Tải bản đầy đủ (.docx) (75 trang)

Tổ chức dạy học theo dự án phần Sinh thái học Sinh học 12

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (450.93 KB, 75 trang )

LỜI CẢM ƠN
Với lòng biết ơn sâu sắc, em chân thành cảm ơn cô ThS. Đỗ Thị Tố Như đã nhiệt tình hướng
dẫn, truyền đạt kinh nghiệm của mình, chỉ bảo em trong những lúc khó khăn. Những góp ý của cô
thực sự là quý báu và giúp ích rất nhiều để em có thể hoàn thành khóa luận của mình.
Em cũng xin gửi lời cảm ơn đến tất cả thầy cô trong khoa đã truyền đạt vốn kiến thức quý
báu cho em trong quá trình học, cảm ơn ban chủ nhiệm khoa đã tạo điều kiện thuận lợi cho sinh
viên thực hiện nhiệm vụ học tập của mình.
Ngoài ra, em gửi lời cảm ơn đến thầy Bùi Quý Đôn chủ nhiệm và giảng dạy lớp 11A8 trường
THPT Tây Tiền Hải - Thái Bình, cô Hà Hồng Nga, cô Hà Thị Thúy trường THPT Ngô Quyền - Ba
Vì - Hà Nội đã giúp đỡ em trong quá trình thực hiện luận văn.
Cuối cùng, em xin cảm ơn đến gia đình và bạn bè đã giúp đỡ tạo động lực cho em hoàn thành
luận văn này.
Mặc dù đã cố gắng rất nhiều nhưng luận văn cũng không tránh khỏi những sai sót, vì vậy, em
mong được sự góp ý của quý thầy cô và các bạn.
Xuân Hòa, ngày 18 tháng 05 năm 2013 Sinh viên thực hiện
NGUYỄN THỊ LOAN
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan khóa luận này là kết quả nghiên cứu của riêng bản thân tôi dưới sự hướng
dẫn trực tiếp của cô giáo Thạc sĩ Đỗ Thị Tố Như giảng viên khoa Sinh - KTNN. Mọi kết quả
nghiên cứu trong đề tài đều trung thực, không trùng với kết quả của tác giả nào, đề tài chưa từng
được công bố tại bất kì một công trình nghiên cứu khoa học nào hoặc của ai khác
Xuân Hòa, ngày 18 tháng 05 năm 2013
Sinh viên thực hiện
NGUYỄN THỊ LOAN
Trường ĐHSP Hà Nội 2 Khóa luận tốt nghiệp
Nguyễn Thị Loan Lớp: K35A- SP Sinh
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
CNTT : Công nghệ thông tin
GV : Giáo viên
HS : Học sinh
PBL Project Based Learning


PPDH : Phương pháp dạy học
pp DHTDA : Phương pháp dạy học theo dự án
PGS.TS : Phó giáo sư, tiến sĩ
SGK : Sách giáo khoa
THPT : Trung học phổ thông
MỤC LỤC
1.1.
1.2.1. Thực trạng dạy và học các bài trong chương trình Sinh học phổ
Trường ĐHSP Hà Nội 2 Khóa luận tốt nghiệp
Nguyễn Thị Loan Lớp: K35A- SP Sinh
PHẦN I: MỞ ĐẦU
1. Lí do chon đề tài
1.1. Sự cần thiết phải đổi mới
Nghị quyết Đại hội lần thứ VIII của Đảng Cộng sản Việt Nam đã đề ra: từ nay
đến năm 2020 chúng ta phải phấn đấu đưa nước ta trở thành nước công nghiệp hiện
đại, xây dựng nước ta trở thành một nước công nghiệp có cơ sở vật chất kĩ thuật hiện
đại, cơ cấu kinh tế hợp lí, quan hệ sản xuất tiến bộ phù họp với trình độ phát triển của
lực lượng sản xuất, đời sống vật chất và tinh thần cao Điều đó đòi hỏi đất nước cần
phải có nguồn nhân lực trình độ học vấn rộng, thực hiện được nhiều nhiệm vụ và
chuyên môn hóa nhằm đảm bảo chất lượng công việc với hiệu quả cao. Để đáp ứng
yêu cầu trên, hệ thống giáo dục cũng đặt ra những yêu cầu cần phải đổi mới. Từ việc
thi thố tài năng bằng sự thuộc lòng những tri thức uyên thâm dần được thay đổi bằng
năng lực chuyên môn, năng lực giải quyết vấn đề, đưa ra quyết định sáng tạo mang lại
hiệu quả cao, thích ứng với đời sống xã hội.
Nước ta đang trên con đường hội nhập và phát triển thì đổi mới giáo dục trong
đó đổi mới phương pháp dạy học là hết sức cần thiết. Luật giáo dục công bố năm
2005, Điều 28.2 có ghi: “Phương pháp dạy học phổ thông phải phát huy tính tích cực,
tự giác, chủ động, sáng tạo của học sinh; phù họp với đặc điểm của từng lớp học; bồi
dưỡng phương pháp tự học, khả năng làm việc theo nhóm, rèn luyện kĩ năng vận
dụng kiến thức vào thực tiễn, tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú học

tập cho học sinh”.
Đổi mới phương pháp dạy học là đổi mới và hiện đại hóa phương pháp dạy
học, khắc phục kiểu dạy học thụ động thầy giảng trò ghi sang hướng dẫn người học
chủ động tư duy trong quá trình tiếp cận tri thức, dạy cho người học phương pháp tự
học, tự thu thập thông tin một cách có hệ thống và biết phân tích tổng họp, xử lí thông
tin. Đồng thời phát triển năng lực và phẩm chất tư duy của mỗi cá nhân, tăng cường
tính thuyết phục chủ động của học sinh trong quá trình học tập.
1.2. Thưc tiễn day hoc bô môn
• • a/ • •
Hiện nay, khoa học kĩ thuật đang phát triển với tốc độ rất nhanh. Cứ 4- 5 năm
khối lượng tri thức lại tăng lên gấp đôi. Trong sự phát triển chung đó thì khoa học
Trường ĐHSP Hà Nội 2 Khóa luận tốt nghiệp
Nguyễn Thị Loan 3 Lớp: K35A- SP Sinh
Sinh học có tốc độ phát triển nhanh nhất. Sự gia tăng khối lượng tri thức, sự đổi mới
khoa học Sinh học tất yếu phải dẫn đến đổi mới phương pháp dạy học sinh học.
Trước đây phương pháp dạy học Sinh học mang tính thông báo tái hiện, giáo
viên là chủ thể của hoạt động, là người truyền đạt kiến thức, sự truyền thụ mang tính
một chiều, “đổ” kiến thức cho người học. Người học lĩnh hội kiến thức một cách thụ
động, không phát huy được tính tích cực, chủ động sáng tạo của mình.
Việc phát triển tư duy và giảng dạy kiến thức sinh học cũng như kiến thức của
các bộ môn khoa học khác luôn là mục tiêu hàng đầu của những người làm công tác
giáo dục. Nhằm giúp học sinh hình thành được tính chủ động, năng động, linh hoạt,
sáng tạo và tinh thần trách nhiệm cao trong học tập đối với chính mình đồng thời hình
thành các kĩ năng giao tiếp, trình bày, họp tác, giải quyết vấn đề Giáo viên cần đổi
mới phương pháp dạy và học tích cực. Việc sử dụng các kĩ thuật trong quá trình dạy
học đã kích thích, định hướng nhận thức cho học sinh, giúp học sinh định hướng
nghiên cứu sách giáo khoa, định hướng quá trình củng cố, hoàn thiện, kiểm tra kết
quả học tập của mình. Một trong những phương pháp mà chúng ta cần quan tâm đó
chính là “dạy học theo dự án”. Học theo dự án sẽ đưa kiến thức thực tế vào trường
học và để học sinh tiếp xúc với thế giới bên ngoài. Học theo dự án đặt ra các vấn đề

liên quan đến các kĩ năng và năng lực tiềm ẩn. Điều này khiến học theo dự án trở
thành một mô hình làm việc tuyệt vời để học sinh tổng họp kiến thức từ nhiều lĩnh
vực học tập và áp dụng một cách sáng tạo vào thực tế cuộc sống.
Phần Sinh thái học Sinh học 12 có khối lượng kiến thức lớn và rất phong phú,
đa dạng, kiến thức có mối quan hệ chặt chẽ, đòi hỏi người học phải nắm vững đồng
thời phải biết vận dụng một cách linh hoạt vào thực tiễn cuộc sống của mình.
“Dự án” thường được sử dụng phổ biến trong những lĩnh vực kinh tế - chính
trị: trong sản xuất, kinh doanh, nghiên cứu khoa học cũng như trong quản lý xã hội.
Qua thời gian, khái niệm “dự án” đã dần dần đi vào lĩnh vực giáo dục, đào tạo không
chỉ với ý nghĩa là các dự án phát triển giáo dục mà còn được sử dụng như một
phương pháp hay hình thức dạy học. Ban đầu, phương pháp dự án được áp dụng chủ
yếu đến môn học thực hành mang tính chất kĩ thuật. Sau đó, được vận dụng vào các
môn xã hội rồi tất cả các môn. Hiện nay, được sử dụng phổ biến trong các trường phổ
thông và đại học trên thế giới, đặc biệt ở những nước phát triển. Đối với bộ môn sinh
Trường ĐHSP Hà Nội 2 Khóa luận tốt nghiệp
Nguyễn Thị Loan 4 Lớp: K35A- SP Sinh
học nói riêng, dạy học dự án đã được áp dụng tuy không nhiều nhưng nó đã mang lại
hiệu quả rất tốt. Nó giúp học sinh nắm vững kiến thức, phát triển kĩ năng phức họp
như tư duy bậc cao, giải quyết vấn đề
Xuất phát từ những vấn đề trên, cùng mong muốn góp phần nhỏ vào việc nâng
cao hiệu quả dạy học chương trình sinh học. Chúng tôi đã chọn đề tài “ TỎ CHỨC
DẠY HỌC THEO Dự ẢN PHÂN SINH THẢI HỌC SINH HỌC 12 (CTC)”
2. Mục đích nghiên cứu
Yận dụng phương pháp dạy học theo dự án vào tổ chức dạy học phần Sinh thái
học_ Sinh học 12(CTC).
3. Giả thuyết khoa học
Nếu áp dụng phương pháp dạy học theo dự án một cách hợp lí vào tổ chức dạy
học phần Sinh thái học thì sẽ nâng cao hiệu quả dạy học phần Sinh thái học_ Sinh học
12.
4. Đối tượng nghiên cứu

Dự án cho phần nội dung kiến thức phần Sinh thái học Sinh học 12 Nội
dung phần Sinh thái học_ Sinh học 12( chương trình chuẩn).
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
5.1. Phân tích nội dung kiến thức Sinh học phần Sinh thái học_ Sinh học 12
5.2. Nghiên cứu thực trạng sử dụng phương pháp dạy học theo dự án trong dạy học
sinh học ở trường phổ thông
5.3. Thiết lập các dự án phù họp với nội dung, kiến thức phần Sinh thái học_ Sinh
học 12.
5.4. Định hướng việc vận dụng các dự án trong việc giúp học sinh học bài mới
cũng như vận dụng kiến thức.
5.5. Bước đầu đánh giá tính hiệu quả của các dự án thiết kế được.
6. Phương pháp nghiên cứu
6.1. Nghiên cứu lí thuyết
-Nghiên cứu các tài liệu có liên quan làm cơ sở lí luận cho đề tài như: lí luận dạy
học sinh học, các tài liệu hướng dẫn dạy học, tài liệu về dạy học tích cực
-Nghiên cứu SGK, sách giáo viên Sinh học 12 bao cơ bản, nâng cao; các chuyên đề
Sinh học và các tài liệu có liên quan tới đề tài
Trường ĐHSP Hà Nội 2 Khóa luận tốt nghiệp
Nguyễn Thị Loan 5 Lớp: K35A- SP Sinh
6.2. Phương pháp quan sát sư phạm
-Khảo sát, dự giờ các tiết học của môn Sinh học ở trường trung học phổ thông.
- Trao đổi trực tiếp với giáo viên và học sinh về phương pháp dạy học các bài trong
chương trình Sinh học 12 với sự hỗ trợ của phương pháp dạy học tích cực.
6.3. Phương pháp chuyền gia
Xin ý kiến của các thầy, cô giáo có kinh nghiệm, tâm huyết với nghề về các
mặt chủ yếu sau:
Giá trị của đề tài đối với xu hướng dạy học hiện nay.
Giá trị của đề tài đối với sinh viên sư phạm mới ra trường.
7. Những đóng góp của đề tài
- Góp phần hệ thống hóa lí luận của việc sử dụng các kĩ thuật, phương pháp dạy học

tích cực trong dạy học.
- Bước đầu xác định được thực trạng của việc tổ chức dạy học theo dự án trong dạy học
phần Sinh thái học Sinh học 12 (CTC).
- Thiết kế được một số dự án trong tổ chức dạy học phần Sinh thái học_ Sinh học 12.
8. Giới hạn của đề tài
Trong phạm vi đề tài, chúng tôi nghiên cứu vận dụng
phương pháp dạy học theo dự án để dạy phần Sinh thái học_
Sinh học 12.
PHẦN II: NỘI DUNG NGHIÊN cứu Chương 1: Cơ sở lí luận và thực tiễn
của đề tài
1.1. Ctf sở lí luân của đề tài
1.1.1. Phương pháp dạy học tích cực và kĩ thuật dạy học
+ Phương pháp dạy học: Bản chất của phương pháp dạy học trong lí luận và
phương pháp dạy học là do bốn yếu tố cấu thành nên, đó chính là: hoạt động của thầy,
hoạt động của trò, phương tiện và kết quả mà thầy và trò đạt được. Tuy nhiên, vấn đề
phương pháp dạy học đang là vấn đề tranh luận rất nhiều trong phương pháp và lí
luận dạy học sinh học. Ví dụ, theo N.M. Veczilin và Y.M. Coocxunskaia đã định
nghĩa: “Phương pháp dạy học là cách thức thầy truyền đạt kiến thức, đồng thời là
cách thức lĩnh hội của trò”. Tuy vậy, phương pháp dạy học phải thể hiện được mối
quan hệ biện chứng giữa dạy và học, giữa truyền đạt và chỉ đạo trong việc dạy, giữa
Trường ĐHSP Hà Nội 2 Khóa luận tốt nghiệp
Nguyễn Thị Loan 6 Lớp: K35A- SP Sinh
tiếp thu và tự chỉ đạo trong việc học. Từ bản chất của phương pháp dạy học như trên,
ta có thể định nghĩa như sau: “Phương pháp dạy học là cách thức hoạt động của thầy
tạo ra mối liên hệ qua lại với hoạt động của trò để đạt được mục đích dạy học”.
+ Phương pháp dạy học tích cực: “Là những phương pháp giáo dục, dạy học
theo hướng phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của người học”. Thuật ngữ
“dạy và học tích cực” dùng để chỉ những phương pháp giáo dục hay dạy học nhằm
phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của người học. Nó đề cập đến các hoạt
động dạy và học nhằm tích cực hóa hoạt động học tập và phát triển tính sáng tạo của

người học. Hoạt động học tập được thực hiện trên cơ sở họp tác và giao tiếp ở mức độ
cao. Giáo viên giữ vai trò là người tổ chức, hướng dẫn, giúp đỡ, tạo điều kiện cho học
sinh thực hiện các hoạt động học tập một cách hiệu quả. Dấu hiệu đặc trưng của
phương pháp dạy học tích cực là: “dạy và học thông qua tổ chức các hoạt động của
học sinh và chú trọng rèn luyện phương pháp tự học, tăng cường hoạt động học tập
của mỗi cá nhân phối họp với việc họp tác, dạy và học chú trọng đến sự quan tâm và
hứng thú của học sinh, nhu cầu và lợi ích của xã hội, dạy và học coi trọng hướng dẫn
tìm tòi, kết họp đánh giá của trò. Giáo dục bám sát các vấn đề của thực tiễn, áp dụng
kiến thức vào giải quyết vấn đề của thực tiễn thay cho việc nhồi nhét thông tin, đó
chính là quá trình giúp học sinh nhận thức, thông hiểu và vận dụng kiến thức vào
cuộc sống thực tế. Điều này sẽ làm cho học sinh hiểu, tự lí giải học sinh cần phải học
những gì? Và vì sao phải học chúng? Khi xác định được nhu cầu và động cơ học tập
đúng đắn, học sinh sẽ tích cực, tự giác tham gia các hoạt động học tập do giáo viên tổ
chức. Để người học có điều kiện bộc lộ, phát triển khả năng của mình, cần đặt họ vào
trong mối quan hệ thầy-trò, trò-trò. Trong mối quan hệ tương tác đó, người học không
chỉ được học qua thầy mà còn được học qua bạn, sự chia sẻ kinh nghiệm sẽ kích thích
tính tích cực, chủ động của mỗi cá nhân, đồng thời hình thành ở người học năng lực
tổ chức, điều khiển, lãnh đạo, kĩ năng hợp tác, giao tiếp, trình bày, giải quyết vấn đề
+ Kĩ thuật dạy học: Là những biện pháp, cách thức hành động của giáo viên và
học sinh trong các tình huống nhằm thực hiện giải quyết một nhiệm vụ cụ thể. Có rất
nhiều kĩ thuật dạy học khác nhau nhưng để áp dụng các phương pháp đó đạt hiệu quả
trong dạy học, tích cực hóa học sinh, ngoài việc tuân thủ các quy trình mang tính đặc
trưng còn đòi hỏi sự linh hoạt, sáng tạo nghệ thuật sư phạm của giáo viên.
Trường ĐHSP Hà Nội 2 Khóa luận tốt nghiệp
Nguyễn Thị Loan 7 Lớp: K35A- SP Sinh
1.1.2. Dạy học theo dự án
I.I.2.I. Khái niệm dự án
Trong từ điển Tiếng Việt (của tác giả Hoàng Phê), dự án là một danh từ, nghĩa
là bản dự thảo về một văn kiện về luật pháp hay về một kế hoạch cụ thể nào đó.
Trong tiếng Anh thuật ngữ “dự án” là “project”, có nguồn gốc từ tiếng Latinh

là “proicere” có nghĩa là phác thảo, dự thảo, thiết kế. Trong thực tiễn sản xuất, kinh
tế, xã hội, khái niệm dự án được sử dụng phổ biến, và được đặc bởi tính không lặp lại
của các điều kiện thực hiện dự án.
Woodward (nhà sư phạm Mỹ) đã coi các dự án như “Các bài tập tổng họp -
Những kĩ năng, kĩ thuật học được khi làm việc độc lập được ứng dụng trong hoàn
cảnh cụ thể”.
Có thể nói, khái niệm dự án được hiểu là một dự định, một kế hoạch, trong đó
cần xác định rõ mục tiêu, thời gian, phương tiện tài chính, vật chất, nhân lực và cần
được thực hiện nhằm đạt mục tiêu đề ra. Dự án được thực hiện trong những điều kiện
xác định và có tính phức họp, liên quan đến nhiều yếu tố khác nhau.
I.I.2.2. Lịch sử nghiên cứu dạy học dự án
Như chúng ta thấy, hai từ “Dự án” thường được sử dụng phổ biến trong những
lũủi vực kinh tế - chính trị: trong sản xuất, kinh doanh, nghiên cứu khoa học cũng như
trong quản lý xã hội.
Qua thời gian, khái niệm “dự án” đã dần dần đi vào lĩnh vực giáo dục, đào tạo
không chỉ với ý nghĩa là các dự án phát triển giáo dục mà còn được sử dụng như một
phương pháp hay hình thức dạy học. Khái niệm “Dự án” được sử dụng trong các
trường dạy kiến trúc - xây dựng ở Ý từ cuối thế kỷ XVI.
Ta biết, học viện nghệ thuật - The Accademia di San Luca - Rome dưới sự bảo
trợ của Giáo hoàng Gregory XIII năm 1577 được thành lập vào thế kỉ XVI, bởi những
kiến trúc sư người Ý. Học viện tổ chức cuộc thi đầu tiên, tương đương với một kì thi
kiến trúc. Song việc thiết kế chỉ là những tình huống giả định. Yì vậy, chúng được gọi
là “dự án” - “những dự án với ý định là những bài tập trong tưởng tượng chứ chúng
không được dùng để xây dựng” (theo Egbert)
Sau mô hình của Ý, Viện hàn lâm kiến trúc Hoàng gia Pháp thành lập năm
1761 cũng nhân rộng việc đào tạo bằng cách tập trung vào học tập bằng các dự án.
Trường ĐHSP Hà Nội 2 Khóa luận tốt nghiệp
Nguyễn Thị Loan 8 Lớp: K35A- SP Sinh
Đến giữa thế kỉ XVIII, ở Pháp sự phát triển ý tưởng dự án thành phương pháp học tập
và giáo dục hàn lâm được hoàn thiện.

Học tập bằng các dự án không còn là duy nhất đối với ngành kiến trúc. Đến
cuối thế kỉ XVIII chuyên ngành cơ khí đã được thành lập và được coi là một bộ phận
của các trường đại học công nghiệp và kĩ thuật mới.
Sự lan truyền từ châu Âu sang châu Mĩ và từ ngành kiến trúc đến ngành cơ khí
có ảnh hưởng quan trọng đến việc sử dụng và trang bị cơ sở lí luận cho các phương
pháp dạy học theo dự án.
Có thể nói, bắt nguồn từ châu Âu vào thế kỉ XVI đến đầu thế kỷ XX, các nhà
sư phạm Mỹ đã xây dựng cơ sơ lý luận cho phương pháp dự án (The Project Method)
và coi đó là phương pháp dạy học quan trọng để thực hiện quan điểm dạy học lấy học
sinh làm trung tâm, nhằm khắc phục nhược điểm của dạy học truyền thống.
Вал đầu, phương pháp dự án được áp dụng chủ yếu đến môn học thực hành
mang tính chất kĩ thuật. Sau đó, được vận dụng vào các môn xã hội rồi tất cả các
môn. Hiện nay, được sử dụng phổ biến trong các trường phổ thông và đại học trên thế
giới, đặc biệt ở những nước phát triển.
1.1.2.3. Khái niệm dạy học theo dự án
Có nhiều quan niệm và định nghĩa khác nhau về dạy học theo dự án của các
tác giả:
- Cách học dựa trên dự án (PBL) là một mô hình học tập khác với mô hình học
tập truyền thống với nội dung bài giảng ngắn, tách biệt và lấy giáo viên làm trung
tâm. Cách hoạt động học tập dựa trên dự án được thực hiện một cách cẩn thận, mang
tính lâu dài, liên quan đến nhiều giá trị học thuật, lấy học
Trường ĐHSP Hà Nội 2 Khóa luận tốt nghiệp
Nguyễn Thị Loan 9 Lớp: K35A- SP Sinh
sinh làm trung tâm và hòa nhập với những vấn đề và thực tiễn của thế giới
thực tại
- Học theo dự án là một mô hình dạy học lấy học sinh làm trung tâm. Cách
học này phát triển kiến thức và kỹ năng của học sinh thông qua một nhiệm vụ
mở rộng, đòi hỏi học sinh phải nghiên cứu và thể hiện kết quả học tập của mình
thông qua cả sản phẩm lẫn phương thức thực hiện.
- Dạy học theo dự án là một hình thức dạy học, trong đó người học thực hiện

một nhiệm vụ học tập phức họp, gắn với thực tiễn, kết họp lí thuyết với thực
hành, tự lực lập kế hoạch, thực hiện và đánh giá kết quả. Hình thức làm việc chủ
yếu là theo nhóm, kết quả dự án là những sản phẩm hành động có thể giới thiệu
được (Viện nghiên cứu sư phạm)
- Theo dự án bồi dưỡng giáo viên phổ thông “Dạy học cho tương lai -
Teaching For Future” do Intel tổ chức thì: Dạy học theo dự án là một mô hình
dạy học lấy học sinh làm trung tâm. Nó giúp phát triển kiến thức và các kĩ năng
liên quan thông qua những nhiệm vụ mang tính mở, khuyến khích học sinh tìm
tòi, hiện thực hóa những kiến thức đã học trong quá trình thực hiện và tạo ra sản
phẩm của chính mình. Chương trình dạy học theo dự án được xây dựng dựa trên
những câu hỏi đinh hướng quan trọng, lồng ghép các chuẩn nội dung và tư duy
bậc cao trong những bối cảnh thực tế. Bài học thiết kế theo dự án chứa đựng
nhiều kĩ thuật dạy học khác nhau, có thể lôi cuốn được mọi đối tượng học sinh
không phụ thuộc vào cách học của họ. Thông thường học sinh sẽ được làm việc
với chuyên gia và những thành viên trong cộng đồng để giải quyết vấn đề, hiểu
nội dung sâu hơn. Các phương tiện kĩ thuật cũng được sử dụng để hỗ trợ việc
học. Trong quá trình thực hiện dự án có thể vận dụng nhiều các đánh giá khác
nhau để giúp HS tạo ra những sản phẩm có chất lượng (Chương trình giáo dục
của Intel tại VN)
Trường ĐHSP Hà Nội 2 Khóa luận tốt nghiệp
Nguyễn Thị Loan 10 Lớp: KS5A- SP Sinh
- Là một kiểu dạy học lấy hoạt động của người học làm trung tâm. Quá trình
giảng dạy luôn định hướng vào các khái niệm cơ bản của môn học nhưng gắn
liền với thực tế. Theo phương pháp này, người học phải tự mình giải quyết các
vấn đề và các nhiệm vụ có liên quan khác để có được kiến thức, khả năng giải
quyết vấn đề và cho ra những kết quả thực tế.
Một số quan điểm của các giáo viên, độc giả quan tâm đến vẩn đề dạy
học dự án:
- Dạy học theo dự án là phương pháp dạy học lấy hoạt động của học sinh
làm trung tâm, học sinh tiếp thu những kiến thức thông qua tình huống thực tế

mà cái chính là người thực hiện theo sự hướng dẫn của giáo viên
- Dạy học theo dự án là một phương pháp dạy học lấy hoạt động của học
sinh làm trung tâm, hướng học sinh đến việc tiếp thu kiến thức và kĩ năng thông
qua việc đóng một hay nhiều vai trò để giải quyết vấn đề (gọi là dự án) mô
phỏng những hoạt động có thật của xã hội chúng ta. Những hoạt động này giúp
học sinh thấy kiến thức cần học có ý nghĩa hơn.
- Dạy học theo dự án là dạy học có sử dụng các phương pháp tích cực và
ứng dụng CNTT vào bài giảng, có tính chủ động
- Dạy học theo dự án là giáo viên hướng dẫn học sinh tự nghiên cứu và trình
bày lại bằng sản phẩm!
- Dạy học dự án là một phương pháp dạy học khá mới ở Việt Nam. Là một
phương pháp dạy học hiện đại và cách dạy học này sẽ phát huy rất nhiều điểm
mạnh của học sinh, hình thành cho học sinh những kỹ năng mà chúng ta hay gọi
là kỹ năng của thế kỷ 21 hay kỹ năng mềm
- Là một kiểu dạy học lấy hoạt động của người học làm trung tâm. Quá trình
giảng dạy luôn định hướng vào các khái niệm cơ bản của môn học nhưng gắn
liền với thực tế. Theo phương pháp này, người học phải tự mình giải quyết các
Trường ĐHSP Hà Nội 2 Khóa luận tốt nghiệp
Nguyễn Thị Loan 11 Lớp: KS5A- SP Sinh
vấn đề và các nhiệm vụ có liên quan khác để có được kiến thức, khả năng giải
quyết vấn đề và cho ra những kết quả thực tế
- Đây là phương pháp dạy học kết hợp có hiệu quả việc sử dụng máy tính với các
chương trình dạy học hiện có, giúp các giáo viên phát huy khả năng sáng tạo của
mình và phát triển trí tưởng tượng của học sinh ra ngoài phạm vi học đường,
học tập kết hợp với thực hành.
Từ những quan điểm trên, ta có nhận xét:
- Có nhiều tác giả cho rằng DHDA là mô hình, tác giả khác cho rằng nó là hình
thức dạy học, hay là một phương pháp. Vậy, ta có thể hiểu rằng khi dạy học theo
dự án chúng ta sử dụng những phương pháp khác nhau để thực hiện nó. Do đó,
dạy học dự án là một sự phức họp nhiều phương pháp, “phương pháp” này

chính là nghĩa hẹp; trong dạy học theo nghĩa rộng, ta có thể dùng pp DHTDA để
cho biết đây là một phương pháp day học mang tính chất tích cực.
Ta có thể hiểu dạy học theo dự án như sau:
Dạy học theo dự án (Project based learning) được hiểu như là một
phương pháp hay một hình thức dạy học, trong đó người học giữ vai trò trung
tâm thực hiện một nhiệm vụ học tập phức hợp, có sự kết hợp giữa lý thuyết và
thực hành, có tạo ra các sản phẩm có thể giới thiệu. Nhiệm vụ này được người
học thực hiện với tính tự lực cao trong toàn bộ quá trình học tập, Làm việc
nhóm là hình thức cơ bản của dạy học dự án, có ứng dụng CNTT, dưới dự
hướng dẫn, hỗ trợ, cộng tác của giáo viên.
1.1.3. Phân loại
*Theo chuyên môn
- Dự án trong môn học: trọng tâm nội dung nằm trong môn học.
- Dự án liên môn: trọng tâm nội dung nằm ở nhiều môn học.
Trường ĐHSP Hà Nội 2 Khóa luận tốt nghiệp
Nguyễn Thị Loan 12 Lớp: KS5A- SP Sinh
- Dự án ngoài chuyên môn: các loại dự án không phụ thuộc trực tiếp vào các môn
học.
*Theo quỹ thời gian
- Dự án nhỏ: thực hiện trong một số giờ học, có thể từ 2-6 giờ học
- Dự án trung bình: thực hiện trong một hoặc một số ngày (thường giới hạn là 1
tuần).
- Dự án lớn: thực hiện với quỹ thời gian lớn (tối thiểu là 1 tuần hoặc kéo dài nhiều
tuần).
*Theo sự tham gia của người học
- Dự án dành cho nhóm học sinh, dự án cá nhân.
- Dự án dành cho nhóm học sinh là hình thức dự án dạy học chủ yếu.
- Trong trường phổ thông còn có dự án toàn trường, dự án dành cho một
khối lớp, dự án cho một lớp học.
*Theo sự tham gia của giáo viên

- Dự án dưới sự hướng dẫn của một giáo viên
- Dự án dưới sự hướng dẫn của nhiều giáo viên
*Theo nhiệm vụ
- Dự án tìm hiểu: là dự án khảo sát thực trạng đối tượng.
- Dự án nghiên cứu: nhằm giải quyết các vấn đề, giải thích các hiện tượng, quá
trình.
- Dự án kiến tạo: trọng tâm là việc tạo ra các sản phẩm vật chất hoặc thực hiện
một kế hoạch hành động thực tiễn, nhằm thực hiện những nhiệm vụ như trang
trí, trưng bày, biểu diễn, sáng tác.
1.1.4. Mục tiêu dạy học theo dự
án *Mục tiều kiến thức
Hướng tới các vấn đề thực tiễn, gắn kết nội dung bài học với thực tế.
Trường ĐHSP Hà Nội 2 Khóa luận tốt nghiệp
Nguyễn Thị Loan 13 Lớp: KS5A- SP Sinh
*Mục tiêu kĩ năng
- Phát triển cho học sinh kĩ năng:
+ Phát hiện và giải quyết vấn đề
+ Tư duy bậc cao (phân tích, tổng họp, đánh giá ) từ các nguồn thông tin, tư
liệu thu thập được.
- Rèn luyện nhiều kĩ năng:
+ Tổ chức kiến thức
+ Kĩ năng sống + Kĩ năng làm việc nhỏm + Kĩ năng giao tiếp
- Cho phép HS làm việc “một cách độc lập” để hình thành kiến thức và cho ra
những kết quả thực tế.
- Nâng cao kĩ năng sử dụng CNTT vào quá trình học tập và tạo ra sản
phẩm.
*Mục tiêu thái độ
- Giúp cho học sinh cảm thấy yêu thích môn học hơn
- Nhận thấy những giá trị của hoạt đông nhóm, chấp nhận những quan
điểm khác nhau, phát triển tư duy phê phán, không ngừng nỗ lực học tập.

1.1.5. Đăc điểm day hoc dư án
• • */ • •
Trong các tài liệu về dạy học dự án có rất nhiều đặc điểm được đưa ra.
Các nhà sư phạm Mỹ đầu thế kỷ XX khi xác lập cơ sở lý thuyết cho phương
pháp dạy học này đã nêu ra ba đặc điểm cốt lõi của dạy học theo dự án: định
hướng HS, định hướng thực tiễn và định hướng sản phẩm. Có thể cụ thể hoá
các đặc điểm của DHDA như sau:
- Định hướng học sinh: HS được tham gia chọn đề tài, nội dung học tập phù họp
với khả năng và hứng thú cá nhân. Ngoài ra, hứng thú của người học cần được
tiếp tục phát triển trong quá trình thực hiện dự án.
Trường ĐHSP Hà Nội 2 Khóa luận tốt nghiệp
Nguyễn Thị Loan 14 Lớp: KS5A- SP Sinh
- Tính phức họp: Nội dung dự án có sự kết họp tri thức của nhiều lĩnh vực hoặc
môn học khác nhau nhằm giải quyết một vấn đề mang tính phức họp.
- Định hướng thực tiễn: Chủ đề của dự án xuất phát từ những tình huống của thực
tiễn xã hội, thực tiễn nghề nghiệp cũng như thực tiễn đời sống. Nhiệm vụ dự án
cần chứa đựng những vấn đề phù họp với trình độ và khả năng của người học.
Có ý nghĩa thực tiễn xã hội: Các dự án học tập góp phần gắn việc học tập trong
nhà trường với thực tiễn đời sống, xã hội. Trong những trường họp lý tưởng,
việc thực hiện các dự án có thể mang lại những tác động xã hội tích cực.
- Định hướng sản phẩm: Trong quá trình thực hiện dự án, các sản phẩm được tạo
ra. Sản phẩm của dự án không giới hạn trong những thu hoạch lý thuyết, mà
trong đa số trường họp các dự án học tập tạo ra những sản phẩm vật chất của
hoạt động thực tiễn, thực hành. Những sản phẩm này có thể sử dụng, công bố,
giới thiệu.
1.1.6. Ưu điểm và nhược điểm của dạy học theo dự án.
I.I.6.I. Ưu điểm
Dựa vào sự so sánh với dạy học truyền thống thì mô hình này cũng thể
hiện những ưu điểm. Có thể tóm tắt những ưu điểm cơ bản sau đây của dạy học
theo dự án:

- Giúp HS hình thành và phát các kĩ năng cần thiết trong thời đại ngày nay như kĩ
năng giải quyết vấn đề, kĩ năng giao tiếp, kĩ năng làm việc nhóm
- Giúp HS chuyển:
+ Từ nghiên cứu lí thuyết sang vận dụng lí thuyết vào hoạt động thực tiễn.
+ Từ hình thức học tập thụ động sang hình thức học tập chủ động có định
hướng.
+ Từ hình thức thụ động ghi nhớ, lặp lại sang khám phá, tích hợp và tình bày +
Từ kiến thức đơn thuần về sự kiện, thuật ngữ, nội dung sang hiểu rõ quá trình.
Trường ĐHSP Hà Nội 2 Khóa luận tốt nghiệp
Nguyễn Thị Loan 15 Lớp: KS5A- SP Sinh
+ Từ phụ thuộc vào giáo viên sang chủ động tổ chức
- Là hình thức dạy học phù họp với mục tiêu giáo dục theo quan điểm của
UNESCO: “học để biết, học để làm, học để chung sống, học để tự hoàn thiện
- Là hoạt đông học tập không chỉ giới hạn trong một bộ môn mà liên quan đến
nhiều bộ môn khác nhau, do đó, tạo nên mối liên hệ liên môn.
1.1.6.2. Nhược điểm
- Học theo dự án đòi hỏi có thời gian để học sinh nghiên cứu, tìm hiểu
- Học theo dự án đòi hỏi phương tiện, vật chất phù họp
- Học theo dự án yêu cầu giáo viên phải có trình độ chuyên môn, nghiệp vụ sư
phạm, tích cực, yêu nghề
1.2. Cff sở thực tiễn của đề tài
1.2.1. Thực trạng dạy và học các bài trong chưong trình Sinh học phổ
thông
Vấn đề phát huy tính tích cực của học sinh đã được đặt ra từ những năm
đầu của thập kỉ 60 của thế kỉ XX. Trong những năm gần đây, ngành giáo dục đã
có nhiều đổi mới về chương trình, sách giáo khoa và phương pháp dạy học. Tuy
nhiên, việc dạy và học trong nhiều trường phổ thông còn chịu tác động nặng nề
bởi mục tiêu thi cử, “chạy theo thảnh tích”, học để thi, dạy để thi. Do đó việc
dạy học chủ yếu vẫn là truyền thụ một chiều, thông báo kiến thức mang tính
đồng loạt, thiên về lí thuyết, xa rời thực tiễn, chưa thực sự quan tâm đến việc

thực hành thói quen tự học, tự khám phá kiến thức, phát triển tư duy sáng tạo,
năng lực giải quyết vấn đề Giáo viên sử dụng các phương pháp dạy học tích
cực chủ yếu trong các giờ thao giảng, các tiết thi giáo viên giỏi Còn hầu hết
các giờ lên lóp vẫn là thầy đọc, trò chép, thuyết trình, giảng giaỉ kết họp với vấn
đáp tái hiện, biểu diễn trực quan minh họa.
1.2.2. Thưc trang day và hoc Phần Sinh thái hoc Sinh hoc 12
• • 9 • V• • •
Trường ĐHSP Hà Nội 2 Khóa luận tốt nghiệp
Nguyễn Thị Loan 16 Lớp: KS5A- SP Sinh
* Nghiên cứu thực trạng sử dụng phương pháp dạy học theo dự án trong dạy
học Sinh học ở trường phổ thông
Để nghiên cứu thực trạng sử dụng các phương pháp dạy học tích cực
trong dạy học Sinh học ở trường phổ thông, đặc biệt là việc sử dụng dạy học dự
án nói riêng, chúng tôi đã kết họp giữa phỏng vấn và điều tra bằng phiếu điều
tra, chúng tôi rút ra được nhũng nhận xét sau:
- về việc sử dụng các kĩ thuật và phương pháp dạy học tích cực: Hiện nay,
tại nhiều trường phổ thông đã áp dụng các kĩ thuật dạy học để phát huy tính tích
cực, chủ động sáng tạo của học sinh. Tuy nhiên, vẫn chỉ ở mức độ thấp và chủ
yếu là trong các giờ thao giảng hay thi giáo viên giỏi các cấp. Theo thông tin tìm
hiểu từ GV trong trường, thì hiện nay trường đang dạy theo PPDH truyền thống
là chủ yếu. Bên cạnh đó, cũng có một số lớp được học theo phương pháp tích
cực như thuyết trình thảo luận, giao bài tập về nhà tìm hiểu và báo cáo kết quả
trước lớp song không thường xuyên mà tùy theo tính chất của môn học.
- về việc vận dụng dạy học dự án trong giảng dạy Sinh học: Khi được hỏi
về pp DHTDA, nhiều GV cảm thấy bỡ ngỡ. Sau khi nghe trình bày, thì một số
GV cho biết: phương pháp khá giống với phương pháp giao bài tập cho HS về
nhà tìm hiểu sau đó lên báo cáo. Nhưng thực tế, phải có sự trợ giúp, hướng dẫn
của GV nếu không thì những kiến thức chuẩn cần đạt được e rằng các em không
nắm vững hoặc còn bị lệch lạc.
Như vậy, đây có thể nói là một khó khăn đầu tiên cho việc triển khai dự

án. Việc sử dụng phương pháp dạy học theo dự án trong giảng dạy Sinh học ở
trường phổ thông còn chưa được phổ biến, thậm chí còn không được thực hiện.
Nguyên nhân chủ yếu là tốn nhiều thời gian, ảnh hưởng tới kết quả học tập
chung, giáo viên ngoài việc giảng dạy vẫn còn phải đảm nhiệm nhiều công tác
Trường ĐHSP Hà Nội 2 Khóa luận tốt nghiệp
Nguyễn Thị Loan 17 Lớp: KS5A- SP Sinh
khác như: tổ trưởng tổ bộ môn, chủ nhiệm, công đoàn ngoài ra còn do cơ sở
vật chất của nhà trường không đáp ứng đủ
* Những khỏ khăn khỉ ảp dụng dạy học dự án vào dạy học Sinh học
Có thể nói dạy học theo dự án là một phương pháp dạy học mới tuy đã
được áp dụng ở một số môn học nhưng chưa phổ biến. Chính vì thế, khi áp dụng
vào dạy học môn Sinh học sẽ gặp phải không ít khó khăn:
- Phương pháp này, đòi hỏi sự thay đổi trong tư duy “cổ điển” của cả GV
và HS, bởi lẽ dạy học truyền thống đã in sâu trong cách dạy và học của thầy và
trò, chính điều này là một trở ngại cho phương pháp học và dạy mới. Do đó,
phương pháp này đòi hỏi GV phải lập kế hoạch và nội dung dự án khá công phu,
phải thực sự tâm huyết với nghề. Đối với HS cần thay đổi nhận thức đây là một
phương pháp học mới đòi hỏi phải phát huy cao độ tính tích cực, chủ động, sáng
tạo và khả năng họp tác làm việc trong nhóm.
- Việc chuẩn bị và tiến hành dạy và học theo dự án đòi hỏi thời gian
nhiều hơn so với thời gian chuẩn bị dạy theo kiểu truyền thống với sự chuẩn bị
chu đáo của GV- vai trò trung tâm thì việc dạy học không có gì là nặng nề, trong
khi đó với thời lượng 2 đến 3 tiết một tuần thì quả là không dễ dàng cho cách
dạy này.
- Hiện nay, không phải trường nào cũng có đầy đủ kinh phí và cơ sở vật
chất phục vụ dạy và học, ở một số trường nông thôn còn nghèo nàn, lạc hậu rất
nhiều. Trong khi đó, Sinh học là môn học mang tính thực nghiệm rất cao, do đó
để cho HS hiểu vấn đề sâu sắc thì thật không dễ. Vì vậy, để triển khai vận dụng
phương pháp dạy học dự án có hiệu quả đòi hỏi nhà trường phải có đủ các trang
thiết bị cần thiết: dụng cụ thí nghiệm tương ứng với từng bài liên quan trực tiếp

thực tiễn, mô hình, vật liệu, Mặt khác, đây là một phương pháp dạy học mới,
nên cả thầy và trò không tránh khỏi bỡ ngỡ và lúng túng do đó GV phải tìm hiểu
Trường ĐHSP Hà Nội 2 Khóa luận tốt nghiệp
Nguyễn Thị Loan 18 Lớp: KS5A- SP Sinh
kĩ phương pháp này để xây dựng mô hình và những ví dụ thích họp để áp dụng
trong dạy học theo dự án sẽ gặp không ít khỏ khăn.
- Với phương pháp lấy HS làm trung tâm thì HS cần được rèn luyện một
phương pháp học mới: quá trình tự học, tự nghiên cứu, tự sáng tạo, tinh thần
trách nhiệm và khả năng cộng tác giữa các thành viên trong nhóm. Sự cộng tác
này thể hiện ở kết quả là sản phẩm vật chất hoặc phi vật chất của cả nhóm.
Qua phân tích những khó khăn mang tính khách quan và
chủ quan trên, ta nhận thấy rằng chỉ có lòng quyết tâm
và nhiệt huyết cao của đội ngũ GV phụ trách bộ môn
cộng với sự quan tâm và tạo điều kiện của nhà trường
cùng với toàn ngành thì pp DHTDA mới mang tính khả
thi, phát triển có hiệu quả.
Chương 2. Xây dựng dự án cho nội dung kiến thức phần Sinh
thái học Sinh học 12 (CTC)
2.1. Khái quát nội dung Phần Sinh thái học_ Sinh học 12.
- Chương 1:
+ Cá thể và quần thể sinh vật. Chương này trình bày chủ yếu về các loại môi
trường sống của sinh vật, các nhân tố sinh thái và thích nghi của cá thể sinh vật
với môi trường sống, giới hạn sinh thái và ổ sinh thái.
+ Quần thể sinh vật: Phần này trinh bày chủ yếu về các mối quan hệ giữa các cá
thể trong quần thể sinh vật và các đặc trưng cơ bản của quần thể (tỉ lệ giới tính,
nhóm tuổi, sự phân bố, mật độ cá thể), kích thước và sự tăng trưởng quần thể,
những nhân tố ảnh hưởng tới sự tăng trưởng của quần thể, sự điều chỉnh số
lượng cá thể và trạng thái cân bằng của quần thể.
- Chương 2: Quần xã sinh vật. Chương này nhấn mạnh tới các đặc trưng cơ bản
của quần xã sinh vật, quan hệ giữa các loài trong quần xã và sự biến đổi của

quần xã sinh vật, biến đổi quần xã.
Trường ĐHSP Hà Nội 2 Khóa luận tốt nghiệp
Nguyễn Thị Loan 19 Lớp: KS5A- SP Sinh
- Chương 3: Hệ sinh thái, sinh quyển và bảo vệ môi trường. Chương này trinh bày
khái niệm về hệ sinh thái, thành phần cấu trúc hệ sinh thái, các kiểu hệ sinh thái,
trao đổi vật chất và dòng năng lượng trong hệ sinh thái, chu trinh sinh địa hóa,
sinh quyển và ứng dụng sinh thái học trong việc quản lí và sử dụng bền vững tài
nguyên thiên nhiên.
2.2. Quy trình xây dựng dự án
2.2.1. Quy trình chung
Giai đoạn 1: Lựa chọn chủ đề, hình thành dự án
Giai đoạn 2: Lập dự án Giai đoạn 3: Xây dựng
kế hoạch thực hiện Giai đoạn 4: Thực hiện dự án
Trường ĐHSP Hà Nội 2 Khóa luận tốt nghiệp
Nguyễn Thị Loan 20 Lớp: KS5A- SP Sinh
Giai đoạn 5: Thu thập kết quả và công bố sản phẩm
2.2.2. Giải thích quy trình
* Giai đoạn 1: Lựa chọn chủ đề, hình thành dự án
• • • •■
Đây là giai đoạn rất quan trọng nhưng cũng đầy khó khăn. Thông thường GV
và HS cùng nhau suy nghĩ đề xuất vấn đề, xác định đề tài song thực tế GY phải có
sự định hướng trước HS. GY có thể gợi ý một số vấn đề liên quan đến thực tiễn
mang tính chất kích thích trí tò mò của HS, sau đó GV và HS cùng nhau thảo luận
vấn đề, đôi khi trong quá trình đó, HS có thể bật ra những ý tưởng táo bạo nhưng
hấp dẫn liên quan đến nội dung bài học. Để làm được điều này GY:
- Phải thực sự nắm vững kiến thức và liên hệ thực tế tốt có khả năng xâu chuổi sự
kiện gắn kết với mục tiêu mà GV muốn hướng đến.
- Dựa vào chương trình học của môn, cụ thể là nội dung của bài học mà mình dự định
làm dự án, GV xác định các chuẩn kiến thức, xác định mục tiêu bài học: kiến thức,
kĩ năng mà học sinh cần đạt

- Suy nghĩ, tìm ý tưởng về dự án của mình phải mang tính thực tiễn liên quan đến
cuộc sống và thể hiện nội dung bài học.
Một dự án tốt có khả năng mang lại hiệu quả là một dự án nghiên cứu sâu về
các chủ đề thực tế và các vấn đề mà người học thực sự muốn tìm hiểu, thể hiện
được vai trò trung tâm của HS nhằm giúp các em hiểu được nội dung bài học và
liên hệ những điều các em quan tâm.
Trong thực tiễn dự án, có một số loại dự án thường được tổ chức như
sau:
Học thông qua việc phục vụ cộng đồng: Đây là những dự án thường gắn liền với
cộng đồng địa phương và HS có thể áp dụng bài học trong lớp học vào tình hình
thực tế. Ví dụ, tìm hiểu ô nhiễm nguồn nước ở địa phương, hay xây dựng kế hoạch
mọi người mọi nhà dùng nguồn nước sách thông qua hệ thống lọc nước đơn giản.
Trường ĐHSP Hà Nội 2 Khóa luận tốt nghiệp
Nguyễn Thị Loan 21 Lớp: K35A- SP Sinh
Mô phỏng - đóng vai: Đây là những dự án giúp HS hóa thân vào vai một người
khác, sống trong một tình huống mô phỏng lại tái tạo lại thời gian và không gian
nhất định. Mô phỏng và đóng vai là cách rất hữu hiệu để phản ánh lịch sử, mang lại
nhiều hiệu quả hay tạo được sự thấu cảm tốt. Ví dụ, để nâng cao ý thức an toàn giao
thông tránh phóng nhanh vượt ẩu, GY cho HS hóa thân vào một vở kịch tái hiện hậu
quả của một HS đua xe.
Xây dựng và thiết kế: Đây là những dự án dựa trên nhu cầu thực tế hay có thể
được tạo nên bởi chuỗi sự kiện đáng tin cậy. Các dự án này đòi hỏi HS phải xây
dựng được mô hình thực sự hay lập kế hoạch đề xuất giải pháp cho các vấn đề thực
tế.
Giải quyết vẩn đề: Đây là những dự án yêu cầu HS đề xuất giải pháp cho các vấn
đề thực tế. Thông thường là những vấn đề nóng bỏng trong xã hội gây nhiều tranh
cãi. Ví dụ hiện tượng hiệu ứng nhà kính, sự nóng lên của trái đất
Hợp tác trực tuyển: Những dự án này là các nhiệm vụ giáo dục thực hiện trực
tuyến. Các dự án cung cấp kinh nghiệm học tập thực tế khi họp tác trực tuyến với
các lóp khác, các chuyên gia hay cả cộng đồng.

Tra cứu web: Đây là các hoạt động yêu cầu định hướng trong đó một số hay tất
cả các thông tin mà người học sử dụng lấy từ nguồn Internet. Các dự án này được
thiết kế nhắm đến việc lmh hội và tích họp kiến thức.
*Giaỉ đoạn 2: Lập dự án
Có thể hiểu đây là bước chuẩn bị của GV và HS (chủ yếu là của GV) trước
khi HS bắt tay vào thực hiện dự án. Bước này có vai trò lớn trong việc quyết định
đến sự thành công của toàn bộ dự án. về cơ bản, khâu lập kế hoạch dự án bao gồm
các nhiệm vụ sau:
2.1. Xác định mục tiêu dự án
- Đưa ra mục tiêu của dự án dựa vào chuẩn kiến thức và mục tiêu bài học
Trường ĐHSP Hà Nội 2 Khóa luận tốt nghiệp
Nguyễn Thị Loan 22 Lớp: K35A- SP Sinh
- Từ mục tiêu của dự án lựa chọn các nội dung thích họp và chỉnh sửa chúng cho
vào dự án.
2.2. Xây dựng bộ câu hỏi định hướng để thu hút học sinh
Có thể nói, để phát triển tư duy cho HS bên cạnh việc hiểu nội dung bài học,
thì với bộ câu hỏi định hướng sẽ làm được điều này. Trong một dự án không thể
thiếu bộ câu hỏi này, nó làm cho HS hứng thú hơn và HS sẽ tìm thấy mối liên hệ
giữa các kiến thức mà các em đã học.
Bộ câu hỏi định hướng bao gồm các câu hỏi khái quát, câu hỏi bài học và câu hỏi
nội dung.
- Câu hỏi khái quát:
Câu hỏi khái quát là những câu hỏi mở, hướng đến những ý tưởng lớn và những
khái niệm mang tính bền vững. Câu hỏi Khái quát thường mang tính liên môn và
giúp HS thấy được sự liên quan giữa các môn học với nhau Ta thấy rằng với câu hỏi
khái quát, có nhiều câu trả lời, mang tính thực tế. Như vậy, câu hỏi khái quát chính
là cầu nối cầu nối giữa các bài, phạm vi môn học. Chính vì vậy, sẽ thu hút HS và từ
đó HS sẽ tư duy, liên hệ các kiến thức với cuộc sống hằng ngày. Câu hỏi khái quát
có thể dẫn đến những câu hỏi quan trọng khác. Vì vậy, những câu hỏi cụ thể hơn
thường được sử dụng để hướng dẫn HS thực hiện một bài học cụ thể nào đó.

- Câu hỏi bài học:
Câu hỏi bài học có liên quan trực tiếp đến dự án và hỗ trợ viêc nghiên cứu câu
hỏi khái quát. Các câu hỏi bài học cũng là các câu hỏi mở giúp HS thể hiện hiểu
biết của mình về những khái niệm cốt lõi của một dự án
Hay nói cách khác, câu hỏi bài học là những câu hỏi thường gắn với nội dung
một bài học cụ thể.
Có thể nói, loại câu hỏi này hướng các em vào một chủ đề, một bài học cụ thể.
Kích thích thảo luận cho phép HS trả lời theo cách tiếp cận sáng tạo, độc đáo, hỗ trợ
cho câu hỏi khái quát.
Trường ĐHSP Hà Nội 2 Khóa luận tốt nghiệp
Nguyễn Thị Loan 23 Lớp: K35A- SP Sinh
Câu hỏi bài học và câu hỏi khái quát khác biệt không quá rõ ràng, ngược lại
chúng được xem như là một thể thống nhất. Cả hai loại câu hỏi này đều có chung
mục đích, đó là: định hướng, khuyến khích cho học sinh học, dẫn đến nhiều câu hỏi
hay hơn và hướng dẫn HS khám phá, khai thác những ý tưởng hay, quan trọng.
- Câu hỏi nội dung:
Câu hỏi nội dung là những câu hỏi cụ thể, mang tính sự kiện với một số lượng
giới hạn các câu trả lời đúng. Thường thì câu hỏi nội dung liên quan đến định nghĩa,
sự nhận biết và gợi nhớ thông tin mang tính tổng quát - tương tự như loại câu hỏi
mà bạn thường thấy trong các bài kiểm tra. Câu hỏi nội dung là những câu hỏi hỗ
trợ quan trọng cho câu hỏi khái quát và câu hỏi bài học
Có thể nói, loại câu hỏi này giúp cho HS xác định “ai”, “cái gì”, “ở đâu”, và “khi
nào” , tìm hiểu vấn đề hỗ trợ cho câu hỏi khái quát và câu hỏi bài học bằng cách
nhấn mạnh vào việc hiểu nội dung bài học. Đáp ứng mục tiêu của bài học.
Do đó nó đặc điểm cơ bản như sau:
- Có câu trả lời rõ ràng.
- Đáp ứng tiêu chuẩn về nội dung bài học, mục tiêu bài dạy.
- HS thường xuyên xác định “ai”, “cái gì”, “ở đâu”, và “khi nào”, tránh tình trạng lạc
đề.
- HS phải có kiến thức và kĩ năng, tìm hiểu để cho ra câu trả lời

2.3. Thiết kế dự án
Sau khi chúng ta đã có ý tưởng đề tài và vạch ra bộ câu hỏi định hướng, thì
chúng ta phải bắt tay vào việc thiết kế dự án, để làm đực điều này GY cần phải
nghiêm túc trả lời:
- Đề tài dự án có thiết thật với thực tế không? Vai trò của nó như thế nào?
- Lợi ích thực hiện dự án là ai?
Trường ĐHSP Hà Nội 2 Khóa luận tốt nghiệp
Nguyễn Thị Loan 24 Lớp: K35A- SP Sinh
Như chúng ta biết một dự án thì học sinh đóng vai trò là người tự quyết định mọi
việc của mình thông qua sự hướng dẫn của GV. Do đó, GV cần lưu ý đến những vấn
đề:
- Chủ thể trong dự án (công việc chính học sinh cần thực hiện chẳng hạn như các bạn
hãy đóng vai là tổ chức nào), khách thể trong dự án (thực hiện mục đích gì)
- Nhiệm vụ mà nhóm phải hoàn thành
- Sản phẩm (kết quả) mà nhóm đạt được
2.4. Xây dựng tài liệu tham khảo hỗ trợ hỗ trợ học sinh
GY là người chuẩn bị cho HS những tài kiệu cần thiết để hỗ trợ trong quá
trình thực hiện dự án:
- Tài liệu kĩ thuật số: CD, DVD, phần mềm
- Tài liệu giấy: Các bài tập mẫu, nội dung bài học, các mẫu phiếu phân công công việc
trong nhóm, các mẫu phiếu đánh giá từng sản phẩm,
- Các nguồn tài liệu tham khảo: các trang Web
2.5. Chuẩn bị các điều kiện thực hiện dự án
- Đối với GV: Trao đổi, thu thập ý kiến của đồng nghiệp, vận động mọi người tham
dự, chuẩn bị kinh phí, cơ sở vật chất cần thiết,
- Đối với HS: Chuẩn bị những kĩ năng cơ bản (biết sử dụng Word, PowerPoint ) đáp
ứng cho việc thực hiện dự án.
*Giaỉ doạn 3: Xây dựng kế hoạch thực hiện
Trong giai đoạn này, HS với sự hướng dẫn của GV xây dựng đề cương, kế
hoạch cho việc thực hiện dự án: công việc cần làm, thời gian dự kiến, vật liệu, kinh

phí, phương pháp tiến hành và phân công công việc trong nhóm
Vì vậy, giáo viên phải có đề cương chi tiết rõ ràng, điều này rất quan trọng
trong việc thực hiện dự án, có kế hoạch thì thực hiện mới hiệu quả.
- Đối với GV:
Khi giao bài tập cụ thể, GV hướng dẫn HS thực hiện:
Trường ĐHSP Hà Nội 2 Khóa luận tốt nghiệp
Nguyễn Thị Loan 25 Lớp: K35A- SP Sinh

×