Đại học Quốc gia Hà nội
Khoa luật
Trần Thanh Thủy
Pháp luật về giải quyết tranh chấp đất đai
thông qua cơ quan hành chính nhà nước
trên địa bàn huyện thanh trì - Hà nội
Luận văn Thạc sĩ luật học
Hà nội - 2009
Đại học Quốc gia Hà nội
Khoa luật
Trần Thanh Thủy
Pháp luật về giải quyết tranh chấp đất đai
thông qua cơ quan hành chính nhà nước
trên địa bàn huyện thanh trì - Hà nội
Chuyên ngành : Luật kinh tế
Mã số : 60 38 50
Luận văn Thạc sĩ luật học
Người hướng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Quang Tuyến
Hà nội - 2009
MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các chữ viết tắt
MỞ ĐẦU
1
Chương 1: TỔNG QUAN NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TRANH
CHẤP ĐẤT ĐAI VÀ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP ĐẤT
ĐAI THÔNG QUA CƠ QUAN HÀNH CHÍNH
6
1.1.
Những vấn đề lý luận chung về tranh chấp đất đai thông qua
cơ quan hành chính
6
1.1.1.
Khái niệm về tranh chấp đất đai
6
1.1.2.
Các dạng tranh chấp đất đai phổ biến
9
1.1.2.1.
Tranh chấp về đòi lại đất đai
9
1.1.2.2.
Tranh chấp liên quan đến bồi thường, giải phóng mặt bằng
và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất
14
1.1.2.3.
Tranh chấp phát sinh trong quá trình thực hiện quyền và
nghĩa vụ của người sử dụng đất hợp pháp
15
1.1.2.4.
Tranh chấp về ranh giới sử dụng đất
15
1.1.2.5.
Tranh chấp về mục đích sử dụng
16
1.1.3.
Nguyên nhân của tranh chấp đất đai
16
1.1.3.1.
Nguyên nhân khách quan
17
1.1.3.2.
Nguyên nhân chủ quan
18
1.2.
Tổng quan về giải quyết tranh chấp đất đai
24
1.2.1.
Khái niệm giải quyết tranh chấp đất đai
24
1.2.2.
Mục đích, ý nghĩa của việc giải quyết tranh chấp đất đai
27
1.2.3.
Các nguyên tắc giải quyết tranh chấp đất đai
29
1.3.4.
Thẩm quyền giải quyết tranh chấp đất đai
31
1.3.
Một số vấn đề lý luận về giải quyết tranh chấp đất đai của cơ
quan hành chính
35
1.3.1.
Khái niệm cơ quan hành chính nhà nước
35
1.3.2.
Phân loại cơ quan hành chính nhà nước
38
1.3.2.1.
Cơ quan hành chính nhà nước có thẩm quyền chung
38
1.3.2.2.
Cơ quan hành chính nhà nước có thẩm quyền riêng
39
1.3.2.
Hệ thống cơ quan hành chính ở nước ta
39
1.4.
Cơ sở lý luận và thực tiễn của việc quy định thẩm quyền giải
quyết tranh chấp đất đai cho cơ quan hành chính nhà nước
40
1.4.1.
Cơ sở lý luận
40
1.4.2.
Cơ sở thực tiễn
42
1.5.
Đặc điểm của việc giải quyết tranh chấp đất đai do cơ quan
hành chính nhà nước thực hiện
44
Chương 2: THỰC TRẠNG ÁP DỤNG PHÁP LUẬT VỀ GIẨI QUYẾT
TRANH CHẤP ĐẤT ĐAI THÔNG QUA CƠ QUAN HÀNH
CHÍNH TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN THANH TRÌ
46
2.1.
Tổng quan về điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội của huyện
Thanh Trì
46
2.1.1.
Điều kiện tự nhiên về đất đai
46
2.1.2.
Tình hình phát triển kinh tế, xã hội
47
2.1.2.1.
Về kinh tế
48
2.1.2.2.
Về y tế, văn hóa - xã hội
50
2.1.3.
Vị trí và vai trò của huyện Thanh Trì trong sự phát triển của
Thủ đô Hà Nội
51
2.2.
Thực trạng áp dụng pháp luật giải quyết tranh chấp đất đai
thông qua cơ quan hành chính trên địa bàn huyện Thanh Trì
53
2.2.1.
Thực trạng chung về giải quyết tranh chấp đất đai trên địa
bàn huyện Thanh Trì
53
2.2.2.
Thực trạng áp dụng pháp luật để giải quyết tranh chấp đất
đai tại huyện Thanh Trì
57
2.2.2.1.
Thực trạng áp dụng các quy định về thẩm quyền giải quyết
tranh chấp đất đai
57
2.2.2.2.
Thực trạng áp dụng các quy định về trình tự, thủ tục giải
quyết tranh chấp đất đai
59
2.3.
Đánh giá thực trạng áp dụng pháp luật giải quyết tranh chấp
đất đai thông qua cơ quan hành chính trên địa bàn huyện
Thanh Trì
64
2.3.1.
Những thành công
64
2.3.2.
Những hạn chế, tồn tại
71
2.3.3.
Nguyên nhân dẫn đến hạn chế, tồn tại
74
2.3.3.1.
Những nguyên nhân khách quan
74
2.3.3.2.
Những nguyên nhân chủ quan
76
Chương 3: HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ GIẢI QUYẾT TRANH
CHẤP ĐẤT ĐAI THÔNG QUA VIỆC NGHIÊN CỨU
THỰC TRẠNG ÁP DỤNG TẠI HUYỆN THANH TRÌ
79
3.1.
Định hướng hoàn thiện pháp luật về giải quyết tranh chấp
đất đai thông qua cơ quan hành chính
79
3.1.1.
Hoàn thiện pháp luật giải quyết tranh chấp đất đai phải dựa
trên sự quán triệt sâu sắc quan điểm, đường lối của Đảng về
lĩnh vực đất đai
79
3.1.2.
Tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp ủy đảng, chính
quyền đối với công tác giải quyết tranh chấp đất đai
81
3.1.3.
Hoàn thiện pháp luật giải quyết tranh chấp đất đai phải gắn
liền với việc nâng cao hiệu quả công tác quản lý nhà nước
về đất đai
82
3.1.4.
Về tổ chức, chỉ đạo giải quyết tranh chấp, khiếu kiện về đất đai
84
3.1.4.1.
Tăng cường việc tổ chức công tác tiếp dân ở các cấp chính quyền
84
3.1.4.2.
Nâng cao trách nhiệm của cơ quan giải quyết tranh chấp
85
3.1.4.3.
Nâng cao năng lực, trình độ cho đội ngũ cán bộ làm công
tác giải quyết tranh chấp
86
3.1.4.4.
Cần thành lập hệ thống cơ quan tài phán hành chính về đất đai
86
3.1.4.5.
Cần đẩy mạnh công tác tuyên truyền pháp luật, nâng cao
nhận thức
87
3.2.
Giải pháp hoàn thiện pháp luật về giải quyết tranh chấp đất đai
87
3.2.1.
Sửa đổi, bổ sung quy định hiện hành về hòa giải tranh chấp
đất đai
87
3.2.2.
Sửa đổi, bổ sung quy định về thẩm quyền giải quyết tranh
chấp đất đai
89
3.3.
Giải pháp tăng cường và nâng cao hiệu quả giải quyết tranh
chấp đất đai của các cơ quan hành chính
90
3.3.1.
Tập trung xử lý dứt điểm các vụ việc tranh chấp đất đai tồn
đọng không để phát sinh trở thành "điểm nóng" gây mất ổn
định chính trị
90
3.3.2.
Hạn chế phát sinh những vụ tranh chấp, khiếu kiện đất đai mới
91
KẾT LUẬN
92
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
94
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
HTX : Hợp tác xã
GCNQSDĐ : Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
GPMB : Giải phóng mặt bằng
QSDĐ : Quyền sử dụng đất
SDĐ : Sử dụng đất
TAND : Tòa án nhân dân
UBND : Ủy ban nhân dân
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Tranh chấp đất đai là một hiện tượng xã hội tồn tại phổ biến. Nó là
những bất đồng, mâu thuẫn về quyền và nghĩa vụ giữa các bên trong quan hệ
đất đai. Tranh chấp đất đai để lại các hệ lụy xấu phá vỡ sự đoàn kết trong nội
bộ nhân dân, là nguy cơ tiềm ẩn sự mất ổn định chính trị, trật tự an toàn xã
hội và là điều kiện để các thế lực thù địch tuyên truyền kích động, xuyên tạc,
chống phá Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam v.v Để ngăn
ngừa nguy cơ tiềm ẩn sự mất ổn định chính trị và duy trì khối đại đoàn kết
toàn dân, vấn đề giải quyết tranh chấp đất đai được Đảng và Nhà nước ta đặc
biệt quan tâm. Trong các đạo luật đất đai được ban hành như Luật đất đai năm
1987, Luật Đất đai năm 1993, Luật Đất đai năm 2003 đều có các quy định về
giải quyết tranh chấp đất đai. Theo đó, tranh chấp đất đai được giải quyết
thông qua hòa giải ở cơ sở do các tổ hòa giải thôn, xóm, tổ dân phố và chính
quyền xã, phường, thị trấn thực hiện. Chỉ khi hòa giải ở cơ sở không thực hiện
được thì tranh chấp đất đai mới do Tòa án nhân dân (TAND) hoặc Ủy ban
nhân dân (UBND) cấp huyện trở lên giải quyết. Để nâng cao chất lượng và
hiệu quả công tác giải quyết tranh chấp đất đai đã có nhiều công trình nghiên
cứu, tìm hiểu việc giải quyết tranh chấp đất đai do UBND các cấp thực hiện.
Tuy nhiên việc đi sâu tìm hiểu việc giải quyết tranh chấp đất đai do các cơ
quan hành chính nhà nước thực hiện trên phạm vi địa bàn một huyện như
huyện Thanh Trì (Hà Nội) thì dường như còn ít có công trình nghiên cứu.
Hơn nữa trong điều kiện kinh tế thị trường, đất đai ngày càng có giá trị cao thì
các tranh chấp, khiếu kiện đất đai ngày càng gia tăng; đặc biệt tại Thủ đô Hà
Nội - nơi có vị trí địa chính trị vô cùng quan trọng. Để góp phần tháo "ngòi
nổ" của các điểm nóng do tranh chấp, khiếu kiện đất đai gây ra trên địa bàn
Thủ đô Hà Nội thì việc nghiên cứu, tìm hiểu và đưa ra các giải pháp nâng cao
2
chất lượng công tác giải quyết tranh chấp đất đai của các cơ quan hành chính
nhà nước xem xét trong phạm vi một huyện ngoại thành cụ thể như huyện
Thanh Trì là một việc làm có ý nghĩa cả về mặt lý luận và thực tiễn. Với ý
nghĩa đó, tôi lựa chọn đề tài "Pháp luật về giải quyết tranh chấp đất đai
thông quan cơ quan hành chính Nhà nước trên địa bàn huyện Thanh trì -
Hà Nội" làm luận văn thạc sĩ luật học.
2. Tình hình nghiên cứu
Tranh chấp đất đai và giải quyết tranh chấp đất đai tiếp cận dưới góc
độ pháp luật là một vấn đề không mới nước ta. Thời gian qua đã có nhiều
công trình khoa học đi sâu nghiên cứu, tìm hiểu về vấn đề này được công bố;
có thể đến một số công trình nghiên cứu tiêu biểu sau: 1. Trường Đại học
Luật Hà Nội: Giáo trình Luật đất đai, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội, 2008;
2. Giải quyết tranh chấp đất đai bằng tòa án qua thực tiễn tại một địa phương,
của Mai Thị Tú Oanh, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 8, 2009; 3. Đặc san
về Luật đất đai năm 2003, Tạp chí Luật học, 2005; 4. Loại tranh chấp đất đai
nào phải qua thủ tục hòa giải tại cơ sở, của Phan Gia Ngọc, Tạp chí TAND,
số 18, 2009; 5. Tài liệu Hội thảo khoa học: Cải cách pháp luật và cải cách tư
pháp nhìn từ vấn đề tranh chấp đất đai, do Viện Nhà nước và Pháp luật (Viện
Khoa học xã hội Việt Nam) tổ chức tại Hà Nội, tháng 5 năm 2004; 6. Pháp
luật Tố tụng dân sự và thực tiễn xét xử, của Tưởng Duy Lượng, Nxb Chính trị
Quốc gia, Hà Nội, 2009; 7. Tài liệu Hội thảo Khoa học: Tranh chấp đất đai
và giải quyết tranh chấp đất đai, do Trung tâm Thông tin, Tư liệu và Nghiên
cứu Khoa học - Văn phòng Quốc hội và Ủy ban nhân dân tỉnh Đắc Lắc tổ
chức tại Buôn Mê Thuột, tháng 10 năm 2008; 8. Đề tài Nghiên cứu khoa học
cấp Bộ: Cơ sở lý luận và thực tiễn nâng cao chất lượng giải quyết tranh chấp
đất đai của Tòa án nhân dân, Viện Khoa học xét xử - Tòa án nhân dân tối
cao, Hà Nội, 2004 v.v ;
3
Các công trình khoa học đã được công bố nêu trên nghiên cứu, tìm
hiểu pháp luật về giải quyết tranh chấp đất đai dưới các góc độ thực tiễn áp
dụng, cơ sở lý luận v.v mà chưa có công trình nào đi sâu nghiên cứu một
cách toàn diện, có hệ thống cơ sở lý luận, cơ sở thực tiễn của việc giải quyết
tranh chấp đất đai thông qua cơ quan hành chính nhà nước và đánh giá thực
trạng áp dụng pháp luật về giải quyết tranh chấp đất đai thông qua cơ quan
hành chính nhà nước; đồng thời đưa ra định hướng và các giải pháp góp phần
hoàn thiện các quy định giải quyết tranh chấp đất đai xem xét trên phạm vi địa
bàn của một huyện cụ thể của Thủ đô Hà Nội là huyện Thanh Trì. Trên cơ sở
kế thừa những thành quả nghiên cứu của các công trình khoa học đã được
công bố về giải quyết tranh chấp đất đai xem xét dưới góc độ pháp luật, luận
văn đi sâu, tìm hiểu pháp luật về giải quyết tranh chấp đất đai thông qua cơ
quan hành chính nhà nước trên địa bàn huyện Thanh Trì - Hà Nội trên cả hai
phương diện: phương diện lý luận và phương diện thực tiễn.
3. Mục đích nghiên cứu
Đề tài được nghiên cứu nhằm đạt được các mục đích cơ bản sau đây:
- Hệ thống hóa, phân tích cơ sở lý luận và thực tiễn của việc xây dựng
các quy định về giải quyết tranh chấp đất đai do các cơ quan hành chính nhà
nước thực hiện;
- Là tài liệu tham khảo có giá trị cho các cơ quan có thẩm quyền giải
quyết tranh chấp đất đai của huyện Thanh Trì và là tài liệu tham khảo bổ ích
cho sinh viên đại học và học viên sau đại học của Khoa Luật - Đại học Quốc
gia Hà Nội nghiên cứu, tìm hiểu về hệ thống pháp luật đất đai nói chung và
các quy định về giải quyết tranh chấp đất đai nói riêng.
4. Nhiệm vụ, đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Nhiệm vụ nghiên cứu
Nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài bao gồm các vấn đề chủ yếu sau đây:
4
- Lý giải những vấn đề lý luận chung về tranh chấp đất đai và giải
quyết tranh chấp đất đai thông qua các cơ quan hành chính nhà nước;
- Đánh giá thực trạng pháp luật đất đai thông qua việc tìm hiểu, phân
tích thực trạng áp dụng trên địa bàn huyện Thanh Trì - Hà Nội;
- Đưa ra định hướng và đề xuất một số giải pháp góp phần hoàn thiện
hệ thống pháp luật về giải quyết tranh chấp đất đai ở nước ta.
4.2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài là:
- Các quy định hiện hành về giải quyết tranh chấp đất đai;
- Thực tiễn áp dụng các quy định hiện hành về giải quyết tranh chấp
đất đai trên địa bàn huyện Thanh Trì - Hà Nội.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Để đạt được các mục đích nghiên cứu mà đề tài đặt ra; trong quá trình
nghiên cứu Luận văn đã sử dụng một số phương pháp nghiên cứu cơ bản sau đây:
(i) Phương pháp luận nghiên cứu khoa học duy vật biện chứng và duy
vật lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lê nin;
(ii) Bên cạnh đó, luận văn còn sử dụng một số phương pháp nghiên
cứu cụ thể như:
- Phương pháp bình luận, diễn giải, phương pháp lịch sử… được sử dụng
trong chương 1 khi nghiên cứu tổng quan những vấn đề lý luận về tranh chấp đất
đai và giải quyết tranh chấp đất đai thông qua cơ quan hành chính nhà nước;
- Phương pháp so sánh luật học, phương phương pháp đánh giá v.v
được sử dụng trong chương 2 khi tìm hiểu thực trạng áp dụng pháp luật về
giải quyết tranh chấp đất đai thông qua cơ quan hành chính trên địa bàn huyện
Thanh trì;
5
- Phương pháp phân tích, phương pháp tổng hợp… được sử dụng ở
chương 3 khi xem xét, tìm hiểu về hoàn thiện pháp luật về giải quyết tranh chấp
đất đai thông qua việc nghiên cứu thực trạng áp dụng tại huyện Thanh Trì.
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Tổng quan những vấn đề lý luận về tranh chấp đất đai và
giải quyết tranh chấp đất đai thông qua cơ quan hành chính nhà nước.
Chương 2: Thực trạng áp dụng pháp luật về giải quyết tranh chấp đất
đai thông qua cơ quan hành chính trên địa bàn huyện Thanh trì.
Chương 3: Hoàn thiện pháp luật về giải quyết tranh chấp đất đai thông
qua việc nghiên cứu thực trạng áp dụng tại huyện Thanh Trì.
6
Chương 1
TỔNG QUAN NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN
VỀ TRANH CHẤP ĐẤT ĐAI VÀ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP ĐẤT ĐAI
THÔNG QUA CƠ QUAN HÀNH CHÍNH
1.1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ TRANH CHẤP ĐẤT ĐAI
THÔNG QUA CƠ QUAN HÀNH CHÍNH
1.1.1. Khái niệm về tranh chấp đất đai
"Đất đai là tài nguyên quốc gia vô cùng quý giá, là tư liệu sản xuất đặc
biệt, là thành phần quan trọng hàng đầu của môi trường sống, là địa bàn phân bố
các khu dân cư, xây dựng các cơ sở kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh và quốc
phòng" (Lời nói đầu Luật Đất đai năm 1993). Trong điều kiện nền kinh tế nước
ta chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường, Nhà nước đổi mới cơ chế quản lý đất
đai cho phù hợp với đòi hỏi của sự phát triển đất nước trong tình hình mới; đất
đai ngày càng trở lên có giá. Người sử dụng đất (SDĐ) ngày càng nhận thức
được giá trị to lớn của đất đai. Họ gắn bó lâu dài với đất, chú trọng đến đầu tư,
cải tạo và nâng cao hiệu quả sử dụng. Tuy nhiên do đất đai có giá trị lớn là một
trong những nguyên nhân khách quan làm phát sinh những bất đồng, mâu
thuẫn trong SDĐ, khi các chủ thể SDĐ không tìm được "tiếng nói chung" về
chia sẻ lợi ích do đất đai mang lại. Khoa học pháp lý nước ta gọi những bất
đồng, mâu thuẫn này là tranh chấp đất đai. Vậy tranh chấp đất đai là gì?
Tranh chấp đất đai là một thuật ngữ được sử dụng phổ biến trong các
sách, báo pháp ở nước ta. Thuật ngữ này được một số công trình nghiên cứu
dưới đây đi sâu tìm hiểu:
Theo Từ điển tiếng Việt thông dụng do Nguyễn Như Ý (chủ biên): "Tranh
chấp: 1. Giành giật, giằng co nhau cái không rõ thuộc về bên nào; 2. Bất
đồng, trái ngược nhau" [42, tr. 808];
7
Theo Giáo trình Luật đất đai của Trường Đại học Luật Hà Nội: "Tranh
chấp đất đai là sự bất đồng, mâu thuẫn hay xung đột về lợi ích, về quyền và nghĩa
vụ giữa các chủ thể khi tham gia vào quan hệ pháp luật đất đai" [32, tr. 455];
Theo Từ điển Giải thích thuật ngữ Luật học của Trường Đại học Luật
Hà Nội: "Tranh chấp đất đai: Tranh chấp phát sinh giữa các chủ thể tham gia
quan hệ pháp luật đất đai về quyền và nghĩa vụ trong quá trình quản lý và sử
dụng đất đai" [29, tr. 74];
Theo Luật đất đai năm 2003:"Tranh chấp đất đai là tranh chấp về
quyền và nghĩa vụ của người sử dụng đất giữa hai hoặc nhiều bên trong quan
hệ đất đai" (khoản 26 Điều 4);
Từ các quan niệm về tranh chấp đất đai trên đây, chúng ta có thể nhận
diện loại tranh chấp này dựa trên một số đặc trưng cơ bản sau:
Thứ nhất, về bản chấp pháp lý. Tranh chấp đất đai trước hết là những
bất đồng, mâu thuẫn phát sinh trong nội bộ nhân dân. Song đây không phải là
những bất đồng, mâu thuẫn nói chung mà là những bất đồng, mâu thuẫn về
quyền và nghĩa vụ của người SDĐ. Điều này có nghĩa là tranh chấp đất đai là
những bất đồng, mâu thuẫn liên quan đến những việc người SDĐ được làm
(quyền) và những việc không được làm hoặc phải thực hiện (nghĩa vụ) do
pháp luật quy định trong quá trình SDĐ. Hay nói cách khác, đối tượng của
tranh chấp đất đai là những bất đồng, mâu thuẫn về quyền và nghĩa vụ của
người SDĐ trong quan hệ đất đai;
Thứ hai, chủ thể của tranh chấp đất đai. Do chế độ sở hữu đất đai ở
nước ta mang tính đặc thù: Đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại
diện chủ sở hữu. Người SDĐ (bao gồm tổ chức, hộ gia đình, cá nhân; cơ sở
tôn giáo, cộng đồng dân cư; tổ chức, cá nhân nước ngoài, người Việt Nam
định cư ở nước ngoài) không có quyền sở hữu đất đai. Họ chỉ được quyền
SDĐ khi được Nhà nước giao đất, cho thuê đất và công nhận quyền SDĐ.
Nên chủ thể của tranh chấp đất đai là người SDĐ bao gồm hai hoặc nhiều bên
8
trong quan hệ đất đai. Hay nói cách khác, tranh chấp đất đai không phải là
tranh chấp về quyền sở hữu đất đai mà chỉ là các tranh chấp về quyền chiếm
hữu, quyền quản lý hoặc quyền SDĐ giữa những người SDĐ với nhau hoặc
giữa họ với các bên liên quan trong quan hệ đất đai;
Thứ ba, đối tượng của tranh chấp đất đai. Đối tượng của tranh chấp
đất đai không phải là đất đai (vật) mà là các quyền và nghĩa vụ của người
SDĐ (quyền và nghĩa vụ sử dụng vật);
Đối tượng của tranh chấp đất đai được nhận diện trên hai khía cạnh:
(i) Về khía cạnh pháp lý. Đối tượng của tranh chấp đất đai là tranh chấp về
quyền và nghĩa vụ của người SDĐ giữa hai hoặc nhiều bên trong quan hệ đất
đai; (ii) Về khía cạnh kinh tế. Đối tượng của tranh chấp đất đai là tranh chấp
về lợi ích kinh tế (các lợi ích vật chất được tạo ra từ đất đai trong quá trình sử
dụng) giữa các chủ thể trong quá trình quản lý và SDĐ;
Thứ tư, về nội dung của tranh chấp đất đai. Tranh chấp đất đai có nội
hàm rất đa dạng và phức tạp. Nó phong phú về thể loại: Tranh chấp về thừa
kế quyền SDĐ; tranh chấp về phân chia tài sản nhà, đất khi vợ chồng ly hôn;
tranh chấp về các giao dịch về quyền SDĐ; tranh chấp về đòi lại đất cho ở
nhờ, cho mượn Tranh chấp đất đai đa dạng về chủ thể tranh chấp: Các bên
tranh chấp đất đai có thể là hộ gia đình, cá nhân; tổ chức (tổ chức trong nước,
tổ chức nước ngoài); cộng đồng dân cư, cơ sở tôn giáo v.v ;
Thứ năm, Việt Nam là một nước nông nghiệp có khoảng 70% dân số
là nông dân, tỷ lệ diện tích đất canh tác trên một đầu người vào loại thấp trên
thế giới; nên đất đai có vai trò rất quan trọng trên các khía cạnh kinh tế, xã
hội, chính trị. Hơn nữa, đất đai là vấn đề rất nhạy cảm về mặt chính trị; vì vậy
tranh chấp đất đai dễ gây ra sự mất ổn định về chính trị và làm đảo lộn trật tự
các quan hệ xã hội đã được xác lập;
Mặt khác, đất đai liên quan trực tiếp đến lợi ích của mọi thành viên
trong xã hội (đặc biệt là người nông dân) nên tranh chấp đất đai xảy ra đã lôi
9
kéo rất đông người tham gia. Họ không chỉ là các thành viên trong hộ gia đình
mà còn cả người của các dòng họ, dân cư trong thôn, xóm. Tranh chấp đất đai
phản ánh phong tục, tập quán, nếp suy nghĩ, hành vi ứng xử, trình độ văn hóa
khác nhau của cư dân ở các địa phương, các vùng miền trong cả nước. Điều
này làm cho tính chất tranh chấp đất đai rất phức tạp, việc giải quyết gặp
nhiều khó khăn, vướng mắc và kéo dài.
1.1.2. Các dạng tranh chấp đất đai phổ biến
1
Tranh chấp đất đai là một hiện tượng xã hội gây ảnh hưởng tiêu cực
đến sự ổn định chính trị, trật tự an toàn xã hội. Việc tìm hiểu, nhận diện các
tranh chấp đất đai là việc làm rất cần thiết nhằm loại bỏ những nguyên nhân
phát sinh tranh chấp góp phần duy trì sự ổn định chính trị. Thời gian qua đã
có rất nhiều công trình nghiên cứu về tranh chấp đất đai trên các khía cạnh
khác nhau như xã hội, văn hóa, pháp lý, lịch sử v.v đã được công bố. Trên
cơ sở tiếp cận kết quả các công trình khoa học này và tìm hiểu thực tiễn về
tranh chấp đất đai hiện nay, chúng ta có thể nhận diện một số dạng tranh chấp
phổ biến sau đây:
1.1.2.1. Tranh chấp về đòi lại đất đai
Đây là một dạng tranh chấp xuất hiện ngày càng nhiều; đặc biệt khi
nước ta chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường, với những thay đổi về cơ chế
quản lý đất đai thông qua việc Nhà nước giao quyền sử dụng đất (QSDĐ) ổn
định lâu dài và người SDĐ được chuyển QSDĐ trong thời hạn giao đất, cho
thuê đất v.v đã khiến người dân nhận thức được giá trị to lớn của đất đai.
Mặc dù, Hiến pháp năm 1992 và các đạo luật đất đai được ban hành đều
khẳng định quan điểm đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước thống nhất
quản lý song nhận thức của một bộ phận không nhỏ người dân vẫn không
đoạn tuyệt với hình thức sở hữu tư nhân về đất đai. Họ vẫn quan niệm rằng
1
Xem từ bài viết của TS. Doãn Hồng Nhung.
10
đất đai mà Nhà nước giao cho sử dụng và được cấp giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất (GCNQSDĐ) là của mình. Hơn nữa trong điều kiện kinh tế thị
trường, đất đai được trả lại những giá trị ban đầu vốn có; nên người dân ngày
càng ý thức sâu sắc được giá trị của đất đai. Chính vì vậy, dạng tranh chấp về
đòi lại đất vẫn cứ tiếp tục diễn ra với những tình tiết phức tạp, khiếu kiện
đông người và kéo dài. Nghiên cứu về vấn đề này có thể nhận dạng một số
dạng tranh chấp phổ biến sau đây:
Thứ nhất, tranh chấp về đòi lại đất đai mà trước đây ông cha đã hiến
tặng cho Nhà nước, cho các tổ chức hoặc hộ gia đình, cá nhân (thực hiện
chính sách "nhường cơm - sẻ áo") khi thực hiện chính sách đất đai qua các
thời kỳ của Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, Chính phủ cách mạng lâm
thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam và Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam;
Thứ hai, tranh chấp về đòi lại đất nông nghiệp trước đây đã góp vào
hợp tác xã (HTX) nay HTX giải thể hoặc chuyển đổi phương thức hoạt động;
Sau cải cách ruộng đất, nông nghiệp, nông thôn bước vào thời kỳ hợp
tác hóa nông nghiệp. Đặc biệt từ năm 1958, phong trào hợp tác hóa nông
nghiệp theo mô hình sản xuất tập thể, quản lý tập trung: Nhà nước thành lập
các HTX, tập đoàn sản xuất với chính sách đưa đất của người dân vào tập
đoàn và sau đó phân bổ, giao khoán lại cho các thành viên của tập đoàn theo
nguyên tắc bình quân khẩu (cào bằng), trong đó có cả những hộ dân thiếu đất
hay không có đất. Trong một thời gian dài do duy trì
Sau một thời gian dài duy trì cơ chế quản lý tập trung quan liêu bao
cấp và chậm thay đổi cơ chế quản lý mới khi đất nước chuyển sang kinh tế thị
trường nên nhiều HTX, tập đoàn sản xuất hoạt động không hiệu quả, làm ăn
thua lỗ kéo dài bị buộc phải giải thể. Để giải phóng năng lực sản xuất của
người lao động trong sản xuất nông nghiệp, Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết
Trung ương 10/TW năm 1988 về đổi mới cơ chế quản lý kinh tế trong nông
11
nghiệp; theo đó, đất đai được phân chia đến hộ gia đình, cá nhân để sản xuất.
Do việc phân chia đất đai không hợp lý, một số cán bộ xã, huyện đã làm sai
như chia đất sản xuất cho những người không phải là nông dân tạo điều kiện
cho họ đem bán, cho thuê, trong khi đó nông dân không có đất sản xuất. Một
số hộ trước khi vào tập đoàn sản xuất, HTX có đất, đến khi HTX giải thể họ
không có đất để canh tác. Nhiều người trở lại đòi lại đất gây nên tình trạng
mất ổn định trong sản xuất, đời sống, làm cho tâm lý người đang sử dụng ổn
định bất an.
Dạng tranh chấp này rất phức tạp và thường kéo dài, Nhà nước lại
không thừa nhận việc đòi lại đất trong trường hợp đã góp vào HTX (bởi các
tư liệu sản xuất trở thành tài sản chung của tập thể- sở hữu tập thể).
Thứ ba, tranh chấp về đòi lại đất cho ở nhờ hoặc cho mượn đất. Dạng
tranh chấp này phát sinh do việc một bên cho bên kia mượn đất, thuê đất, cho
ở nhờ. Có vụ cho mượn, thuê gần đây, có vụ cho mượn, thuê cách đây vài
chục năm (nhất là ở miền Nam). Trong nhiều trường hợp không làm hợp
đồng, chỉ giao kết bằng miệng dẫn đến khi bên cho mượn, cho thuê, cho ở
nhờ hoặc hết hạn hợp đồng, hoặc đòi lại, bên mượn, thuê, ở nhờ đã xây dựng
nhà kiên cố, một số có tên trong sổ địa chính hoặc được cấp GCNQSDĐ thì
việc tranh chấp này càng trở nên phức tạp, dẫn đến việc công dân khiếu kiện
lên cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong việc cấp GCNQSDĐ.
- Tranh chấp giữa những người làm nghề thủ công, nay thất nghiệp
trở về đòi lại ruộng của những người làm nông nghiệp: Những người làm
nghề thủ công trước đây đã được phân ruộng để sản xuất, để ở. Sau đó họ
không sản xuất nông nghiệp nữa hoặc chuyển đi nơi khác để làm nghề, đến
nay họ trở về đòi lại đất để sản xuất, để ở.
- Tranh chấp về đòi lại đất có nguồn gốc khai hoang; đất vô chủ, đất
vắng chủ do Nhà nước quản lý. Dù các quy định hiện hành đã có nhiều hướng
gợi mở để tháo gỡ vướng mắc trong quá trình sử dụng đối với loại đất này
12
nhưng vẫn còn nhiều bất cập. Ví dụ: người dân tự khai hoang nhưng không
đóng thuế sử dụng, chưa tiến hành xây dựng, không có bằng chứng, giấy tờ
thể hiện việc sử dụng ổn định; khi Nhà nước lấy đất thực hiện dự án thì không
được xem xét bồi thường hoặc không được bồi thường thỏa đáng, hoặc không
có quy định về việc hợp thức QSDĐ cho người dân, cũng dẫn đến tranh chấp,
khiếu kiện.
- Tranh chấp đòi lại đất, tài sản của nhà thờ, các dòng tu, chùa chiền,
miếu mạo, nhà thờ họ. Dạng tranh chấp này thường xảy ra như sau: Trước
đây do hoàn cảnh lịch sử, chính quyền địa phương đã mượn đất của các cơ sở
nói trên để sử dụng hoặc tịch thu một số cơ sở để làm trụ sở cơ quan, trường
học đến nay các cơ sở đó đòi lại nhưng Nhà nước không trả lại được nên
dẫn đến khiếu kiện của các cơ sở đó (ví dụ: Vụ đòi lại đất tại 178 Nguyễn
Lương Bằng, đòi lại đất tại 42 Nhà Chung của giáo xứ Thái Hà và Tòa Giám
mục Hà Nội… trong thời gian vừa qua).
Ngoài ra, một số người được các nhà thờ, dòng tu, chùa chiền, nhà thờ
họ cho đất để ở họ đã xây dựng nhà kiên cố, hoặc lấn chiếm thêm đất của các
cơ sở nói trên dẫn đến việc các cơ sở nói trên đòi lại đất, nhà.
- Tranh chấp về đòi lại đất của ông cha đã được Nhà nước chia cấp
cho người khác sử dụng khi thực hiện chính sách đất đai qua các thời kỳ. Do
một số người bỏ đi nơi khác ở, ra nước ngoài sinh sống cũng trở về đòi lại đất
đai, tài sản trước đây của họ đã được giao cho người khác quản lý, sử dụng.
- Tranh chấp về đòi lại đất giữa đồng bào dân tộc thiểu số với đồng
bào ở các địa phương khác di cư đến khai hoang, làm kinh tế mới: Việc di dân
(đặc biệt là di dân tự do) không phải trường hợp nào cũng được chính quyền
sở tại cấp đất, dẫn đến việc người mới đến phá rừng, lấn chiếm đất đai dẫn
đến tranh chấp với đồng bào dân tộc sở tại. Các tranh chấp này thường xảy ra
ở các vùng kinh tế mới ở Tây Nguyên và một số tỉnh miền núi phía Bắc,
13
- Tranh chấp giữa các nông trường, lâm trường, các đơn vị bộ đội,
các tổ chức SDĐ khác với nhân dân địa phương. Do cơ chế trước đây nên dẫn
đến tình trạng các nông trường, lâm trường, các đơn vị quân đội bao chiếm
một lượng lớn đất đai, không sử dụng hết để đất bỏ hoang hoặc cho người dân
sử dụng theo hình thức "phát canh, thu tô". Việc SDĐ không hiệu quả, quản
lý lại lỏng lẻo, dẫn đến tình trạng người dân chiếm đất để sử dụng. Các tranh
chấp diễn ra gây mất đoàn kết địa phương, tình cảm quân dân.
- Tranh chấp về QSDĐ, tài sản gắn liền với QSDĐ khi vợ chồng ly
hôn: Đây là trường hợp tranh chấp đất hoặc tài sản gắn liền với QSDĐ khi vợ
chồng ly hôn. Đất tranh chấp có thể là đất nông nghiệp, lâm nghiệp hoặc đất
để ở; có thể là giữa vợ chồng với nhau hoặc giữa một bên ly hôn với hộ gia
đình vợ hoặc chồng. Nhiều trường hợp cha mẹ cho con đất ra ở riêng, đến khi
ly hôn thì cha mẹ đòi lại với lý do là cho ở nhờ. Bởi vì khi cho, cha mẹ không
thể hiện bằng văn bản, không có xác nhận của chính quyền địa phương. Dạng
tranh chấp này cũng khá phổ biến và thường kéo dài, khó giải quyết.
- Tranh chấp về quyền thừa kế QSDĐ, tài sản gắn liền với QSDĐ.
Dạng tranh chấp này rất phức tạp bởi trong một vụ tranh chấp thường liên
quan đến nhiều đời, nhiều thế hệ.
Trường hợp người SDĐ chết mà không để lại di chúc và những người
thừa kế không tự thỏa thuận được với nhau về phân chia thừa kế hoặc không
hiểu rõ những quy định pháp luật về thừa kế đất đai nên tranh giành nhau.
Hoặc người sử dụng có lập di chúc nhưng do di chúc có một phần trái pháp
luật hay hình thức không đúng theo quy định pháp luật. Ngoài ra, việc lập di
chúc không rõ ràng, cụ thể cũng gây ra tranh chấp đất đai. Dạng tranh chấp
này gây ảnh hưởng không tốt đến quan hệ gia đình nói riêng và quan hệ xã
hội nói chung.
Trước đây, do chiến tranh hoặc do điều kiện sinh hoạt, người SDĐ vì
một lý do nào đó không tiếp tục sử dụng nữa, đất đai bị bỏ hoang. Sau đó, anh
14
em, con cháu trong gia tộc đến sử dụng, canh tác. Khi đất đai có giá, người
SDĐ đòi lại đất phát sinh tranh chấp. Đối với dạng tranh chấp này, cơ quan
nhà nước có thẩm quyền thường khuyến khích, tạo điều kiện cho các bên tự
thỏa thuận, hòa giải. UBND cấp huyện công nhận về mặt pháp lý việc hòa
giải thành của các bên. Nếu hòa giải không được thì căn cứ theo pháp luật giải
quyết, tùy từng trường hợp mà áp dụng cụ thể. Thời gian gần đây xuất hiện
loại tranh chấp giữa nội bộ thành viên của các gia đình có người đi lao động,
học tập định cư lâu dài ở nước ngoài chuyển tiền về nước nhờ người đứng tên
mua đất và đứng tên hộ trong các giao dịch chuyển QSDĐ (do trước đây,
pháp luật chưa cho phép Việt kiều được mua nhà ở gắn liền với QSDĐ ở tại
Việt Nam). Sau đó những người này ở nước ngoài về yêu cầu anh em, họ
hàng quản lý đất đai chuyển giao lại. Tuy nhiên trong nhiều trường hợp do
hám lợi, người quản lý đất đai không giao lại đất phát sinh tranh chấp, khiếu
kiện kéo dài.
1.1.2.2. Tranh chấp liên quan đến bồi thường, giải phóng mặt bằng
và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất
Đây là dạng tranh chấp phổ biến liên quan đến vấn đề bồi thường, giải
phóng mặt bằng (GPMB) khi Nhà nước thu hồi đất. Người bị thu hồi đất cho
rằng quyền và lợi ích hợp pháp của mình không được bồi thường một cách
thỏa đáng khi Nhà nước thu hồi đất. Loại tranh chấp này phát sinh giữa người
bị thu hồi đất và những người có quyền lợi liên quan với Nhà nước hoặc giữa
những người SDĐ với nhà đầu tư …
Thực tế cho thấy, loại tranh chấp này ngày càng có đông người tham
gia, việc khiếu kiện vượt cấp và kéo dài hòng tạo ra sức ép đối với các cơ
quan nhà nước có thẩm quyền trong việc đáp ứng các đòi hỏi của người bị thu
hồi đất. Một điểm rất đáng chú ý là thời gian gần đây, dạng tranh chấp này có
"bàn tay đạo diễn" của một số người đứng đằng sau trong việc lựa chọn, tổ
chức người tham gia khiếu kiện như: có sự liên kết giữa các địa phương trong
15
một tỉnh hoặc một số tỉnh; lôi kéo được một số đối tượng gia đình chính sách
(bà mẹ Việt Nam anh hùng, thương binh, gia đình liệt sĩ…) hoặc những người
già, phụ nữ tham gia v.v…
1.1.2.3. Tranh chấp phát sinh trong quá trình thực hiện quyền và
nghĩa vụ của người sử dụng đất hợp pháp
Kể từ khi Luật Đất đai năm 1993 được ban hành và cho phép chuyển
QSDĐ trên thị trường cũng bắt đầu xuất hiện dạng tranh chấp về quyền và
nghĩa vụ SDĐ của người SDĐ trong các giao dịch về QSDĐ; cụ thể:
(i) Tranh chấp về hợp đồng chuyển nhượng QSDĐ
Dạng tranh chấp này bao gồm các tranh chấp cụ thể sau:
- Tranh chấp về hợp đồng chuyển đổi QSDĐ.
- Tranh chấp về hợp đồng tặng cho QSDĐ.
- Tranh chấp về hợp đồng chuyển nhượng QSDĐ.
- Tranh chấp về hợp đồng cho thuê QSDĐ.
- Tranh chấp về hợp đồng cho thuê lại QSDĐ.
- Tranh chấp về hợp đồng thế chấp QSDĐ.
- Tranh chấp về hợp đồng bảo lãnh bằng QSDĐ t.
- Tranh chấp về hợp đồng góp vốn bằng QSDĐ.
(ii) Tranh chấp do người khác gây thiệt hại hoặc hạn chế quyền và
nghĩa vụ phát sinh trong quá trình SDĐ
1.1.2.4. Tranh chấp về ranh giới sử dụng đất
Dạng tranh chấp này bao gồm các loại tranh chấp cụ thể sau đây:
- Tranh chấp giữa những người SDĐ với nhau về ranh giới giữa các
diện tích đất được phép sử dụng và quản lý. Đây là tranh chấp do một bên tự
16
ý thay đổi ranh giới vẫn tồn tại trước đây hoặc hai bên không xác định được
ranh giới. Những mảnh đất tranh chấp dạng này thường là đất sang nhượng
nhiều lần, không xác định cụ thể ranh giới khi mua bán. Những tranh chấp về
ranh giới đôi khi còn phát sinh do lỗi từ phía cơ quan nhà nước. Trước đây
khi cơ quan cấp nhà, cấp đất, có ghi diện tích nhưng không đo đạc cụ thể; khi
giao đất chỉ căn cứ vào giấy cấp đất và đơn kê khai diện tích của đương sự.
Sau này khi đương sự kiểm tra lại, thấy có sự sai lệch về diện tích, nhỏ hơn
hoặc bị chồng lấn lên mảnh đất liền kề…
- Tranh chấp về QSDĐ có liên quan đến tranh chấp về địa giới hành
chính. Loại tranh chấp này thường xảy ra giữa người dân ở hai địa phương
tỉnh, huyện, xã với nhau, tập trung ở những nơi có vị trí quan trọng trong việc
phát triển kinh tế, văn hóa, ở những vùng đất có địa giới không rõ ràng v.v
1.1.2.5. Tranh chấp về mục đích sử dụng
Tranh chấp về mục đích sử dụng, đặc biệt là tranh chấp về đất nông
nghiệp với đất lâm nghiệp, giữa đất trồng lúa với đất nuôi tôm, giữa đất trồng
cao su với đất trồng cà phê, giữa đất nông nghiệp với đất thổ cư trong quá
trình phân bố và quy hoạch sử dụng. Trong thực tế trường hợp tranh chấp này
xảy ra như sau: Do mục đích SDĐ nên Nhà nước thu hồi đất đang sử dụng
vào mục đích này để giao sử dụng vào mục đích khác, dẫn đến người đang
SDĐ khiếu kiện việc chuyển mục đích SDĐ hay khiếu kiện về việc thu hồi
đất. Mặt khác, người được Nhà nước giao đất chuyển mục đích sử dụng khiếu
kiện người đang SDĐ phải giao đất cho mình theo quyết định giao đất.
Ngoài các dạng tranh chấp nêu trên, còn có một loại tranh chấp nữa,
đó là tranh chấp trong lĩnh vực quản lý nhà nước về đất đai tức là tranh chấp
hành chính về đất đai. Các tranh chấp này thường nảy sinh khi các đương sự
khiếu kiện lại quyết định hành chính hoặc hành vi hành chính của cơ quan
17
quản lý nhà nước về đất đai hoặc cán bộ quản lý nhà nước về đất đai áp dụng
đã làm ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của họ.
1.1.3. Nguyên nhân của tranh chấp đất đai
Tranh chấp đất đai, khiếu kiện kéo dài xảy ra do nhiều nguyên nhân
khách quan và chủ quan gây ra. Để góp phần giải quyết triệt để, dứt điểm các
tranh chấp, khiếu kiện đất đai kéo dài, không thể không nhận diện rõ ràng
những nguyên nhân chủ yếu gây ra.
1.1.3.1. Nguyên nhân khách quan
Tìm hiểu nguyên nhân tranh chấp đất đai dưới góc độ khách quan cho
thấy tranh chấp đất đai ở nước ta bắt nguồn từ các nguyên nhân chủ yếu sau:
“Thứ nhất, nguyên nhân về lịch sử. Trước năm 1945, ở Việt Nam đất
đai phần lớn nằm trong tay địa chủ, phong kiến và thực dân Pháp. Sau Cách
mạng tháng Tám 1945 và đặc biệt sau năm 1953, ở miền Bắc, Đảng và Chính
phủ tiến hành cải cách ruộng đất, xóa bỏ chế độ chiếm hữu ruộng đất của chế
độ cũ, thiết lập quyền sở hữu ruộng đất cho người nông dân. Năm 1960, thông
qua con đường hợp tác hóa nông nghiệp, ruộng đất của người nông dân được
đưa vào làm tư liệu sản xuất. Đất đai trở thành sở hữu tập thể, tình hình SDĐ
đai tương đối ổn định.
Ở miền Nam trải qua hai cuộc kháng chiến, tình hình SDĐ có nhiều
phức tạp. Trong 9 năm kháng chiến, Chính phủ đã tiến hành chia ruộng đất
cho người nông dân hai lần vào năm 1949- 1950 và năm 1954. Nhưng đến
năm 1954, ngụy quyền Sài Gòn đã thực hiện cải cách điền địa, thực hiện việc
"truất hữu" ruộng đất của nông dân nhằm xóa bỏ thành quả cách mạng, gây ra
những xáo trộn lớn về đất đai. Chiến tranh xảy ra ở miền Nam Việt Nam, với
chính sách dồn dân lập ấp chiến lược của Mỹ, Ngụy, nhiều người dân đã bỏ
ruộng đất, đi lánh nạn.
18
Sau năm 1975, đất nước nối liền một dải, Nhà nước đã tiến hành hợp
tác hóa nông nghiệp, đồng thời xây dựng hàng loạt các nông trường, lâm
trường, trạm trại - những tổ chức bao chiếm quá nhiều diện tích nhưng sử
dụng lại kém hiệu quả. Đặc biệt, qua hai lần điều chỉnh ruộng đất vào năm
1978-1979 và năm 1982-1983, cùng với chính sách chia đất theo kiểu bình
quân đã dẫn đến những xáo trộn lớn về ruộng đất, ranh giới, số lượng, mục
đích SDĐ. Các hiện tượng khiếu kiện đòi lại đất diễn ra ngày càng phức tạp
và phổ biến trong đời sống nhân dân”.
2
Thứ hai, sự chuyển đổi cơ chế quản lý kinh tế ở nước ta từ cơ chế tập
trung, quan liêu, bao cấp sang cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
đã làm cho tranh chấp đất đai diễn ra ngày càng phức tạp hơn.
Trong cơ chế bao cấp, Nhà nước không thừa nhận đất có giá, đất đai
không được tham gia vào lưu thông dân sự. Trong cơ chế thị trường, đất đai
ngày càng trở nên có giá và biến động theo quy luật giá trị của kinh tế thị
trường. Cơ chế thị trường gây ra những cơn sốt đất, nhất là tại các đô thị,
thành phố, trung tâm công nghiệp lớn. Quyền và lợi ích của người SDĐ ngày
càng được Nhà nước mở rộng, đất đai được tham gia vào các giao kết dân sự.
Dân số tăng nhanh, trong khi quỹ đất quốc gia chỉ có giới hạn, mâu thuẫn
giữa cung và cầu về đất đai trong xã hội càng làm tăng lên giá trị của đất.
Những thực trạng trên đã góp phần dẫn đến việc phát sinh các tranh chấp,
khiếu kiện đất đai ngày càng nhiều.
1.1.3.2. Nguyên nhân chủ quan
- Chính sách, pháp luật đất đai và các chính sách, pháp luật liên quan
đến đất đai thiếu tính thống nhất, không đồng bộ qua các thời kỳ
Một điều rất dễ nhận thấy là không một lĩnh vực pháp luật nào mà lại
có nhiều văn bản quy phạm pháp luật như lĩnh vực pháp luật đất đai. Các văn
2
Xem từ bài viết của TS. Doãn Hồng Nhung.