Tải bản đầy đủ (.pdf) (103 trang)

Pháp luật về quản lý ngoại hối của ngân hàng nhà nước Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (863.96 KB, 103 trang )

1

2


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT










NGUYỄN THỊ THÚY LINH







PHÁP LUẬT VỀ QUẢN LÝ NGOẠI HỐI
CỦA NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC VIỆT NAM







LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC












Hà Nội – 2011


3

4


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT









NGUYỄN THỊ THÚY LINH







PHÁP LUẬT VỀ QUẢN LÝ NGOẠI HỐI
CỦA NGÂN HÀNG NHÀ NƢỚC VIỆT NAM





Chuyên ngành : Luật Kinh tế
Mã số : 60 38 50




LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC






Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS LÊ THỊ THU THỦY



Hà Nội – 2011
MỤC LỤC
Trang

Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các chữ viết tắt
MỞ ĐẦU
Chƣơng 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ NGOẠI HỐI VÀ
QUẢN LÝ NGOẠI HỐI CỦA NGÂN HÀNG TRUNG ƢƠNG



1

5
1.1.
1.1.1.
1.1.2.
1.1.3.
1.2.
1.2.1.
1.2.2.
1.2.3.
1.3.


1.3.1.

1.3.2.
1.3.3.

1.4.
Một số vấn đề lý luận về ngoại hối
Khái niệm ngoại hối
Tỷ giá hối đoái
Thị trƣờng hối đoái
Tổng quan về quản lý ngoại hối của Ngân hàng Trung ƣơng
Khái niệm, đặc điểm quản lý ngoại hối của Ngân hàng Trung ƣơng
Mục tiêu quản lý ngoại hối của Ngân hàng Trung ƣơng
Vai trò quản lý ngoại hối của Ngân hàng Trung ƣơng
Kinh nghiệm quản lý ngoại hối của Ngân hàng Trung ƣơng một
số quốc gia trên thế giới
Kinh nghiệm quản lý ngoại hối của Ngân hàng Trung ƣơng
Trung Quốc
Kinh nghiệm quản lý ngoại hối của Ngân hàng Trung ƣơng Hàn Quốc
Bài học rút ra từ kinh nghiệm quản lý ngoại hối của Ngân hàng
Trung ƣơng Trung Quốc và Hàn Quốc
Pháp luật về quản lý ngoại hối của Ngân hàng Trung ƣơng
5
5
7
9
12
12
13
15


18

19
21

24
26

Chƣơng 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ QUẢN LÝ
NGOẠI HỐI CỦA NGÂN HÀNG NHÀ NƢỚC VIỆT NAM

30
2.1.

2.1.1.
2.1.2.
2.1.3.

2.2.
Khái quát lịch sử hình thành và phát triển pháp luật về quản lý
ngoại hối ở Việt Nam
Giai đoạn trƣớc đổi mới nền tiền tệ (trƣớc năm 1989)
Giai đoạn sau đổi mới nền tiền tệ (từ năm 1989 đến năm 2005)

Quy định của pháp luật hiện hành về quản lý ngoại hối (từ năm 2005
đến nay)

30
30

35

37


2.2.1.
2.2.2.
2.2.3.
2.2.4.
2.3.

2.3.1.
2.3.2.
Thực trạng hoạt động quản lý ngoại hối của Ngân hàng Nhà
nƣớc Việt Nam
Ban hành văn bản quy phạm pháp luật về quản lý ngoại hối
Cấp, thu hồi giấy phép hoạt động ngoại hối
Kiểm tra, thanh tra, xử lý vi phạm pháp luật về ngoại hối
Hoạt động quản lý ngoại hối khác
Đánh giá thực trạng pháp luật về quản lý ngoại hối của Ngân hàng
Nhà nƣớc Việt Nam trong thời gian qua
Những ƣu điểm
Những hạn chế và nguyên nhân của những hạn chế
41
41
44
49
53

55

55
61

Chƣơng 3: ĐỊNH HƢỚNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN
PHÁP LUẬT VỀ QUẢN LÝ NGOẠI HỐI CỦA NGÂN
HÀNG NHÀ NƢỚC VIỆT NAM


67
3.1.

3.1.1.

3.1.2.

3.1.3.

3.2.

3.2.1.

3.2.2.
Cơ sở của việc hoàn thiện pháp luật về quản lý ngoại hối của
Ngân hàng Nhà nƣớc Việt Nam
Chính sách, chủ trƣơng của Đảng và Nhà nƣớc về phát triển kinh
tế Việt Nam
Xuất phát từ yêu cầu của quá trình hội nhập quốc tế trong lĩnh
vực tài chính - ngân hàng
Những bất cập của pháp luật về quản lý ngoại hối của Ngân hàng
Nhà nƣớc Việt Nam

Định hƣớng và giải pháp hoàn thiện pháp luật về quản lý ngoại hối
của Ngân hàng Nhà nƣớc Việt Nam
Định hƣớng hoàn thiện pháp luật về quản lý ngoại hối của Ngân
hàng Nhà nƣớc Việt Nam
Giải pháp hoàn thiện pháp luật về quản lý ngoại hối của Ngân
hàng Nhà nƣớc Việt Nam.

67

67

68

71

72

72

76

KẾT LUẬN
TÀI LIỆU THAM KHẢO
93
97






DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

CSTT
Chính sách tiền tệ
NHNN
Ngân hàng Nhà nƣớc
NHTM
Ngân hàng Thƣơng mại
NHTW
Ngân hàng Trung ƣơng
QLNH
Quản lý ngoại hối
TCTD
Tổ chức tín dụng
VND
Việt Nam đồng



MỞ ĐẦU
1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Trong gần 20 năm qua, nền kinh tế Việt Nam đã trên bƣớc đƣờng mở
cửa và hội nhập kinh tế thế giới. Ngày 7/11/2006, đã diễn ra trọng thể lễ ký
Nghị định thƣ về việc Việt Nam chính thức gia nhập Tổ chức thƣơng mại thế
giới (WTO), Việt Nam đã chính thức đƣợc kết nạp trở thành thành viên của
WTO. Đất nƣớc đổi mới cùng với nhiều cơ chế chính sách thông thoáng và cơ
chế mới đã thu hút đầu tƣ nƣớc ngoài vào Việt Nam. Nhu cầu huy động ngoại
tệ cho xuất nhập khẩu ngày càng tăng do Việt Nam ngày càng hội nhập sâu
rộng vào nền kinh tế thế giới.
Trong thời gian qua, nhiều quy định về QLNH đã ra đời, tạo ra một môi

trƣờng pháp lý tƣơng đối đầy đủ cho công tác QLNH của NHNN và hoạt
động ngoại hối của các tổ chức, cá nhân. Một loạt chính sách liên quan đến
QLNH đã đƣợc triển khai để tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp và
cá nhân trong việc sử dụng ngoại hối, khuyến khích doanh nghiệp đầu tƣ ra
nƣớc ngoài và duy trì cân bằng cán cân thanh toán cũng nhƣ ổn định tỷ giá.
Trong thời gian tới, hạn chế về giao dịch tài khoản vốn sẽ dần đƣợc dỡ bỏ để
dọn đƣờng cho việc chuyển đổi hoàn toàn đồng Việt Nam.
Tuy nhiên, chính sách QLNH cũng đã bộc lộ nhiều bất cập so với tình
hình thực tiễn, công tác tổ chức triển khai thực hiện QLNH chƣa thực sự hiệu
quả. Sau 15 năm hoạt động, thị trƣờng ngoại hối của Việt Nam vẫn thuộc loại
kém phát triển, ngay cả khi so với các nƣớc trong khu vực, kể cả quy mô và
chiều sâu. Hiện tƣợng sử dụng ngoại tệ trong thanh toán khá phổ biến, khối
lƣợng ngoại tệ trôi nổi ngoài hệ thống ngân hàng chƣa đƣợc kiểm soát còn rất
lớn. Bên cạnh đó, hệ thống các văn bản về QLNH còn chƣa thống nhất, các
quy định về QLNH chƣa bao quát đƣợc toàn bộ những vấn đề cần quản lý và
không đảm bảo đƣợc tính thời sự, phù hợp với thực tiễn, nhiều quy định đã
trở nên bất cập, mâu thuẫn, gây khó khăn cho công tác QLNH của NHNN và
hoạt động ngoại hối của các tổ chức, cá nhân.
Trong bối cảnh các nền kinh tế trên thế giới ngày càng tham gia
mạnh mẽ vào thƣơng mại và đầu tƣ quốc tế, QLNH là một mảng chính sách
không thể thiếu đƣợc bởi hội nhập quốc tế đem lại nhiều cơ hội nhƣng
cũng đặt ra nhiều thách thức và luôn tiềm ẩn những rủi ro do những thay
đổi của môi trƣờng kinh tế thế giới. QLNH đƣợc xác định là một trong
những nhiệm vụ trọng tâm của NHNN trong việc hoạch định và thực thi
CSTT quốc gia. Trong giai đoạn hiện tại, QLNH lại càng mang tính chiến
lƣợc và thời sự cao. Ngày nay, vấn đề QLNH đã trở thành nỗi bức xúc
không chỉ đối với những ngƣời trực tiếp kinh doanh tiền tệ mà đã lan ra
nhiều chủ thể có hoạt động kinh doanh gắn liền với ngoại tệ. Vấn đề xây
dựng hành lang pháp lý an toàn và hiệu quả cho hoạt động QLNH là yêu
cầu đầu tiên và quan trọng nhất.

Cùng với những đòi hỏi khách quan trong xu thế toàn cầu hóa và hội
nhập kinh tế quốc tế, xây dựng và hoàn thiện pháp luật nói chung, pháp luật
về QLNH nói riêng có chất lƣợng tốt cả về nội dung và hình thức là một trong
những nhiệm vụ trọng tâm, một đòi hỏi cấp thiết, một tất yếu khách quan của
việc xây dựng Nhà nƣớc pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Nhận thức đƣợc tầm quan trọng của vấn đề, tôi đã lựa chọn đề tài
“PHÁP LUẬT VỀ QUẢN LÝ NGOẠI HỒI CỦA NGÂN HÀNG NHÀ NƢỚC
VIỆT NAM” làm luận văn thạc sĩ luật học.
2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
Đề tài thực hiện trên cơ sở nghiên cứu những vấn đề lý luận chung,
kinh nghiệm của một số nƣớc trong QLNH, thực trạng pháp luật về QLNH
của NHNN Việt Nam từ đó đề ra một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật về
QLNH của NHNN Việt Nam trong thời kỳ hội nhập kinh tế quốc tế. Mục tiêu
nghiên cứu cụ thể của đề tài nhƣ sau:
- Làm rõ cơ sở lý luận chung về ngoại hối và QLNH.
- Nghiên cứu kinh nghiệm của NHTW một số nƣớc về QLNH mà
NHNN Việt Nam có thể học hỏi để vận dụng.
- Hệ thống hoá các quy định về QLNH.
- Thực trạng hoạt động QLNH và pháp luật về QLNH của NHNN Việt
Nam.
- Đánh giá hệ thống văn bản pháp lý và những tồn tại trong QLNH.
- Đề ra định hƣớng và các giải pháp hoàn thiện pháp luật về QLNH của
NHNN Việt Nam.
3. ĐỐI TƢỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU
Trong phạm vi giới hạn nhất định, luận văn không nghiên cứu toàn bộ
các vấn đề liên quan đến QLNH mà chỉ tập trung nghiên cứu các quy định
pháp luật về QLNH ở Việt Nam, nghiên cứu tác động của các chính sách
pháp luật của Nhà nƣớc nói chung và của NHNN Việt Nam nói riêng tới hoạt
động QLNH, trong đó tập trung vào vai trò QLNH của NHNN Việt Nam, đặc
biệt là hoạt động ban hành văn bản quy phạm pháp luật phục vụ cho công tác

QLNH và tạo hành lang pháp lý phù hợp nhất cho hoạt động ngoại hối trên
lãnh thổ Việt Nam.
4. PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Luận văn đƣợc thực hiện trên cơ sở áp dụng phƣơng pháp luận của chủ
nghĩa duy vật biện chứng, đồng thời đặc biệt chú ý sử dụng các phƣơng pháp
nhƣ hệ thống hoá, so sánh, phân tích, đánh giá tổng hợp các quy định pháp
luật qua quá trình phát triển hoạt động QLNH của NHNN Việt Nam để làm
sáng tỏ những vấn đề nghiên cứu do đề tài đặt ra.
5. KẾT CẤU CỦA LUẬN VĂN
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
của luận văn gồm 3 chƣơng:
Chƣơng 1: Một số vấn đề lý luận về ngoại hối và QLNH của NHTW
Chƣơng 2: Thực trạng pháp luật về QLNH của NHNN Việt Nam
Chƣơng 3: Định hƣớng và giải pháp hoàn thiện pháp luật về QLNH của
NHNN Việt Nam

Chƣơng 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ NGOẠI HỐI
VÀ QUẢN LÝ NGOẠI HỐI CỦA NGÂN HÀNG TRUNG ƢƠNG
1.1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ NGOẠI HỐI
1.1.1. Khái niệm ngoại hối
Lịch sử phát triển nền sản xuất hàng hóa, từ sản xuất hàng hóa giản đơn
tới kinh tế thị trƣờng với công nghệ tiên tiến, hiện đại ngày nay đều gắn liền
với việc không ngừng mở rộng quan hệ trao đổi, mua bán hàng hóa, dịch vụ,
vốn, công nghệ,… không chỉ trong phạm vi lãnh thổ một quốc gia mà còn
vƣợt ra phạm vi quốc tế. Cùng với tiến trình phát triển kinh tế của mỗi dân
tộc, cộng đồng dân cƣ và mỗi nƣớc, nhu cầu trao đổi, buôn bán hàng hóa và
dịch vụ qua lại giữa họ ngày một tăng lên. Do vậy, đồng tiền của dân tộc,
cộng đồng dân cƣ và nƣớc này cũng đƣợc làm phƣơng tiện tích lũy và thanh
toán ở dân tộc, cộng đồng dân cƣ và các nƣớc khác khi có trao đổi, buôn bán

qua lại giữa họ với nhau. Việc trao đổi, mua bán hàng hóa, dịch vụ giữa các
quốc gia thời kỳ đầu thƣờng sử dụng một số kim khí quý làm phƣơng tiện
thanh toán quốc tế (vàng, bạc…), ngày nay, các quốc gia dùng nhiều hình
thức thanh toán mới phong phú, đa dạng, hiện đại làm phƣơng tiện thanh toán
quốc tế nhƣ vàng đạt tiêu chuẩn quốc tế, một số loại giấy tờ có giá trong
thanh toán quốc tế nhƣ trái phiếu Chính phủ, quyền rút vốn đặc biệt, séc, thẻ
thanh toán quốc tế…. Các phƣơng tiện thanh toán quốc tế này đƣợc gọi chung
là ngoại hối.
Trên những giác độ khác nhau, ngƣời ta hiểu ngoại hối không hoàn
toàn đồng nhất nhƣ nhau:
Trên giác độ kinh doanh ngoại hối, những ngƣời kinh doanh hiểu ngoại
hối là những phƣơng tiện thanh toán thể hiện dƣới dạng ngoại tệ, nó bao gồm:
hối phiếu, séc bằng ngoại tệ và số dƣ có trên tài khoản tại Ngân hàng nƣớc
ngoài (theo quan điểm của những nhà kinh doanh ngoại hối Đức). Điều đặc
biệt ở đây là ngoại tệ tiền mặt và các kim khí đá quý không đƣợc liệt vào danh
sách ngoại hối.
Trên giác độ hoạch định chính sách và quản lý, ngoại hối đƣợc hiểu là
toàn bộ các loại tiền nƣớc ngoài, các phƣơng tiện chi trả có giá trị bằng tiền
nƣớc ngoài, các chứng từ, chứng khoán có giá trị có khả năng mang lại ngoại
tệ nào đó và toàn bộ các kim khí, đá quý đều thuộc phạm vi ngoại hối cần
xem xét, quản lý. Theo đó, ngoại hối bao gồm:
+ Ngoại tệ tiền mặt, ngoại tệ trên tài khoản ở Ngân hàng nƣớc ngoài;
+ Các loại chứng từ có giá trị ngoại tệ nhƣ các loại cổ phiếu, trái phiếu;
+ Các loại kim khí quý, đá quý.
Nói gọn lại, ngoại hối là ngoại tệ, các chứng từ có giá trị ngoại tệ có
khả năng chuyển đổi ra ngoại tệ và các kim khí đá quý.
Ngày nay, pháp luật của các quốc gia thƣờng không đƣa ra một định
nghĩa có tính tổng quát về ngoại hối. Mặc dù vậy, các quốc gia đều thừa nhận
các loại tài sản, quyền tài sản đƣợc cộng đồng quốc tế chấp nhận làm phƣơng
tiện thanh toán quốc tế là ngoại hối. Trong thực tiễn thanh toán quốc tế, ngoại

hối là tài sản, quyền tài sản có các dấu hiệu sau:
Thứ nhất, tài sản, quyền tài sản có thể định giá và chuyển đổi thành tiền
nƣớc ngoài. Trƣờng hợp tài sản, quyền tài sản có thể định giá bằng tiền nƣớc
ngoài nhƣng không chuyển đổi đƣợc thành tiền nƣớc ngoài hoặc pháp luật
không cho phép thực hiện hành vi chuyển đổi cũng không có giá trị là ngoại hối.
Thứ hai, về công dụng, tài sản, quyền tài sản có giá trị bằng tiền nƣớc ngoài
có thể dùng làm phƣơng tiện thanh toán quốc tế mới đƣợc xem là ngoại hối.
Theo quy định tại Khoản 2 Điều 6 Luật NHNN Việt Nam năm 2010 và
Điều 4 Pháp lệnh Ngoại hối năm 2005, ngoại hối bao gồm:
a. Đồng tiền của quốc gia khác hoặc đồng tiền chung Châu Âu và đồng
tiền chung khác đƣợc sử dụng trong thanh toán quốc tế và khu vực (sau đây
gọi là ngoại tệ);
b. Phƣơng tiện thanh toán bằng ngoại tệ, gồm séc, thẻ thanh toán, hối
phiếu đòi nợ, hối phiếu nhận nợ và các phƣơng tiện thanh toán khác;
c. Các loại giấy tờ có giá bằng ngoại tệ, gồm trái phiếu Chính phủ, trái
phiếu công ty, kỳ phiếu, cổ phiếu và các loại giấy tờ có giá khác;
d. Vàng thuộc Dự trữ ngoại hối nhà nƣớc, trên tài khoản ở nƣớc ngoài
của ngƣời cƣ trú; vàng dƣới dạng khối, thỏi, hạt, miếng trong trƣờng hợp
mang vào và mang ra khỏi lãnh thổ Việt Nam;
đ. Đồng tiền của nƣớc Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong
trƣờng hợp chuyển vào và chuyển ra khỏi lãnh thổ Việt Nam hoặc đƣợc sử
dụng trong thanh toán quốc tế.
Nhƣ vậy, định nghĩa một cách đơn giản: ngoại hối là một thuật ngữ
dùng để chỉ các phƣơng tiện sử dụng trong giao dịch quốc tế, bao gồm: ngoại
tê, công cụ thanh toán bằng ngoại tệ, các loại chứng từ có giá bằng ngoại tệ,
vàng, đồng tiền quốc gia (bản tệ).
1.1.2. Tỷ giá hối đoái
Tỷ giá hối đoái là một nội dung quan trọng trong chính sách QLNH.
Theo quan điểm cổ điển, tỷ giá hối đoái là tỷ lệ so sánh ngang giá vàng giữa
hai đồng tiền của hai nƣớc, là hệ số chuyển đổi giữa đơn vị tiền tệ nƣớc này

sang đơn vị tiền tệ nƣớc khác. Theo quan điểm kinh tế hiện đại, tỷ giá hối
đoái là giá mà ngƣời ta phải trả khi mua hoặc nhận đƣợc khi bán một ngoại tệ;
trên thị trƣờng ngoại hối nó là giá cả của tiền tệ nƣớc này tính bằng đơn vị
tiền tệ nƣớc khác. Nếu trên quan hệ giữa ngoại tệ và nội tệ thì tỷ giá đƣợc
hiểu là giá của ngoại tệ đƣợc thể hiện bằng đồng nội tệ.
Về bản chất, tỷ giá hối đoái là một loại giá cả. Do đó, cũng giống nhƣ
các loại giá cả khác trong nền kinh tế, tỷ giá đƣợc xác định bởi quan hệ cung
cầu ngoại tệ trên thị trƣờng mà ở đó ngoại tệ đƣợc trao đổi, mua và bán, qua đó
tỷ giá hối đoái đƣợc xác định và thị trƣờng này đƣợc gọi là thị trƣờng hối đoái.
Theo quy định tại Khoản 5 Điều 6 Luật NHNN Việt Nam năm 2010:
“Tỷ giá hối đoái của đồng Việt Nam là giá của một đơn vị tiền tệ nƣớc ngoài
tính bằng đơn vị tiền tệ của Việt Nam”.
Tóm lại, tỷ giá hối đoái là quan hệ so sánh về giá trị giữa các đồng tiền,
nói cách khác, tỷ giá hối đoái là giá cả của một đồng tiền đƣợc biểu hiện
thông qua đồng tiến khác. Mà giá cả lại phụ thuộc vào thị trƣờng nên thƣờng
xuyên có sự biến động, sự biến động thái quá của tỷ giá hối đoái ảnh hƣởng
xấu đến sự phát triển kinh tế, bởi vậy, khi tỷ giá hối đoái biến động thái quá,
NHTW tiến hành can thiệp vào thị trƣờng ngoại tệ nội địa để bình ổn tỷ giá
hối đoái. Tỷ giá hối đoái đƣợc NHNN Việt Nam sử dụng làm công cụ để điều
hòa lƣu thông tiền tệ. Theo Luật NHNN, tỷ giá hối đoái đƣợc sử dụng làm
công cụ CSTT, NHNN sử dụng công cụ này để thực hiện mục tiêu của CSTT
và chính sách kinh tế vĩ mô.
Tỷ giá hối đoái là một phạm trù kinh tế quan trọng trong đời sống kinh
tế, xã hội của một nƣớc, là công cụ để đo lƣờng giá trị giữa các ngoại tệ, và
do vậy có tác động nhƣ một công cụ cạnh tranh trong thƣơng mại giữa các
nƣớc, ảnh hƣởng mạnh mẽ tới giá cả mọi hoạt động kinh tế, xã hội của nƣớc
đó và các nƣớc có liên quan. Nền kinh tế càng hƣớng ngoại bao nhiêu thì quy
mô và vị trí của nền kinh tế đó càng mở rộng và tăng trƣởng trong phân công
lao động quốc tế bấy nhiêu, và nhƣ vậy, vị trí của đồng tiền nƣớc đó, sức mua
của nó trong thƣơng mại quốc tế càng lớn bấy nhiêu, kết quả là tác động tỷ

giá của đồng tiền khác trong thƣơng mại và hoạt động kinh tế trong nƣớc
cũng nhƣ trên thế giới càng lớn bấy nhiêu.
Do đó, tỷ giá hối đoái là một công cụ quản lý vĩ mô hết sức quan
trọng. Chính phủ các nƣớc luôn luôn quan tâm tìm cách điều chỉnh tỷ giá,
can thiệp vào tỷ giá trên thị trƣờng hối đoái với ý đồ sử dụng nó làm công
cụ để quản lý, điều tiết những mất cân đối lớn trong hoạt động kinh tế
trong nƣớc cũng nhƣ những mất cân đối trong kinh tế đối ngoại. Đồng thời
tỷ giá hối đoái còn đƣợc xem nhƣ là tín hiệu của thực trạng mối quan hệ
kinh tế đối ngoại mà thông qua đó Chính phủ có thể đƣa ra những biện
pháp hoặc sử dụng những công cụ của chính sách kinh tế một cách phù
hợp, hữu hiệu để đáp ứng kịp thời nhu cầu phát triển kinh tế nói chung và
kinh tế đối ngoại nói riêng.
Xu thế hiện nay là nhiều nƣớc thực hiện theo chế độ tỷ giá linh hoạt có
quản lý. Đây là một chế độ hỗn hợp giữa tỷ giá cố định và tỷ giá linh hoạt. Với
chế độ này, tỷ giá đƣợc xác định theo cơ chế thị trƣờng và cho phép tỷ giá biến
động trong biên độ nhất định. Nếu vƣợt biên độ này, Chính phủ thông qua
CSTT để điều tiết nhằm giữ cho tỷ giá biến động trong phạm vi quy định.
1.1.3. Thị trƣờng hối đoái
Thị trƣờng hối đoái là nơi diễn ra các giao dịch trao đổi, mua bán, vay
mƣợn ngoại tệ, là nơi thông qua sự cọ xát giữa cung và cầu ngoại tệ để thỏa
mãn nhu cầu của các chủ thể kinh tế, đồng thời xác định các điều kiện giao
dịch, tức là giá cả và giao vốn.
Ngoại tệ là đối tƣợng đƣợc mua bán, trao đổi, giao dịch trên thị trƣờng
hối đoái, nó không giống nhƣ những thị trƣờng hàng hóa thông thƣờng và
cũng không giống thị trƣờng chứng khoán (giao dịch mua bán, chuyển
nhƣợng chứng khoán có giá), mà nó mang tính chất biểu tƣợng và đƣợc hiểu
nhƣ là một cơ chế hơn là một địa điểm. Mô hình chính của thị trƣờng hối đoái
là một hệ thống thông tin giữa những ngƣời tham gia.
Thị trƣờng hối đoái hiểu theo nghĩa rộng là thị trƣờng có tính chất quốc
tế, hoạt động không có giờ giấc nhất định, liên tục, không ngừng 24/24 giờ

trong ngày trên phạm vi toàn cầu, xuất phát từ Châu Á sang Châu Âu, đóng
cửa ở Châu Mỹ cũng đồng thời là mở cửa ở Châu Á. Với phạm vi toàn cầu và
thời gian hoạt động tối đa nhƣ vậy, thị trƣờng hối đoái là nơi phản ánh kịp
thời mọi diễn biến của tỷ giá, của lãi suất các loại tiền tệ trên thế giới. Trong
phạm vi một quốc gia, thị trƣờng hối đoái đƣợc xem nhƣ một dạng thị trƣờng
hối đoái liên ngân hàng. Nó là nơi giao dịch mua, bán, chuyển đổi các loại
ngoại tệ đƣợc chấp nhận ra bản tệ, hoặc giữa các loại ngoại tệ đƣợc hoán đổi
cho nhau trên cơ sở điều kiện đƣợc xác định (tức là giá cả và giao vốn). Một
trong những chức năng chính của thị trƣờng này là cho phép các tổ chức kinh
tế quản lý đƣợc rủi ro hối đoái do biến động rủi ro ngoại hối gây ra.
Dù là thị trƣờng hối đoái quốc tế hay là thị trƣờng hối đoái quốc gia,
những thành viên tham gia trực tiếp hay gián tiếp trên thị trƣờng đều là
NHTW, NHTM và ngƣời môi giới. Tùy theo luật định của mỗi nƣớc, cơ
cấu tổ chức và ngƣời tham gia vào thị trƣờng hối đoái đƣợc quy định cụ
thể. Tuy nhiên, dù tham gia trực tiếp hay gián tiếp, chức năng của các
NHTM là kinh doanh cho bản thân họ và cho khách hàng của họ. Những
ngƣời môi giới tham gia thị trƣờng hối đoái thuần túy thực hiện một chức
năng kinh doanh phục vụ khách hàng khi có yêu cầu. NHTW tham gia trên
thị trƣờng hối đoái nhằm một mặt phục vụ khách hàng của mình (chủ yếu
là các cơ quan hành chính Nhà nƣớc và các tổ chức tài chính tiền tệ quốc
tế), mặt khác nhằm phục vụ quỹ bình ổn hối đoái, theo dõi tỷ giá và trong
trƣờng hợp cần thiết sẽ can thiệp để hạn chế những biến động tỷ giá có thể
xảy ra giữa đồng bản tệ với ngoại tệ.
Mục đích các Chính phủ phải quản lý và điều tiết vĩ mô thị trƣờng hối
đoái, vì thông qua thị trƣờng hối đoái, quan hệ cung cầu về ngoại tệ, “giá cả”
của giao dịch tức là tỷ giá hối đoái, lãi suất của các ngoại tệ theo quan hệ
cung cầu và các yếu tố của thị trƣờng đƣợc thể hiện và xác định. Các Chính
phủ thông qua sự can thiệp vào thị trƣờng hối đoái để đảm bảo đồng tiền ổn
định theo định hƣớng đã lựa chọn. Chính phủ quản lý tỷ giá trên thị trƣờng
hối đoái là nhằm: (i) Làm dịu bớt các biến động tỷ giá theo mục tiêu dự kiến,

làm cho các chu kỳ kinh doanh bớt thay đổi đột ngột, có thể làm giảm bớt sự
lo lắng trong các thị trƣờng tài chính và loại bỏ các hoạt động đầu cơ, từ đó
ngăn chặn sự rơi tự do giá trị của đồng tiền nội tệ; (ii) Thiết lập các biên độ tỷ
giá hối đoái nhằm điều chỉnh hƣớng biến động của thị trƣờng. Các Chính phủ
nỗ lực duy trì tỷ giá hối đoái trong khoảng dao động của các biên độ chuẩn
(theo cách lựa chọn của mỗi nƣớc), bằng cách can thiệp khi cần thiết nếu thấy
có dấu hiệu tỷ giá lệch ra ngoài giới hạn biên độ dự kiến tùy thuộc vào tình
hình phát triển kinh tế xã hội của nƣớc đó; (iii) Ứng phó với các xáo trộn tạm
thời nhƣ có những biến động về giá cả một số hàng hóa tăng đột biến, thị
trƣờng chứng khoán có những xáo trộn bất lợi, giá cả cổ phiếu, trái phiếu có
những dấu hiệu không thuận.
Trên cơ sở đó, các Chính phủ thông qua NHTW thực hiện việc điều tiết
thị trƣờng hối đoái bằng cách mua bán ngoại tệ từ quỹ bình ổn hối đoái để tác
động lên tỷ giá, nhằm mục đích đạt đƣợc một tỷ giá phù hợp theo nhu cầu của
nền kinh tế. Thông qua NHTW, Chính phủ có thể can thiệp trực tiếp vào thị
trƣờng hối đoái bằng các phƣơng thức: Trực tiếp với các ngân hàng; thông
qua các nhà môi giới; thông qua các thị trƣờng giao dịch tƣơng lai; thông qua
các NHTW khác. Phƣơng thức can thiệp trực tiếp thƣờng thể hiện chủ yếu
bằng cách mua hay bán ngoại tệ trên thị trƣờng hối đoái nhằm gia tăng lƣợng
cầu của thị trƣờng đối với một đồng tiền khác.
1.2. TỔNG QUAN VỀ QUẢN LÝ NGOẠI HỐI CỦA NHTW
1.2.1. Khái niệm, đặc điểm quản lý ngoại hối của NHTW
Từ xƣa đến nay, việc QLNH luôn đƣợc các Chính phủ quan tâm đặc
biệt. Từ những chính sách kiểm soát ngặt nghèo đến giai đoạn nới lỏng, các
Chính phủ đều nhằm QLNH đƣợc tốt nhất, đem lại lợi ích cao nhất cho nền
kinh tế. Sự quan tâm của Chính phủ thể hiện ở việc đảm bảo lƣợng ngoại tệ
đủ lớn để cân bằng cung - cầu ngoại tệ trên thị trƣờng, tạo ra một tỷ giá hợp
lý, khuyến khích xuất khẩu, thu hút đƣợc lƣợng vốn nƣớc ngoài vào trong
nƣớc và thúc đẩy nền kinh tế tăng trƣởng nhanh.
Theo cách hiểu đơn giản, QLNH là một hệ thống các biện pháp mà Nhà

nƣớc sử dụng để kiểm soát các giao dịch bằng ngoại tệ và vàng. Hay nói cách
khác, QLNH là hệ thống kiểm soát luồng ngoại hối nhập vào hoặc chuyển ra
khỏi một đất nƣớc. Quản lý nhà nƣớc về ngoại hối thể hiện các nguyên tắc
điều chỉnh hoạt động ngoại hối để đạt tới mục tiêu cuối cùng là tạo lập thế cân
bằng ổn định cho cán cân thanh toán quốc tế. Trong quản lý kinh tế, các
Chính phủ thƣờng ban hành các chính sách nhằm khơi thông hoặc hạn chế
luồng ngoại hối nhằm thực hiện chính sách phát triển kinh tế của quốc gia
trong từng thời kỳ.
Quản lý nói chung gồm 5 yếu tố tạo thành là: kế hoạch, tổ chức, chỉ
đạo, điều chỉnh và kiểm soát (Fayel). Khái niệm QLNH đƣợc đề cập trong
luận văn này là khái niệm quản lý nhà nƣớc về ngoại hối và hoạt động ngoại
hối theo nghĩa rộng, bao gồm toàn bộ các hoạt động từ ban hành các văn bản
luật, các văn bản dƣới luật đến việc chỉ đạo trực tiếp hoạt động của đối tƣợng
bị quản lý và kiểm tra, xử lý các vi phạm. Nói cách khác, QLNH là một quá
trình từ việc xây dựng, ban hành các văn bản quy phạm pháp luật về QLNH;
tuyên truyền, phổ biến cơ chế, chính sách pháp luật về QLNH; tổ chức thực
hiện chiến lƣợc, cơ chế, chính sách về QLNH đến việc tổ chức bộ máy thực
hiện cũng nhƣ thanh tra, kiểm tra việc chấp hành pháp luật về QLNH.
Tóm lại, QLNH là việc nhà nƣớc áp dụng các chính sách, các biện pháp
tác động vào quá trình nhập, xuất ngoại hối (đặc biệt là ngoại tệ) và việc sử
dụng ngoại hối theo những mục tiêu nhất định.
Ở hầu hết các quốc gia trên thế giới, hoạt động QLNH đƣợc thực hiện
thông qua NHTW dựa trên một hệ thống các công cụ quản lý vĩ mô đối với
ngoại hối, bao gồm một chỉnh thể thống nhất của các quan điểm, chiến lƣợc,
giải pháp, phƣơng tiện cụ thể để hiện thực hoá các mục tiêu đã đặt ra. Ở Việt
Nam hiện nay, NHNN Việt Nam QLNH dựa trên hai loại công cụ chính là
công cụ pháp luật và công cụ hành chính. Đây là quá trình NHNN sử dụng
các công cụ quản lý tác động vào các đối tƣợng quản lý để định hƣớng và
điều chỉnh các hoạt động ngoại hối nhằm đạt tới mục đích quản lý đã đặt ra.
1.2.2. Mục tiêu quản lý ngoại hối của NHTW

QLNH đóng vai trò quan trọng trong quản lý nhà nƣớc đối với nền kinh
tế. Hoạt động QLNH nhằm đạt đƣợc các mục tiêu sau:
Thứ nhất, điều tiết tỷ giá, thực hiện CSTT quốc gia: NHTW thực hiện
các biện pháp nhằm thúc đẩy tập trung các nguồn ngoại hối (đặc biệt là
ngoại tệ) vào tay mình để thông qua đó Nhà nƣớc sử dụng một cách hợp lý,
có hiệu quả cho nhu cầu phát triển kinh tế và hoạt động đối ngoại. Đồng
thời, NHTW sử dụng chính sách ngoại hối nhƣ một công cụ hữu hiệu để
thực hiện CSTT, thông qua mua bán ngoại hối trên thị trƣờng để can thiệp
vào tỷ giá khi cần thiết nhằm ổn định giá trị đối ngoại của đồng tiền, tác
động vào lƣợng tiền cung ứng.
Thứ hai, bảo tồn Quỹ dự trữ ngoại hối: NHTW không chỉ bảo quản và
quản lý Quỹ dự trữ ngoại hối nhà nƣớc mà còn phải sử dụng để phục vụ cho
đầu tƣ phát triển kinh tế, đảm bảo an toàn, không bị ảnh hƣởng rủi ro về tỷ giá
ngoại tệ trên thị trƣờng quốc tế.
Thứ ba, cải thiện cán cân thanh toán quốc tế: Trong cả hai trƣờng hợp
cán cân thanh toán bội thu hoặc bội chi, nếu không có sự can thiệp của
NHTW, tỷ giá sẽ tăng, giảm theo nhu cầu ngoại hối trên thị trƣờng. Tuy
nhiên, ở nhiều nƣớc, NHTW đóng vai trò điều tiết tỷ giá để thực hiện mục
tiêu của chính sách kinh tế. Nếu NHTW muốn xác lập một tỷ giá ổn định,
nghĩa là giữ cho tỷ giá không tăng, không giảm thì NHTW hoặc là mua vào
số ngoại tệ từ nƣớc ngoài chuyển vào trong nƣớc làm cho Quỹ dự trữ ngoại
hối sẽ tăng lên tƣơng ứng, hoặc NHTW sẽ bán ngoại tệ ra để đáp ứng nhu cầu
của thị trƣờng khi có luồng ngoại tệ chảy ra nƣớc ngoài, quỹ dự trữ ngoại hối
giảm xuống tƣơng ứng.
Thứ tư, đảm bảo tính thanh khoản ngoại hối: Nghĩa là đảm bảo khả năng
thanh toán quốc tế của Quỹ dự trữ ngoại hối nhà nƣớc. Muốn đảm bảo tính
thanh khoản ngoại hối đòi hỏi NHNN phải tích lũy một lƣợng dự trữ ngoại hối
đủ (hay còn gọi là mức dự trữ an toàn) và đòi hỏi đó phải là những tài sản có
tính thanh khoản cao và NHNN có thể sử dụng bất cứ lúc nào. Do vậy, trong
công tác quản lý dự trữ ngoại hối, NHNN cần phải xác định mức dự trữ quốc tế

phù hợp trên cả tiêu chí tính theo tuần nhập khẩu và tính bằng tỷ lệ giữa dự trữ
ngoại hối nhà nƣớc trên nợ nƣớc ngoài ngắn hạn; đồng thời, cơ cấu đầu tƣ dự
trữ ngoại hối nhà nƣớc cần đƣợc đánh giá dựa trên cơ cấu các đồng tiền sử
dụng trong thanh toán quốc tế, đảm bảo độ thanh khoản cao của các tài sản.
Thứ năm, phối hợp với việc điều hành CSTT và quản lý dự trữ ngoại
hối để đảm bảo mục tiêu về lạm phát: Trong trƣờng hợp NHNN can thiệp trên
thị trƣờng ngoại hối với vai trò là ngƣời bán ngoại tệ, đồng nghĩa với việc hút
tiền về do vậy mục tiêu kiểm soát lạm phát có khả năng đạt đƣợc. Tuy nhiên,
mặc dù việc bán ngoại tệ sẽ góp phần làm đồng Việt Nam lên giá có ảnh
hƣởng tốt tới việc kiểm soát lạm phát song lại ảnh hƣởng tới hoạt động xuất
khẩu bởi khi VND lên giá, sức cạnh tranh của hàng hóa Việt Nam yếu đi. Do
vậy, khi điều hành CSTT theo mục tiêu lạm phát, việc QLNH luôn luôn phải
hỗ trợ mục tiêu này và phải đánh đổi với việc đạt đƣợc các mục tiêu khác nhƣ
tăng Dự trữ ngoại hối nhà nƣớc và đảm bảo tỷ giá có lợi cho xuất khẩu.
Mục tiêu của chính sách QLNH hiện hành của NHNN Việt Nam là
nhằm góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế, thực thi các mục tiêu của CSTT
quốc gia, nâng cao tính chuyển đổi của đồng Việt Nam, thực hiện mục tiêu
trên lãnh thổ Việt Nam chỉ sử dụng đồng Việt Nam, thực hiện các cam kết của
Việt Nam trong lộ trình hội nhập kinh tế quốc tế, tăng cƣờng hiệu lực quản lý
nhà nƣớc về ngoại hối. Trong đó, mục tiêu quan trọng và ƣu tiên hàng đầu của
QLNH trong giai đoạn hiện nay là tiến tới trên lãnh thổ Việt Nam chỉ sử dụng
đồng Việt Nam. Mục tiêu này thể hiện chủ trƣơng nhất quán bảo vệ chủ
quyền về tiền tệ, đảm bảo hiệu quả của CSTT.
1.2.3. Vai trò quản lý ngoại hối của NHTW
Mục tiêu cao nhất của QLNH là phục vụ cho CSTT. Chính sách QLNH
có vai trò rất quan trọng trong hoạt động hoạch định và điều hành CSTT của
NHTW. Bởi vậy, ngoại hối phải đƣợc nắm giữ tập trung và quản lý bởi cơ
quan tiền tệ mà ở hầu hết các nƣớc là NHTW. Nếu NHTW không phải là cơ
quan trực tiếp QLNH thì sẽ làm giảm rất lớn vai trò của NHTW trong việc
thực thi CSTT.

NHTW (Central Bank) là thể chế tài chính đặc biệt của một quốc gia.
Với vai trò điều tiết vĩ mô lĩnh vực tiền tệ ngân hàng, NHTW trở thành trung
tâm thần kinh của toàn bộ nền kinh tế, hoạt động của NHTW có ảnh hƣởng và
tác động mạnh mẽ nhất đến sự phát triển của nền kinh tế. NHTW là mắt xích
quan trọng trong quá trình quản lý vĩ mô nền kinh tế - tiền tệ của đất nƣớc. Là
bộ máy chuyên quản của hoạt động QLNH, NHTW có nhiệm vụ trọng yếu là
hoạch định, điều hành, quản lý và giám sát chính sách tỷ giá, chính sách
QLNH nhằm đạt đƣợc các mục tiêu chủ yếu của nền kinh tế nhƣ tăng trƣởng
kinh tế, ổn định tiền tệ, ổn định thị trƣờng, giá cả, tạo việc làm cho ngƣời lao
động, góp phần ổn định cuộc sống và trật tự xã hội. Thông qua hoạt động
QLNH, NHTW cung cấp một cách tốt nhất các điều kiện tiền tệ (mà cụ thể là
ngoại hối) cho nền kinh tế, hay nói cách khác là tăng tính hiệu quả trong việc
cung cấp các dịch vụ tiền tệ trên cả phƣơng diện vĩ mô và vi mô.
NHTW can thiệp vào thị trƣờng ngoại hối để đạt các mục đích vĩ mô
nhƣ kiềm chế lạm phát và ổn định thị trƣờng đồng thời theo đuổi các mục
đích trực tiếp nhƣ tác động tỷ giá, giảm thiểu biến động tỷ giá, tạo thanh
khoản cho thị trƣờng và tác động dự trữ ngoại hối. Tại các nƣớc đang phát
triển hay mới nổi, NHTW can thiệp vào thị trƣờng ngoại hối để hỗ trợ giá
đồng nội tệ gắn liền với một hay nhiều ngoại tệ khác. Trong nhiều trƣờng
hợp, NHTW xác định tỷ giá chính thức và dùng các biện pháp hành chính để
bảo đảm tỷ giá cố định. Trong những trƣờng hợp khác, NHTW giao dịch tích
cực trên thị trƣờng ngoại hối để đƣa tỷ giá về mức mong muốn. Trong những
trƣờng hợp này, NHTW bán ra hay mua vào những lƣợng ngoại hối rất lớn
với mục đích điều chỉnh tỷ giá thị trƣờng theo hƣớng của NHTW. NHTW
đóng vai trò dẫn dắt thị trƣờng và đi trƣớc thị trƣờng.
NHTW quản lý thị trƣờng ngoại hối, thị trƣờng ngoại tệ liên ngân hàng
bằng cách đƣa ra quy chế thành viên gia nhập, quy chế hoạt động, quy định
giới hạn tỷ lệ mua bán ngoại tệ trên thị trƣờng. Đồng thời tham gia xây dựng
các dự án pháp luật, các văn bản hƣớng dẫn thi hành pháp luật QLNH. NHNN
là ngƣời cấp giấy phép và thu hồi giấy phép hoạt động ngoại hối, tùy vào

pháp luật và điều kiện trong thời gian cụ thể; kiểm tra, giám sát việc xuất
nhập khẩu ngoại hối, kiểm soát hoạt động ngoại hối của các TCTD. Ngoài ra,
NHNN thực hiện các quyền hạn, nghĩa vụ khác về QLNH, biên lập cán cân
thanh toán để thƣờng xuyên nắm đƣợc Dự trữ ngoại hối để xử lý trong điều
kiện cần thiết nhằm bảo tồn và phát triển nó.
Theo quy định của pháp luật QLNH, vai trò QLNH của NHNN Việt
Nam thể hiện ở nhiệm vụ và quyền hạn của NHNN: “Quản lý nhà nƣớc về
ngoại hối, hoạt động ngoại hối và hoạt động kinh doanh vàng” (Khoản 17,
Điều 4 Luật NHNN Việt Nam năm 2010).
Cụ thể là (Điều 31 Luật NHNN Việt Nam năm 2010):
“1. QLNH và sử dụng ngoại hối trên lãnh thổ Việt Nam theo quy định
của pháp luật.
2. Tổ chức và phát triển thị trƣờng ngoại tệ.
3. Cấp, thu hồi giấy phép hoạt động ngoại hối cho TCTD, các tổ chức
khác có hoạt động ngoại hối.
4. Trình Thủ tƣớng Chính phủ quyết định biện pháp hạn chế giao dịch
ngoại hối để bảo đảm an ninh tài chính, tiền tệ quốc gia.
5. Tổ chức, quản lý, tham gia thị trƣờng ngoại tệ liên ngân hàng.
6. Nhiệm vụ, quyền hạn khác về QLNH và hoạt động ngoại hối theo
quy định của pháp luật.”
Và, NHNN quản lý Dự trữ ngoại hối nhà nƣớc theo quy định của pháp
luật về ngoại hối nhằm thực hiện CSTT quốc gia, bảo đảm khả năng thanh
toán quốc tế và bảo toàn Dự trữ ngoại hối nhà nƣớc (Khoản 2 Điều 32 Luật
NHNN Việt Nam năm 2010). NHNN thực hiện việc mua, bán ngoại hối trên
thị trƣờng trong nƣớc vì mục tiêu CSTT quốc gia; mua, bán ngoại hối trên thị
trƣờng quốc tế và thực hiện giao dịch ngoại hối khác theo quy định của Thủ
tƣớng Chính phủ (Điều 33 Luật NHNN Việt Nam năm 2010).
NHNN là cơ quan chịu trách nhiệm quản lý, điều hành, giám sát hoạt
động ngoại hối, thực hiện chức năng QLNH với vai trò là NHTW của Nƣớc
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. NHNN đƣợc độc lập tƣơng đối trong

việc đƣa ra các quyết định quản lý và điều hành hoạt động ngoại hối. Chính
phủ và Quốc hội chỉ đƣa ra những định hƣớng, mục tiêu lớn, tạo ra một khuôn
khổ pháp lý đầy đủ cho hoạt động QLNH của NHNN.
Để thực hiện nhiệm vụ, chức năng của mình, NHNN sử dụng một hệ
thống các công cụ quản lý vĩ mô đối với ngoại hối bao gồm các chiến lƣợc,
giải pháp, phƣơng tiện cụ thể với vai trò là những biện pháp điều tiết đƣợc
tiến hành thông qua các công cụ quản lý kinh tế vĩ mô.
1.3. KINH NGHIỆM QUẢN LÝ NGOẠI HỐI CỦA NGÂN HÀNG
TRUNG ƢƠNG MỘT SỐ QUỐC GIA TRÊN THẾ GIỚI
doanh nghiệp, bƣớc đầu đã tạo ra đƣợc một hành lang pháp lý quan
trọng phù hợp với đặc điểm nền kinh tế nƣớc ta. Tuy nhiên, một số vấn đề vẫn
đang là những trở ngại thách thức trƣớc mắt về cơ chế QLNH, đặc biệt là vấn
đề xác định mức tỷ giá hợp lý trong từng giai đoạn và sự ổn định tỷ giá trong
những năm tới để hƣớng tới mục tiêu xóa bỏ tình trạng đô la hóa trong nền
kinh tế. Để có những thay đổi chính sách phù hợp trong việc QLNH nhằm
thực hiện các mục tiêu quốc gia, điều quan trọng là cần tham khảo kinh
nghiệm của các nƣớc, đặc biệt là các nƣớc trong khu vực. Một trong những
nƣớc trong khu vực có chính sách QLNH nhìn chung hiệu quả là Trung Quốc
và QLNH là một trong những nhiệm vụ trọng tâm của NHTW ở mọi quốc gia
trên thế giới. Chính sách QLNH là chính sách quan trọng nằm trong CSTT
nói chung và nó có vai trò đặc biệt quan trọng ở những nƣớc với nền kinh tế
thị trƣờng. Trong điều kiện các quan hệ kinh tế quốc tế phát triển với những
chu chuyển vốn quốc tế lớn nhƣ hiện nay, mỗi một nƣớc đều có những chính
sách QLNH riêng phù hợp với đặc điểm kinh tế của nƣớc mình với mục tiêu
phục vụ cho tăng trƣởng kinh tế. Chính sách QLNH có tác động trực tiếp tới
mỗi cá nhân, doanh nghiệp và nền kinh tế quốc gia trong điều kiện nền kinh tế
mở. Ở Việt Nam, trong những năm qua, chính sách QLNH mặc dù đã có
nhiều thay đổi theo chiều hƣớng tốt, tạo điều kiện thuận lợi đối với các doanh
nghiệp xuất nhập khẩu, các doanh nghiệp có vốn đầu tƣ nƣớc ngoài, cải thiện
môi trƣờng đầu tƣ, có tác động kích thích xuất khẩu, hạn chế nhập khẩu và ổn

định nền kinh tế, hạn chế tình trạng mất ổn định về tỷ giá, giảm bớt sự căng
thẳng về ngoại tệ để thanh toán cho các Hàn Quốc.
1.3.1. Kinh nghiệm QLNH của NHTW Trung Quốc
Nền kinh tế Trung quốc đạt mức tăng trƣởng cao trong một thời gian dài,
xuất khẩu tăng mạnh, chiếm đến 70% GDP, hàng hoá Trung Quốc chiếm lĩnh
thị trƣờng trên khắp thế giới. Vì vậy, Trung Quốc là một trong những quốc gia
có dự trữ ngoại tệ lớn nhất thế giới, dƣ thừa về ngoại hối, dự trữ ngoại tệ tăng
rất nhanh, đồng Nhân dân tệ liên tục chịu sức ép tăng giá trị. Cán cân thanh
toán của Trung Quốc đạt thặng dƣ trên cả tài khoản vãng lai và tài khoản vốn.
Về chính sách QLNH chung của Trung Quốc: Trung Quốc đang trong
quá trình chuyển đổi và điều chỉnh lại chiến lƣợc nhằm cân bằng cán cân
thanh toán quốc tế nhƣ thay đổi cơ cấu và đẩy mạnh chất lƣợng hàng hoá xuất
khẩu. Đồng thời, Trung Quốc cũng đang chú trọng và tập trung nhiều hơn nữa
vào phục vụ nhu cầu tiêu dùng trong nƣớc. Năm 2006, Trung Quốc đã chuyển
hƣớng từ chế độ quản lý chặt chẽ sang chế độ quản lý thông thoáng hơn để
đảm bảo phù hợp với tình hình mới.
Về chính sách QLNH đối với giao dịch vãng lai: Từ tháng 12/1996,
Trung Quốc chính thức tuyên bố thực hiện các cam kết theo quy định tại Điều
VIII, Điều lệ Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF) về tự do hóa giao dịch vãng lai và
thực hiện chuyển đổi hoàn toàn đồng Nhân dân tệ đối với giao dịch vãng lai.
Tuy nhiên, trên thực tế, Trung Quốc vẫn áp dụng các quy định quản lý kiểm
soát khá chặt chẽ nhƣ kết hối nguồn thu vãng lai, đăng ký mở tài khoản vãng
lai bằng ngoại tệ của tổ chức, đối chiếu các giao dịch thanh toán với giao dịch
xuất, nhập khẩu hàng hoá dịch vụ, xác nhận hoàn thuế xuất nhập khẩu, cấp
giấy phép mua, chuyển, mang ngoại tệ ra nƣớc ngoài cho cá nhân… Những
năm gần đây, do thặng dƣ trong cán cân thanh toán vãng lai của Trung Quốc
ngày càng cao và yêu cầu giảm bớt các thủ tục hành chính quản lý, Trung
Quốc đang từng bƣớc nới lỏng cơ chế kiểm soát các giao dịch thanh toán
vãng lai để phù hợp với tình hình mới.
Về chính sách QLNH đối với giao dịch vốn: Hiện nay, Cục quản lý

ngoại hối Trung Quốc (SAFE) có một bộ phận riêng chuyên quản lý các giao
dịch đối với tài khoản vốn và việc quản lý đƣợc thực hiện rất chặt chẽ, có sự
phối hợp tốt, kịp thời giữa các Bộ, Ngành liên quan nhƣ Bộ Thƣơng mại, Cục
Hải quan, NHTM và SAFE. Về nguyên tắc, Trung Quốc xác định việc tự do
giao dịch vốn là một chiến lƣợc lâu dài và vì vậy các quy định điều chỉnh giao
dịch vốn hiện nay còn rất chặt chẽ và thận trọng; tuy nhiên, việc quản lý tài
khoản vốn cũng đang đƣợc xem xét nới lỏng quản lý để tạo môi trƣờng thuận
lợi hơn cho các doanh nghiệp trong và ngoài nƣớc nhằm phù hợp với yêu cầu
hội nhập.
Về chính sách QLNH đối với tỷ giá: Ngày 04/01/2006, Trung Quốc đã
bắt đầu áp dụng cơ chế tỷ giá mới, theo đó tỷ giá sẽ đƣợc xác định trên cơ sở
bình quân gia quyền của các tỷ giá do các ngân hàng chủ chốt đƣa ra vào giờ
mở cửa làm việc.
Về chính sách QLNH đối với việc sử dụng ngoại tệ ở trong nƣớc: Bắt
đầu từ năm 1995, Trung Quốc thực hiện chính sách trên lãnh thổ Trung Quốc
chỉ lƣu hành đồng Nhân dân tệ; nghiêm cấm việc các tổ chức, cá nhân đƣợc
thanh toán, mua bán, chuyển nhƣợng cho nhau bằng ngoại tệ, trừ các trƣờng
hợp đặc biệt đƣợc SAFE cho phép. Tuy nhiên, trên thực tế, Trung Quốc cũng
chƣa hạn chế đƣợc hoàn toàn tình trạng sử dụng và thanh toán ngoại tệ tiền
mặt trên lãnh thổ Trung Quốc.
Nhìn chung, Trung Quốc vẫn đang duy trì một chính sách QLNH
chặt chẽ với giao dịch vãng lai, giao dịch vốn, sử dụng ngoại tệ ở trong
nƣớc và đặc biệt nhấn mạnh vào chế độ kiểm tra, xử lý vi phạm một cách
nghiêm khắc. Bên cạnh hiệu quả kiểm soát đạt đƣợc, chính sách này cũng
đã gây ra một số hạn chế, phức tạp nhất định cho các doanh nghiệp và
Trung Quốc cũng nhận thấy yêu cầu cần phải cải cách để phù hợp với tình
hình hội nhập kinh tế. Thời gian gần đây, Trung Quốc mới cải cách thị
trƣờng ngoại tệ bằng việc đƣa ra các cơ chế tỷ giá linh hoạt hơn, đƣa ra các
công cụ kỳ hạn, phái sinh vào giao dịch và tăng cƣờng tổ chức phát triển
thị trƣờng.

1.3.2. Kinh nghiệm quản lý ngoại hối của NHTW Hàn Quốc
Hệ thống QLNH ở Hàn Quốc đƣợc thực hiện dựa trên cơ sở của 3 bộ
luật có liên quan đến ngoại hối đó là: Luật QLNH, Luật Thƣơng mại quốc
tế và Luật Khuyến khích đầu tƣ nƣớc ngoài. Các bộ luật này quy định
những nguyên tắc cơ bản để có thể áp dụng linh hoạt cho phù hợp với tình

×