Tải bản đầy đủ (.doc) (15 trang)

GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN VÀ PHÁT TRIỂN CƠ SỞ HẠTẦNG THEO HƯỚNG HIỆN ĐẠI NHẰM CẢI THIỆN MÔI TRƯỜNGĐẦU TƯ TẠI VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (126.71 KB, 15 trang )

1
PHẦN I. THỰC TRẠNG MÔI TRƯỜNG ĐẦU TƯ TẠI NƯỚC TA HIỆN
NAY VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐANG ĐƯỢC ĐẶT RA
Gần 2 năm kể từ khi Việt Nam ra nhập WTO, hoạt động đầu tư nước
ngoài đã có những thay đổi mạnh mẽ.
1.Mặt tích cực
1.1.Thực trạng
Nhiều dự án quy mô lớn khai trương, động thổ triển khai ngay sau khi
được cấp giấy chứng nhận đầu tư như dự án Hồ Tràm (Cấp phép tháng 4/2008)
xây dựng khu du lịch, khách sạn cao cấp với tổng vốn cam kết 4,2 tỷ USD tại
tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu, dự án sản xuất gang thép Hưng Nghiệp Formosa đầu tư
7,879 tỷ USD cấp phép và khởi công xây dựng vào tháng 7/2008, dự án xây
dựng khu đô thị đại học Berjaya Leisure (Malayxia) do công ty Berjaya Leisure
đầu tư 3,5 tỷ USD tại thành phố Hồ Chí Minh…
Kết quả thu hút vốn đầu tư nước ngoài đăng ký trong 7 tháng đầu năm
2008 đạt mức 45,2 tỷ USD, tăng gấp đôi kết quả của năm 2007(21,3 tỷ USD)
thể hiện sự tin tưởng của các nhà đầu tư nước ngoài với môi trường đầu tư của
nước ta hiện nay, mặc dù môi trường đầu tư, kinh doanh nước ta đang phải đối
mặt với nhiều thách thức như lạm phát tăng cao, giá cả biến động dẫn tới chi
phí tăng đột biến ảnh hưởng tới hoạt động đầu tư nước ngoài. Mặt khác đây là
kết quả tổng hòa từ các Bộ, ban, ngành và địa phương trong hoạt động xúc tiến
đầu tư, hỗ trợ các nhà đầu tư từ khi có ý đồ đầu tư đến khi hình thành dự án.
Theo điều tra hàng năm của JETRO tiến hành trên 1745 doanh nghiệp
Nhật Bản đang hoạt động tại châu Á bao gồm 6 nước ASEAN(Thái Lan,
Malayxia, Singapo, Indonesia, Philipin và Việt Nam), Trung Quốc, Hồng
Kông, Ấn Độ và Đài Loan, Việt Nam được đánh giá rất cao về triển vọng đầu
tư cả về trung lẫn dài hạn. Về trung hạn có 92,6% doanh nghiệp sản xuất và
2
88% doanh nghiệp dịch vụ dự định mở rộng kinh doanh tại Việt Nam trong
vòng 1-2 năm tới. Về dài hạn, trong vòng 10 năm tới, Việt Nam được các nhà
đầu tư Nhật Bản đánh giá là địa điểm sản xuất tốt nhất ở châu Á. Kết quả sản


xuất kinh doanh của các doanh nghiệp Nhật Bản tại Việt Nam năm 2007 cũng
rất khả quan, với 77,8% doanh nghiệp sản xuất có lãi. Mức bình quân chung
của các doanh nghiệp trong diện điều tra là 70,8%, như vậy tỷ lệ có lãi tại Việt
Nam cao hơn mức bình quân 7 điểm %. Tuy nhiên tỷ lệ có lãi của các doanh
nghiệp dịch vụ tại Việt Nam lại rất thấp chỉ đạt 29,2%(thấp hơn bình quân 40
điểm%) trong khi mức bình quân tại châu Á là 69,5% và tại ASEAN là 66,2%.
Theo “Các cơ hội mới cho các nhà bán lẻ”- Báo cáo thường niên năm
2008 của AT Kearney, một công ty chuyên về tư vấn quản lý của Hoa Kỳ- báo
cáo nghiên cứu về mức độ hấp dẫn đầu tư trong lĩnh vực bán lẻ tại 30 nền kinh
tế mới nổi, Việt Nam đã thăng hạng 3 bậc so với năm 2007, vượt qua Ấn Độ,
Nga, Trung Quốc(3 nước này đều tụt 1 hạng) và trở thành địa điểm hấp dẫn cho
các nhà đầu tư vào lĩnh vực bán lẻ.
Tại diễn đàn doanh nghiệp Việt Nam giữa kỳ tổ chức tại Hà Nội ngày
2/6/2008, đại diện các nhà đầu tư Hoa Kỳ, Châu Âu, Nhật Bản đều phát biểu
mặc dù nền kinh tế Việt Nam đang phải đối mặt với những thách thức lớn
nhưng các nhà đầu tư đều nhìn nhận Việt Nam vẫn có sức thu hút lớn với các
nhà đầu tư trong tương lai.
1.2. Nguyên nhân
Có được những thành tựu trên là do Chính phủ nỗ lực để tạo môi trường
đầu tư hấp dẫn hơn, cởi mở, minh bạch và thông thoáng hơn. Các Bộ ngành và
địa phương đang thực hiện các chỉ đạo hữu hiệu của Thủ tướng Chính phủ về
kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm an sinh xã hội và tăng
trưởng bền vững bằng nhiều biện pháp như: Bộ Kế hoạch và Đầu tư thành lập
3
11 đoàn công tác tại các địa phương thực hiện việc điều hành kế hoạch đầu tư
xây dựng cơ bản và chi tiêu ngân sách năm 2008 phục vụ mục tiêu kiềm chế
lạm phát. Đồng thời, triển khai đề án thúc đẩy giải ngân vốn FDI, lập đoàn
kiểm tra qui hoạch sân golf, gửi công văn 3340/BKH-ĐTNN ngày 9/5/2008 và
145/ĐTNN-DV ngày 15/5/ đề nghị tất cả các đầu mối quản lý đầu tư tại 64 tỉnh
thành rà soát tình hình giải ngân, so sánh với tiến độ cam kết, đề xuất giải pháp

thúc đẩy và đề nghị hỗ trợ từ trung ương.
Hiện nay, mới nhận được báo cáo rà soát từ 33/64 tỉnh thành phố trên cả
nước. Bộ xây dựng có văn bản số 09/2008/TT-BXD cho phép chủ đầu tư
có thể tự điểu chỉnh giá nguyên vật liệu và hợp động từ hình thức trọn gói sang
hình thức hợp đồng theo đơn giá. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam có ban hành
cơ chế điều chỉnh lãi suất cơ bản mới, đồng thời thành lập nhiều đoàn kiểm tra,
đánh gí toàn diện chất lượng tín dụng của các tổ chức tín dụng cả nước nhằm
đánh giá thực trạng hoạt động tín dụng của các tổ chức tín dụng và phát hiện
các nội dung cơ chế, chính sách chưa phù hợp để bổ sung chỉnh sửa kịp thời…
Ngày 26/6/2008 Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam kí quyết định số
1436/QĐ-NHNN về việc liên quan đến giao dịch ngoại tệ của các tổ chức tín
dụng được phép hoạt động ngoại hối nhằm bình ổn tỷ giá ngoại tệ trên thị
trường.
Tại diễn đàn doanh nghiệp giữa kỳ(tại Hà Nội ngày 2/6/2008) các nhà
đầu tư thể hiện sự tin tưởng các khó khăn của Việt Nam hiện tại là nhất thời và
sẽ nhanh chóng được chính phủ giải quyết trong thời gian tới.
2. Mặt tiêu cực
2.1. Thực trạng
4
Nền kinh tế Việt Nam đang phải đối mặt với các khó khăn trong thời
gian gần đây như lạm phát cao, thâm hụt thương mại lớn, thâm hụt ngân sách
gia tăng và nguy cơ về mất ổn định tiền tệ…Trong 6 tháng đầu năm 2008 chỉ số
giá tiêu dùng bình quân 6 tháng đầu năm 2008 tăng 20,34% theo số liệu của
Tổng cục Thống kê(cùng kỳ năm trước tăng 7%). Tuy nhập siêu đã giảm trong
vài tháng trở lại đây, nhưng nhập siêu hàng hóa trong 6 tháng đầu năm nay ước
đạt 14,8 tỷ USD, bằng 49,8% kim ngạch xuất khẩu, tăng 186,4% so với cùng
kỳ năm trước.
Tình hình trên khiến Standard $ Poor’s(S$P)(1 trong 3 công ty chuyên
đánh giá hệ số tín nhiệm lớn nhất trên thế giới cùng với Moody’s và Fitch) đã
công bố đầu tháng 5/2008, chuyển đánh giá hệ số tín nhiệm quốc gia của Việt

Nam từ “ổn định” sang “tiêu cực”(nghĩa là có khả năng giảm), trong trung hạn
dấu hiệu cho thấy cộng đồng quốc tế đã bắt đầu lo lắng về khả năng “hạ nhiệt”
nền kinh tế đang tăng trưởng quá nóng thời gian qua. Mặc dù những rủi ro
trong ngắn hạn, hệ số tín nhiệm của S$P vẫn ở mức BB/B với đồng ngoại tệ và
mức BB+/B đối với nội tệ và các chỉ số này khá tốt cho triển vọng tăng trưởng
kinh tế 1 phần do làn song đầu tư nước ngoài đổ vào.
Theo đánh giá của diễn đàn kinh tế thế giới(WEF) ngày 18/6/2008, lần
đầu tiên công bố bảng xếp hạng các quốc gia và vùng lãnh thổ có môi trường
thuận lợi với thương mại quốc tế năm 2008, Hồng Kông và Singapo dành vị trí
thứ nhất và nhì trong 118 nền kinh tế do có “môi trường thân thiện” với thương
mại quốc tế. Báo cáo này được thực hiện trên cơ sở khảo sát đánh giá các yếu
tố có tác động tích cực đến với môi trường thương mại quốc tế như: tiếp cận thị
trường, quản lý cửa khẩu, cơ sở hạ tầng viễn thông giao thông vận tải và môi
trường kinh doanh, chính sách thuế quan và nhiều yếu tố phụ khác ở 118 quốc
gia và vùng lãnh thổ. Việt Nam ở hạng 91 do chỉ số”tiếp cận thị trường” chỉ đạt
5
112/118, còn chỉ số về hàng rào thuế quan đạt 114/118(thấp nhất trong các
nước ASEAN)tuy có một số chỉ số xếp hạng khả quan như hiệu quả trong dịch
vụ bưu điện hạng 33, khả năng tiếp thu công nghệ hạng 43, an ninh vật chất
hạng 45, chỉ số về an ninh hạng 46, dịch vụ vận tải hạng 48.
Theo báo cáo điều tra doanh nghiệp thường niên mới đây của tổ chức
JETRO thì chi phí thuê văn phòng ở Hà Nội xếp thứ 5 trong khu vực châu Á,
sau 2 thành phố Mumbai và New Delhi của Ấn Độ, Hồng Kông và Singapo, chi
phí vận chuyển đường vận tải biển đến và đi từ Đà Nẵng cao nhất khu vực, gấp
rưỡi chi phí bình quân từ các nước châu Á, chi phí thuê nhà ở của người nước
ngoài tại thành phố Hồ Chí Minh đang ở mức rất cao so với khu vực, xấp xỉ
tiền thuê nhà tại Singapo và gấp đôi tại Seoul. Chi phí đầu tư cao là thách thức
rất lớn cho thu hút và giải ngân vốn đầu tư nước ngoài trong thời gian tới.
Trong bối cảnh phân cấp toàn diện và triệt để công tác quản lý hoạt động
đầu tư trực tiếp nước ngoài về các địa phương, việc cung cấp thông tin đầu tư

trực tiếp nước ngoài kịp thời từ các địa phương lên trung ương là một yêu cầu
cấp bách để Chính phủ có đủ thông tin phục vụ công tác quản lý, điều hành,
phân tích và dự báo các biến động, các xu thế đầu tư vào Việt Nam.Tuy nhiên,
hiện nay các thông tin này vừa thiếu, vừa không kịp thời khiến cho công tác chỉ
đạo, điều hành trở nên bị động, thiếu chuẩn xác. Do vậy, công tác dự báo về
hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài đối với cơ quan quản lý nhà nước cực kỳ
nan giải và khó khăn. Tại quyết định 305/2005/QĐ-TTg ngày 24/11/2005 của
Thủ tướng chính phủ về ban hành hệ thống chỉ tiêu thống kê quốc gia, Tổng
cục thống kê là cơ quan chủ trì, đầu mối trong việc thu thập số liệu vồn thực
hiện của khu vực đầu tư nước ngoài với tần suất là 6 tháng và năm. Đây là
nguồn số liệu quan trọng và là kênh rà soát, đối chiếu số liệu hiệu quả với các
thông tin quản lý Cục đầu tư nước ngoài hiện đang thu thập. Tuy nhiên, với
6
chức năng là cơ quan đầu mối quản lý và đánh giá hoạt động đầu tư từ nước
ngoài trên cả nước, Cục đầu tư từ nước ngoài phải tổng hợp, phân tích và dự
báo các chỉ tiêu cơ bản của khu vực có vốn đầu tư nước ngoài như vốn thực
hiện, nộp ngân sách, lao động, xuất nhập khẩu…hàng tháng phục vụ công tác
chỉ đạo, điều hành của Chính phủ. Việc thu thập thông tin về tình hình hoạt
động của các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài hiện đang là khó khăn lớn nhất
đối với các cơ quan quản lý các cấp, kể cả Cục Đầu tư nước ngoài, trong công
tác nắm tình hình hoạt động, đảm bảo thông tin trong công tác quản lý và điều
hành thúc đẩy giải ngân FDI.
2.2. Nguyên nhân
Nền kinh tế nước ta đã lưu thông với kinh tế khu vực và thế giới, do đó
các biến động của giá dầu thô, giá cả nguyên vật liệu…đều có tác động trực tiếp
đến nền kinh tế nước ta.
Cơ sở hạ tầng kỹ thuật và đào tạo nguồn nhân lực không theo kịp tốc độ
phát triển, đòi hỏi các Bộ, ngành và địa phương phải có giải pháp thích hợp
nhất là trong bối cảnh nước ta đang phải đảm bảo mục tiêu công nghiệp hóa
hiện đại hóa đất nước với nhịp độ phát triển nhanh, bền vững và trước mắt đang

thực hiện chính sách thắt chặt tiền tệ, giám sát đầu tư, cắt giảm các dự án đầu tư
công chưa cần thiết.Cơ sở vật chất và nhân lực phục vụ công tác thông tin kinh
tế còn thiếu và yếu so với nhu cầu.
Hệ thống tòa án và thực thi luật pháp vẫn còn kém, với thủ tục rườm rà
và chi phí cao. Cải cách hành chính chưa đạt tốc độ nhanh như mong đợi khi
hiệu quả dịch vụ hành chính trở lại trong danh sách 5 lĩnh vực yếu kém nhất.
Còn quá nhiều giấy phép không cần thiết tồn tại. Tình hình "giấy phép con"
đang phục hồi cùng với việc ra mắt các quy định, luật lệ mới
7
Hiện nhiều doanh nghiệp (DN) VN vẫn thường xem những khoản chi phí
không chính thức là một phần chi trong hoạt động sản xuất kinh doanh. Những
khoản chi này đã làm đội giá thành, vẩn đục môi trường kinh doanh và là một
hình thức cạnh tranh không lành mạnh. Theo công bố chỉ số nâng cao năng lực
cạnh tranh cấp tỉnh (PCI) 2007 của Phòng Thương mại và Công nghiệp VN,
gần 70% DN thừa nhận phải trả chi phí không chính thức. Có DN tốn đến 10%
doanh thu cho các chi phí này. Con số này được xem là đã cải thiện hơn so với
các năm trước, khi có DN phải trả chi phí không chính thức lên đến 28% doanh
thu.
Báo cáo mới nhất của Chương trình Phát triển Liên Hiệp Quốc (UNDP)
cũng cho hay, tình trạng tham nhũng “vặt” đang gây phương hại tới phát triển
kinh tế các nước châu Á, gây tác hại không kém tình trạng tham nhũng lớn.
Nguy hại hơn, nó bám rễ dai dẳng, gây hại tới cuộc sống hằng ngày của người
dân và DN. Nạn đút lót đã làm suy thoái hoạt động đầu tư, thương mại, làm thất
thoát hàng tỉ USD mỗi năm ở các nước nghèo. Và trong khi tại các nước phát
triển, sự đút lót lớn thường xảy ra ở các ngành quốc phòng, hàng không, bưu
chính viễn thông, dầu mỏ thì ở những nước nghèo như VN, nạn đút lót xảy ra
ở hầu hết các lĩnh vực, liên quan đến cấp phép, thủ tục xin-cho.
Ngoài ra, các chính sách về bảo hộ trí tuệ, và việc thực hiện các cam kết
gia nhập WTO của ta còn chưa hoàn chỉnh, chậm chạp và thiếu minh bạch
trong khi thực hiện.

8
PHẦN 2. GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN VÀ PHÁT TRIỂN CƠ SỞ HẠ
TẦNG THEO HƯỚNG HIỆN ĐẠI NHẰM CẢI THIỆN MÔI TRƯỜNG
ĐẦU TƯ TẠI VIỆT NAM
Về cơ sở hạ tầng, mặc dù Chính phủ có nhiều nỗ lực phát triển
nhưng doanh nghiệp vẫn gặp không ít khó khăn, gây tốn kém chi phí kinh
doanh, ảnh hưởng năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp. Nếu trong ba năm tới
Việt Nam không giải quyết được các vấn đề về cơ sở hạ tầng: tình trạng thiếu
9
điện, mạng lưới thông tin liên lạc kém và sự quá tải của hạ tầng giao thông,…
thì sẽ tiếp tục tồn tại một nghịch lý là vốn FDI thu hút nhiều nhưng tỉ lệ thực
hiện thấp.Trước nhu cầu bức thiết đó, dưới đây sẽ là một số giải pháp nhằm
phát triển cơ sở hạ tầng thúc đẩy đầu tư nước ngoài vào Việt Nam.
1. Giải quyết triệt để vấn đề thiếu điện
Việc thiếu hàng hóa trong một nền kinh tế thường không phải lỗi của
doanh nghiệp. Trong trường hợp này cũng vậy. Lỗi thiếu điện phải được nhìn
từ phía quản lý, điều hành ngành điện của Chính phủ. Nhưng Chính phủ đã sai
ở chỗ nào? Việc thiếu điện hiện nay gợi cho chúng ta nhớ thời kỳ thiếu gạo
những năm 1980. Rõ ràng VN hồi đó không thiếu khả năng sản xuất gạo, cũng
như bây giờ VN không thiếu khả năng sản xuất điện. Vấn đề là động cơ để sản
xuất. Động cơ chỉ tồn tại trong những cơ chế thích hợp, mà Chính phủ đã không
tạo ra một cơ chế thích hợp để ngành điện phát triển.
1.1. Tạo lập thị trường điện hiện đại
Nếu bạn viếng thăm trụ sở một công ty điện lực lớn ở Mỹ như Texas
Utility ở Dallas, Texas thì sẽ được chứng kiến một sàn giao dịch không khác gì
một sàn giao dịch chứng khoán lớn ở VN, với các màn hình điện tử khổng lồ và
hàng trăm người giao dịch cổ cồn trắng ngồi dán mắt vào màn hình. Cái khác
chỉ là những người làm ở sàn này đều là nhân viên của Texas Utility và họ mua
bán hợp đồng điện với các công ty khác qua mạng điện tử.
Hoạt động giao dịch này là một phần của thị trường bán buôn ngành

điện. Một thị trường điện hiện đại bao gồm nhiều mảng hoàn toàn độc lập nhau
như các công ty cung ứng đường dây tải điện (transmission grids), công ty bán
lẻ (retailers), công ty sản xuất điện (power generators) và các đại lý buôn bán
điện (electricity traders) độc lập.Việc tách rời mảng này là chìa khóa để xây
10
dựng một thị trường điện hiện đại. Các điểm mấu chốt nhất của quá trình tái cơ
cấu thị trường điện truyền thống là:
-Tách dịch vụ cung ứng đường dây tải điện ra khỏi hoạt động bán lẻ.
-Phát triển một thị trường bán lẻ cạnh tranh cao với nhiều doanh nghiệp
có khả năng phân phối điện tới một địa bàn.
-Phát triển thị trường bán buôn cạnh tranh, theo đó một nhà bán lẻ có thể
lựa chọn mua điện từ nhiều nhà bán buôn khác nhau.
Một thị trường điện hiện đại hoạt động hiệu quả sẽ tạo môi trường cạnh
tranh tích cực giữa các công ty sản xuất điện, giữa các nhà bán lẻ và giữa các
công ty cung cấp đường dây tải. Việc cạnh tranh sẽ khiến các doanh nghiệp này
liên tục phải tìm cách cắt giảm chi phí, nâng cao hiệu quả kinh doanh và có
những kế hoạch dài hạn thích hợp.
Một thị trường điện hiệu quả cũng tạo ra cơ chế ngăn cản các doanh
nghiệp sử dụng sức mạnh thị trường để gây sức ép tăng giá nhằm trục lợi bằng
sự tổn thất của người tiêu dùng.
1.2. Mở cửa thị trường điện, xóa bỏ độc quyền cung cấp điện
VN đang thiếu điện nghiêm trọng và sẽ còn tiếp tục thiếu điện nghiêm
trọng. Đây là một thực tế. Việc xây dựng năng lực cung ứng điện đủ đáp ứng
với nhu cầu đòi hỏi nguồn tài chính khổng lồ. Riêng giai đoạn 2005-2010 cần
khoảng 3 tỉ USD, giai đoạn 2005-2020 sẽ cần tối thiểu 13,5 tỉ USD. EVN
không thể tự đầu tư nguồn tài chính này trừ khi nó được phép tăng giá bán điện
tùy tiện. EVN cũng không thể sử dụng nguồn tiền đi vay.
Theo tính toán của World Bank, việc tài trợ thuần túy bằng nguồn tiền
vay sẽ khiến tỉ lệ nợ trên vốn của EVN quá cao. Do đó, đối với các nguồn cung
cấp tín dụng quốc tế cho EVN vay trở nên rủi ro quá mức chịu đựng. Việc này

khiến việc vay mượn về lâu dài là không khả thi.Lối ra khỏi “ma trận” này là
11
mở cửa thị trường điện. Chính phủ cũng đã tính đến con đường này và đã phác
thảo một lộ trình dài hạn để thực hiện, bao gồm bốn bước:
1.2.1. Cho phép tư nhân và quốc tế đầu tư sản xuất điện. EVN mua điện
của các IPPs qua các hợp đồng dài hạn (đang thực hiện).
1.2.2. Tự do hóa một phần thị trường bán buôn: để các IPPs tự do cạnh
tranh với nhau, trong khi EVN giữ vị thế độc quyền trên thị trường bán lẻ (lộ
trình 2010-2014 của Bộ Công nghiệp). Giai đoạn này thị trường bán buôn có
nhiều người bán nhưng chỉ có một người mua.
Trong hai giai đoạn này, có nhiều người bán buôn nhưng chỉ một người
mua (EVN) để bán lại trên thị trường bán lẻ. Ở giai đoạn 1, từng người bán
buôn ký hợp đồng với EVN, các hợp đồng này độc lập với nhau và giá cả được
xác định kín giữa hai bên. Trong giai đoạn 2, những người bán buôn phải cạnh
tranh trực tiếp với nhau để bán cho EVN. Giá cả được xác định theo mức thị
trường, công khai và chỉ một giá duy nhất cân bằng cung - cầu.
1.2.3. Tự do hóa hoàn toàn thị trường bán buôn thông qua việc phá thế
độc quyền bán lẻ của EVN (thí dụ thông qua việc xé nhỏ tổng công ty này) và
cho phép các người mua lớn (thí dụ các khu công nghiệp lớn) có thể mua điện
trực tiếp từ người bán buôn. Khi giai đoạn này kết thúc, thị trường bán buôn sẽ
có nhiều người bán và nhiều người mua. Theo lộ trình của Bộ Công nghiệp,
giai đoạn này sẽ được thực hiện trong thời gian 2014-2022.
1.2.4. Giai đoạn cuối cùng là tự do hóa cả thị trường bán lẻ điện. Khi giai
đoạn này được thực hiện, người mua điện nhỏ cũng có quyền lựa chọn mua
điện của các công ty bán lẻ khác nhau. Giai đoạn này sẽ được thực hiện sau
năm 2022 - cũng theo lộ trình của Bộ Công nghiệp.
Chính phủ VN hi vọng việc tự do hóa thị trường sẽ tạo động lực cho giới
đầu tư tư nhân và quốc tế tham gia sản xuất điện. Tuy nhiên, đây không phải là
12
một kết quả tất yếu. Như đã đề cập ở trên, nếu không được thực hiện tốt thì việc

tự do hóa thị trường điện sẽ tạo ra những “bẫy” giá cả nguy hiểm cho người
mua và không chắc sẽ giải quyết được tình trạng khan hiếm điện. Việc tái cơ
cấu thị trường điện, vì thế, là một việc khó khăn, nhiều rủi ro và đòi hỏi các nhà
quản lý và hoạch định chính sách phải có kiến thức tốt (hoặc được tư vấn tốt)
về thị trường điện hiện đại và cách xây dựng nó.
Để giải được bài toán điện, con đường duy nhất là tái cấu trúc thị trường
điện. Tuy nhiên, đây là con đường khó khăn và nhiều rủi ro. Có lẽ vì vậy mà
Chính phủ đang muốn giữ nhịp độ cải cách chậm. Điều này đồng nghĩa với việc
khan hiếm điện và các hệ quả bất lợi của nó đến sản xuất, sinh hoạt và thu hút
vốn đầu tư nước ngoài, sẽ không thể được khắc phục trong thời gian ngắn.
2. Cải tạo hệ thống giao thông vận tải
2.1. Cải thiện giao thông đường bộ
Việc vận chuyển hàng hóa và đi lại của các doanh nghiệp là không thể
thiếu. Hiện nay tình trạng ách tắc giao thông đã thành trở ngại lớn cho việc sản
xuẩt của các doanh nghiệp trong nước cũng như nước ngoài đầu tư sản xuất tại
Việt Nam. Để giải quyết vấn đề này, ta cần thực hiện các giải pháp cụ thể sau
Biện pháp thứ nhất là cơ quan chỉ đạo yêu cầu lực lượng CSGT, thanh tra
GTCC tập trung lực lượng hướng dẫn, phân luồng giao thông tại các điểm
thường xuyên xảy ra ùn tắc giao thông.
Biện pháp thứ hai là rà soát lại toàn bộ hệ thống đèn tín hiệu giao thông
để từ đó điều tiết lại chu kỳ đèn, bởi lẽ như hiện nay vẫn còn khá nhiều điểm
chu kỳ đèn quá dài, gây ùn tắc.
Biện pháp thứ ba là thay đổi hoạt động của xe buýt. Đối với những xe
buýt khổ lớn sẽ hoạt động tại các tuyến đường vành đai, còn xe buýt loại nhỏ
hoạt động tại các tuyến phố cổ, phố cũ.
13
Biện pháp thứ tư, đối với loại hình vận tải du lịch sẽ xem xét cho hoạt
động bình thường các giờ với xe loại dưới 45 chỗ, còn xe lớn hơn 45 chỗ sẽ
điều tiết trong giờ cao điểm.
Biện pháp thứ năm là tăng lực lượng CSGT cho CATP.

Biện pháp thứ sáu là triển khai việc tách làn phương tiện. Theo đó, cơ
quan quản lý yêu cầu lực lượng CSGT xử lý kiên quyết những lỗi vi phạm như
lấn làn, đi không đúng tuyến, nhằm tạo ý thức cho người tham gia giao thông.
Biện pháp thứ bảy là xoá toàn bộ các điểm đen về TNGT. Theo đó, các
biện pháp phải được triển khai ngay, đồng thời phân công trách nhiệm cụ thể
cho từng lực lượng để tránh cách làm chung chung.
Biện pháp thứ tám là quản lý sắp xếp chặt chẽ lại vỉa hè, trong đó, trước
mắt triển khai tại các tuyến phố văn minh thương mại.
Biện pháp thứ chín là tăng cường các biện pháp chế tài xử phạt nặng các
hành vi vi phạm Luật Giao thông cũng như đình chỉ lưu hành xe hết niên hạn sử
dụng, xe 3 bánh tự chế…
Trước mắt, sẽ chọn giải pháp cấp bách như: bố trí lệch giờ làm việc, xử
phạt nghiêm, lắp đặt hệ thống camera để xử lý các vi phạm trên diện rộng,
tuyên truyền Luật Giao thông để kéo giảm TNGT và UTGT. Đặc biệt, cần có
những thông tin báo cáo tình hình giao thông đô thị mỗi ngày để dễ dàng hỗ trợ
khi cần thiết. Về lâu dài sẽ đưa các kiến nghị, giải pháp mở rộng đường, quy
hoạch lại mạng lưới giao thông. Ban An toàn giao thông, Sở GTCC sẽ tiếp tục
nghiên cứu sâu vấn đề này và yêu cầu các đơn vị có liên quan cùng tích cực
tham gia.
2.2. Xây dựng cảng nước sâu
Báo cáo năm 2006 của Tổng Công ty Hàng hải Việt Nam cũng khẳng
định: “Chỉ tiếp nhận được tàu có trọng tải 15 ngàn tấn ra vào”. Ông Bùi Quang
14
Đạo, Phó Giám đốc cảng Cái Lân giải thích: “Mặc dù mớn nước tại cảng đủ để
tiếp nhận tàu 50 ngàn tấn, nhưng độ sâu của luồng vào cảng chỉ cho phép tàu
dưới 25 tấn ra vào!”. Vì tàu lớn không vào được cảng nên hàng hóa xuất nhập
khẩu qua cảng phải trung chuyển từ tàu lớn sang tàu nhỏ, chi phí mỗi tấn hàng
tốn thêm 7 USD, sau ba năm hoạt động con số thiệt hại này lên đến hàng trăm
tỷ đồng!
Theo Phó Tổng giám đốc Công ty Tân cảng Sài Gòn Ngô Trọng Phàn,

khu vực cảng mở khó khăn do thiếu văn bản hướng dẫn cụ thể về quy trình thủ
tục hải quan, khó khăn trong khâu thanh toán qua ngân hàng, chưa có hướng
dẫn cụ thể về thuế thu nhập của khách hàng. Để hoạt động cảng mở đạt mục
tiêu thí điểm, Công ty Tân cảng đề nghị Chính phủ, các bộ liên quan nghiên
cứu sửa đổi “Quy chế thí điểm khu vực cảng mở” và đề nghị Chính phủ nâng
thành nghị định áp dụng thống nhất cho các cảng biển trong cả nước.
Trước thự tế đáng lo ngại như vậy, Chính phủ ta cần chú ý cải tạo và phát
triển cảng nước sâu bằng những văn bản và chính sách cụ thể hướng dẫn các
doanh nghiệp thực hiện, tạo điều kiện cấp phép xây dựng và hoạt động cho các
cảng biển mới.
3. Nâng cao hiệu quả của thông tin liên lạc
Trong thời buổi kinh tế thị trường, hội nhập kinh tế quốc tế, thông tin là
một yếu tố quan trọng trong hoạt động kinh doanh. Các nhà đầu tư không thể
đổ vốn vào Việt Nam nếu như hệ thống thông tin liên lạc của ta kém hiệu quả,
bởi thiếu thông tin sẽ làm mất đi các cơ hội kinh doanh.
Chúng ta cần cải thiện hệ thống thông tin liên lạc: cải tạo đường dây điện
thoại, phủ sóng di động rộng khắp, lắp mới và tu sửa hệ thống cáp quang cho
đường truyền internet….hạn chế tối đa các hiện tượng nghẽn mạng, mất sóng,
mất tín hiệu đột ngột và kéo dài.
15
4. Khuyến khích các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vào cơ sở
hạ tầng
Chính phủ tạo sân chơi bình đẳng và khuyến khích doanh nghiệp nước
ngoài đầu tư vào lĩnh vực cơ sở hạ tầng vì một mình nhà nước ta hiện nay
không có đủ nguồn lực để thực hiện tốt vai trò này.
Ví dụ trong lĩnh vực điện. Ngành điện đưa ra quan điểm không cho phép
nhà đầu tư xây dựng các nhà máy điện theo phương thức BOT (xây dựng-vận
hành-chuyển giao). Điều này là vô lý vì BOT là phương thức thích hợp nhất,
quan trọng nhất cho việc phát triển các dự án cơ sở hạ tầng, trong đó
có điện.Muốn thực hiện BOT phải giải quyết hai vấn đề. Một là giá đầu vào,

muốn sản xuất điện phải có than và rõ ràng giá than không thể ở mức cao như
hiện nay. Trước đây đã có nhà đầu tư Mỹ muốn thực hiện những dự án điện rất
lớn với công suất lên tới 650MGW, nhưng do giá than quá cao nên họ đành rút
lui.Thứ hai là giá bán điện. Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) không phải bỏ
vốn đầu tư để xây nhà máy điện vì đó là tiền của Nhà nước, nhưng lại độc
quyền trong khâu phân phối, mua và bán điện, đặc biệt là có quyền đề ra giá
bán khi bán điện đến tay người tiêu dùng.Nhà đầu tư nước ngoài không thể
tham gia vào thị trường điện khi chưa được đối xử bình đẳng.Giá đầu vào và
đầu ra trong sản xuất điện ở các nước phải do chính phủ quản lý, vì điện là mặt
hàng đặc biệt và là hạ tầng cơ sở quan trọng nhất cho sự phát triển kinh tế.
Ngoài ra có thể kêu gọi các doanh nghiệp nước ngoài đầu tư và lĩnh vực
thông tin liên lạc, giao thông vận tải với sự đối xử công bằng và quản lý chặt
chẽ của nhà nước ta.

×