A. ĐẶT VẤN ĐỀ
Trong hơn 60 năm ra đời và hoạt động tích cực, Liên Hợp Quốc đã có những đóng
góp to lớn về nhiều mặt đối với cộng đồng quốc tế. Là một tổ chức quốc tế có mục đích
duy trì hòa bình và an ninh thế giới, phát triển các mối quan hệ hữu nghị giữa các dân tộc
và tiến hành hợp tác quốc tế giữa các nước trên cơ sở tôn trọng nguyên tắc bình đẳng và
quyền tự quyết của các dân tộc, Liên Hợp Quốc dần chiếm một vị trí không thể thiếu
trong các mối quan hệ quốc tế. Trong số các hoạt động đa dạng của mình, không thể
không kể đến vai trò của Liên Hợp Quốc trong quá trình xây dựng và hoàn thiện hệ thống
pháp luật quốc tế. Vai trò này không những thể hiện được những đóng góp to lớn, quan
trọng của Liên Hợp Quốc đối với hệ thống pháp luật quốc tế mà còn cho thấy sự tham gia
của Liên Hợp Quốc và các mối quan hệ quốc tế, các lĩnh vực, các vấn đề quốc tế một
cách hết sức đa dạng. Sau đây chúng ta sẽ nghiên cứu vai trò của Liên hợp quốc trong
quá trình xây dựng và hoàn thiện các nguyên tắc, quy phạm chuyên ngành Luật biển quốc
tế - Một lĩnh vực mà hiện nay vẫn là chủ đề nóng trong quan hệ quốc tế để làm sáng tỏ
vấn đề trên.
B. NỘI DUNG
I. Khái quát về vai trò của LHQ trong việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống
pháp luật quốc tế.
Liên Hợp Quốc thành lập ngày 24/10/1945, là một tổ chức quốc tế có mục đích
duy trì hòa bình và an ninh trên thế giới, phát triển các mối quan hệ hữu nghị giữa các
dân tộc và tiến hành hợp tác quốc tế giữa các nước trên cơ sở tôn trọng nguyên tắc bình
đẳng và quyền tự quyết của các dân tộc. Hiện nay, Liên Hiệp Quốc có 192 thành viên,
bao gồm phần lớn các quốc gia có chủ quyền trên Trái Đất. Đây là một tổ chức quốc tế
rộng lớn có tầm ảnh hưởng và vai trò quan trọng trong việc giải quyết các vấn đề chung
của toàn nhân loại. Không chỉ dừng lại ở nhiệm vụ bảo vệ hoà bình và an ninh quốc tế,
LHQ còn là diễn đàn nơi các quốc gia thảo luận và thông qua các quy phạm pháp luật
quốc tế nhằm thúc đẩy sự phát triển của thế giới. Đồng thời tổ chức này cũng có thẩm
quyền và phương tiện để đảm bảo tuân thủ luật pháp quốc tế.
1
LHQ đóng vai trò quan trọng trong việc xây dựng, bảo vệ, củng cố hệ thống pháp
luật quốc tế. Trong hoạt động xây dựng và hoàn thiện pháp luật quốc tế, vai trò của Liên
hợp quốc được thể hiện qua hai con đường:
Một là, hoạt động xây dựng pháp luật quốc tế trực tiếp: đây là hoạt động của Liên
hợp quốc với tư cách là chủ thể của Luật quốc tế. Liên hợp quốc kí kết các điều ước quốc
tế hoặc chấp nhận các tập quán quốc tế để thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của mình
trong khuôn khổ thẩm quyền mà các quốc gia thành viên trao cho tổ chức.
Hai là, hoạt động xây dựng pháp luật gián tiếp: đây là hoạt động đưa ra sáng kiến,
bảo trợ để kí kết các điều ước quốc tế. Thông thường, Liên hợp quốc sẽ tổ chức các diễn
đàn, các hội nghị để các bên thương lượng và kí kết điều ước quốc tế. Ngoài ra, Liên hợp
quốc còn tham gia soạn thảo các điều ước quốc tế, thiết lập nên các thiết chế để giám sát
thực hiện các điều ước này.
Vai trò quan trọng của LHQ trong việc phát triển, xây dựng và pháp điển hoá luật
quốc tế được minh chứng qua hàng trăm các Điều ước quốc tế đa phương, được xây dựng
trong khuôn khổ của tổ chức này trên nhiều lĩnh vực khác nhau như nhân quyền, môi
trường, bảo vệ xã hội, luật kinh tế, luật hàng hải, luật hàng không, luật quốc tế về khủng
bố, chống tội phạm, chống buôn bán ma tuý, buôn bán phụ nữ và trẻ em. Đặc biệt đáng
chú ý là hai Công ước về quyền con người năm 1966, Công ước viên về Luật Điều ước
quốc tế năm 1969, Công ước LHQ về Luật biển năm 1982, Công ước về quan hệ ngoại
giao năm 1961, Quy chế Toà án hình sự quốc tế năm 1998, 13 Công ước về chống khủng
bố. Đây là những Công ước quốc tế toàn diện, tổng thể, điều chỉnh bao quát những lĩnh
vực hết sức quan trọng trong đời sống quốc tế.
Và có thể nói, LHQ cũng có quyền lập pháp chủ yếu trong các vấn đề có tính chất
thủ tục, tổ chức, tài chính…trong sinh hoạt nội bộ của mình. Ví dụ, căn cứ vào điều 21 và
22 Hiến chương LHQ, Đại hội đồng LHQ có quyền quy định các quy tắc thủ tục riêng và
có quyền thành lập các cơ quan hỗ trợ cần thiết cho việc thực hiện chức năng của mình.
Sau hơn 60 năm tồn tại và phát triển hiện nay LHQ đã thực sự trở thành cơ quan
trung tâm trong quan hệ quốc tế với bộ máy các cơ quan, các tổ chức quốc tế liên chính
phủ đảm trách hầu như tất cả các lĩnh vực trong đời sống quốc tế.
2
II. Vai trò của Liên hợp quốc trong quá trình xây dựng và hoàn thiện các
nguyên tắc, quy phạm chuyên ngành Luật biển quốc tế
Trong hệ thống luật quốc tế, Luật biển quốc tế có vị trí đặc biệt quan trọng. Là các
nguyên tắc và quy phạm pháp luật được các chủ thể của luật quốc tế thoả thuận tạo dựng
nên. Hệ thống quy phạm Luật biển quốc tế có giá trị hình thành và duy trì trật tự pháp lý
trong sử dụng, khai thác và phát triển bền vững môi trường biển. Trong hệ thống quy
phạm Luật biển quốc tế, Công ước Luật biển năm 1982 lại có ý nghĩa vô cùng quan
trọng, sự ra đời của nó đã đánh dấu bước phát triển mới của luật biển về cả hai phương
diện nội dung và hình thức, tạo nên sự thống nhất chung của cộng đồng quốc tế trong
việc thiết lập trật tự pháp lý quốc tế trên biển.
1, Vai trò của Liên hợp quốc trong ba hội nghị đàm phán về vấn đề xây dựng luật
biển.
Vai trò của Liên hợp quốc đối với việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống quy phạm
Luật biển quốc tế nói chung cũng như đối với sự ra đời của Công ước Luật biển năm
1982 nói riêng là vô cùng quan trọng. Tuy nhiên, vai trò của Liên hợp quốc đối với sự ra
đời của Công ước luật biển năm 1982 được thể hiện rõ nét nhất qua việc tổ chức ba hội
nghị đàm phán về vấn đề xây dựng luật biển của Liên hợp quốc.
Sau chiến tranh thế giới thứ 2 ngày càng có nhiều tranh cãi, tranh chấp liên quan
đến việc sử dụng nguồn lợi biển. Trước những khác biệt liên quan đến yêu sách chủ
quyền đối với biển và đại dương, cộng đồng quốc tế cũng như Liên hợp quốc đã có
những nỗ lực nhằm pháp điển hoá luật pháp quốc tế về biển, thể hiện thông qua ba hội
nghị về Luật biển do Liên hợp quốc triệu tập
- Hội nghị Luật biển lần thứ nhất của Liên hợp quốc tổ chức tại Giơnevơ từ ngày 24
tháng 2 đến ngày 29 tháng 4 năm 1958.
Hội nghị này của Liên hợp quốc đã thu được kết quả quan trọng về phương diện
lập pháp quốc tế, đó là sự ra đời của bốn Công ước, trong đó pháp điển hoá nhiều nguyên
tắc và quy phạm của Luật tập quán về biển (như tự do biển cả, qua lại không gây hại, chế
độ nội thuỷ, lãnh hải, chế độ thềm lục địa…). Tuy nhiên, những công ước này lại thất bại
3
trong việc thống nhất bề rộng lãnh hải; trong việc xây dựng khái niệm khoa học về thềm
lục địa và hạn chế hơn nữa là không thể hiện được lợi ích của các nước vừa và nhỏ.
Mặc dù vậy, các thành công về phương diện lập pháp của hội nghị này vẫn có ý
nghĩa trong việc tạo tiền đề để cộng đồng quốc tế tiếp tục con đường phát triển hiện đại
Luật Biển quốc tế.
- Hội nghị Luật Biển lần thứ hai của Liên hợp quốc tổ chức tại Giơnevơ từ ngày 17
tháng 3 đến ngày 26 tháng 4 năm 1960
Hội nghị này được tổ chức với mong muốn nhằm giải quyết những tồn tại của hội
nghị Luật biển lần thứ nhất, chẳng hạn, về vấn đề chiều rộng của lãnh hải. Nhưng thực tế,
do thời gian giữa hai kỳ hội nghị quá ngắn để các bên có thể đồng cảm và đạt đến một sự
nhất trí chung nên hội nghị đã không thu được kết quả khả quan như sự trông đợi của
nhiều nước tham gia.
- Hội nghị Luật Biển lần thứ ba của Liên hợp quốc, bao gồm 11 phiên họp, kéo dài
9 năm (từ tháng 12 – 1973 đến tháng 12 – 1982).
Hội nghị lần này là một sự kiện lịch sử quan trọng trong việc phát triển tiến bộ và
pháp điển hoá Luật quốc tế nói chung và luật biển quốc tế nói riêng. Trải qua nhiều phiên
họp, ngày 10 tháng 12 năm 1982, tại Mông- tê- gô- bay, thủ phủ của Giamaica, đại diện
có thẩm quyền của 117 quốc gia (bao gồm cả Việt Nam), Hội đồng của Liên hợp quốc về
Nammibia và các đảo Cúc đã ký chính thức Công ước Luật biển 1982.
Công ước Liên hợp quốc về Luật biển quốc tế năm 1982 đã thể chế những quy
định tiến bộ của các Công ước Giơnevơ về Luật biển năm 1958 và ghi nhận một số lượng
đáng kể các quy phạm pháp lý quốc tế mới. Đây là thoả thuận trọn gói các vấn đề pháp lý
về biển, tức Công ước không cho phép có bảo lưu đối với bất kỳ điều khoản nào trong
nội dung công ước.
Có thể thấy rằng, thông qua việc triệu tập ba hội nghị về luật biển nói trên, Liên
hợp quốc đã thể hiện vai trò là chủ thể tổ chức hội nghị đàm phán về vấn đề xây dựng
luật biển, bên cạnh đó, Liên hợp quốc còn giữ vai trò quan trọng trong việc bảo trợ tổ
chức các hội nghị nhằm thảo luận và thông qua công ước Luật biển năm 1982. Sự ra đời
của Công ước Luật biển năm 1982 đã đánh dấu bước phát triển mới của luật biển về cả
4
hai phương diện nội dung và hình thức, tạo nên sự thống nhất chung của cộng đồng quốc
tế trong việc thiết lập trật tự pháp lý quốc tế trên biển.
2. Liên hợp quốc đóng vai trò quan trọng trong việc pháp điển hóa các quy phạm
quốc tế về biển
Việc soạn thảo công ước Luật biển, công ước lớn nhất trong khuôn khổ Liên hợp
quốc kể từ khi thành lập, là một điển hình của quá trình nỗ lực pháp điển hóa luật quốc tế
của Liên hợp quốc. Không chỉ đóng vai trò bảo trợ tổ chức hội nghị đàm phán giữa các
quốc gia về luật biển quốc tế, Liên hợp quốc còn đóng vai trò quan trọng trong việc pháp
điển hóa các quy phạm quốc tế về biển. Tuy nhiên, trong số các cơ quan của Liên hợp
quốc thì Đại hội đồng của Liên hợp quốc đóng vai trò quan trọng nhất trong việc pháp
điển hóa pháp luật quốc tế cũng như việc pháp điển hóa các quy phạm quốc tế về biển.
Do đó, vai trò của Liên hợp quốc trong việc pháp điển hóa các quy phạm quốc tế về biển
được thể hiện qua vai trò của Đại hội đồng.
Theo Hiến chương Liên hợp quốc, một trong những nhiệm vụ chính của Đại hội
đồng là thúc đẩy việc xây dựng và pháp điển hoá luật pháp quốc tế theo hướng tiến bộ.
Điều 11,13 Hiến chương quy định: “Đại hội đồng có thể thảo luận tất cả các vấn đề hoặc
các công việc thuộc phạm vi Hiến chương đồng thời Đại hội đồng có nhiệm vụ tổ chức
nghiên cứu và thông qua kiến nghị nhằm phát triển sự hợp tác quốc tế trong các lĩnh vực
chính trị, thúc đẩy việc pháp điển hoá và sự phát triển của luật pháp quốc tế theo hướng
tiến bộ”. Theo đó, trong quá trình pháp điển hóa các quy phạm quốc tế về biển, Đại hội
đồng đóng vai trò thúc đẩy việc xây dựng và pháp điển hóa các quy phạm quốc tế về biển
theo hướng tiến bộ.
Đại hội đồng thực hiện nhiệm vụ thúc đẩy quá trình xây dựng và pháp điển hoá luật
pháp quốc tế thông qua các cơ quan chính : Uỷ ban luật pháp quốc tế (ILC), Uỷ ban
thương mại quốc tế (UNCIRAL); các Uỷ ban ad hoc và các hội nghị thành viên. Tuy
nhiên, nhiệm vụ thúc đẩy quá trình pháp điển hóa các quy phạm quốc tế về biển của Đại
hội đồng được thực hiện thông qua hai cơ quan chính là Ủy ban lập pháp quốc tế và các
hội nghị thành viên.
5