Tải bản đầy đủ (.doc) (38 trang)

Pháp lệnh Hôn nhân và gia đình giữa công dân Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (173.34 KB, 38 trang )

TIỂU LUẬN MẪU THAM KHẢO
08:29 NGUYEN VAN TIENLDS NO COMMENTS
LỜI NÓI ĐẦU
Gia đình - hạt nhân cốt lõi của xã hội, là cái nôi nuôi dưỡng con người, là môi trường quan
trọng để hình thành và giáo dục nhân cách, góp phần vào việc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Gia đình tốt thì xã hội mới tốt, xã hội tốt thì gia đình lại càng tốt hơn. Sự tác động và chi
phối lẫn nhau giữa gia đình và xã hội được khẳng định rõ nét trong hôn nhân. Bởi lẽ, nền
tảng vững chắc để xây dựng gia đình chủ yếu là xuất phát từ quan hệ hôn nhân.
Ngày nay, trong xu thế hội nhập - quốc tế hoá ngày càng được mở rộng thì hòa vào sự phát
triển của nền kinh tế, quan hệ hôn nhân cũng được hình thành dưới nhiều góc độ khác nhau
của xã hội, dựa trên những nguyên tắc nhất định. Hôn nhân giữa công dân Việt Nam thuộc
các dân tộc tôn giáo, giữa người theo tôn giáo và người không theo tôn giáo, giữa công dân
Việt Nam và người nước ngoài, được tôn trọng và được pháp luật bảo vệ trên cơ sở nguyên
tắc tiến bộ, một vợ , một chồng bình đẳng.
Cơ sở thiết lập quan hệ hôn nhân hiện nay đã vượt ra khỏi phạm vi lãnh thổ quốc gia, chịu
tác động và chi phối bởi các yếu tố nước ngoài. Do tính chất phức tạp vốn có của quan hệ
này, nhà nước đã kịp thời thừa nhận và bảo vệ bằng cách thông qua hình thức ban hành các
văn bản quy phạm pháp luật để điều chỉnh và có những sửa đổi bổ sung để hoàn thiện nội
dung của chế định trên thực tế. Cụ thể, những văn bản ra đời trước như Luật Hôn nhân và
Gia đình năm 1986, Pháp lệnh Hôn nhân và gia đình giữa công dân Việt Nam với người
nước ngoài, và hiện nay là Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000, Nghị định số 68/2002/NĐ-
CP ngày 10/7/2002 của Chính Phủ quy định chi tiết một số điều của Luật Hôn nhân và Gia
đình năm 2000 về quan hệ Hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài, Nghị định số
69/2006/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 68/2002. Đây là cơ sở pháp
lý vững chắc hướng các chủ thể trong quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài
phát huy tối đa quyền tự do kết hôn và đảm bảo trật tự cũng như sự ổn định xã hội. Tuy
nhiên, trong quá trình áp dụng pháp luật đã bộc lộ không ít những thiếu sót và bất cập, ảnh
hưởng lớn đến cuộc sống của chủ thể kết hôn và những giá trị đạo đức truyền thống của xã
hội xưa nay, kết hôn có yếu tố nước ngoài một mặt thể hiện ý nghĩa tích cực, thúc đẩy giao
lưu hợp tác quốc tế trong nhiều lĩnh vực nhưng vẫn không thể phủ nhận những hạn chế đang
tồn tại trong đó.


Trong phạm vi tiểu luận này tôi xin phân tích một số quy định của pháp luật hiện hành để
cho thấy được những khó khăn và vướng mắc trong việc áp dụng và thực trạng của hiện
tượng đăng ký kết hôn có yếu tố nước ngoài hiện nay tại một số khu vực. Trên những cơ sở
đó sẽ tổng kết và rút ra những tồn tại và giải pháp để từ đó tiến tới khắc phục vấn đề.
CHƯƠNG 1
NHỮNG QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HIỆN HÀNH
VỀ KẾT HÔN CÓ YẾU TỐ NƯỚC NGOÀI.
1.1.Một số khái niệm có liên quan đến kết hôn có yếu tố nước ngoài.
Gia đình là tế bào của xã hội là khởi nguồn nền tảng của mọi mối quan hệ xã hội phát sinh
giữa con người với con người. Trong suốt quá trình tồn tại và phát triển của xã hội, chức
năng quan trọng của gia đình đã được khẳng định, đó là tái tạo ra những con người mới
thông qua việc xác lập mối quan hệ hôn nhân giữa nam và nữ.
Trong từng giai đoạn lịch sử, hôn nhân được nhà nước và pháp luật nhìn nhận dưới nhiều
góc độ khác nhau. Về phương diện tổng quan, hôn nhân và gia đình là hiện tượng phát sinh
trong quá trình phát triển của xã hội loài người, đồng thời cũng chịu sự tác động trực tiếp từ
những điều kiện kinh tế xã hội của một quốc gia.
Hôn nhân được hiểu một cách cụ thể và đơn giản đó là mối quan hệ hình thành trên cơ sở
liên kết giữa nam và nữ, cùng nhau chung sống và được pháp luật thừa nhận. Quan hệ hôn
nhân luôn gắn với từng con người cụ thể, với những giá trị nhân thân nhất định, không thể
chia sẻ hay chuyển giao. Bằng những hình thức khác nhau mà chủ yếu là thông qua hình
thức kết hôn, con người đã tạo ra sự liên kết đó và duy trì sự tồn tại của hôn nhân.
1.1.1. Khái niệm kết hôn.
Theo quy định của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000, “ Kết hôn là việc nam và nữ xác
lập quan hệ vợ chồng theo quy định của pháp luật về điều kiện kết hôn và đăng ký kết hôn” (
khoản 2 điều 8 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000), Hay nói cách khác đây là hình thức để
Nhà nước thừa nhận đối với hôn nhân hợp pháp. Việc nam, nữ chung sống với nhau mà
không đăng ký kết hôn thì dưới góc độ pháp lý, họ không được coi là vợ chồng.
1.1.2. Khái niệm kết hôn có yếu tố nước ngoài.
Trên cơ sở vận dụng quy định tại điều 826 Bộ Luật Dân Sự năm 1995 về quan hệ dân sự có
yếu tố nước ngoài, Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 đã đưa ra khái niệm quan hệ hôn

nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài. Theo đó, “Quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố
nước ngoài là quan hệ hôn nhân và gia đình:
Giữa công dân Việt Nam và người nước ngoài.ϖ
Giữa người nước ngoài với nhau thường trú tại Việt Nam.ϖ
Giữa công dân Việt Nam với nhau mà căn cứ để xác lập, thay đổi, chấm dứt quϖan hệ đó
theo pháp luật nước ngoài hoặc tài sản liên quan đến quan hệ đó ở nước ngoài.
( Khoản 14 điều 8 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000).
Như vậy, chủ thể tham gia vào quan hệ kết hôn có yếu tố nước ngoài rất đa dạng bao gồm
một trong những đối tượng sau:
- Người nước ngoài là người không có quốc tịch Việt Nam bao gồm: Công dân nước ngoài
là người không quốc tịch. Trên cơ sở kế thừa những quy định của pháp luật trước đó, Nghị
định số 68/2002/NĐ- CP ngày 10/7/2002 của Chính Phủ quy định chi tiết thi hành một số
điều của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 về quan hệ một cách cụ thể bằng cách liệt kê
rõ ràng. Trong đó:
+ Công dân nước ngoài được hiểu là người có quốc tịch nước ngoài, không phải là người có
quốc tịch nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam.
+ Người không quốc tịch là người không có quốc tịch của bất kỳ quốc gia nào.
Cả hai đối tượng nêu trên đều được Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam điều chỉnh trong
quan hệ kết hôn có yếu tố nước ngoài, không có sự phân biệt khi xác lập quyền và nghĩa vụ
giữa họ với nhau.
- Người nước ngoài thường trú tại Việt Nam là công dân nước ngoài và người không quốc
tịch cư trú, làm ăn, sinh sống lâu dài ở Việt Nam (khoản 2 điều 9 Nghị định 68). Do điều
kiện cuộc sống hay tính chất công việc họ đang làm mà những người này đã đến và sinh
sống lâu dài tại Việt Nam. Và theo đó một nhu cầu hoàn toàn có khả năng phát sinh đó chính
là việc đăng ký kết hôn. Những đối tượng đó sẽ trở thành chủ thể trong quan hệ kết hôn có
yếu tố nước ngoài khi họ có nguyện vọng kết hôn tại cơ quan có thẩm quyền tại Việt Nam.
- Ngoài ra, những công dân Việt Nam ra nước ngoài sinh sống một cách hợp pháp và kết hôn
tại cơ quan có thẩm quyền của nước sở tại cũng được đặt ra và xem đây là một trong những
trường hợp kết hôn có yếu tố nước ngoài. Căn cứ để xác lập mối quan hệ hôn nhân ở đây là
theo pháp luật nước ngoài mặc dù chủ thể tham gia là người Việt Nam.

Xuất phát từ những ảnh hưởng của tình hình kinh tế xã hội, xu thế phát triển hội nhập quốc
tế, những quan hệ xã hội mới nảy sinh đòi hỏi pháp luật phải quy định mở rộng. Do tính chất
của hôn nhân có yếu tố nước ngoài luôn có khả năng dẫn đến hiện tượng xung đột pháp luật
nên việc xác định chủ thể hay căn cứ làm phát sinh quan hệ có ý nghĩa rất quan trọng. Tạo
điều kiện để những người áp dụng pháp luật giải quyết sự việc phù hợp và đúng theo quy
định.
Trong một số trường hợp, quan hệ hôn nhân tuy có liên quan đến yếu tố nước ngoài nhưng
khi nhìn nhận dưới góc độ Tư pháp quốc tế thì điều này không dẫn đến hiện tượng xung đột
pháp luật, chẳng hạn như: “Công dân Việt Nam định cư ở nước ngoài về nước kết hôn với
công dân ở trong nước hay hai công dân Việt Nam kết hôn với nhau tại cơ quan đại diện
ngoại giao, lãnh sự Việt Nam ở nước ngoài”(1). Các bên chủ thể này khi kết hôn với nhau sẽ
tuân theo pháp luật Việt Nam.
Tóm lại, kết hôn có yếu tố nước ngoài được hiểu là là việc xác lập quan hệ vợ chồng theo
quy định của pháp luật về điều kiện kết hôn và đăng ký kết hôn giữa công dân Việt Nam và
người nước ngoài, giữa người nước ngoài với nhau thường trú tại Việt Nam, và công dân
Việt Nam với nhau tại cơ quan có thẩm quyền nước ngoài.
Quan hệ này được quy định cụ thể trong pháp luật hiện hành, cụ thể là Luật Hôn nhân và gia
đình năm 2000 và hướng dẫn cụ thể tại Nghị định số 68 và Nghị định số 69 của Chính phủ.
Tạo cơ sở pháp lý để điều chỉnh các quan hệ mới phát sinh, đảm bảo sự ổn định và trật tự xã
hội.
1.2 Nguyên tắc trong kết hôn có yếu tố nước ngoài.
Kết hôn có yếu tố nước ngoài về thực chất cũng mang những yếu tố tương tự như kết hôn
trong nước. Đó là những quy định về điều kiện kết hôn và những vấn đề liên quan đến việc
hình thành mối quan hệ hôn nhân. Với bản chất một quan hệ dân sự theo nghĩa rộng có yếu
tố nước ngoài, hôn nhân ở đây cũng mang nét đặc trưng riêng và cần có những quy phạm
pháp luật trực tiếp điều chỉnh cho phù hợp.
Trích bình luận khoa học Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000, trang 505
Tình hình thực tế của việc kết hôn có yếu tố nước ngoài trong những năm gần đây đã có sự
thay đổi rất lớn về cả nội dung lẫn hình thức. Tuy nhiên một thực tế mà chúng ta không thể
phủ nhận đó là số lượng các cặp nam nữ kết hôn trong trường hợp này đã tăng lên một cách

rõ nét, không kể đến những trường hợp nam nữ sống chung với nhau mà không tiến đến
đăng ký kết hôn. Do tính chất phức tạp của quan hệ mà khi đưa ra những biện pháp giải
quyết đòi hỏi những nhà làm luật cũng như những cơ quan có thẩm quyền xem xét dưới
nhiều góc độ khác nhau trên những nguyên tắc nhất định. Qua nghiên cứu và đúc kết từ thực
tiễn, việc xây dựng và áp dung pháp luật về quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước
ngoài cần đáp ứng những nguyên tắc chung sau đây:
1.2.1. Tôn trọng và bảo vệ các quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài trên cơ sở
pháp luật Việt Nam, Điều ước quốc tế mà Việt Nam ký kết hoặc tham gia và những nguyên
tắc chung của pháp luật quốc tế.
Đây là một nguyên tắc đóng vai trò quan trọng và xuyên suốt trong toàn bộ quá trình xây
dựng pháp luật cũng như đề xuât những giải pháp. Ở Việt Nam quan hệ hôn nhân và gia đình
có yếu tố nước ngoài được thừa nhận không những trong thực tế mà còn được cụ thể hóa
bằng những quy định của pháp luật. Điều này đã tạo một cơ sở pháp lý để nhà nước quản lý
và nắm bắt được tình hình kết hôn trên thực tế, đảm bảo quyền lợi cho các chủ thể trực tiếp
tham gia vào quan hệ.
Bất kì một quốc gia yêu chuộng hòa bình nào cũng phải tôn trọng và chịu sự chi phối từ
những quy định của luật quốc tế trên nguyên tắc tôn trọng các cam kết quốc tế. Hiện nay, các
nước trên thế giới trong đó có Việt Nam đã tham gia ký kết các Hiệp định, Hiệp định khu
vực, cũng như gia nhập vào các tổ chức quốc tế nhằm mục đích là có được sự hỗ trợ, giúp đỡ
về nhiều phương diện từ quốc tế. Phương hướng để giải quyết những tồn tại đối với hoạt
động kết hôn có yếu tố nước ngoài liên quan trực tiếp đến nhiều vấn đề pháp lý quốc tế.
1.2.2. Quyền và nghĩa vụ của các chủ thể là người Việt Nam hay người nước ngoài đều bình
đẳng và được tôn trọng.
Nhìn chung, chế định kết hôn có yếu tố nước ngoài được Luật Hôn nhân và gia đình năm
2000 quy định và hướng dẫn tại Nghị định số 68 và Nghị định số 69 của Chính phủ đã thể
hiện rõ nét tinh thần của nguyên tắc này, xuất phát từ chính sách chung của Nhà nước nhằm
nâng cao vai trò của yếu tố con người trong việc xây dựng chiến lược phát triển kinh tế xã
hội. Trong những năm gần đây, sự qua lại giữa công dân Việt Nam và nguời nước ngoài
ngày càng trở nên phổ biến đòi hỏi quốc gia phải có những định hướng, chính sách phù hợp.
Cụ thể trong chế định hôn nhân có yếu tố nước ngoài, pháp luật Việt Nam đã quy định điều

kiện kết hôn cơ bản giống nhau giữa công dân Việt Nam và người nước ngoài. Trên thực tế
vấn đề bất bình đẳng trong mối quan hệ này vẫn còn nảy sinh và chưa được giải quyết triệt
để. Đây là một nguyên nhân dẫn đến tình trạng lợi dụng việc kết hôn để thực hiện hành vi
trái pháp luật và đạo đức xã hội, giá trị của con người bị hạ thấp đặc biệt là người phụ nữ.
Đây là hai nguyên tắc cơ bản trong xây dựng và áp dụng pháp luật về quan hệ hôn nhân có
yếu tố nước ngoài.
1.3. Điều kiện kết hôn
Điều kiện kết hôn là những quy định mang tính pháp lý bắt buộc mà nhà nước đặt ra cho các
bên nam nữ khi kết hôn phải tuân thủ. Muốn xác lập một quan hệ hôn nhân hợp pháp thì đòi
hỏi phải có sự thừa nhận của nhà nước tức là phải đăng ký tại cơ quan nhà nước có thẩm
quyền. Điều kiện kết hôn là tiền đề để các chủ thể kết hôn tiến tới xây dựng gia đình hạnh
phúc,
“Trong việc kết hôn giữa công dân Việt Nam với người nước ngoài, mỗi bên phải tuân theo
pháp luật nước mình về điều kiện kết hôn, nếu việc kết hôn được tiến hành tại cơ quan nhà
nước có thẩm quyền của Việt Nam thì người nước ngoài phải tuân thủ theo quy định của luật
này về điều kiện kết hôn. Việc kết hôn giữa những người nước ngoài với nhau tại Việt Nam
trước cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam phải tuân theo các qui định của luật này về điều
kiện kết hôn”.
( Điều 103 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000)
Đây là một điểm mới của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 so với luật năm 1986, quy
định rõ ràng về việc áp dụng pháp luật, hạn chế và góp phần giải quyết những xung đột pháp
luật nảy sinh.
Cơ sở xây dựng điều kiện kết hôn là những nghiên cứu về tâm lý, sức khỏe, và khả năng ảnh
hưởng đến cuộc sống con người. Nghĩa là, khi tiến đến hôn nhân các bên nam nữ phải đáp
ứng đầy đủ sự phát triển cả về thể chất lẫn tinh thần, đảm bảo việc thực hiện các chức năng
quan trọng của gia đình và vai trò trách nhiệm của từng thành viên trong đó.
Ngoài ra điều kiện kinh tế xã hội cũng như truyền thống đạo đức, các chính sách lớn của nhà
nước liên quan đến lĩnh vực hôn nhân và gia đình cũng là những yếu tố ảnh hưởng đến tình
hình kết hôn hiện nay.
Xuất phát từ những lý luận khoa học và thực tiễn, Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 đã

quy định điều kiện kết hôn gồm 3 nội dung như sau:
1.3.1. Điều kiện về độ tuổi.
“ Nam từ 20 tuổi trở lên, nữ từ 18 tuổi trở lên”
( Khoản 1 điều 9 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000)
Khi các chủ thể kết hôn với nhau tức là có sự gắn bó về mặt nhân thân, tạo lập một gia đình
mới trong xã hội. Các nhà làm luật đã xây dựng quy phạm về độ tuổi kết hôn nhằm đảm bảo
mục đích của hôn nhân trên thực tế. Căn cứ vào sự phát triển thể chất và mức độ nhận thức
của từng cá nhân để tổng hợp thành quy định chung về độ tuổi áp dụng cho mọi đối tượng
kết hôn.
Phạm vi đối tượng kết hôn theo điều kiện về độ tuổi cũng được mở rộng phản ánh được sự
phát triển về mặt sinh lý, tâm lý con người. Theo đó, bất kỳ các bên nam nữ khi đạt độ tuổi
mà pháp luật quy định thì có quyền kết hôn phù hợp với nguyện vọng của bản thân.
Quy định của pháp luật về độ tuổi kết hôn chỉ đưa ra mức giới hạn tối thiểu mà các chủ thể
kết hôn phải đáp ứng, không yêu cầu về độ chênh lệch tuổi giữa hai bên nam và nữ. Do đó
khi áp dụng pháp luật trên thực tế, tình trạng kết hôn mà nam nữ cách nhau đến vài chục tuổi
đang trở nên phổ biến hiện nay. Điều này một phần đã ảnh hưởng đến sự phát triển của thế
hệ tương lai cũng như những giá trị đạo đức truyền thống trong xã hội.
1.3.2. Điều kiện về sự tự nguyện.
“Việc kết hôn do nam nữ tự nguyện quyết định, không bên nào được ép buộc, lừa dối bên
nào, không ai được cưỡng ép hoặc cản trở”
(Khoản 2 điều 9 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000)
Tự nguyện là sự thống nhất ý chí của các bên lẫn trong cách thể hiện ra bên ngoài. Hai bên
nam nữ tự mình quyết định việc kết hôn, tỏ rõ thái độ ưng thuận lấy nhau và trở thành vợ
chồng, không chịu sự tác động hay chi phối từ bên ngoài.
Theo đó, công dân Việt Nam được tự do quyết định việc kết hôn của mình và pháp luật cũng
tôn trọng quyền này đối với người nước ngoài. Đây là một quy định hoàn toàn phù hợp với
pháp luật quốc gia cũng như pháp luật quốc tế.
Hôn nhân được hình thành trên cơ sở tình yêu chân chính giữa hai bên nam nữ, được biểu
hiện thông qua sự tự nguyện kết hôn. Do đó, trong một số trường hợp, kết hôn được coi là vi
phạm yếu tố tự nguyện, tức là các chủ thể xác lập mối quan hệ hôn nhân không xuất phát từ

ý chí và nguyện vọng của chính bản thân mình mà là do sự tác động, thúc đẩy từ bên ngoài.
Cụ thể:
Một bên ép buộc (ví dụ: đe dọa dùng vũ lực hoặc uy hiếp tinh thần hoặc dùng vật chất…)
nên buộc bên bị ép buộc đồng ý kết hôn;
Một bên lừa dối (ví dụ: lừa dối là nếu kết hôn sẽ xin việc làm phù hợp hoặc nếu kết hôn sẽ
bảo lãnh ra nước ngoài; không có khả năng sinh lý nhưng cố tình giấu; biết mình bị nhiễm
HIV nhưng cố tình giấu…) nên bên bị lừa dối đã đồng ý kết hôn.
Một bên hoặc cả hai bên nam và nữ bị người khác cưỡng ép (ví dụ: bố mẹ của người nữ do
nợ người nam một khoản tiền nên cưỡng ép người nữ phải kết hôn với người nam để trừ nợ;
do bố mẹ của hai bên có hứa hẹn với nhau nên cưỡng ép con của họ phải kết hôn với
nhau…) buộc người bị cưỡng ép phải kết hôn trái với nguyện vọng của họ.
Cản trở kết hôn là hành vi gây trở ngại cho việc kết hôn của hai bên nam nữ khi họ đủ điều
kiện kết hôn theo quy định của pháp luật.
(Hướng dẫn tại các tiểu mục b.1; b.2; b.3 mục b phần 1-Nghị quyết số 02 năm 2000 của Hội
đồng Thẩm Phán).
Do đó để đảm bảo cho việc kết hôn giữa hai bên nam nữ là trên cơ sở tự nguyện, pháp luật
đã có những quy định và bắt buộc tiến hành khi các đối tượng này có nguyện vọng tiến tới
hôn nhân. Chẳng hạn như khi đăng ký kết hôn phải có mặt của hai bên nam nữ, không cho
phép kết hôn vắng mặt. Còn về khả năng nhận thức, pháp luật nghiêm cấm người mất năng
lực hành vi dân sự kết hôn. Những trường hợp này đòi hỏi phải có sự thể hiện ý chí của
chính các chủ thể, đặc biệt là khi kết hôn có liên quan đến yếu tố nước ngoài.
1.3.3. Việc kết hôn giữa hai bên nam nữ không thuộc một trong các trường hợp cấm kết hôn
Cũng như các trường hợp kết hôn thông thường, việc kết hôn có yếu tố nước ngoài đòi hỏi
các chủ thể kể cả công dân Việt Nam và người nước ngoài phải tuân thủ một cách tuyệt đối
các điều kiện kết hôn. Các bên nam nữ cần đáp ứng đầy đủ yêu cầu về độ tuổi cũng như sự
tự nguyện khi kết hôn.
Đồng thời việc kết hôn này phải không thuộc một trong những trường hợp pháp luật cấm kết
hôn. Cụ thể, đây là điều kiện cần và đủ để xem xét tính hợp pháp của một quan hệ hôn nhân.
- Cấm người đang có vợ hoặc đang có chồng kết hôn với người khác.
- Cấm người mất năng lực hành vi dân sự kết hôn.

- Cấm kết hôn giữa những người cùng dòng máu về trực hệ, giữa những người có họ trong
phạm vi ba đời.
- Cấm kết hôn giữa cha mẹ nuôi với con nuôi, giữa những người đã từng là cha mẹ nuôi với
con nuôi, bố chồng với con dâu, mẹ vợ với con rể, bố dượng với con riêng của vợ, mẹ kế với
con riêng của chồng.
- Cấm kết hôn giữa những người cùng giới tính.
1.3.3.1. Người đang có vợ hoặc có chồng là:
Người đã kết hôn với người khác theo đúng quy định của pháp luật về hôn nhân và đình
nhưng chưa ly hôn;∫
Người sống chung với người khác như vợ chồng từ trước ngày 03/1/1987 và đang chung
sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn;∫
Người sống chung với người khác như vợ chồng từ trước ngày 03/1/1987 đến trước ngày
01/01/2001 và đang chung sống với nhau như vợ chồng mà có đủ điều kiện kết hôn nhưng
không đăng ký kết hôn (trường hợp này chỉ áp dụng từ ngày Nghị quyết 02/2002 của Hội
đồng Thẩm phán có hiệu lực cho đến trước ngày 01/01/2003).∫
1.3.3.2. Người mất năng lực hành vi dân sự là:
Người mất khả năng bằng hành vi của mình xác lập, thực hiện quyền, nghĩa vụ dân sự.
1.3.3.3. Giữa những người cùng dòng máu về trực hệ là:
Giữa cha, mẹ với con; giữa ông, bà với cháu nội, cháu ngoại. Giữa những người có họ trong
phạm vi ba đời là giữa những người có cùng một gốc sinh ra: cha mẹ là đời thứ nhất; anh chị
em cùng cha mẹ, cùng cha khác mẹ, cùng mẹ khác cha là đời thứ hai; anh chị em con chú,
con bác, con cô,con cậu, con dì là đời thứ ba.
(Hướng dẫn tại các tiểu mục c.1; c.2; c.3 mục c phần 1 Nghị quyết số 02/2000 của Hội đồng
Thẩm phán)
Quan điểm của nhà nước Việt Nam đối với những trường hợp này là dứt khoát và không có
những ngoại lệ, đây là một nội dung mà khi công dân Việt Nam kết hôn với người nước
ngoài hay người nước ngoài kết hôn với nhau tại Việt Nam đã dẫn đến rất nhiều những xung
đột pháp luật. Tuy nhiên, về mặt khách quan những trường hợp bị cấm kết hôn được đặt ra
trên cơ sở nghiên cứu khoa học xã hội về tâm lý con người nhưng đây không phải là những
yếu tố bất biến. Khi xã hội phát triển đến một mức độ nhất định cũng như trong nhận thức

con người có những chuyển biến thay đổi thì pháp luật cũng sẽ có qui định phù hợp.
CHƯƠNG 2
NHỮNG KHÓ NHĂN, VƯỚNG MẮC TRONG VIỆC ÁP DỤNG ĐIỀU CẤM ( ĐIỀU 9
VÀ ĐIỀU 10 ) CỦA LUẬT HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH TRONG VIỆC ĐĂNG KÝ KẾT
HÔN CÓ YẾU TỐ NƯỚC NGOÀI
2.1 Tình hình kết hôn có yếu tố nước ngoài trong những năm gần đây.
2.1.1. Tình hình chung của việc đăng ký kết hôn có yếu tố nước ngoài.
Trong khoảng thời gian từ 10 năm trở lại đây bắt đầu khoảng từ năm 2000, hoạt động đăng
ký kết hôn có yếu tố nước ngoài tại các cơ quan có thẩm quyền tại một số tỉnh đã có dấu
hiệu xuất hiện và tăng lên đáng kể ngoài đối tượng của một bên trong quan hệ là người Việt
Nam, bên còn lại là người nước ngoài đến đăng ký kết hôn có quốc tịch của nhiều quốc gia
trên thế giới. Điều này cho thấy tính chất phức tạp cần phải giải quyết về phía các đối tượng
là cán bộ hộ tịch tư pháp.
Tại các tỉnh Miền Đông Nam Bộ là khu vực có những thuận lợi về mặt địa lý cũng như tình
hình kinh tế xã hội ổn định trong cả nước. Mức sống người dân cơ bản được đảm bảo thông
qua các chính sách được hỗ trợ từ phía nhà nước cũng như bằng chính sự nỗ lực của cá nhân.
Và do những ảnh hưởng từ quá trình đô thị hóa mà hiện nay số lượng người đến đăng ký kết
hôn có liên quan đến yếu tố nước ngoài đã có thay đổi đáng kể.
Theo báo của các Sở Tư pháp:
ăm 2007 tại thành phố Hồ Chí Minh có 3690 trường hợp, tỉnh Bình Dương có 180 trường
hợp kết hôn có yếu tố nước ngoài;Ν
Năm 2008 tại thành phố Hồ Chí Minh có 3780 trường hợp, tại tỉnh Bình Dương có 144
trường hợp kết hôn có yếu tố nước ngoài.
Cùng với Miền đông Nam Bộ, Đồng bằng Sông Cửu Long đã và đang trở thành điểm nóng
của hoạt động kết hôn có yếu tố nước ngoài trong cả nước. Tại Đồng Tháp năm 2003 là
1926 trường hợp và 6 tháng đầu năm 2004 là 1006 trường hợp. Ở Cần Thơ, theo thống kê
của Sở Tư Pháp tỉnh, từ đầu năm 2003 đến tháng 10 năm 2004 có 3260 trường hợp.
Tại Long An trung bình mỗi năm có trên 300 cuộc hôn nhân có yếu tố nước ngoài được xác
lập. Người nước ngoài và Việt kiều kết hôn có quốc tịch và nơi cư trú phân bố ở nhiều quốc
gia, khu vực như Mỹ, Úc, Pháp, Canada, các nước Bắc Âu và Đông Nam Á. Phụ nữ lấy

chồng nước ngoài cư trú ở nhiều huyện, thị trong tỉnh. Nói chung, hôn nhân có đăng ký, bảo
đảm các điều kiện theo luật định. Tuy nhiên, gần đây tình hình phụ nữ kết hôn với người
nước ngoài tăng mạnh và có diễn biến phức tạp, khó kiểm soát. từ năm 2005, tình hình phụ
nữ lấy chồng nước ngoài ở Long An tăng nhanh về số lượng, chiếm tỷ lệ cao hơn so với Việt
kiều. Có đến 90/284 trường hợp kết hôn với người Đài Loan, chiếm tỷ lệ gần 30% số kết hôn
có yếu tố nước ngoài. Phụ nữ trong tỉnh lấy chồng Đài Loan trong năm 2005 tập trung nhiều
ở các huyện Đức Hòa, Cần Đước, Cần Giuộc,Bến Lức và thành phố Tân An. Năm 2006, tình
hình phụ nữ kết hôn với người nước ngoài diễn biến phức tạp hơn, số lượng kết hôn tăng
nhanh. Đặc biệt, từ khi Nghị định 158/2005/NĐ-CP ngày 27 tháng 12 năm 2005 của Chính
phủ về đăng ký và quản lý hộ tịch được ban hành thì kết hôn nước ngoài còn hình thành dưới
hình thức khác thông qua thủ tục ghi chú kết hôn (không đăng ký kết hôn tại Việt Nam mà
thực hiện việc đăng ký kết hôn tại cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài, rồi đem giấy
chứng nhận kết hôn đến Sở Tư pháp thực hiện việc ghi chú vào sổ hộ tịch). Thủ tục này rất
đơn giản và thực hiện nhanh chóng. Địa bàn cư trú của phụ nữ lấy chồng Đài Loan, Hàn
Quốc cũng có sự chuyển hướng, tập trung nhiều về các huyện vùng sâu, vùng biên giới có
điều kiện kinh tế khó khăn, trong đó nhiều nhất là hai huyện Đức Hoà và Đức Huệ. Trong
năm 2006, riêng hai huyện Đức Hoà, Đức Huệ có 122/339 trường hợp kết hôn với nước
ngoài, chiếm hơn 30% cả tỉnh, trong đó 65 trường hợp ghi chú kết hôn với Hàn Quốc. Năm
2007, số lựơng các vụ kết hôn nước ngoài ở hai huyện trên là 146/325, chiếm gần 50% cả
tỉnh, trong đó Hàn Quốc là 101 trường hợp.
Như vậy thông qua quá trình tìm hiểu các số liệu, một thực tế không thể phủ nhận đó là các
hoạt động đăng ký kế hôn có yếu tố nước ngoài đã không dừng lại ở con số vài chục mà đã
tăng lên vài trăm, vài ngàn trường hợp trong một năm. Hiện nay, Thành phố Hồ Chí Minh
vẫn là nơi mà tỉ lệ kết hôn chiếm vị trí đáng kể trong cả nước. Theo bà Nguyễn Thị Thu Hà,
Thành phố Hồ Chí Minh là địa phương có tỷ lệ người kết hôn có yếu tố nước ngoài cao nhất
nước, với trên 60 quốc gia có công dân là chủ thể tham gia vào mối quan hệ hôn nhân với
công dân Việt Nam. Năm 2007, đã có 2.358 phụ nữ của thành phố kết hôn với người nước
ngoài. Tuy nhiên, tình trạng lấy chồng nước ngoài của một bộ phận phụ nữ chủ yếu vì nhu
cầu kinh tế, thông qua các hình thức môi giới hôn nhân, không xuất phát từ tình cảm, tình
yêu để xác lập mối quan hệ hôn nhân hợp pháp, bình đẳng, hạnh phúc.

2.1.2 Tình hình phụ nữ Việt Nam kết hôn với người nước ngoài đặc biệt là người Đài Loan,
và một số tồn tại hiện nay.
Luật hôn nhân và gia đình năm 1986 ghi nhận đầu tiên và hướng dẫn cụ thể tại Nghị Định
184/CP ngày 30/11/1994 của Chính Phủ về thủ tục đăng ký kết hôn, nhận nuôi con nuôi có
yếu tố nước ngoài. Trong giai đoạn đầu, hoạt động này diễn ra với mức độ trung bình, số
trường hợp đăng ký kết hôn mà các cơ quan giải quyết chỉ là trường hợp nhỏ, vài chục mỗi
năm. Trong nhận thức của người dân tại thời điểm này thì đây là một vấn đề xa lạ, trái với
truyền thống xưa và nay.
Dưới tác động của dư luận xã hội đã làm cho tình hình kết hôn có yếu tố nước ngoài không
phải là vấn đề xã hội đáng quan tâm. Hơn nữa mức độ ảnh hưởng từ những hoạt động môi
giới gần như không có mà chủ yếu là xuất phát từ những mối quan hệ trong gia đình có
người thân, bạn bè đi nước ngoài.
Từ năm 2000, đặc biệt là sau khi Chính phủ ban hành Nghị Định số 68/2002/NĐ-CP ngày
10/07/2002, tình hình kết hôn có yếu tố nước ngoài nói chung và phụ nữ Việt Nam kết hôn
với người Đài Loan đã trở nên sôi động. Do có những chuyển biến thay đổi trong đời sống
kinh tế cũng như xã hội, những nhu cầu mới phát sinh và pháp luật cần có những quy định
để giải quyết.
Tổng hợp các số liệu những trường hợp phụ nữ Việt Nam kết hôn với người Đài Loan được
ghi nhận theo thống kê của Sở Tư Pháp tại một số tỉnh thành như sau:
Tại Long An theo số liệu thống kê tình hình phụ nữ Việt Nam kết hôn với người Đài Loan từ
năm 2001 đến 2009 là:
Năm 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 2009
Số trường hợp 61 83 90 115 150 173 185 199 190
Vấn đề phụ nữ Việt Nam kết hôn với người Đài Loan đã trở thành mối quan tâm không
những của chính nhân dân trong tỉnh mà còn là của cả nước. Số lượng người nước ngoài
nhất là người Đài Loan có nhu cầu đến Việt Nam kết hôn ngày càng tăng. Cùng với đó là xu
hướng gả con cho người nước ngoài vì mục đích kinh tế trước mắt đang tăng lên một cách
đáng kể.
Tại tỉnh Cần Thơ: từ 01/20003-10/2004 có 2871 trường hợp kết hôn với người Đài Loan
chiếm 88% trong tổng số(1).

Tại tỉnh Vĩnh Long:
Năm 2001: 862 trường hợp.
Năm 2002: 716 trường hợp.
Năm 2003: 467 trường hợp(2).
Qua phân tích số liệu: các trường hợp phụ nữ Việt Nam Kết hôn với người nước ngoài nói
chung và người Đài Loan nói riêng tại một số tỉnh thành cho thấy tình hình kết hôn có yếu tố
nước ngoài đang là một vấn đề nóng bỏng trong xã hội và tỉ lệ phụ nữ kết hôn với người Đài
Loan luôn chiếm một tỉ lệ cao trong tổng số trường hợp. Xuất phát từ nhiều nguyên nhân
khách quan, chủ quan nhưng không thể phủ nhận những tồn tại đang diễn ra hiện nay.
(1)Báo nhân dân ngày 23/3/2005 về quản lý Nhà Nước đối với quan hệ hôn nhân gia đình có
yêu cầu nước ngoài
(2)Tham luận tình hình ly hôn với người nước ngoài tại tỉnh Vĩnh Long – TAND tỉnh Vĩnh
Long ngày 10/9/2009
2.2. Nguyên nhân của hiện tượng kết hôn có yếu tố nước ngoài
Kết hôn có yếu tố nước ngoài là một vấn đề đã và đang diễn ra phổ biến trong xã hội. Sự gia
tăng đáng kể các trường hợp kết hôn hiện nay cũng như những tồn tại trong quá trình thiết
lập mối quan hệ này làm ảnh hưởng sâu sắc đến tình hình thực tế của xã hội Việt Nam. Do
tính chất mối quan hệ không những liên quan đến pháp luật Việt Nam mà còn ảnh hưởng
đến pháp luật của nhiều quốc gia trên thế giới.
Do đó, ngay từ khi xuất hiện và được các quy phạm pháp luật điều chỉnh quan hệ kết hôn có
yếu tố nước ngoài đã phát sinh nhiều hạn chế trong thực tiễn đăng ký kết hôn nói riêng và áp
dụng pháp luật nói chung. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến thực trạng này nhưng chủ yếu và
cốt lõi là xuất phát từ những thay đổi trong tình hình kinh tế và xã hội của đất nước.
2.2.1. Thứ nhất về mặt xã hội
Ngày nay khi cuộc sống của người dân có những thay đổi đáng kể trong nhiều lĩnh vực, đòi
hỏi phải có sự vận động không ngừng của từng cá nhân cụ thể để thích ứng với môi trường
thực tế đó. Xu hướng quốc tế hóa được mở rộng, đưa Việt Nam hòa nhập với cộng đồng thế
giới, tạo ra sự giao lưu liên kết giữa những cá nhân, công dân trong nước với người nước
ngoài. Biểu hiện rõ nét là các quan hệ hôn nhân có yếu tố nước ngoài được hình thành và
ngày càng trở nên phổ biến tại Việt Nam.

Nguyên nhân đầu tiên và dễ dàng nhận thấy đó là: số lượng người nước ngoài đến Việt Nam
sinh sống và làm việc gia tăng đáng kể.
Hàng năm Việt Nam thu hút hàng ngàn lượt người đến hoạt động kinh doanh, giao lưu kinh
tế văn hóa, du lịch, thăm thân nhân… do chính sách mở cửa của Nhà nước ngày càng cải
thiện theo chiều hướng thông thoáng hơn, mở cửa hợp tác với nhiều quốc gia trên thế giới.
Trong khi đó một số người có khả năng trong nước lại ra nước ngoài sinh sống, học tập và
làm việc dẫn đến tình trạng kết cấu dân số có những biến động rõ rệt. Chính sự ảnh hưởng

×