Tải bản đầy đủ (.pdf) (125 trang)

Pháp luật một số quốc gia về không sử dụng năng lượng nguyên tử và kinh nghiệm đối với Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.92 MB, 125 trang )



ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT








NGUYỄN THỊ NGA





PHÁP LUẬT MỘT SỐ QUỐC GIA
VỀ KHÔNG SỬ DỤNG NĂNG LƢỢNG NGUYÊN TỬ
VÀ KINH NGHIỆM ĐỐI VỚI VIỆT NAM





LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC









Hà Nội – 2014


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT




NGUYỄN THỊ NGA



PHÁP LUẬT MỘT SỐ QUỐC GIA
VỀ KHÔNG SỬ DỤNG NĂNG LƢỢNG NGUYÊN TỬ
VÀ KINH NGHIỆM ĐỐI VỚI VIỆT NAM

Chuyên ngành: Luật Quốc tế
Mã số: 60 38 01 08



LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC




Cán bộ hướng dẫn khoa học: TS. NGUYỄN LAN NGUYÊN



HÀ NỘI - 2014


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi.
Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công
trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo
tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn
học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của
Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có
thể bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƢỜI CAM ĐOAN



Nguyễn Thị Nga






MỤC LỤC

LỜI CAM ĐOAN
MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
DANH MỤC BẢNG
MỞ ĐẦU 1
Chƣơng 1. TỔNG QUAN PHÁP LUẬT VỀ NĂNG LƢỢNG NGUYÊN TỬ
VÀ KHÔNG SỬ DỤNG NĂNG LƢỢNG NGUYÊN TỬ 5
1.1 KHÁI NIỆM NĂNG LƢỢNG NGUYÊN TỬ 5
1.1.1 Định nghĩa 5
1.1.2 Lịch sử phát triển năng lượng nguyên tử trên Thế giới 5
1.1.3 Lợi ích và bất cập của việc sử dụng năng lượng nguyên tử……… 8

1.2 PHÁP LUẬT VỀ NĂNG LƢỢNG NGUYÊN TỬ VÀ KHÔNG
SỬ DỤNG NĂNG LƢỢNG NGUYÊN TỬ 14
1.2.1 Tổng quan về pháp luật năng lượng nguyên tử 14
1.2.2 Các tổ chức ủng hộ việc không sử dụng năng lượng nguyên tử 19
Chƣơng 2. PHÁP LUẬT CỦA MỘT SỐ QUỐC GIA ĐIỂN HÌNH VỀ
KHÔNG SỬ DỤNG NĂNG LƢỢNG NGUYÊN TỬ 23
2.1 NHẬN XÉT CHUNG 23
2.2 MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN ĐƢỢC QUY ĐỊNH TRONG PHÁP
LUẬT CỦA MỘT SỐ QUỐC GIA ĐIỂN HÌNH VỀ KHÔNG SỬ
DỤNG NĂNG LƢỢNG NGUYÊN TỬ 27
2.2.1 Pháp luật Cộng hòa liên bang Đức 29
2.2.1.1 Chính sách năng lượng nguyên tử của Đức 33
2.2.1.2 Pháp luật năng lượng nguyên tử của Đức 43
2.2.2 Pháp luật Cộng hòa Áo 54
2.2.2.1 Thực trạng sử dụng năng lượng nguyên tử ở Áo và sự phát triển
của phong trào chống năng lượng nguyên tử 55



2.2.2.2 Pháp luật năng lượng nguyên tử của Cộng hòa Áo 61
2.2.3 Pháp luật Ý 63
2.2.3.1 Thực trạng sử dụng năng lượng nguyên tử ở Ý 63
2.2.3.2 Pháp luật năng lượng nguyên tử của Ý 64
2.2.4 Pháp luật Vƣơng quốc Bỉ 68
2.2.4.1 Thực trạng sử dụng năng lượng nguyên tử ở Bỉ 68
2.2.4.2 Pháp luật năng lượng nguyên tử của Bỉ 69
2.2.5 Pháp luật Thụy Sỹ 73
2.2.5.1 Thực trạng sử dụng năng lượng nguyên tử ở Thụy Sỹ 73
2.2.5.2 Pháp luật năng lượng nguyên tử của Thụy Sỹ 76
2.2.6 Pháp luật Nhật Bản 77
2.2.6.1 Thực trạng sử dụng năng lượng nguyên tử ở Nhật Bản 77
2.2.6.2 Pháp luật năng lượng nguyên tử của Nhật Bản 78
2.2.7 Pháp luật Úc 92
2.2.7.1 Thực trạng sử dụng năng lượng nguyên tử ở Úc 92
2.2.7.2 Pháp luật năng lượng nguyên tử của Úc 93
Chƣơng 3. KINH NGHIỆM ĐỐI VỚI VIỆT NAM VÀ GIẢI PHÁP
KHÔNG SỬ DỤNG NĂNG LƢỢNG NGUYÊN TỬ Ở VIỆT NAM 97
3.1 THỰC TRẠNG VIỆC SỬ DỤNG NĂNG LƢỢNG NGUYÊN
TỬ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY 97
3.2 KINH NGHIỆM ĐỐI VỚI VIỆT NAM TRONG VIỆC SỬ
DỤNG NĂNG LƢỢNG NGUYÊN TỬ 102
3.2.1 Hoàn thiện hệ thống quy phạm pháp luật về năng lượng nguyên
tử……. 104
3.2.2 Giải pháp về không sử dụng năng lượng nguyên tử ở Việt Nam 107
KẾT LUẬN 112
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 115




DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

- ABWR: Lò phản ứng nƣớc sôi cải tiến
- BWR: Lò phản ứng nƣớc sôi
- FBR: Lò phản ứng tái sinh
- FNR: Lò phản ứng Neutron nhanh
- GCHWR: Lò làm mát khí bằng nƣớc nặng
- HTR: Lò Phản ứng Nƣớc Nóng
- LWR: Lò phản ứng nƣớc
- NLNT: Năng lƣợng nguyên tử
- PHWR: Lò phản ứng nƣớc nặng
- PWR: Lò phản ứng áp suất nƣớc
- VVER: Lò phản ứng nƣớc nhẹ


DANH MỤC BẢNG

SỐ BẢNG
NỘI DUNG
TRANG

Bảng 1
Thống kê số lƣợng lò phản ứng điện nguyên tử đang hoạt
động, đang đƣợc xây dựng và vĩnh viễn chấm dứt hoạt
động trên thế giới

26

Bảng 2
Danh sách các quốc gia tiêu biểu có kế hoạch loại bỏ

các lò phản ứng hiện tại hoặc có chính sách hạn chế
năng lƣợng nguyên tử

30
Bảng 3
Các nhà máy điện nguyên tử ở Đức
33
Bảng 4
Lò phản ứng điện nguyên tử và lò phản ứng thử nghiệm
ngừng hoạt động
40
Bảng 5
Kế hoạch và đề xuất các lò phản ứng điện nguyên tử đến
năm 2030
102


1
MỞ ĐẦU
1. TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI
Trong ba phần tƣ thế kỷ qua, kể từ khi các chất đồng vị phóng xạ đƣợc tìm ra
vào năm 1934, các chất này đã đƣợc ứng dụng rộng rãi trong nhiều lĩnh vực của đời
sống và mang lại hiệu quả rất lớn cho cuộc sống con ngƣời: Năng lƣợng nguyên tử
đã đƣợc ứng dụng trong y tế, nông nghiệp, công nghiệp, địa chất, khoáng sản, khí
tƣợng, thuỷ văn, giao thông, xây dựng, dầu khí, Đặc biệt, một trong những ứng
dụng của năng lƣợng nguyên tử là điện nguyên tử. điện nguyên tử đã có lịch sử phát
triển hơn 50 năm kể từ ngày nhà máy điện nguyên tử đầu tiên trên thế giới đƣợc đƣa
vào vận hành ở Liên xô cũ năm 1954. Kể từ ngày đó đến nay, ngành điện nguyên tử
đã đạt đƣợc những thành tựu đáng kể, nhƣng cũng gặp phải những rủi ro nặng nề,
đã có những thời kỳ phát triển rực rỡ, nhƣng cũng có những bƣớc thăng trầm.

Nhu cầu ứng dụng năng lƣợng nguyên tử vào phát triển kinh tế xã hội ở Việt
Nam là nhu cầu chính đáng. Việc nghiên cứu ứng dụng năng lƣợng nguyên tử ở
Việt Nam trong các lĩnh vực y tế, nông nghiệp, công nghiệp, nghiên cứu khoa
học… là rất cần thiết và nên đƣợc phát triển hơn nữa để tƣơng xứng với tiềm năng
và nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội. Tuy nhiên, việc phát triển điện nguyên tử là
một vấn đề cần phải nghiên cứu xem xét kỹ lƣỡng, bởi bên cạnh những lợi ích mà
điện nguyên tử mang lại, nguồn năng lƣợng này cũng tiềm ẩn những nguy cơ và bộc
lộ một số hạn chế. Hơn nữa, cơ sở hạ tầng cần thiết cho việc thực hiện dự án nhà
máy điện nguyên tử bao gồm một phạm vi rộng lớn các vấn đề từ cơ sở và thiết bị
liên quan đến khuôn khổ luật pháp, nguồn nhân lực, nguồn tài chính… của Việt
Nam còn ở trình độ phát triển chƣa cao. Hệ thống các văn bản pháp luật trong nƣớc
quy định về việc sử dụng năng lƣợng nguyên tử vì mục đích hoà bình hiện nay vẫn
còn chƣa hoàn thiện: Một số văn bản chƣa ban hành kịp, chƣa làm rõ hệ thống
khung cũng nhƣ chi tiết các văn bản quy phạm pháp luật cần xây dựng. Ngoài ra,
một số quốc gia trên Thế giới hiện nay đã bày tỏ quan điểm không sử dụng năng
lƣợng nguyên tử:

2
Một số quốc gia, đặc biệt là các quốc gia ở châu Âu đã từ bỏ việc sử dụng
năng lƣợng nguyên tử: Áo là nƣớc đầu tiên bắt đầu từ bỏ việc sử dụng năng lƣợng
nguyên tử (năm 1978) và đã đƣợc theo sau bởi Thụy Điển (1980), Ý (1987), Bỉ
(1999), và Đức (2002). Sau thảm họa hạt nhân Fukushima vào tháng 3/2011 , Đức
đã vĩnh viễn đóng cửa tám lò phản ứng và cam kết đóng phần còn lại vào năm 2035.
Ngƣời Ý đã bỏ phiếu áp đảo để giữ cho đất nƣớc họ phi hạt nhân. Thụy Sĩ và Tây
Ban Nha đã cấm việc xây dựng các lò phản ứng mới. Thủ tƣớng Nhật Bản đã kêu
gọi giảm đáng kể sự phụ thuộc của Nhật Bản vào năng lƣợng nguyên tử. Tổng
thống Đài Loan cũng đã làm tƣơng tự. Bỉ đang xem xét loại bỏ các nhà máy năng
lƣợng nguyên tử của họ, có thể vào năm 2015 [27].
Tính đến tháng 11 năm 2011, các quốc gia nhƣ Úc, Áo, Đan Mạch, Hy Lạp,
Ireland, Ý, Latvia, Liechtenstein, Luxembourg, Malta, Bồ Đào Nha, Israel,

Malaysia , New Zealand, và Na Uy đã phản đối năng lƣợng nguyên tử [27]. Mặc
dù, trƣớc đây, hầu hết các nƣớc này vẫn hoàn toàn ủng hộ và hỗ trợ tài chính cho
năng lƣợng nguyên tử và nghiên cứu.
Vì vậy, việc nghiên cứu quan điểm về không sử dụng năng lƣợng nguyên tử
cũng nhƣ những quy định pháp luật liên quan đến vấn đề này ở một số nƣớc là rất
cần thiết trong bối cảnh Việt Nam đang xúc tiến việc phát triển năng lƣợng nguyên
tử. Trên cơ sở lý giải cơ sở khoa học, cơ sở lý luận của việc loại bỏ năng lƣợng
nguyên tử ở các nƣớc trên và kinh nghiệm về việc khai thác, sử dụng những nguồn
năng lƣợng khác thay thế cho năng lƣợng nguyên tử sẽ mang lại bài học tốt choViệt
Nam.
Từ những phân tích trên đây, học viên đã lựa chọn đề tài: " Pháp luật một số
quốc gia về không sử dụng năng lượng nguyên tử và kinh nghiệm đối với Việt
Nam " cho luận văn Thạc sỹ luật học của mình.


3
2. MỤC ĐÍCH, PHẠM VI NGHIÊN CỨU CỦA LUẬN VĂN
2.1 Mục đích nghiên cứu
Vấn đề năng lƣợng nguyên tử ở Việt Nam là một vấn đề mới mẻ so với các
nƣớc trên thế giới, nên vấn đề về việc loại bỏ dần năng lƣợng nguyên tử lại càng là
vấn đề mới mẻ hơn nữa. Hiện nay ở nƣớc ta đã có công trình nghiên cứu về xây
dựng và hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về lĩnh vực năng lƣợng
nguyên tử, nhƣ Luận văn thạc sĩ luật học của tác giả Phạm Gia Chƣơng với đề tài:
"Pháp luật quốc tế và pháp luật nƣớc ngoài về năng lƣợng nguyên tử vì mục đích
hoà bình", ngoài ra, chúng ta cũng chỉ có một số bài báo, bài viết đơn lẻ. Tuy nhiên,
những nghiên cứu đối với vấn đề nghiên cứu pháp luật, chính sách của một số quốc
gia trên Thế giới về việc không sử dụng năng lƣợng nguyên tử thì gần nhƣ không
có. Vì vậy, đề tài này nhằm mục tiêu nghiên cứu đề xuất hƣớng phát triển năng
lƣợng nguyên tử trong tƣơng quan tính đến một tƣơng lai xa, tƣơng lai sau khi năng
lƣợng nguyên tử đã phát triển và mang lại nhiều lợi ích cho quốc gia. Khi đó, cần đa

dạng hóa các dạng năng lƣợng và thay thế dần năng lƣợng nguyên tử bằng những
dạng năng lƣợng sạch khác, sau khi đã có cơ chế khai thác, sử dụng, đạt đƣợc lợi
ích tối đa từ năng lƣợng nguyên tử mang lại.
2.2 Phạm vi nghiên cứu
Vấn đề năng lƣợng nguyên tử là vấn đề lớn, bao trùm lên nhiều lĩnh vực.
Trong phạm vi nghiên cứu của đề tài, tác giả đề cập đến những vấn đề cơ bản sau:
- Thực tế việc sử dụng năng lƣợng nguyên tử nói chung và năng lƣợng
nguyên tử nói riêng trên Thế Giới
- Quy định pháp luật của một số quốc gia hữu quan về việc không sử dụng
năng lƣợng nguyên tử
- Vì sao một số nƣớc lại có quan điểm không sử dụng năng lƣợng nguyên tử
- Kinh nghiệm rút ra cho Việt Nam
- Hƣớng phát triển các dạng năng lƣợng khác thay thế cho năng lƣợng
nguyên tử tại Việt Nam

4
2.3 Cơ sở phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu
Luận văn dựa trên phƣơng pháp luận của triết học Mác - Lênin và tƣ tƣởng
Hồ Chí Minh về duy vật biện chứng và duy vật lịch sử.
Luận văn dựa trên sự kết hợp giữa phƣơng pháp nghiên cứu từ cái chung
đến cái riêng, phƣơng pháp phân tích và tổng hợp, phƣơng pháp lôgic và lịch sử,
phân tích và so sánh đặc biệt là phƣơng pháp so sánh luật học: Luận văn đƣợc
nghiên cứu trên cơ sở xem xét, so sánh quy định của pháp luật một số quốc gia và
Việt Nam về việc sử dụng năng lƣợng nguyên tử.
Luận văn cũng kết hợp chặt chẽ giữa lý luận và thực tiễn trong quá trình
nghiên cứu và giải quyết những vấn đề mà đề tài đặt ra, nhƣ dựa vào những số liệu
đánh giá những ƣu điểm và nhƣợc điểm của việc sử dụng năng lƣợng nguyên tử
2.4 Ý nghĩa thực tiễn và đóng góp của luận văn
Khi nghiên cứu đề tài này, ngƣời viết không đặt ra quá nhiều tham vọng mà
trƣớc hết là trang bị thêm kiến thức chuyên sâu cho bản thân; đồng thời, góp một

phần nhỏ bé của mình vào tiếng nói chung của giới luật học nhằm hoàn thiện pháp
luật về năng lƣợng nguyên tử của Việt Nam.
2.5 Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm 3
chƣơng
Chương 1: Tổng quan pháp luật về việc không sử dụng năng lƣợng nguyên tử
Chương 2: Quy định pháp luật của một số quốc gia điển hình về không sử dụng
năng lƣợng nguyên tử
Chương 3: Kinh nghiệm đối với Việt Nam và giải pháp sử dụng những dạng năng
lƣợng khác thay thế năng lƣợng nguyên tử


5
Chương 1
TỔNG QUAN PHÁP LUẬT VỀ NĂNG LƢỢNG NGUYÊN TỬ VÀ KHÔNG
SỬ DỤNG NĂNG LƢỢNG NGUYÊN TỬ
1.1 KHÁI NIỆM NĂNG LƢỢNG NGUYÊN TỬ
1.1.1 Định nghĩa
Theo quy định tại Khoản 1, Điều 3 của Luật Năng lƣợng nguyên tử
Việt Nam năm 2008, thuật ngữ “Năng lượng nguyên tử” đƣợc định nghĩa là:
“Năng lượng được giải phóng trong quá trình biến đổi hạt nhân bao gồm
năng lượng phân hạch, năng lượng nhiệt hạch, năng lượng do phân rã chất
phóng xạ; là năng lượng sóng điện từ có khả năng ion hoá vật chất và năng
lượng các hạt được gia tốc”.
1.1.2 Lịch sử phát triển năng lƣợng nguyên tử trên Thế giới
Lịch sử của năng lƣợng nguyên tử khởi đầu với việc xây dựng mô hình
nguyên tử. Năm 1912, nhà vật lý Ernest Rutherford (1871 - 1937) ngƣời Anh, sau
khi phát hiện ra hạt nhân nguyên tử đã cùng với nhà vật lý Niels Bohr (1885 - 1962)
ngƣời Đan Mạch đề xuất một mô hình nguyên tử: Nguyên tử gồm một hạt nhân tích
điện dƣơng đƣợc bao quanh bởi các electron [20].

Năm 1913, Rutherford phát hiện ra proton. Năm 1932, nhà vật lý James
Chadwick (1891 - 1974) ngƣời Anh phát hiện ra nơtron. Năm 1939, nhà vật lý
Frederic Joliot-Curie (1900 - 1958) ngƣời Pháp cùng với các trợ lý là Lew Kowaski
và Hans Von Halban đã chứng minh rằng hiện tƣợng phân rã hạt nhân (phân hạch)
uran kéo theo sự toả nhiệt rất lớn [20]. Việc phát hiện ra phản ứng dây chuyền sau
này cho phép khai thác năng lƣợng nguyên tử.
Trong Đại chiến thế giới lần thứ II (1939-1945), các nghiên cứu về hiện
tƣợng phân hạch đƣợc tiếp tục tiến hành ở Mỹ, với sự tham gia của các nhà khoa

6
học từ châu Âu di cƣ sang đó. Kế hoạch Mahattan đƣợc phát động với mục đích chế
tạo vũ khí hạt nhân mà hệ quả là các vụ nổ hạt nhân (bom nguyên tử) ở hai thành
phố Hiroshima và Nagasaki (Nhật Bản) vào tháng 8/1945 [20].
Ngay sau chiến tranh, những nghiên cứu về năng lƣợng phân hạch đƣợc tiếp
tục tiến hành để sử dụng vào mục đích dân sự. Ở Pháp, ủy hội năng lƣợng nguyên
tử Pháp (Commissariat à l'énergie Atomique CEA) đƣợc thành lập vào năm 1945
[20]. Nhiệm vụ của Cơ quan nghiên cứu này là giúp nƣớc Pháp làm chủ đƣợc
nguyên tử trong các lĩnh vực nghiên cứu, y tế, năng lƣợng, công nghiệp, an ninh và
quốc phòng.
Sau chiên tranh, chính quyền Mĩ khuyến khích phát triển năng lƣợng nguyên
tử cho các mục đích dân sự hòa bình. Quốc hội Mĩ đã thành lập Ủy ban Năng lƣợng
Nguyên tử (AEC) vào năm 1946. AEC đã ủy quyền xây dựng Lò Tái sinh Thực
nghiệm I tại một địa điểm ở Idaho. Lò phản ứng ấy phát điện lần đầu tiên từ năng
lƣợng nguyên tử vào ngày 20/12/1951 [16].
Một mục tiêu chính trong nghiên cứu hạt nhân vào giữa thập niên 1950 là
chứng tỏ rằng năng lƣợng nguyên tử có thể phát điện dùng cho mục đích thƣơng
mại. Nhà máy phát điện thƣơng mại đầu tiên chạy bằng năng lƣợng nguyên tử đặt
tại Shippingport, Pennsylvania. Nó đạt tới công suất thiết kê trọn vẹn vào năm 1957
[16]. Các lò phản ứng nƣớc nhẹ kiểu nhƣ Shippingport sử dụng nƣớc bình thƣờng
để làm nguội lõi lò phản ứng trong phản ứng dây chuyền. Chúng là mẫu thiết kế tốt

nhất khi ấy cho nhà máy điện nguyên tử.
Ngành công nghiệp bí mật ngày càng liên quan nhiều hơn đến việc phát triển
các lò phản ứng nƣớc nhẹ sau khi Shippingport đi vào hoạt động. Các chƣơng trình
năng lƣợng nguyên tử đã chuyển sự tập trung sang việc phát triển các công nghệ lò
phản ứng khác.
Ngành công nghiệp điện nguyên tử ở Mĩ phát triển nhanh chóng trong thập
niên 1960. Các công ty thực dụng đã nhìn thấy dạng sản xuất điện này thật kinh tế,
sạch về mặt môi trƣờng và an toàn. Tuy nhiên, vào thập niên 1970 và 1980, sự tăng

7
trƣởng bị chậm lại. Nhu cầu điện giảm đi và các lo ngại về điện nguyên tử ngày
càng tăng, ví dụ nhƣ sự an toàn lò phản ứng, vấn đề chất thải, và những xem xét
môi trƣờng khác [16].
Tuy nhiên, nƣớc Mĩ vẫn có số lƣợng nhà máy điện nguyên tử đang hoạt động
nhiều gấp đôi so với bất kì nƣớc nào trên Thế Giới vào năm 1991, chiếm hơn một
phần tƣ số lƣợng nhà máy đang hoạt động trên Thế Giới. Năng lƣợng nguyên tử
cung cấp gần 22% điện năng sản xuất ở nƣớc Mĩ [16].
Cuối năm 1991, 31 quốc gia khác cũng có nhà máy điện nguyên tử đang khai
thác thƣơng mại hoặc đang xây dựng [16]. Đó là một sự chuyển giao công nghệ
điện nguyên tử rộng khắp và ấn tƣợng.
Trong thập niên 1990, nƣớc Mĩ phải đối mặt trƣớc một vài vấn đề năng
lƣợng chính, và đã phát triển một vài mục tiêu chính cho năng lƣợng nguyên tử, đó
là: Duy trì sự an toàn cao và các chuẩn thiết kế; Giảm rủi ro kinh tế; Giảm rủi ro
điều tiết; Thiết lập một chƣơng trình chất thải hạt nhân mức cao thật hiệu quả. Một
vài trong số những mục tiêu năng lƣợng nguyên tử này đã đƣa vào Chính sách Năng
lƣợng năm 1992, đƣợc kí thành luật (nƣớc Mĩ) vào tháng 10 cùng năm [16].
Nƣớc Mĩ đang hành động để đạt tới những mục tiêu này theo nhiều phƣơng
thức khác nhau. Chẳng hạn, Bộ Năng lƣợng Mĩ gánh vác một số nỗ lực chung với
ngành công nghiệp hạt nhân để phát triển thế hệ tiếp theo của các nhà máy điện
nguyên tử. Những nhà máy đã và đang đƣợc thiết kế ngày một an toàn hơn và hiệu

quả hơn. Đây cũng là một nỗ lực nhằm làm cho nhà máy điện nguyên tử dễ xây
dựng hơn bằng cách chuẩn hóa thiết kế và đơn giản hóa các đòi hỏi bản quyền, mà
không giảm bớt các tiêu chuẩn an toàn.
Trong lĩnh vực quản lí chất thải, các kĩ sƣ đang phát triển những phƣơng
pháp mới và những địa điểm mới dùng cất trữ chất thải phóng xạ tạo ra bởi các nhà
máy điện nguyên tử và những quá trình hạt nhân khác. Mục tiêu của họ là giữ chất
thải hạt nhân cách xa môi trƣờng sống và con ngƣời trong những khoảng thời gian
rất lâu.

8
Các nhà khoa học cũng đang nghiên cứu năng lƣợng nhiệt hạch hạt nhân. Sự
nhiệt hạch xảy ra khi các nguyên tử liên kết lại – hay hợp nhất – thay vì phân tách
ra. Nhiệt hạch là năng lƣợng đã cấp nguồn cho mặt trời. Trên Trái dât, nhiên liệu
nhiệt hạch hứa hẹn nhất là deuterium, một dạng hydrogen. Nó có trong nƣớc và dồi
dào. Nó cũng tạo ra chất thải kém độ phóng xạ hơn so với sự phân hạch. Tuy nhiên,
các nhà khoa học vẫn chƣa thể sản xuất năng lƣợng có ích từ sự nhiệt hạch và vẫn
đang trong tiến trình nghiên cứu.
Nghiên cứu trong những lĩnh vực hạt nhân khác vẫn tiếp tục trong thập niên
1990. Công nghệ hạt nhân giữ vai trò quan trọng trong y khoa, công nghiệp, khoa
học, và thực phẩm và nông nghiệp, cũng nhƣ phát điện. Ví dụ, các bác sĩ sử dụng
các đồng vị phóng xạ để nhận dạng và nghiên cứu các nguyên nhân gây bệnh. Họ
còn dùng chúng để tăng liệu pháp điều trị y khoa truyền thống. Trong công nghiệp,
các đồng vị phóng xạ đƣợc dùng để đo những chiều dày vi mô, dò tìm những dị
thƣờng trong vỏ bọc kim loại, và kiểm tra các mối hàn. Các nhà khảo cổ sử dụng kĩ
thuật hạt nhân để xác dịnh niên đại các vật thời tiền sử một cách chính xác và định
vị các khiếm khuyết ở các tƣợng đài và nhà cửa. Bức xạ hạt nhân đƣợc dùng để bảo
quản thực phẩm. Nó giữ đƣợc nhiều vitamin hơn so với đóng hộp, đông lạnh hoặc
sấy khô [16].
Nghiên cứu hạt nhân còn mang lợi ích cho nhân loại theo nhiều kiểu. Nhƣng
ngày nay, ngành công nghiệp hạt nhân phải đối mặt trƣớc những vấn đề lớn, rất

phức tạp. Làm thế nào chúng ta có thể giảm tối thiểu các rủi ro? Tƣơng lai sẽ tùy
thuộc vào kĩ nghệ tiên tiến, nghiên cứu khoa học, và sự tham gia của mọi công dân.
1.1.3 Lợi ích và bất cập của việc sử dụng năng lƣợng nguyên tử
1.1.3.1 Lợi ích
Theo nghiên cứu "Công nghệ hạt nhân vì tương lai bền vững" của IAEA vào
tháng 6/2012, công nghệ hạt nhân có 6 lợi ích to lớn trong nỗ lực xây dựng tƣơng
lai bền vững, bao gồm:

9
Thứ nhất, tăng trƣởng dân số, thúc đẩy phát triển kinh tế, và thay đổi lối sống
đòi hỏi nguồn tài nguyên hơn bao giờ hết. Khai thác quá mức nguồn tài nguyên đã
bắt đầu làm tổn hại đến tự nhiên nhƣ đa dạng sinh học, không khí sạch, nƣớc sạch
và đất canh tác, một xu hƣớng đe dọa tính bền vững của phát triển. Để giúp chính
phủ các nƣớc thành viên đạt đƣợc khả năng áp dụng lớn hơn, IAEA đã phát triển
một phƣơng pháp mới để mô hình hóa các tƣơng tác phức tạp này gọi là CLEWS
(Chiến lƣợc khí hậu, sử dụng đất, năng lƣợng và nƣớc) cho phép phân tích đồng
thời và gắn kết tất cả các lĩnh vực này.
Thứ hai, cơ hội sử dụng nƣớc đủ, an toàn ngày càng tăng có thể đƣợc thực
hiện thông qua các kỹ thuật hạt nhân. Kỹ thuật này giúp chỉ ra các nguồn nƣớc
ngầm với chi phí thấp và nhanh hơn bất kỳ phƣơng pháp nào khác. Kỹ thuật hạt
nhân cũng nâng cao hiệu quả của hệ thống thủy lợi, sử dụng 70% tất cả các nguồn
nƣớc ngọt.
Thứ ba, cơ hội sử dụng năng lƣợng giá rẻ trực tiếp cải thiện phúc lợi của con
ngƣời. Dự báo hiện nay cho thấy nhu cầu điện tăng tới 60 đến 100% vào năm 2030.
Là một nguồn năng lƣợng carbon thấp, điện nguyên tử có thể giảm tối đa phát thải
khí gây hiệu ứng nhà kính và giảm thiểu các tác động tiêu cực của biến đổi khí hậu.
IAEA giúp các nƣớc đang sử dụng hoặc đƣa vào điện nguyên tử thực hiện một cách
an toàn, an ninh, kinh tế và bền vững. Các tiêu chuẩn an toàn, sự hỗ trợ và các đánh
giá của IAEA đang làm tăng tính an toàn cho lĩnh vực này. IAEA cũng xác minh
năng lƣợng nguyên tử chỉ đƣợc sử dụng cho mục đích hòa bình, trực tiếp góp phần

vào hòa bình và an ninh.
Thứ tƣ, cơ hội sử dụng nguồn lƣơng thực bền vững sẽ vẫn là một thách thức
lớn trong những thập kỷ tới. Dựa trên thực tế và tiêu thụ hiện nay, sản xuất nông
nghiệp sẽ phải tăng khoảng 70% vào năm 2050 để đáp ứng nhu cầu [18]. Kỹ thuật
hạt nhân đƣợc sử dụng ở các nƣớc đang phát triển để tăng sản xuất một cách bền
vững bằng cách nhân giống cây trồng đƣợc cải tiến, tăng cƣờng chăn nuôi và sinh
sản gia súc, cũng nhƣ kiểm soát sâu bệnh và dịch bệnh ở động vật và thực vật. Tổn

10
thất sau thu hoạch có thể đƣợc giảm và gia tăng an toàn với công nghệ hạt nhân. Đất
có thể đƣợc đánh giá với các kỹ thuật hạt nhân để giữ và cải thiện năng suất đất và
quản lý nƣớc.
Thứ năm, giúp hiểu rõ hơn và bảo vệ đại dƣơng, kỹ thuật hạt nhân đƣợc sử
dụng để theo dõi cân bằng hóa học thay đổi của đại dƣơng gây ra bởi quá trình axit
hóa đại dƣơng, có thể làm chậm sự phát triển và gây nguy hiểm cho san hô và tăng
trƣởng của vi sinh vật . Kỹ thuật hạt nhân cũng là công cụ mạnh đƣợc sử dụng để có
đƣợc một bức tranh chính xác của quá khứ trƣớc đây của đại dƣơng.
Thứ sáu, sức khỏe cho hàng triệu bệnh nhân dựa vào chẩn đoán và điều trị
bệnh an toàn và hiệu quả. Kỹ thuật hạt nhân cung cấp thông tin chẩn đoán chính
xác, rất quan trọng trong việc phát hiện và chữa cả bệnh truyền nhiễm và không
truyền nhiễm nhƣ ung thƣ. Dƣợc chất phóng xạ đƣợc sử dụng để điều trị bệnh và
cho phép chụp ảnh chẩn đoán. Xạ trị cũng sử dụng chùm tia bức xạ hội tụ, rất cần
thiết trong chữa bệnh. Trong thế giới đang phát triển, các bệnh truyền nhiễm và
không lây, cũng nhƣ suy dinh dƣỡng, tạo ra một gánh nặng kinh tế - xã hội, đe dọa
tính bền vững. Sử dụng phối hợp tốt, an toàn kỹ thuật hạt nhân để phát hiện, chẩn
đoán và điều trị bệnh và chống suy dinh dƣỡng góp phần cải thiện sức khỏe và sự
ổn định xã hội trên toàn thế giới.
Trên thực tế, nhiều nƣớc trên Thế giới đã sử dụng năng lƣợng nguyên tử để
sản xuất điện năng vì phƣơng pháp này có những ƣu điểm nhƣ: tiêu thụ ít nhiên liệu
hơn so với nhiệt điện sử dụng nhiên liệu hóa thạch, ít gây ô nhiễm môi trƣờng, diện

tích xây dựng nhà máy điện nguyên tử giảm bớt do không cần bãi chứa than hay
kho dầu, vị trí xây dựng không nhất thiết phải gần đƣờng giao thông hay các mỏ
than.
Ƣu điểm lớn nhất của điện nguyên tử là tăng cƣờng an ninh năng lƣợng quốc
gia. Tài nguyên năng lƣợng không đồng đều trên toàn cầu, khoảng 70% trữ lƣợng
dầu thô ở Trung Đông, 70% trữ lƣợng khí đốt ở Trung Đông và Liên Xô cũ. Việc
cung cấp năng lƣợng cho các nƣớc phụ thuộc năng lƣợng trên toàn Thế giới cho

11
thấy: dự trữ than sẽ chỉ còn đủ dùng trong khoảng 200 năm, dầu thô trong 40 năm
và khí đốt trong 60 năm tới. Công nghệ mới đƣợc sử dụng trong thăm dò, khai thác
chế biến nhƣng giá thành cao. Trữ lƣợng nhiên liệu Uranium tự nhiên trên Thế giới
hiện đƣợc đánh giá đủ dùng trong 70 năm. Nhƣng với công nghệ hiện nay, nếu sử
dụng chu trình có tái chế nhiên liệu Uranium có thể đủ dùng trong 700 - 800 năm
[9]. Đây là tiềm năng lớn về an ninh nhiên liệu trung và dài hạn. điện nguyên tử góp
phần đa dạng hóa loại hình sản xuất điện, giảm phụ thuộc vào các loại nhiên liệu
hóa thạch, tránh đƣợc những cơn khủng hoảng nhiên liệu 2-3 thập kỷ tới.
Điện nguyên tử còn đƣợc đánh giá là giải pháp năng lƣợng sạch tối ƣu khi
không thải ra các chất độc hại nhƣ tro bay, khí SO
2
, NO
2
, CO và khí hiệu ứng nhà
kính CO
2
vào khí quyển nhƣ các nhà máy nhiệt điện sử dụng năng lƣợng hóa thạch.
điện nguyên tử sản xuất lại có giá thành thấp hơn, công suất lớn hơn…
Tuy nhiên, trong quá trình chế biến, xử lý nhiên liệu và vận hành nhà máy
điện nguyên tử có thể gây nên những tác động có hại đến môi trƣờng và sức khỏe
cộng đồng, do luôn tiềm ẩn nguy cơ rò rỉ, thải vật liệu phóng xạ ra môi trƣờng, các

sự cố nghiêm trọng khi vận hành lò phản ứng
1.1.3.2 Bất cập
Có lẽ, việc lựa chọn hay không nguồn năng lƣợng phân hạch nguồn hạt nhân
cho tƣơng lai là một vấn đề khá đau đầu. Năng lƣợng phân hạch hạt nhân, một mặt
dƣờng nhƣ khá ƣu việt vì có thể tạo nên một nguồn năng lƣợng lớn, ít ô nhiễm,
không phát thải CO2 gây hiệu ứng nhà kính; nhƣng mặt khác, nó tồn tại những vấn
đề môi trƣờng, xã hội mà cho đến nay chúng ta vẫn chƣa thể giải quyết triệt để
đƣợc. Đó là chƣa kể đến việc ngƣời ta đã lợi dụng nó để chế tạo vũ khí hạt nhân, mà
tác động của chúng có thể hủy diệt cuộc sống tƣơi đẹp của hành tinh này.[58]
Thứ nhất, chất thải phóng xạ vẫn còn là một vấn đề chƣa đƣợc giải quyết.
Chất thải từ năng lƣợng nguyên tử cực kỳ nguy hiểm và phải đƣợc bảo quản cẩn
thận trong hàng ngàn năm (10.000 năm theo tiêu chuẩn của các Cơ quan bảo vệ môi
trƣờng Hoa Kỳ) [21].

12
Thứ hai, việc sử dụng năng lƣợng nguyên tử kéo theo rủi ro cao: Mặc dù có
một tiêu chuẩn an toàn cao nói chung, nhƣng các tai nạn vẫn có thể xảy ra. Việc xây
dựng một nhà máy với độ an toàn 100% là không thể. Luôn luôn có một xác suất
nhỏ sẽ xảy ra sự cố. Hậu quả của một tai nạn là có sức tàn phá tuyệt đối tới cả con
ngƣời lẫn tự nhiên. Các nhà máy điện nguyên tử (và các hầm lƣu trữ chất thải hạt
nhân) càng đƣợc xây dựng nhiều, thì xác suất xảy ra các sự cố thảm khốc đâu đó
trên thế giới càng cao.
Trên toàn thế giới, nhiều vụ tai nạn hạt nhân đã xảy ra từ thảm họa
Chernobyl năm 1986. Hai phần ba các rủi ro xảy ra ở Mỹ. Ủy ban Năng lƣợng
nguyên tử Pháp (CEA) đã kết luận rằng sự đổi mới kỹ thuật không thể loại trừ nguy
cơ lỗi của con ngƣời trong hoạt động nhà máy hạt nhân. Một đội liên ngành của
MIT đã ƣớc tính rằng với sự tăng trƣởng dự kiến của điện nguyên tử từ 2005-2055,
ít nhất bốn vụ tai nạn điện nguyên tử nghiêm trọng sẽ đƣợc dự kiến trong khoảng
thời gian đó. Trên toàn cầu, đã có ít nhất 99 vụ tai nạn nhà máy điện nguyên tử
đƣợc ghi lại (bao gồm dân sự và quân sự ) từ năm 1952 đến năm 2009 (tai nạn nói

trên đƣợc định nghĩa là sự cố dẫn đến sự thiệt hại đến cuộc sống con ngƣời hoặc
nhiều hơn 50.000 USD thiệt hại tài sản), với tổng giá trị 20,5 tỷ USD bồi thƣờng
thiệt hại tài sản. Chi phí thiệt hại tài sản bao gồm tài sản bị hƣ hại, ứng phó khẩn
cấp, xử lý môi trƣờng, sơ tán, sản phẩm bị mất, phạt tiền, và yêu cầu tòa án [28].
Tai nạn hạt nhân tồi tệ nhất thế giới là thảm họa Chernobyl ở Ukraine vào
ngày 26/4/1986. Do không có tƣờng chắn nên các đám mây bụi phóng xạ bay lên
bầu trời và lan rộng ra nhiều khu vực phía tây Liên bang Xô Viết, một số nƣớc
Đông Âu và Tây Âu, Anh và phía đông Hoa Kỳ. Thảm hoạ này phát ra lƣợng phóng
xạ lớn gấp bốn trăm lần so với quả bom nguyên tử đƣợc ném xuống Hiroshima
[28]. Sau thảm họa, hàng loạt các vấn đề về ô nhiễm môi trƣờng cũng nhƣ về sức
khỏe đe dọa ngƣời dân.
Ít nhất 57 vụ tai nạn đã xảy ra từ sau thảm họa Chernobyl, và hơn 56 vụ tai
nạn hạt nhân đã xảy ra tại Hoa Kỳ. Tƣơng đối ít tai nạn có liên quan đến tử vong.

13
Gần đây nhất, ngày 11 tháng 3, 2011, sau trận thảm họa động đất và sóng thần
Sendai 2011, nhà máy điện nguyên tử Fukushima gặp hàng loạt các vấn đề đối với
các lò phản ứng và rò rỉ phóng xạ gây ra sự cố nhà máy điện Fukushima I. Tình
trạng ô nhiễm phóng xạ ngày càng cao. Tuy không có ngƣời tử vong tại chỗ, nhƣng
nó gây nhiều lo ngại về sức khỏe của con ngƣời trong khu vực bị ảnh hƣởng sau
này. Dự kiến phải mất vài năm để sửa chữa nhà máy và vài tháng để khử sạch
phóng xạ [28].
Thứ ba, nguồn nguyên liệu cho năng lƣợng nguyên tử là Uranium. Uranium
là một nguồn tài nguyên khan hiếm, dự trữ Uranium ƣớc tính chỉ đủ cho từ 30 đến
60 năm tới tùy thuộc vào nhu cầu thực tế [28].
Thứ tƣ, khung thời gian cần thiết cho các thủ tục, lên kế hoạch và xây dựng
một nhà máy điện nguyên tử thế hệ mới là trong khoảng từ 20 – 30 năm tại các nền
dân chủ phƣơng Tây [28]. Nói cách khác, vệc xây dựng một nhà máy điện nguyên
tử mới trong một thời gian ngắn là một ảo tƣởng.
Thứ năm, các nhà máy điện nguyên tử cũng nhƣ chất thải hạt nhân có thể là

mục tiêu hàng đầu của các cuộc tấn công khủng bố. Không có nhà máy điện nguyên
tử nào trên thế giới có thể trụ lại đƣợc với một cuộc tấn công tƣơng tự nhƣ hôm
9/11 ở New York. Một hành động khủng bố nhƣ vậy có thể đem lại những tác động
thảm khốc cho toàn thế giới.
Thứ sáu, trong quá trình vận hành các nhà máy điện nguyên tử, chúng thải ra
một lƣợng chất thải phóng xạ, rồi lần lƣợt có thể đƣợc sử dụng cho sản xuất vũ khí
hạt nhân. Ngoài ra, bí quyết tƣơng tự thƣờng đƣợc dùng để thiết kế các nhà máy
điện nguyên tử có thể dùng để chế tạo vũ khí hạt nhân ở một mức độ nhất định nào
đó (phổ biến vũ khí hạt nhân).

14
1.2 PHÁP LUẬT VỀ NĂNG LƢỢNG NGUYÊN TỬ VÀ KHÔNG SỬ DỤNG
NĂNG LƢỢNG NGUYÊN TỬ
1.2.1 Tổng quan về pháp luật năng lƣợng nguyên tử
Pháp luật về năng lƣợng nguyên tử là pháp luật liên quan đến các mục đích
hoà bình của khoa học và công nghệ nguyên tử [27].
Năng lƣợng nguyên tử gây ra nguy cơ đặc biệt đối với sức khỏe và an toàn
của ngƣời và môi trƣờng, những rủi ro mà cần đƣợc quản lý một cách cẩn thận.
Hoạt động của con ngƣời chỉ liên quan đến nguy hiểm mà không có lợi ích
đòi hỏi có một cơ chế pháp lý cấm, không điều chỉnh. Vì vậy, một đặc điểm cơ bản
của pháp luật về năng lƣợng nguyên tử là sự tổng hợp của rủi ro và lợi ích.
Mục đích và chức năng của pháp luật hạt nhân là của tất cả các pháp luật, cụ
thể là để thúc đẩy và bảo vệ; để thúc đẩy sự phát triển của khoa học và công nghệ
hạt nhân và bảo vệ nhân loại chống lại bất kỳ mối nguy hiểm nào có thể liên quan
[27].
Ở mặt thúc đẩy phát triển năng lƣợng nguyên tử, nhiều loại biện pháp công
cộng đƣợc tìm thấy, chẳng hạn nhƣ trợ cấp hoàn toàn cho nghiên cứu và phát triển
năng lƣợng nguyên tử, ƣu đãi về thuế cho việc lắp đặt năng lƣợng nguyên tử và bảo
hiểm năng lƣợng nguyên tử, bồi thƣờng và các chƣơng trình bảo hiểm trách nhiệm
công cộng năng lƣợng nguyên tử, chuyển trách nhiệm đối với thiệt hại hạt nhân và

các quy định khác.
Ở mặt bảo vệ, pháp luật năng lƣợng nguyên tử có hai khía cạnh khác nhau -
bảo vệ chống lại các mối nguy hiểm bức xạ kết nối với các ứng dụng hòa bình năng
lƣợng nguyên tử và chất phóng xạ, và công tác phòng chống sử dụng phi hòa bình
năng lƣợng nguyên tử bằng các phƣơng tiện của hệ thống bảo vệ phát triển vì mục
đích đó.
Định nghĩa
Cơ quan Năng lƣợng nguyên tử quốc tế IAEA (Trong Sổ tay về Luật năng
lƣợng nguyên tử) đã đƣa ra một định nghĩa rộng, Luật năng lƣợng nguyên tử là

15
"Khung của quy phạm pháp luật đặc biệt được tạo ra để điều chỉnh hành vi của
pháp nhân hay thể nhân tham gia vào các hoạt động liên quan đến vật liệu phân rã
hạt nhân, bức xạ ion hóa và tiếp xúc với nguồn tự nhiên của bức xạ” [27].
Vị trí của Luật nguyên tử trong hệ thống pháp luật
Luật năng lƣợng nguyên tử đƣợc quy đinh trong luật quốc gia và quốc tế.
Luật năng lƣợng nguyên tử thuộc ngành luật công pháp khi quy định trong
hiến pháp, luật hành chính, hình sự và các khía cạnh y tế công cộng; cũng là luật tƣ
pháp vì nó quy định trách nhiệm đối với thiệt hại hạt nhân.
Luật năng lƣợng nguyên tử là công pháp quốc tế vì nó tạo ra các tổ chức liên
chính phủ quốc tế, và trao cho họ quyền lập pháp hay trao cho cơ quan quyền bảo
vệ các mục đích hoà bình của nguyên liệu hạt nhân và việc lắp đặt. Luật năng lƣợng
nguyên tử là luật tƣ pháp quốc tế nhƣ quy định trách nhiệm dân sự đối với thiệt hại
hạt nhân trong công ƣớc quốc tế khác nhau. Danh sách này chắc chắn có thể đƣợc
mở rộng ra hơn nữa.
Lịch sử của Luật nguyên tử
Một sự kiện quan trọng, trong đó ít liên quan đến việc xây dựng pháp luật hạt
nhân nhƣng liên quan nhiều hơn đến sự phát triển hợp tác quốc tế và trao đổi thông
tin hạt nhân, là Hội nghị quốc tế đầu tiên về sử dụng hòa bình năng lƣợng nguyên
tử, đƣợc tổ chức tại Geneva vào tháng 9/1955. Hơn 1400 đại biểu tham dự từ 73

quốc gia và hơn 1000 bài báo khoa học và kỹ thuật đã đƣợc trình bày. Ảnh hƣởng
của hội nghị này có thể vẫn đƣợc nói bằng cách nhìn vào ngày mà nhiều tổ chức
quốc gia và quốc tế trong lĩnh vực năng lƣợng nguyên tử đã đƣợc thành lập [27].
Điều lệ của Cơ quan Năng lƣợng nguyên tử quốc tế đã đƣợc thông qua bởi
một Hội nghị quốc tế tại New York vào ngày 23/10/1956. Vào tháng Bảy cùng năm,
Hội đồng của Tổ chức Hợp tác Kinh tế Châu Âu (OEEC), bây giờ là OECD, đã
thành lập Ban Chỉ đạo năng lƣợng nguyên tử và giao nhiệm vụ với việc thiết lập Cơ
quan Năng lƣợng nguyên tử châu Âu (Enea). Cộng đồng Năng lƣợng Nguyên tử

16
châu Âu (Euratom), đƣợc thành lập bởi Hiệp ƣớc Rome vào 25/3/1957, và bắt đầu
hoạt động vào ngày 1/5/1958 [27].
Euratom (thành viên: Bỉ, Pháp, Cộng hòa Liên bang Đức, Ý, Luxembourg,
Hà Lan) là một tổ chức siêu quốc gia. Nhƣ vậy nó có một số quyền lập pháp đặc
biệt trong lĩnh vực y tế và an toàn. Hiệp định cũng cung cấp cho một cơ quan cung
ứng trung ƣơng, từ đó tạo ra sự độc quyền của tất cả các nguyên liệu phân rã hạt
nhân sản xuất hoặc nhập khẩu vào Cộng đồng [27].
Euratom là chủ sở hữu của tất cả các nguyên liệu này. Chức năng quản lý của
nó có liên quan đến quyền sở hữu này. Hiệp định cung cấp thêm cho việc thành lập
cái gọi là "doanh nghiệp thông thƣờng", trong đó có các nghĩa vụ nhất định đối với
cộng đồng mà còn đƣợc hƣởng một số đặc quyền, trong đó có ƣu đãi về thuế mà họ
không thể đƣợc hƣởng theo luật pháp quốc gia. Một hoạt động đặc biệt của cộng
đồng là việc trao đổi thông tin, bao gồm cả thậm chí bằng sáng chế bí mật. Một
dụng cụ pháp lý cho hợp tác kỹ thuật trong cộng đồng là "Hợp đồng Hiệp hội" [27].
Cơ quan Năng lƣợng nguyên tử của châu Âu gồm 18 thành viên Tây Âu và 3
nƣớc liên kết (Canada, Nhật Bản, Hoa Kỳ). Nó đóng một vai trò đáng kể trong việc
tạo ra "chủ trƣơng chung". Đầu tiên là Công ty của châu Âu với việc chế biến hóa
học nhiên liệu đƣợc chiếu xạ (EUROCHEMIC) tại Mol, Bỉ. EUROCHEMIC là một
công ty cổ phần quốc tế độc lập với tƣ cách pháp nhân riêng. Nó đƣợc tạo ra bởi
một công ƣớc quốc tế. Sau đó, dự án quốc tế khác nhƣ lò phản ứng nƣớc sôi thử

nghiệm Halden ở Na Uy, dự án lò phản ứng Dragon tại Winfrith, Vƣơng quốc Anh,
Dự án Chiếu xạ thực phẩm Seibersdorf ở Áo, Trung tâm dữ liệu nguyên tử
Compilation tại Saclay, Pháp, và Chƣơng trình thƣ viện máy tính Enea tại Ispra, Ý,
đã đƣợc thành lập [27].
Enea cũng có hệ thống bảo vệ riêng của mình và Tòa án năng lƣợng nguyên
tử của châu Âu có thể quyết định các tranh chấp phát sinh từ việc áp dụng. Enea đã
khiến các nƣớc thành viên áp dụng pháp luật mà theo đó phí bảo hiểm đối với bảo
hiểm nguyên tử nhận đƣợc ƣu đãi thuế nhất định để cho phép các công ty bảo hiểm

17
xây dựng dự trữ nhanh hơn. Điều này chứng tỏ cách pháp luật có thể đóng góp vào
việc thúc đẩy nền kinh tế hạt nhân.
Cơ quan Năng lƣợng nguyên tử quốc tế (IAEA), đƣợc thành lập vào năm
1957, đã đƣợc dự kiến nhƣ một phƣơng tiện để đảm bảo cung cấp đầy đủ và bình
đẳng nguyên liệu hạt nhân cho các quốc gia thành viên và nhƣ một công cụ để bảo
vệ các mục đích hoà bình của năng lƣợng nguyên tử. Mục đích đầu tiên bị mất tầm
quan trọng khi nguồn uranium hóa ra lại là phong phú. Tuy nhiên, bằng cách thúc
đẩy các dự án hỗ trợ và phát triển với các tiêu chuẩn về chỉ tiêu sức khỏe và an toàn,
Cơ quan đóng góp vào sự phát triển của năng lƣợng nguyên tử ở các nƣớc thành
viên của mình và sự phát triển của pháp luật nguyên tử.
Mục tiêu của pháp luật nguyên tử
Mục tiêu chính của pháp luật nguyên tử là:
Để cung cấp một khuôn khổ pháp lý cho hoạt động liên quan đến năng lƣợng
nguyên tử và bức xạ ion hóa một cách đầy đủ để bảo vệ cá nhân, tài sản và môi
trƣờng[27].
Quá trình lập pháp pháp luật nguyên tử
Pháp luật năng lƣợng nguyên tử, giống nhƣ bất kỳ pháp luật khác, phải tuân
thủ các yêu cầu của hiến pháp và thể chế của hệ thống chính trị và pháp lý của mỗi
nƣớc. Tuy nhiên, chủ đề của năng lƣợng nguyên tử là rất phức tạp và mang tính kỹ
thuật, có một số hoạt động và các vật liệu gây rủi ro bất thƣờng đối với sức khỏe

con ngƣời, an toàn và môi trƣờng, và cũng có rủi ro đối với an ninh quốc gia và
quốc tế.
Các biện pháp kỹ thuật về an toàn, an ninh và bảo vệ môi trƣờng trong lĩnh
vực nguyên tử nên theo các hình thức: Một là, nguyên tắc cơ bản áp dụng pháp luật
nhƣ áp dụng thông thƣờng và ràng buộc đối với tất cả mọi ngƣời và các tổ chức;
Hai là, hình thức yêu cầu kỹ thuật (bao gồm cả các quy định, hƣớng dẫn và khuyến
nghị) mà không phải áp dụng thông thƣờng và đƣợc thực hiện bắt buộc đối với

18
ngƣời hoặc tổ chức cụ thể bởi cơ quan quản lý hoặc thông qua điều kiện cấp phép
cụ thể, ràng buộc chỉ với ngƣời giữ giấy phép.
Quá trình lập pháp của pháp luật hạt nhân có phải tính đến những vấn đề
nhƣ: Đánh giá các chƣơng trình, kế hoạch hạt nhân; Đánh giá pháp luật và khuôn
khổ pháp lý; Nhập dữ liệu từ các bên liên quan; Lập pháp ban đầu; Soạn thảo; Đánh
giá đầu tiên của dự thảo ban đầu; Tiếp tục xem xét lập pháp; Giám sát xây dựng
pháp luật; Mối quan hệ pháp luật phi hạt nhân.
Văn hóa an ninh và văn hóa an toàn trong pháp luật nguyên tử
Văn hóa an ninh và an toàn hạt nhân, đƣợc định nghĩa nhƣ sau: Là tổng hợp
các đặc điểm và thái độ của các tổ chức, cá nhân trong đó quy định rằng, nhƣ là một
ƣu tiên hàng đầu, các vấn đề an toàn nhà máy hạt nhân nhận đƣợc sự quan tâm đảm
bảo bởi tầm quan trọng của nó [27].
Mặc dù pháp luật nguyên tử không thể tự tạo ra nền văn hóa an toàn hạt
nhân, thỏa thuận pháp lý kém có thể cản trở sự phát triển và sự tăng cƣờng nền văn
hóa an toàn hạt nhân. Ngƣợc lại, một khuôn khổ pháp lý mạnh mẽ có thể nâng cao
nền văn hóa an toàn hạt nhân, ví dụ nhƣ giúp đảm bảo rằng nguồn các quy định cần
thiết là sẵn có, bằng cách tạo điều kiện thông tin liên lạc minh bạch, bằng cách giúp
đỡ để tránh xung đột thể chế và bằng cách đảm bảo rằng bản án kỹ thuật độc lập
không bị chặn vì những lý do không liên quan. Trong sự phát triển của pháp luật
nguyên tử quốc gia, những ngƣời tham gia trong quá trình lập pháp sẽ làm tốt để
xem xét cẩn thận các vấn đề liên quan đến văn hóa an toàn hạt nhân. Tóm lại, điều

quan trọng là nhận ra rằng các biện pháp pháp lý để nâng cao văn hóa an toàn hạt
nhân và an ninh trong một nhà nƣớc đặc biệt cũng phải đƣa vào trƣơng mục các
truyền thống pháp luật quốc gia của Nhà nƣớc.
Sổ tay của IAEA về Luật nguyên tử
IAEA đã công bố một Sổ tay về Luật nguyên tử cung cấp cho các nƣớc thành
viên IAEA giải pháp phù hợp mới để đánh giá tính đầy đủ của khuôn khổ pháp lý
quốc gia của họ quản lý việc sử dụng hòa bình năng lƣợng nguyên tử; và hƣớng dẫn

×