại hình của hàng hóa và dịch vụ
công nghệ thông tin, bao gồm phần mềm, phim ảnh, nhạc, sách dưới dạng
băng đĩa, trò chơi đã được số hóa, có thể trao đổi thương mại qua các phương
vật chất tiện trung gian như đĩa, băng VHS, CD hoặc sách hoặc được bán
thông qua các phương tiện điện tử như Internet". Khái niệm "sản phẩm" ở đây
không được dùng để phân biệt nó là hàng hóa hay dịch vụ mà nó bao hàm cả
hàng hóa và dịch vụ nội dung số.
Theo nghĩa hẹp, "công nghiệp nội dung số" là chỉ kể đến việc thiết kế,
sản xuất, xuất bản, lưu trữ, phân phối, phát hành các sản phẩm nội dung số.

15
Cách hiểu này chưa đúng và không đầy đủ vì nó đã phủ nhận sự tồn tại dịch
vụ nội dung số. Đồng thời, cách hiểu theo nghĩa hẹp này cũng không phù hợp
với tinh thần của định nghĩa của WTO về "các sản phẩm số".
Theo nghĩa rộng, "công nghiệp nội dung số" bao gồm hai chu trình

sản xuất và thương mại: (1) chu trình sản xuất và số hóa ra các sản phẩm nội
dung số; và (2) chu trình cung cấp, phân phối thương mại các sản phẩm nội
dung số đó (quy trình này được gọi là cung cấp các sản phẩm và dịch vụ nội
dung số).
Thuật ngữ "công nghiệp nội dung số" hiện đại cần phải được hiểu theo
nghĩa rộng bởi lẽ thuật ngữ "công nghiệp nội dung số" xuất phát từ thuật ngữ
của nước ngoài là "digital content industry". Điều này có nghĩa là công nghiệp
nội dung số là một ngành, một lĩnh vực công nghệ thông tin. Với cách hiểu
này, khái niệm "công nghiệp nội dung số" không chỉ đề cập đến việc sản xuất
ra một sản phẩm nội dung số mà nó đề cập đến cả một quy trình từ việc sản
xuất các sản phẩm nội dung số đến việc cung cấp các sản phẩm và dịch vụ nội
dung số. Hiểu khái niệm công nghiệp nội dung số theo nghĩa rộng mới thể
hiện được đúng và đầy đủ bản chất của sản xuất và cung cấp phẩm và dịch vụ
nội dung số, đồng thời cũng phản ánh được "công nghiệp nội dung số" là một
khái niệm mở và có thể luôn được cập nhật và mở rộng bởi sự thay đổi của
công nghiệp và công nghệ thông tin.
Ở Việt Nam, thuật ngữ về "Công nghiệp nội dung số"cũng đã bắt đầu
được đề cập đến tại một số văn bản như: Quyết định số 56/2007/QĐ-TTg
ngày 03 tháng 05 năm 2007 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt
chương trình phát triển công nghiệp nội dung số Việt Nam đến năm 2010,
Nghị định số 71/2005/NĐ-CP ngày 03 tháng 05 năm 2007 quy định chi tiết và
hướng dẫn thực hiện một số điều của Luật Công nghệ thông tin về công
nghiệp công nghệ thông tin. Theo đó, công nghiệp nội dung số là ngành thiết
kế, sản xuất, xuất bản, lưu trữ, phân phối, phát hành các sản phẩm nội dung số
và dịch vụ liên quan. Nó bao gồm nhiều lĩnh vực như: tra cứu thông tin, dữ

16
liệu số, giải trí số, nội dung giáo dục trực tuyến, học tập điện tử, thư viện và
bảo tàng số, phát triển nội dung cho mạng băng rộng, mạng di động 3G
Công nghiệp nội dung số không bao hàm việc cung cấp dịch vụ công và các

trang thông tin miễn phí. Nghị định số 71/2007/NĐ-CP ngày 03/05/2005 quy
định chi tiết và hướng dẫn thực hiện một số điều của Luật Công nghệ thông
tin về công nghiệp công nghệ thông tin lần đầu tiên đưa ra khái niệm và phân
biệt rõ "sản phẩm nội dung số" và "dịch vụ nội dung số" như sau:
- "Sản phẩm nội dung thông tin số là sản phẩm nội dung, thông tin bao
gồm văn bản, dữ liệu, hình ảnh, âm thanh được thể hiện dưới dạng số, được lưu
giữ, truyền đưa trên môi trường mạng" [36]. Đó là giáo trình, bài giảng, tài liệu
học tập dưới dạng điện tử; sách, báo, tài liệu dưới dạng số; các loại trò chơi điện
tử bao gồm trò chơi trên máy tính đơn, trò chơi trực tuyến, trò chơi trên điện
thoại di động; trò chơi tương tác qua truyền hình; sản phẩm giải trí trên mạng
viễn thông di động và cố định; thư viện số, kho dữ liệu số, từ điển điện tử; phim
số, ảnh số, nhạc số, quảng cáo số; các sản phẩm nội dung thông tin số khác.
- "Dịch vụ nội dung thông tin số là dịch vụ được cung cấp trên môi
trường mạng hoạt động trực tiếp hỗ trợ, phục vụ việc sản xuất, khai thác, phát
hành, nâng cấp, bảo hành, bảo trì sản phẩm nội dung thông tin số và các hoạt
động tương tự khác liên quan đến nội dung thông tin số" [36]. Các dịch vụ nội
dung thông tin số bao gồm: dịch vụ phân phối, phát hành sản phẩm nội dung
thông tin số; dịch vụ nhập, cập nhật, tìm kiếm, lưu trữ và xử lý dữ liệu số;
dịch vụ quản trị, duy trì, bảo dưỡng, bảo hành các sản phẩm nội dung thông
tin số; dịch vụ chỉnh sửa, bổ sung tính năng, bản địa hóa các sản phẩm nội
dung thông tin số; dịch vụ đào tạo từ xa; dịch vụ khám, chữa bệnh từ xa; trò
chơi điện tử (games), phát triển nội dung cho Internet, phát triển nội dung cho
mạng điện thoại di động, dịch vụ tin nhắn đa phương tiện, dịch vụ tin nhắn
cung cấp nội dung, phim số và dịch vụ đa phương tiện số
Sơ đồ dưới đây thể hiện rõ quy trình, định nghĩa về nội dung số và
dịch vụ nội dung số cũng như gianh giới để xác định sản phẩm nội dung số và

17
dịch vụ nội dung số cũng như các nhân tố hội tụ để tạo ra sản phẩm và dịch
vụ nội dung số.


Sơ đồ 1.2: Định nghĩa về nội dung số
Định nghĩa của Việt Nam đã được xây dựng trên tiêu chí phân biệt
khái niệm giữa hàng hóa và dịch vụ. Trong đó, sản phẩm nội dung số được
coi là "hàng hóa" và các dịch vụ nội dung số được coi là "dịch vụ". Điều này
phù hợp với đa số quan điểm về việc phân biệt hàng hóa và dịch vụ trong
WTO. Thực tế vấn đề coi nội dung số nên được xét vào loại hình hàng hóa
hay dịch vụ theo cách đánh mã vạch của WTO đang được thảo luận tại Vòng
đàm phán Urugoay và Doha. Vấn đề này sẽ được tiếp tục thảo luận trong thời
gian tới để có thể xác định được phạm vi mở của thị trường đối với các hành
hóa và dịch vụ đặc biệt này. Khuyến nghị Việt Nam nên quan tâm đến vấn đề
này trong các phiên họp đa phương của WTO.
Có thể thấy, nội dung số là sự hội tụ của nghệ thuật, kinh doanh và
công nghệ, bao gồm các lĩnh vực: phát triển nội dung cho Internet (báo chí
điện tử, website, tra cứu thông tin ); phát triển nội dung cho di động (tin

18
nhắn tra cứu thông tin, tải nhạc chuông, bầu chọn, dự đoán kết quả, tải logo );
thương mại điện tử (thiết kế, quảng cáo, tiếp thị, mua bán trên mạng ); trò
chơi điện tử; giáo dục điện tử; chăm sóc y tế điện tử; thư viện điện tử; các
dịch vụ đa phương tiện (nhạc số, phim số, truyền hình số…). Dịch vụ nội
dung số chính là một trong các chu trình sản xuất và thương mại công nghiệp
nội dung số. Dịch vụ nội dung số chính là thương mại trực tuyến các sản
phẩm nội dung số.
Tuy nhiên, các định nghĩa về "sản phẩm nội dung số" và "dịch vụ nội
dung số" ở nước ta chưa được luật hóa. Luật Thương mại ngày 14 tháng 6
năm 2005, Luật Giao dịch điện tử ngày 29 tháng 11 năm 2005, Luật Công
nghệ thông tin ngày 12 tháng 7 năm 2006 và các luật hiện hành của Việt Nam
chưa đề cập đến khái niệm "nội dung số" và "dịch vụ nội dung số".
1.3. THƢƠNG MẠI ĐIỆN TỬ CUNG CẤP DỊCH VỤ NỘI DUNG SỐ

Nếu như một sản phẩm nội dung số được cung cấp tới người tiêu dùng
bằng con đường phân phối, thương mại mang tính vật chất hữu hình như một
hàng hóa thông thường mà ta có thể cầm giữ được thì đó không phải là quá
trình cung cấp dịch vụ nội dung số. Khi một sản phẩm nội dung số được bán /
cung cấp trực tuyến (on-line) qua mạng, tức là ứng dụng công nghệ thông tin
vào phân phối sản phẩm nội dung số thì được coi là quy trình cung cấp dịch
vụ nội dung số bằng thương mại điện tử.
Vậy, "dịch vụ nội dung số" là một trong hai phân đoạn của ngành công
nghiệp nội dung số. Nó phản ánh quá trình cung cấp, phân phối các sản phẩm nội
dung số tới người sử dụng thông qua phương tiện điện tử truyền dẫn (Internet)
với sự hỗ trợ của các thiết bị đầu cuối như máy tính cá nhân, PDA, TV Quy
trình này được gọi là cung cấp dịch nội dung số bằng thương mại điện tử.
1.3.1 . Đặc điểm của thƣơng mại điện tử cung cấp dịch vụ nội dung số
Xuất phát từ đặc tính kỹ thuật của các sản phẩm nội dung số và đặc
tính của thương mại điện tử, ngoài các đặc điểm của thương mại điện tử nêu

19
tại phần trên, việc cung cấp dịch vụ nội dung số trực tuyến có các đặc điểm
đặc thù như sau:
- Dịch vụ nội dung số là việc cung cấp các sản phẩm nội dung số cho
người sử dụng. Đây là các sản phẩm công nghệ thông tin "phi vật thể" (hay
còn gọi là "ảo") được hình thành từ các lĩnh vực kinh doanh của đời sống xã
hội như văn học, sách báo, trò chơi, chương trình đào tạo, chương trình phần
mềm trong quản lý đã được số hóa và lưu trữ dưới các hình thức đĩa, băng,
đĩa VSH, CD, ổ lưu trữ, USB dễ dàng chuyển tải từ người này sang người
khác trong môi trường điện tử.
- Việc kích hoạt và sử dụng dịch vụ nội dung số rất đơn giản: người ta
tải về một dịch vụ nội dung số và chỉ cần mà (key) là có thể kích hoạt dịch vụ
để sử dụng.
- Cung cấp các dịch vụ nội dung số trực tuyến là giao dịch thương mại

phi biên giới. Các sản phẩm / dịch vụ nội dung số dễ dàng sao chép, gửi /
nhận hoặc tải lên mạng (upload) hay tải về (download) từ bất cớ nơi nào có
thể kết nối mạng mà không phụ thuộc vào vị trí địa lý. Ranh giới quốc gia khó
xác định trong các giao dịch cung cấp dịch vụ nội dung số trên mạng. Bởi lẽ,
tất cả các chu trình của giao dịch thương mại, từ đặt hàng đến thanh toán tiền
và giao nhận hàng hóa đều được tiến hành trên mạng và thông qua môi trường
Internet toàn cầu. Ở đây, không tồn tại việc giao nhận hàng hóa một cách vật
chất cụ thể nên không có các thủ tục xuất khẩu và nhập khẩu hàng hóa. Các
sản phẩm nội dung số là những hành hóa đã được số hóa tức là có thể gọi các
sản phẩm / dịch vụ nội dung số là hàng hóa "ảo". Các hàng hóa này được
người mua và người bán chuyển nhượng thông qua các phương tiện điện tử và
trong môi trường điện từ truyền đi qua biên giới mà không cần qua cửa khẩu
hải quan truyền thống.
- Thương mại điện tử cung cấp dịch vụ nội dung số là loại hình thương
mại điện tử gắn liền và phụ thuộc chặt chẽ vào sự phát triển của công nghệ
thông tin vì loại hình thương mại đặc biệt này luôn được thực hiện trên môi

20
trường điện tử (Internet, inttranet, mạng WAN, mạng LAN, các PC kết nối
wifi, wimax, điện thoại di động GSM và thiết bị đầu cuối CDMA ) và luôn
cung cấp các dịch vụ gắn liền với các sản phẩm nội dung số.
- Cung cấp dịch vụ nội dung số là quy trình thương mại điện tử trực
tiếp. Một giao dịch thương mại điện tử sẽ được tiến hành qua ba giai đoạn
chính như sau: giai đoạn tìm kiếm (đối tác, khách hàng, hàng hóa, sản phẩm,
dịch vụ…) và chào hàng; giai đoạn đặt mua hàng - giao kết hợp đồng điện tử;
giai đoạn thanh toán và giao nhận dịch vụ. Thương mại điện tử hàng hóa và
dịch vụ thông thường là việc đặt hàng hoặc thực hiện một số khâu trong giao
dịch thương mại trên các phương tiện điện tử hoặc qua các phương thức điện
tử và bên cạnh đó là một số khâu còn lại của giao dịch vẫn phải thực hiện theo
phương thức truyền thống như việc giao nhận qua các kênh phân phối hoặc

qua các dịch vụ bưu chính hay các nhà vận chuyển thương mại. Ví dụ: khi
mua kính qua mạng, người mua sẽ đặt lệnh qua mạng, thanh toán tiền qua
mạng và bên bán ghi nhận trên trang bán hàng điện tử của mình là đã thực
hiện các giao dịch đó. Sau đó, chiếc kính sẽ được chuyến phát tới người mua
thông qua người giao hàng hoặc qua các công ty phân phối trung gian. Lúc đó
giao dịch mua bán mới được hoàn tất. Quy trình thương mại điện tử này được
gọi là thương mại điện tử gián tiếp và thường được thực hiện với các hàng
hóa hữu hình. Thương mại điện tử gián tiếp phụ thuộc vào nhiều yếu tố bên
ngoài khác như hiệu quả của hệ thống phương tiện giao thông vận tải. Trong
cung cấp dịch vụ và sản phẩm nội dung số theo hình thức thương mại điện tử,
các sản phẩm và dịch vụ nội dung số sẽ được cung cấp trực tuyến ngay trên
trang web điện tử và ngay khi người mua đồng ý thanh toán cho giao dịch.
Toàn bộ các giai đoạn từ khâu tìm kiếm cho tới khi giao nhận và thanh toán
đều được thực hiện trên mạng máy tính. Việc cung cấp hàng hóa đặc biệt này
không cần thiết phải sử dụng đến phương tiện vận chuyển trung gian. Ví dụ:
mua một phần mềm quản lý văn phòng qua mạng, khi mua sách điện tử qua
mạng, tham gia khóa đào tạo trực tuyến, mua nhạc số, tải nhạc chuông (ring
back tone) Đây được gọi là thương mại điện tử trực tiếp. Thương mại điện

21
tử trực tiếp cho phép bất kỳ ai cũng có thể đặt mua qua mạng mà không cần
qua nhà phân phối, việc mua bán thực hiện trong môi trường "ảo", thời gian
thực hiện nhanh và không phụ thuộc vào thời gian và khoảng cách địa lý.
1.3.2. Phân loại thƣơng mại điện tử cung cấp dịch vụ nội dung số
Dựa trên yếu tố chủ thể tham gia vào giao dịch thương mại điện tử cung
cấp dịch vụ nội dung số có thể phân chia thành ba nhóm giao dịch chính sau đây:
- Cung cấp dịch vụ nội dung số trong khu vực kinh doanh (Business to
Business - B2B): đây là các giao dịch giữa các doanh nghiệp, các đơn vị kinh
doanh với nhau thông qua các phương tiện điện tử. Đặc thù của các giao dịch
cung cấp dịch vụ nội dung số trong khu vực này có giá trị rất cao, như cung

cấp giải pháp quản lý tổng thể cho công ty, cung cấp phần mềm quản lý tài
chính, quản lý nhân sự trong doanh nghiệp, cung cấp các phần mềm mở trong
quản lý kinh doanh Hiện nay khối lượng các sản phẩm nội dung số được
giao dịch trực tuyến trong khu vực này phát triển mạnh mẽ nhất. Lý do để các
doanh nghiệp lựa chọn phương thức giao dịch này không gì khác ngoài các
lợi ích mà thương mại điện tử đem lại được. Tính đến cuối năm 2006, có
khoảng 30 sàn giao dịch thương mại điện tử B2B của Việt Nam đang hoạt
động với số cơ hội kinh doanh và số lượng thành viên tương đối lớn. Khảo sát
ở các doanh nghiệp này cho thấy doanh nghiệp thương mại điện tử B2B trong
năm 2006 đa có những bước tiến bộ rõ rệt và thu được nhiều thành công trong
hoạt động. Bên cạnh việc cố gắng cải tiến website, thay đổi giao diện với các
hình ảnh đẹp hơn, tốc độ truy cập nhanh hơn, các ban quản lý sàn cũng đa chú
ý đến việc tuyên truyền đào tạo cho cộng đồng doanh nghiệp trong và ngoài
nước, nỗ lực nâng cao chất lượng phục vụ và thu hút được lượng thành viên
tham gia đông đảo hơn. Điểm đáng lưu ý đầu tiên khi khảo sát các sàn B2B là
các ban quản lý sàn đã có chiến lược kinh doanh rõ nét và đầu tư mạnh hơn
cho phát triển sàn cả về công nghệ như phần mềm, máy chủ, mạng cũng như
kinh doanh như nguồn lực, quảng bá, hỗ trợ thông tin, tư vấn. Ngoài đăng tải
cơ hội kinh doanh mua bán hàng hóa và dịch vụ, các sàn giao dịch đa cung

×