Tải bản đầy đủ (.pdf) (105 trang)

Hoàn thiện pháp luật thuế giá trị giá tăng ở việt Nam trong giai đoạn hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.08 MB, 105 trang )


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT




NGUYỄN KIM THÁI LINH






HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT THUẾ GIÁ TRỊ GIA TĂNG
Ở VIỆT NAM TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY





LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC










HÀ NỘI - 2010



ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT



NGUYỄN KIM THÁI LINH





HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT THUẾ GIÁ TRỊ GIA TĂNG
Ở VIỆT NAM TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY

Chuyên ngành : Luật kinh tế
Mã số : 60 38 50


LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC




Người hướng dẫn khoa học: TS. Võ Đình Toàn






HÀ NỘI - 2010

MỤC LỤC



Trang

Trang phụ bìa


Lời cam đoan


Mục lục


Danh mục các từ viết tắt


MỞ ĐẦU
1

Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ PHÁP LUẬT
THUẾ GIÁ TRỊ GIA TĂNG
4
1.1.

Khái niệm, đặc điểm của thuế giá trị gia tăng
4
1.1.1.
Khái niệm thuế giá trị gia tăng
4
1.1.2.
Đặc điểm của thuế giá trị gia tăng
7
1.2.
Những vấn đề lý luận chung về pháp luật thuế giá trị gia tăng
12
1.2.1.
Khái niệm pháp luật thuế giá trị gia tăng
12
1.2.2.
Những nội dung chủ yếu của pháp luật thuế giá trị gia tăng
15
1.2.2.1.
Đối tượng chịu thuế giá trị gia tăng và sự kiện pháp lý làm
phát sinh nghĩa vụ thuế giá trị gia tăng
15
1.2.2.2.
Thời điểm phát sinh của nghĩa vụ thuế giá trị gia tăng
17
1.2.2.3.
Phạm vi, mức độ nghĩa vụ thuế giá trị gia tăng
23

Chương 2: PHÁP LUẬT THUẾ GIÁ TRỊ GIA TĂNG VÀ THỰC
TRẠNG PHÁP LUẬT THUẾ GIÁ TRỊ GIA TĂNG Ở

VIỆT NAM
35
2.1.
quá trình xây dựng và thực hiện pháp luật thuế giá trị gia
tăng ở Việt Nam
35
2.2.
Cơ cấu nguồn pháp luật điều chỉnh quan hệ thu nộp thuế
giá trị gia tăng ở Việt Nam
40
2.3.
Thực trạng pháp luật thuế giá trị gia tăng ở Việt Nam
42
2.3.1.
Đánh giá chung
42
2.3.2.
Nội dung và những vấn đề đặt ra đối với pháp luật thuế giá
trị gia tăng ở nước ta hiện nay
46
2.3.2.1.
Phạm vi áp dụng thuế giá trị gia tăng
46
2.3.2.2.
Căn cứ tính thuế và phương pháp tính thuế
53
2.3.2.3.
Khấu trừ thuế giá trị gia tăng
61
2.3.2.4.

Hoàn thuế
65
2.3.2.5.
Đăng ký, kê khai, nộp thuế, quyết toán thuế giá trị gia tăng
67

Chương 3: NGUYÊN TẮC, PHƯƠNG HƯỚNG VÀ CÁC GIẢI PHÁP
HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT THUẾ GIÁ TRỊ GIA TĂNG
68
3.1.
Nguyên tắc và phương hướng hoàn thiện pháp luật thuế giá
trị gia tăng
68
3.1.1.
Nguyên tắc hoàn thiện
68
3.1.2.
Phương hướng hoàn thiện
71
3.2.
Các giải pháp hoàn thiện pháp luật thuế giá trị gia tăng và
một số kiến nghị sửa đổi, bổ sung luật thuế giá trị gia tăng
73
3.2.1.
Sửa đổi bổ sung một số qui định về phạm vi điều chỉnh của
pháp luật thuế giá trị gia tăng
73
3.2.2.
Qui định ngưỡng doanh thu chịu thuế giá trị gia tăng
75

3.2.3.
Bổ sung một số qui định về phạm vi lãnh thổ của nghĩa vụ
thuế giá trị gia tăng
80
3.2.4.
Hoàn thiện các qui định về căn cứ tính thuế và phương
pháp tính thuế
82
3.2.4.1.
Về thuế suất
82
3.2.4.2.
Về phương pháp tính thuế
84
3.2.5.
Bỏ một số quy định về các trường hợp được hoàn thuế
84
3.2.6.
Bổ sung điều luật về giải thích từ ngữ
85
3.2.7.
Bỏ quy định không cho khấu trừ thuế giá trị gia tăng đối
với các hóa đơn, chứng từ kê khai quá thời hạn sáu tháng
87
3.2.8.
Sử dụng đúng nghĩa của từ để tránh tình trạng áp dụng pháp
luật tùy tiện
87
3.2.9
Bổ sung quy định cho phép khấu trừ, hoàn thuế giá trị gia

tăng đối với các hóa đơn phát sinh trước thời điểm doanh nghiệp
liên doanh được cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh
88
3.2.10.
Bổ sung quy định về thời điểm xác định thuế giá trị gia
tăng vào Luật Thuế giá trị gia tăng
89

KẾT LUẬN
99

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
91

PHỤ LỤC
95




DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

GTGT
: Giá trị gia tăng
NSNN
: Ngân sách nhà nước
TNHH
: Trách nhiệm hữu hạn



1
MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Luật Thuế giá trị gia tăng (GTGT) của Việt Nam được thông qua ngày
10/5/1997 tại kỳ họp thứ 11 Quốc hội khóa IX và có hiệu lực thi hành từ ngày
1/1/1999. Việc ban hành Luật Thuế GTGT để thay thế cho Luật Thuế doanh
thu theo chương trình cải cách thuế bước II đã được Bộ Chính trị, Quốc hội
và Chính phủ thông qua. Trong quá trình triển khai thực hiện, Luật Thuế
GTGT được sửa đổi, bổ sung nhiều lần nhằm tháo gỡ kịp thời những vướng
mắc phát sinh, phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội của Việt Nam.
Qua hơn 10 năm thực hiện, Luật Thuế GTGT đã góp phần tích cực
vào việc thúc đẩy sản xuất trong nước; khuyến khích đầu tư, xuất khẩu; hỗ trợ
chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa; bảo
đảm nguồn thu cho ngân sách nhà nước (NSNN) và cơ bản đáp ứng được các
yêu cầu đặt ra trong quá trình phát triển kinh tế. Tuy nhiên, mặc dù mới được
ban hành thay thế, Luật Thuế GTGT hiện hành vẫn còn bộc lộ một số vấn đề
cần phải xem xét để tiếp tục hoàn thiện như vấn đề về đối tượng chịu thuế
GTGT, thuế suất thuế GTGT, khấu trừ, hoàn thuế GTGT…
Trong bối cảnh nền kinh tế đang tiếp tục chuyển đổi mạnh mẽ, hội
nhập ngày càng sâu hơn, rộng hơn, với vai trò là một sắc thuế có ảnh hưởng
đến nhiều mặt kinh tế - xã hội của đất nước, vấn đề hoàn thiện thuế GTGT,
trong đó có vấn đề hoàn thiện dưới góc độ pháp lý luôn là một nhiệm vụ cần
phải thực hiện nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển nền kinh tế thị trường trong
thời kỳ hội nhập, góp phần thúc đẩy sản xuất kinh doanh phát triển theo
hướng lành mạnh, bền vững.
Vì vậy, tác giả đã lựa chọn đề tài "Hoàn thiện pháp luật thuế giá trị
gia tăng ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay" để làm luận văn thạc sĩ với

2

mong muốn đóng góp một phần vào việc xây dựng một sắc thuế GTGT tiên
tiến, công bằng và hiệu quả.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Việc áp dụng thuế GTGT ở Việt Nam được coi là một trong những
thay đổi cơ bản của chế độ thuế ở Việt Nam. Do đó, từ khi ra đời đến nay, đã
có nhiều công trình nghiên cứu, trao đổi về thuế GTGT và pháp luật thuế
GTGT ở các góc độ khác nhau. Dưới góc độ khoa học pháp lý, một số luận
án, luận văn đã cho thấy các chuyên gia pháp lý dành nhiều thời gian cũng
như trí tuệ cho mảng khoa học pháp lý này, như luận án tiến sĩ của Nguyễn
Thị Thương Huyền: "Những vấn đề pháp lý về việc áp dụng thuế giá trị gia
tăng ở Việt Nam", năm 2002; luận văn thạc sĩ của Trần Thị Minh Hiền: "Pháp
luật về thuế giá trị gia tăng ở Việt Nam, thực trạng và giải pháp", năm 2006.
3. Mục đích nghiên cứu và nhiệm vụ của luận văn
Luận văn hướng tới mục đích làm sáng tỏ những vấn đề lý luận chung
về pháp luật thuế GTGT, đưa ra những phương hướng, giải pháp hoàn thiện
pháp luật về thuế GTGT nhằm nâng cao tính hiệu lực và hiệu quả của việc áp
dụng thuế GTGT ở Việt Nam.
Xuất phát từ mục đích đó, nhiệm vụ khoa học của luận văn là:
- Trên cơ sở lí luận về thuế GTGT, làm rõ một số vấn đề lí luận cơ bản
về pháp luật thuế GTGT để làm cơ sở cho việc đánh giá thực trạng pháp luật
thuế GTGT ở Việt Nam và đề xuất phương hướng hoàn thiện.
- Làm rõ những yêu cầu hoàn thiện pháp luật thuế GTGT hiện hành,
đưa ra những phương hướng, giải pháp và một số kiến nghị cụ thể nhằm tiếp
tục hoàn thiện pháp luật thuế GTGT ở Việt Nam.
4. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu
Luận văn được thực hiện trên cơ sở phép biện chứng duy vật và những
quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về lý luận điều

3
chỉnh pháp luật kết hợp với sự vận dụng của những quan điểm cơ bản của

Đảng và Nhà nước về đổi mới kinh tế, quản lý nhà nước về kinh tế, hoàn
thiện hệ thống pháp luật kinh tế theo hướng chủ động hội nhập kinh tế khu
vực và thế giới mà cụ thể là quan điểm cải cách hệ thống thuế và pháp luật về
thuế. Đồng thời, luận văn sử dụng các phương pháp tư duy trừu tượng,
phương pháp phân tích tổng hợp, so sánh, diễn giải, qui nạp và kiểm chứng…
để giải quyết những vấn đề đặt ra trong luận văn.
5. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,
nội dung của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận chung về pháp luật thuế giá trị gia tăng.
Chương 2: Pháp luật thuế giá trị gia tăng và thực trạng pháp luật thuế
giá trị gia tăng ở Việt Nam.
Chương 3: Nguyên tắc, phương hướng và các giải pháp hoàn thiện
pháp luật thuế giá trị gia tăng.


4
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG
VỀ PHÁP LUẬT THUẾ GIÁ TRỊ GIA TĂNG

1.1. KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM CỦA THUẾ GIÁ TRỊ GIA TĂNG
1.1.1. Khái niệm thuế giá trị gia tăng
Thuế ra đời là một sự cần thiết khách quan, gắn liền với sự ra đời, tồn
tại và phát triển của nhà nước, bởi thuế là nguồn lực vật chất bảo đảm cho nhà
nước tồn tại và thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của mình. Ph. Ăngghen đã
chỉ rõ: "Để duy trì quyền lực công cộng cần có sự đóng góp của những người
công dân cho nhà nước, đó là thuế má…" [30, tr. 552]. Việc huy động để tập
trung nguồn của cải xã hội vào trong tay nhà nước có thể thực hiện bằng
nhiều cách khác nhau: đóng góp bắt buộc, vận động dân đóng góp tự nguyện

hoặc vay, nhưng thuế là quan hệ thu nộp thông qua biện pháp huy động, tập
trung của cải có tính bắt buộc đối với mọi thành viên trong xã hội. Việc ấn
định các thứ thuế và trực tiếp thực hiện thu thuế của nhà nước là một trong
những dấu hiệu cơ bản của nhà nước, cùng với các dấu hiệu khác khiến cho
nhà nước khác với các tổ chức tiền nhà nước cũng như các tổ chức tồn tại
song hành cùng nhà nước trong hệ thống chính trị của một nước.
Dưới góc độ kinh tế - tài chính, thuế được hiểu là một khoản đóng góp
bắt buộc từ các thể nhân và pháp nhân cho nhà nước theo mức độ và thời hạn
được pháp luật qui định nhằm sử dụng cho mục đích công cộng [21, tr. 5].
Dưới góc độ pháp lý, các chuyên gia về luật thuế nhận định thuế là
nghĩa vụ pháp lý của các tổ chức và cá nhân phải chuyển một phần tài sản
thuộc quyền sở hữu của mình vào NSNN khi có đầy đủ các yếu tố cấu thành
do luật thuế qui định [28, tr. 7].

5
Mặc dù có nhiều cách định nghĩa về thuế nhưng chúng ta đều có thể
nhận thấy nét chung sau: thuế là khoản thu nộp mang tính bắt buộc mà các tổ
chức hoặc cá nhân phải nộp cho nhà nước khi có đủ những điều kiện nhất
định [52, tr. 10].
Thuế ban đầu xuất hiện có hình thức biểu hiện rất đơn giản dưới dạng
hiện vật như quan hệ phu phen, cống nạp, sau đó chuyển dần sang hình thức
giá trị. Cùng với sự phát triển, những loại thuế và hình thức thuế phức tạp hơn
cũng dần hình thành. Khi nền sản xuất xã hội phát triển, năng suất lao động
được nâng cao và nhu cầu chi tiêu của nhà nước tăng lên, nhà nước không
ngừng cải tiến bổ sung các loại thuế để thực hiện việc quản lý nền kinh tế và
tăng thêm nguồn thu cho mình. Hiện nay, các vấn đề về thuế không chỉ dừng
lại trong phạm vi từng nước mà còn mang tầm vóc quốc tế. Vì vậy, một trong
những nội dung quan trọng trong việc thiết lập các mối quan hệ giữa các
nước, từng khu vực và trên phạm vi toàn cầu đó là vấn đề thuế khóa.
Trước khi có thuế GTGT, các nước áp dụng thuế doanh thu, tuy nhiên,

loại thuế này có nhược điểm là tính trùng lắp do thuế đánh lên toàn bộ doanh thu
của quá trình từ sản xuất đến tiêu dùng. Khi quá trình sản xuất ra sản phẩm càng
qua nhiều khâu, của nhiều cơ sở sản xuất kinh doanh khác nhau thì tiền thuế trên
một đơn vị sản phẩm càng nhiều do thuế đã đánh đi, đánh lại trên doanh thu và
tính trùng lên cả tiền thuế nhiều lần. Để khắc phục nhược điểm này, năm 1936,
Pháp đã cải tiến thuế doanh thu từ việc tính và nộp ở từng khâu sang hình thức
tính và nộp một lần vào công đoạn cuối cùng của quá trình sản xuất (tức là
trước khi sản phẩm được đưa vào lưu thông lần đầu). Việc đánh thuế độc lập
một lần như vậy khắc phục được hiện tượng đánh thuế trùng lắp, nhưng cách
tính này lại phát sinh nhược điểm là việc thu thuế bị chậm trễ so với trước, vì
chỉ khi hàng hóa đi vào lưu thông thì Nhà nước mới thu được thuế.
Trước một thực tế là Nhà nước vừa muốn thu được nhiều thuế và thu
kịp thời, vừa muốn thúc đẩy sản xuất phát triển để bồi dưỡng nguồn thu cho

6
giai đoạn sau, các nhà kinh tế đã liên tục sửa đổi, bổ sung cho thuế doanh thu
ngày càng hoàn thiện. Trên cơ sở đánh thuế doanh thu một lần trước khi đưa
sản phẩm vào lưu thông, vào đầu những năm năm mươi, một người Đức tên
là Carl Friendrich Von Simens đã nghĩ ra một chính sách thuế có thể thay thế
cho thuế doanh thu, đó là thuế GTGT tính trên phần giá trị tăng thêm của
hàng hóa, dịch vụ khi qua mỗi công đoạn từ sản xuất, lưu thông đến tiêu
dùng. Thuế này ra đời đánh dấu một hướng tư duy mới và sẽ khắc phục được
các nhược điểm của thuế doanh thu đã nói ở trên.
Mặc dù được khai sinh ở Đức, nhưng vào thời điểm này những lý luận
của Carl Friendrich Von Simens đưa ra đã không đủ sức thuyết phục được
Chính phủ nên thuế GTGT không được thực hiện đầu tiên ở nước Đức.
Trên thực tế thì thuế GTGT được nghiên cứu và áp dụng đầu tiên tại
Cộng hòa Pháp ngày 1/7/1954 vì Pháp là một trong những nước có nền công
nghiệp rất phát triển (tiến hành cách mạng công nghiệp sớm), mặt khác Pháp
cũng là nước rất quan tâm đến lĩnh vực tài chính mà trọng tâm đổi mới là thuế

gián thu. Ban đầu thuế GTGT ở Pháp ra đời chỉ nhằm vào một số ngành cá
biệt, mãi đến năm 1968 thuế GTGT mới được áp dụng cho mọi ngành nghề và
trong mọi lĩnh vực.
Sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế thị trường đã chứng minh được
sự thành công của việc điều tiết nền kinh tế bằng phương pháp gián tiếp là
chủ yếu. Trong bối cảnh đó với những ưu điểm đặc biệt của thuế GTGT mà
nó đã nhanh chóng được triển khai, áp dụng rộng rãi. Riêng tại châu Á có thể
thấy rằng, thuế GTGT ngày càng trở thành một sắc thuế phổ biến trong khu
vực này. Khởi đầu tại Hàn Quốc (1977) và ngay sau đó nhiều nước đã áp
dụng như Indonexia (1984), Đài Loan (1986), Philippin (1988)…
Hiện nay trên thế giới đã có rất nhiều nước chuyển sang áp dụng thuế
GTGT để hợp nhất và hiện đại hóa cơ cấu thuế khóa của mình. Các nước
thành viên của liên minh châu Âu đã chọn thuế GTGT như một giải pháp tốt

7
nhất để thống nhất việc đánh thuế, khuyến khích quá trình công nghiệp hóa,
hiện đại hóa và tăng năng suất lao động. Khi được đưa vào hệ thống luật thuế,
nguồn thu từ thuế GTGT đã trở thành một phần quyết định trong tổng thu đối
với các nước sử dụng nó.
Thuật ngữ thuế GTGT, tiếng anh là Value Added Tax (VAT), tiếng
pháp là Taxe Sur la Valeur Ajoutee (TAV), thường được dùng để chỉ một loại
thuế gián thu, tính trên phần giá trị tăng thêm của hàng hóa, dịch vụ phát sinh
trong quá trình từ sản xuất, lưu thông đến tiêu dùng. Vì thuế được tính trên
phần giá trị tăng thêm của hàng hóa, dịch vụ nên đối tượng nộp thuế phải là
các cơ sở sản xuất kinh doanh hàng hóa, dịch vụ có giá trị tăng thêm, nhưng
thực chất phần thuế mà họ nộp lại do người mua hàng hóa, dịch vụ phải thanh
toán khi trả tiền hàng hóa, dịch vụ.
1.1.2. Đặc điểm của thuế giá trị gia tăng
Dựa vào các đặc điểm của thuế GTGT, chúng ta có thể nhận diện thuế
GTGT với các loại thuế khác.

Thứ nhất, thuế GTGT là thuế gián thu.
Dưới giác độ kinh tế -tài chính thuế gián thu là thuế không trực tiếp
đánh vào thu nhập và tài sản của người nộp thuế mà đánh một cách gián tiếp
thông qua giá cả hàng hóa và dịch vụ [21, tr. 3]. Dưới giác độ pháp lý, thuế
gián thu được hiểu là loại thuế mà người gánh chịu thuế là khách hàng, nhưng
người nộp thuế lại là người bán hàng, nhà nhập khẩu [52, tr. 15]. Nói cách
khác, thuế gián thu là việc người tiêu dùng (người chịu thuế) chuyển một
phần tài sản thuộc quyền sở hữu của mình vào NSNN thông qua một người
thứ ba - người sản xuất, kinh doanh (người nộp thuế).
Xét trong mối quan hệ tay ba: nhà nước, người chịu thuế và người nộp
thuế thì người nộp thuế đóng vai trò trung gian thu thuế hộ nhà nước rồi nộp
vào NSNN.

8
Đối với thuế GTGT, các cơ sở sản xuất, kinh doanh thực hiện thu thuế
GTGT khi bán các hàng hóa, dịch vụ. Tiền thuế GTGT được tính trên cơ sở
giá bán hàng hóa, dịch vụ và người mua phải trả trong giá thanh toán của hàng
hóa, dịch vụ. Sau khi bán được hàng hóa, dịch vụ các cơ sở sản xuất kinh doanh
nộp thuế vào NSNN thay cho người tiêu dùng. Như vậy, người mua không trực
tiếp nộp thuế GTGT vào NSNN mà trả thuế thông qua giá thanh toán hàng hóa
và dịch vụ cho người bán, trong đó bao gồm cả khoản thuế GTGT. Người bán
thực hiện nộp khoản thuế GTGT phải nộp (đã được người mua trả) vào
NSNN. Do đối tượng nộp thuế GTGT và đối tượng chịu thuế GTGT không
đồng nhất, thuế GTGT được coi là một loại thuế gián thu điển hình.
Sự không đồng nhất giữa người nộp thuế và người chịu thuế dẫn đến
thân phận pháp lý của mỗi đối tượng là khác nhau, có những quyền và nghĩa
vụ khác nhau. Vì vậy, đối với thuế GTGT nói riêng và thuế gián thu nói
chung việc phân biệt người chịu thuế và người nộp thuế rất quan trọng về
phương diện pháp lý.
Trong nhiều trường hợp người nộp thuế GTGT cũng đồng thời là

người chịu thuế GTGT, tất nhiên là đối với các hàng hóa, dịch vụ khác nhau.
Ví dụ, cơ sở sản xuất kinh doanh mua hàng hóa, dịch vụ chịu thuế GTGT để
tiêu dùng chứ không sử dụng hàng hóa, dịch vụ đó để sản xuất, kinh doanh thì
cơ sở sản xuất kinh doanh là người chịu thuế GTGT. Còn đối với hàng hóa,
dịch vụ do cơ sở sản xuất, bán ra thì cơ sở kinh doanh lại là đối tượng nộp
thuế. Sự khác biệt thân phận pháp lý ảnh hưởng đến quyền và nghĩa vụ của
mỗi đối tượng, như trong vai trò là người tiêu dùng (người chịu thuế), cơ sở
kinh doanh không được khấu trừ thuế GTGT đầu vào đối với hàng hóa, dịch
vụ mua sử dụng cho mục đích tiêu dùng.
Thứ hai, thuế GTGT chỉ đánh vào giá trị gia tăng.
Thuế GTGT chỉ đánh trên giá trị tăng thêm của hàng hóa, dịch vụ tại
mỗi công đoạn sản xuất, lưu thông và đến cuối chu kỳ sản xuất, kinh doanh hoặc

9
cung cấp dịch vụ. Đánh thuế ở tất cả các khâu nhưng cơ sở xác định số thế phải
nộp chỉ là phần giá trị mới tăng thêm của khâu sau so với khâu trước nên nếu coi
giá thanh toán tính đến khi người tiêu dùng thụ hưởng hàng hóa, dịch vụ đã xác
định trước và không thay đổi, các phần giá trị hàng hóa, dịch vụ có bị chia nhỏ
và đánh thuế thì tổng số thuế GTGT phải nộp qua các khâu chính là số thuế cuối
cùng tính trên tổng giá trị hàng hóa, dịch vụ mà người tiêu dùng chịu. Cụ thể, tại
các công đoạn khác nhau của chu trình kinh tế, người có nghĩa vụ thuế phải tính
toán lập hóa đơn cho khách hàng để đóng thuế GTGT đối với số hàng hóa, dịch
vụ đang được chuyển giao; khấu trừ phần thuế đã nộp của các bộ phận cấu thành
của giá thành hoặc chi phí và chỉ nộp vào Kho bạc nhà nước số chênh lệch giữa
thuế đã thể hiện trên hóa đơn cho khách hàng và phần thuế được khấu trừ. Vì
vậy, thuế GTGT có quan hệ chặt chẽ với giá cả, là yếu tố cấu thành giá bán
sản phẩm hàng hóa, dịch vụ. Việc đánh thuế chỉ trên phần giá trị tăng thêm
mà không phải đối với toàn bộ giá trị hàng hóa, dịch vụ làm cho số thuế
GTGT áp dụng trong mỗi khâu của quá trình lưu thông không gây ra những
đột biến về giá cả cho người tiêu dùng. Đặc điểm này của thuế GTGT còn yêu

cầu pháp luật điều chỉnh phải tìm ra cách thức, phương thức phù hợp, có tính
khả thi để xác định chính xác phần giá trị tăng thêm làm căn cứ tính thuế.
Có thể nhận thấy, Luật Thuế GTGT ở nước ta hiện nay cũng như Luật
Thuế GTGT của các nước trên thế giới xác định giá trị gia tăng thông qua giá
bán. Tuy nhiên, cần phân biệt rằng biểu hiện bằng tiền (giá bán) của hàng hóa,
dịch vụ là giá trị trao đổi chứ không phản ánh giá trị thực của hàng hóa, dịch
vụ đó. Giá trị trao đổi là hình thức biểu hiện của giá trị song không đồng nhất
với giá trị. Nhiều trường hợp giá trị gia tăng nhưng giá trị trao đổi vẫn không
thay đổi như người ta có thể gia công thêm cho hàng hóa nhưng giá bán ra
vẫn không thay đổi, hoặc ngược lại, giá trị không gia tăng nhưng giá trị trao
đổi gia tăng, điều này phụ thuộc vào giá trị sử dụng của vật, thị hiếu của
khách hàng và quan hệ cung cầu trên thị trường (không theo cùng một tỷ lệ)
giữa giá trị và giá trị trao đổi, nghĩa là có sự thoát ly tương đối giữa giá trị

10
trao đổi và giá trị. Mặt khác, giá trị có giá trị cá biệt của từng nhà sản xuất
nhưng giá trao đổi chỉ là sự thừa nhận chung của xã hội tại một thời điểm nhất
định nào đó đối với những sản phẩm cùng chủng loại đặc tính [28, tr. 9].
Thứ ba, thuế GTGT có phạm vi điều tiết rộng.
Thuế GTGT thu vào mọi tổ chức, cá nhân có tiêu dùng hàng hóa, dịch
vụ thông qua việc mua bán trao đổi hàng hóa, dịch vụ.
Suy cho cùng, đối tượng điều tiết của thuế GTGT là phần thu nhập
của người tiêu dùng sử dụng để mua hàng hóa, dịch vụ. Vì vậy, xét về mặt
nguyên tắc thuế GTGT chỉ đánh vào khâu tiêu dùng cuối cùng, không đánh
vào khâu sản xuất kinh doanh, nên chỉ cần thu thuế ở khâu bán hàng hóa, dịch
vụ cuối cùng là đủ. Song trên thực tế rất khó phân biệt đâu là tiêu dùng cuối
cùng, đâu là tiêu dùng trung gian nên cứ có hành vi chuyển giao tài sản hoặc
cung cấp dịch vụ là phải tính thuế GTGT. Nếu đó là tiêu dùng trung gian thì số
thuế sẽ được tự động chuyển vào giá bán hàng cho người mua ở giai đoạn sau.
Người chịu thuế GTGT là người tiêu dùng cuối cùng hàng hóa, dịch

vụ thuộc diện chịu thuế GTGT. Người tiêu dùng cuối cùng là người sử dụng
hàng hóa, dịch vụ không vì mục đích tạo ra hàng hóa, dịch vụ khác và làm
cho hàng hóa, dịch vụ đó thoát ra khỏi chu trình lưu thông. Phạm vi người
chịu thuế GTGT rất rộng. Mọi đối tượng tồn tại trong xã hội, cho dù là tổ
chức hay cá nhân, người có thu nhập thấp hay có thu nhập cao, làm gì và ở
đâu, khi mua hàng hóa, dịch vụ thuộc diện chịu thuế GTGT để tiêu dùng đều
phải thanh toán cho nhà kinh doanh một khoản thuế GTGT kèm theo giá bán
của hàng hóa hoặc dịch vụ cần mua. Ngay bản thân các nhà kinh doanh, nếu
khi tiêu thụ hàng hóa, dịch vụ thuộc diện chịu thuế GTGT nhưng không nhằm
phục vụ cho việc tạo ra sản phẩm hoặc dịch vụ khác là người chịu thuế
GTGT. Bởi lúc này các nhà kinh doanh với tư cách là người tiêu dùng cuối
cùng đối với hàng hóa, dịch vụ phải chịu thuế GTGT. Việc đánh thuế đối với
mọi đối tượng trên phạm vi lãnh thổ thể hiện rõ nét sự công bằng của thuế

11
đồng thời thể hiện thái độ của Nhà nước đối với các loại tiêu dùng trong xã
hội. Đối với những trường hợp cần phải khuyến khích tiêu dùng hoặc hạn chế
đến mức tối đa việc trả tiền thuế từ phần thu nhập ít ỏi của họ do hành vi tiêu
dùng, Nhà nước sẽ không đánh thuế hoặc đánh thuế với mức thuế suất thấp
nhất. Phương án ngược lại được áp dụng đối với trường hợp hạn chế tiêu dùng.
Chính vì thuế GTGT thuộc loại thuế tiêu dùng đánh ở bình diện rộng nên
thuế GTGT có vai trò hết sức quan trọng trong việc đảm bảo nguồn thu cho
NSNN trong bối cảnh hội nhập kinh tế khu vực và thế giới ở nước ta hiện nay.
Thứ tư, thuế GTGT mang bản chất liên hoàn.
Xét trong mối quan hệ mua bán hàng hóa, dịch vụ giữa các doanh nghiệp
nộp thuế GTGT với nhau thì thuế đầu ra của doanh nghiệp bán là thuế đầu vào
của doanh nghiệp mua. Vì vậy, thuế GTGT phải nộp của mỗi doanh nghiệp không
chỉ phụ thuộc vào doanh số bán ra và thuế suất mà còn phụ thuộc vào thuế
GTGT ở doanh nghiệp cung ứng đầu vào (thuế đầu vào). Sự phụ thuộc lẫn nhau
này giữa các doanh nghiệp là hệ quả của bản chất liên hoàn của thuế GTGT. Về

nguyên tắc việc giảm thuế GTGT thường không được đặt ra, bởi nếu đặt ra vấn
đề giảm thuế GTGT sẽ đưa đến những hậu quả phái sinh, không đảm bảo bản
chất liên hoàn cũng như tính trung lập kinh tế của thuế GTGT [28, tr. 14].
Cũng xuất phát từ bản chất liên hoàn của thuế GTGT mà pháp luật các
nước đều qui định về khấu trừ thuế GTGT. Số thuế GTGT đầu vào của hàng
hóa, dịch vụ sử dụng cho sản xuất, kinh doanh hàng hóa, dịch vụ chịu thuế
GTGT được trừ đi khi xác định số thuế GTGT phải nộp vào NSNN. Hành vi
khấu trừ sẽ đưa lại ba kết quả: nếu kết quả là số dương thì đó là số thuế mà
doanh nghiệp phải nộp vào NSNN, nếu kết quả là số 0 thì doanh nghiệp
không phải nộp thuế GTGT; nếu kết quả là số âm thì doanh nghiệp được hoàn
thuế hoặc được kết chuyển trừ vào số thuế GTGT phải nộp của kỳ sau.
Xuất phát từ bản chất liên hoàn đó của thuế GTGT, khi xác định đối
tượng được miễn trừ thuế GTGT hoặc các trường hợp miễn giảm thuế GTGT

12
đòi hỏi các nhà hoạch định chính sách cũng như các nhà làm luật một sự thận
trọng và tính khoa học cao, bởi nếu không sẽ phá vỡ bản chất liên hoàn của
loại thuế này và gây ra hiện tượng phân đoạn các hoạt động kinh tế.
Thứ năm, thuế GTGT là một loại thuế có tính trung lập cao.
Tính trung lập biểu hiện ở hai khía cạnh: Một là, thuế GTGT không chịu
ảnh hưởng bởi kết quả kinh doanh của người nộp thuế, do người nộp thuế chỉ là
người "thay mặt" người tiêu dùng nộp hộ khoản thuế này vào NSNN. Do vậy
thuế GTGT không phải là yếu tố của chi phí sản xuất mà chỉ đơn thuần là một
khoản thu được cộng thêm vào giá bán của người cung cấp hàng hóa, dịch vụ.
Hai là, thuế GTGT không bị ảnh hưởng bởi quá trình tổ chức và phân chia quá
trình sản xuất kinh doanh, bởi tổng số thuế ở tất cả các giai đoạn luôn bằng số
thuế tính trên giá bán ở giai đoạn cuối cùng bất kể số giai đoạn nhiều hay ít.
Thứ sáu, thuế GTGT có tính chất lũy thoái so với thu nhập.
Thuế GTGT đánh vào hàng hóa, dịch vụ, người tiêu dùng hàng hóa,
dịch vụ là người phải trả khoản thuế đó. Thuế GTGT mang tính chất lũy thoái

vì nó không tính đến khả năng thu nhập của người chịu thuế, người có thu
nhập cao hay thấp đều phải chịu thuế như nhau nếu cùng mua một loại hàng
hóa, dịch vụ. Như vậy khi so sánh tỷ suất thuế GTGT trên tổng thu nhập thì
người có thu nhập cao có tỷ suất thấp hơn so với người có thu nhập thấp.
Việc xem xét và nghiên cứu các đặc trưng cơ bản của thuế GTGT
có ý nghĩa to lớn trong việc xác định một cơ chế điều chỉnh thích hợp đối với
thuế GTGT.
1.2. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ PHÁP LUẬT THUẾ GIÁ
TRỊ GIA TĂNG
1.2.1. Khái niệm pháp luật thuế giá trị gia tăng
Trên thế giới, để đưa được thuế GTGT vào áp dụng trong thực tế
không dễ dàng thực hiện. Nhiều quốc gia phát triển cho đến nay vẫn không

13
ban hành Luật Thuế GTGT với nhiều lý do khác nhau, Hoa Kỳ là một đại
diện. Một số quốc gia ban hành Luật Thuế doanh thu nhưng với nội dung
đánh thuế trên phần giá trị mới tăng thêm như Liên bang Đức, Phần Lan, Áo.
Một số quốc gia như Singapore, Canada, New Zeland ban hành Luật thuế
hàng hóa và dịch vụ (goods anh Services Tax - GST) với quan điểm cho rằng
nếu ban hành Luật Thuế GTGT sẽ không phù hợp khi tính tới khâu nhập
khẩu. Hoặc trường hợp Hungari thay Luật Thuế lưu chuyển cũ (với nội dung
đánh thuế trên giá cả hàng hóa) bằng Luật Thuế lưu chuyển mới (với nội dung
đánh thuế theo phần giá trị tăng thêm). Sự lựa chọn ban hành Luật thuế ở
nhiều quốc gia khác nhau cho thấy: cần phải có sự cân nhắc lựa chọn thời
điểm, tên gọi của luật thuế, các qui định cụ thể để không gây ra những xáo
trộn trong đời sống kinh tế, xã hội [52, tr. 63].
Pháp luật thuế GTGT là hệ thống các quy phạm pháp luật điều chỉnh
các quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình thu nộp thuế GTGT.
Pháp luật thuế GTGT có hai đặc điểm cơ bản:
Thứ nhất, pháp luật thuế GTGT có tác động trong phạm vi rộng, đến

tất cả đối tượng trong xã hội. Xuất phát từ nội dung được pháp luật điều chỉnh
cho thấy pháp luật thuế GTGT áp dụng đối với mọi đối tượng sử dụng thu
nhập phục vụ đời sống. Phạm vi áp dụng pháp luật thuế GTGT có tính phổ
biến so với pháp luật thuế đánh vào tiêu dùng khác (ví dụ pháp luật thuế tiêu
thụ đặc biệt).
Thứ hai, pháp luật thuế GTGT chỉ được ban hành khi đáp ứng hai yếu
tố cơ bản sau:
Một là, hệ thống thuế cũ không còn phù hợp với sự phát triển nền kinh
tế ở đó nữa. Điều đó có nghĩa là thực trạng sự phát triển kinh tế đang đặt ra sự
cần thiết phải áp dụng thuế GTGT trong hệ thống thuế.
Hai là, phải có những điều kiện cơ bản để thuế GTGT có thể vận
hành được.

14
Hệ thống các qui phạm pháp luật về thuế GTGT, căn cứ vào nội dung
các quan hệ xã hội mà các qui phạm pháp luật đó điều chỉnh có thể phân thành:
- Nhóm các quy phạm pháp luật về vật chất: nhóm các quy phạm pháp
luật này điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh giữa các chủ thể có nghĩa vụ
thuế GTGT với nhà nước, bao gồm những qui định về phạm vi áp dụng thuế
GTGT (đối tượng chịu thuế GTGT), phạm vi không thuộc diện áp dụng thuế
GTGT (đối tượng không thuộc diện chịu thuế GTGT), đối tượng nộp thuế,
căn cứ và phương pháp tính thuế GTGT; khấu trừ thuế thuế, hoàn thuế
GTGT; đăng ký, kê khai, nộp thuế, quyết toán thuế. Đây là bộ phận quy phạm
pháp luật giữ vai trò quan trọng trong pháp luật thuế GTGT.
- Nhóm các qui phạm pháp luật xác định nhiệm vụ, quyền hạn và
trách nhiệm của cơ quan thuế trong việc quản lý và tính hành thu thuế GTGT.
- Nhóm các quy phạm pháp luật về thủ tục (hình thức): qui định về
trình tự, thủ tục của việc giải quyết các tranh chấp và xử lý các vi phạm pháp
luật về thuế GTGT.
Ngoài ra, hệ thống quy phạm pháp luật thuế GTGT còn được phân

theo cấu trúc của pháp luật thuế GTGT, cụ thể bao gồm:
- Nhóm quy phạm pháp luật xác định phạm vi áp dụng thuế GTGT
như đối tượng chịu thuế GTGT, đối tượng được miễn trừ thuế GTGT, đối
tượng nộp thuế GTGT;
- Nhóm các quy phạm pháp luật quy định việc tính thuế GTGT như
căn cứ tính thuế, phương pháp tính thuế, khấu trừ thuế, hoàn thuế.
Xuất phát từ đặc điểm, tính chất của các quan hệ xã hội phát sinh
trong quá trình thu nộp thuế GTGT là quan hệ bất bình đẳng, vì vậy, phương
pháp điều chỉnh của pháp luật thuế GTGT là phương pháp mệnh lệnh - quyền
uy. Theo phương pháp này các chủ thể tham gia quan hệ thuế GTGT có tư
cách pháp lý không bình đẳng. Một bên trong mối quan hệ (các cơ quan nhà

15
nước có thẩm quyền) có quyền đơn phương ra các quyết định thực hiện các
quyền và nghĩa vụ theo qui định của pháp luật mà không cần sự thỏa thuận
của các chủ thể có nghĩa vụ thuế GTGT.
1.2.2. Những nội dung chủ yếu của pháp luật thuế giá trị gia tăng
1.2.2.1. Đối tượng chịu thuế giá trị gia tăng và sự kiện pháp lý làm
phát sinh nghĩa vụ thuế giá trị gia tăng
Đối tượng chịu thuế là đối tượng khách quan phải thu thuế theo qui
định của luật thuế, là căn cứ mà dựa vào đó nhà nước thu được một số tiền
nhất định. Việc lựa chọn đối tượng chịu thuế phản ánh ý chí của nhà nước đối
với kết quả hoạt động kinh tế xã hội và cũng là cơ sở để phân biệt luật thuế
này với luật thuế khác.
Đối tượng chịu thuế GTGT là hàng hóa, dịch vụ dùng cho sản xuất,
kinh doanh.
Tuy nhiên, tự thân hàng hóa, dịch vụ không làm phát sinh giá trị gia
tăng, vì vậy, cũng không làm phát sinh nghĩa vụ thuế GTGT mà phải thông
qua những sự kiện pháp lý.
Vậy đối với nghĩa vụ thuế nói chung và nghĩa vụ thuế GTGT nói

riêng, sự kiện nào sau đây sẽ được xác định là sự hiện pháp lý làm phát sinh
nghĩa vụ thuế: các hoạt động (nghiệp vụ) chịu thuế được xác định trong Luật
thuế (sự kiện khách quan) hay thông báo thuế của cơ quan thuế (hành vi
quản lý của cơ quan nhà nước)? Chúng tôi cho rằng, thông báo thuế của cơ
quan thuế là một văn bản quản lý hành chính của nhà nước. Trong trường
hợp đối tượng nộp thuế tự đăng ký, tự kê khai, tự tính và nộp thuế thì thông
báo nộp thuế của cơ quan thuế mang tính chất đôn đốc, nhắc nhở các chủ thể
thực hiện tốt nghĩa vụ nộp thuế. Trong trường hợp áp dụng cơ chế nộp theo
mức ấn định của cơ quan thuế thì thông báo nộp thuế mang tính chất tuyên
bố, xác nhận nghĩa vụ thuế của các chủ thể. Vì vậy, theo chúng tôi các hoạt

16
động chịu thuế được xác định trong luật thuế là sự kiện pháp lý - tức khẳng
định sự kiện khách quan là sự kiện pháp lý làm phát sinh và qui định thời
điểm phát sinh cũng như phạm vi mức độ của nghĩa vụ thuế. Từ đó có thể
rút ra rằng sự kiện pháp lý làm phát sinh nghĩa vụ thuế GTGT là các hoạt
động chịu thuế GTGT.
Những hoạt động được coi là tiền đề sinh ra thuế GTGT là những hoạt
động kinh tế có thanh toán bằng tiền hoặc qui ra tiền được thực hiện bởi
người nộp thuế mà cụ thể là các hoạt động chuyển giao tài sản, hoạt động
cung cấp dịch vụ.
Hoạt động chuyển giao tài sản bao gồm:
- Những hoạt động nhằm thực hiện việc chuyển giao quyền sở hữu đối
với tài sản hoặc quyền nắm giữ tài sản như một chủ sở hữu. Hoạt động này
thường được thực hiện trên cơ sở có sự thỏa thuận cam kết giữa các bên mà
hình thức pháp lý của sự thỏa thuận cam kết đó là hợp đồng. Chuyển giao tài
sản thường được thể hiện dưới một số hình thức cơ bản như mua bán tài sản
theo hợp đồng; thuê mua tài sản; chuyển giao tài sản khi góp vốn; đổi tài sản
này lấy tài sản khác; mua trả góp; chuyển giao hàng hóa gia công, tặng quà…
- Những hoạt động chuyển giao tài sản từ sản xuất vào tiêu dùng

không nhằm thực hiện việc chuyển giao quyền sở hữu. Hoạt động này không
làm thay đổi chủ sở hữu nhưng làm phát sinh giá trị tăng thêm của tài sản như
trường hợp doanh nghiệp dùng sản phẩm do chính cơ sở mình sản xuất để tiêu
dùng nội bộ (không sử dụng để tiếp tục quá trình sản xuất kinh doanh).
Hoạt động cung cấp dịch vụ là hoạt động trong đó bên làm dịch vụ
phải thực hiện một việc nhất định cho bên thuê dịch vụ còn bên thuê dịch vụ
phải trả tiền công cho bên làm dịch vụ. Hoạt động cung cấp dịch vụ cũng
được thực hiện trên cơ sở pháp lý đó là hợp đồng dịch vụ. Hoạt động dịch vụ
được thể hiện dưới một số hình thức cơ bản như: dịch vụ thuê nhà, dịch vụ
vận tải, dịch vụ tư vấn, dịch vụ ăn uống…

17
Nhưng không phải bất cứ hành vi chuyển giao tài sản và cung cấp
dịch vụ nào cũng thuộc đối tượng chịu thuế GTGT. Một hình thức cung ứng
chịu thuế GTGT phải có các thuộc tính như sau:
- Nhà cung ứng là đối tượng có đăng ký.
- Hoạt động cung ứng được thực hiện trong quá trình sản xuất kinh
doanh của nhà cung ứng (không phải các hoạt động mua sắm và cung ứng vì
mục đích cá nhân).
- Không phải là hoạt động cung ứng đối tượng được miễn thuế.
Căn cứ vào đó, nếu các hình thức cung ứng xẩy ra trên thực tế đáp ứng
đầy đủ các thuộc tính trên là sự kiện pháp lý làm phát sinh nghĩa vụ thuế
GTGT. Còn ngược lại thì không phải là sự kiện pháp lý làm phát sinh nghĩa
vụ thuế GTGT.
Các hoạt động chuyển giao tài sản và cung cấp dịch vụ không chỉ
được diễn ra trong phạm vi từng quốc gia mà còn được diễn ra giữa các quốc
gia với nhau. Những hoạt động chuyển giao hàng hoá hoặc cung cấp dịch vụ
giaa các quốc gia với nhau được gọi là hoạt động xuất nhập khẩu hàng hóa,
dịch vụ. Những hoạt động này đều là những hoạt động "sinh ra" thuế GTGT,
là những hình thức cung ứng chịu thuế nhưng hầu hết pháp luật các nước đều

qui định mức thuế suất áp dụng là 0%. Điều này có nghĩa là khi cung cấp
những hàng hóa, dịch vụ này người cung cấp hàng hóa, dịch vụ không phải
tính và thu thuế GTGT, người nhận cung cấp hàng hóa, dịch vụ không phải
trả thuế GTGT khi mua nhưng nhà cung cấp hàng hóa, dịch vụ được hoàn lại
toàn bộ số thuế GTGT đầu vào sử dụng cho sản xuất, kinh doanh hàng hóa,
dịch vụ xuất khẩu đã nộp cho NSNN.
1.2.2.2. Thời điểm phát sinh của nghĩa vụ thuế giá trị gia tăng
Thời điểm phát sinh nghĩa vụ thuế là thời điểm mà tại đó đối tượng
nộp thuế phải thực hiện nghĩa vụ thuế khi có sự kiện pháp lý làm phát sinh

18
nghĩa vụ thuế xảy ra. Hay nói cách khác, là thời điểm mà tại đó coi những
nghĩa vụ thuế đã phát sinh, tại thời điểm này nhà nước có quyền đòi thuế, đối
tượng nộp thuế có nghĩa vụ tính và nộp thuế.
Trong thực tế, các chủ thể kinh doanh tiến hành các giao dịch cung
ứng hàng hóa, dịch vụ thông qua hợp đồng kinh tế theo qui trình: ký kết hợp
đồng kinh tế; đặt cọc, tạm ứng tiền hàng theo thỏa thuận trong hợp đồng (nếu
có); giao hàng, cung cấp dịch vụ; phát hành hóa đơn; thanh toán tiền hàng;
giải quyết tranh chấp, thanh lý hợp đồng. Trong các công đoạn đó, khi nào thì
phát sinh nghĩa vụ thuế GTGT?
Để xác định thời điểm phát sinh nghĩa vụ thuế GTGT một cách tương
đối thỏa đáng và hợp lý, chúng tôi phân tích ba phương án sau:
* Thời điểm giao hàng hóa, cung cấp dịch vụ.
Thời điểm giao hàng, cung cấp dịch vụ là thời điểm mà tại đó hàng
hóa được giao, dịch vụ được cung cấp.
Hàng hóa được giao là hàng hóa trên thực tế không còn nằm dưới sự
kiểm soát của bên giao hàng (bên bán) tức quyền quản lý, nắm giữ hàng hóa
đã được chuyển cho bên mua hàng.
Việc chuyển giao hàng hóa có thể gắn hoặc không gắn với việc
chuyển giao quyền sở hữu hàng hóa, như trong những trường hợp sau:

- Giao hàng trong trường hợp cho thuê tài sản: ở đây có sự chuyển
giao tài sản từ chủ thể này sang chủ thể khác, song việc chuyển giao này chỉ
nhằm mục đích sử dụng, khai khác công dụng tài sản trong một thời gian xác
định nghĩa là chỉ chuyển giao quyền sử dụng tài sản trong một thời gian nhất
định chứ không nhằm mục đích sở hữu.
- Giao tài sản trong trường hợp gia công hàng hóa, được chia ra ba
trường hợp: 1. Bên đặt gia công chuyển giao nguyên vật liệu cho bên nhận gia
công; 2. Chuyển giao tài sản từ bên nhận gia công cho bên đặt gia công sau

19
khi sản phẩm gia công đã hoàn thành; 3. Bên nhận gia công chuyển giao
nguyên vật liệu còn lại cho bên đặt gia công.
- Chuyển giao tài sản trong trường hợp gửi giữ tài sản: việc chuyển
giao tài sản từ bên gửi sang bên nhận giữ chỉ trong một khoảng thời gian xác
định, bên nhận giữ chỉ có quyền chiếm giữ, trông coi tài sản mà không có bất
kỳ quyền nào đối với tài sản.
- Hàng hóa được giao trong trường hợp cầm cố, đặt cọc, thế chấp, bảo
lãnh: sự chuyển giao tài sản trong trường hợp này cũng không nhằm mục đích
sở hữu mà chỉ nhằm đảm bảo thực hiện nghĩa vụ.
- Chuyển giao tài sản trong trường hợp vận chuyển tài sản: sự chuyển
giao này thực chất chỉ là tạm thời chuyển quyền chiếm hữu tài sản cho bên
vận chuyển trong thời gian bên vận chuyển làm nghĩa vụ chuyển dịch tài sản
đó tới địa điểm đã định theo thỏa thuận.
Những trường hợp này không có sự chuyển giao quyền sở hữu về tài sản
mặc dù đều có hành vi giao tài sản và những hoạt động chuyển giao này không
được coi là hoạt động chuyển giao tài sản thuộc diện chịu thuế GTGT mà xác
định nghĩa vụ thuế GTGT theo hoạt động kinh doanh cung cấp dịch vụ.
Trong các trường hợp việc giao dịch gắn với việc chuyển quyền sở
hữu hàng hóa, so sánh thời điểm giao hàng và thời điểm chuyển quyền sở hữu
thì sẽ nảy sinh các khả năng sau:

- Quyền sở hữu được chuyển giao cùng thời điểm giao hàng: đối với
hoạt động mua bán, trao đổi tài sản thì thời điểm bên mua và các bên trao đổi
nhận được tài sản là thời điểm chuyển quyền sở hữu nếu không có sự thỏa
thuận khác hoặc pháp luật không có qui định khác. Bộ luật Dân sự nước ta
xác định thời điểm chuyển quyền sở hữu như sau:
+ Việc chuyển quyền sở hữu đối với bất động sản có hiệu lực kể từ
thời điểm đăng ký quyền sở hữu, trừ trường hợp pháp luật có qui định khác.

×