Tải bản đầy đủ (.docx) (36 trang)

KẾT QUẢ ĐIỀU HÀNH CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ CỦA VIỆT NAM NĂM 2014 VÀ ĐỊNH HƯỚNG NĂM 2015

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (423.47 KB, 36 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC VIỆT NAM
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGÂN HÀNG TPHCM
KHOA SAU ĐẠI HỌC
BÀI TIỂU LUẬN
KẾT QUẢ ĐIỀU HÀNH CHÍNH SÁCH TIỀN
TỆ CỦA VIỆT NAM NĂM 2014
VÀ ĐỊNH HƯỚNG NĂM 2015
Giảng viên phụ trách : PGS.TS. Lê Thị Mận
Thực hiện : Nhóm 3
Lớp : CH16B2
TP. HỒ CHÍ MINH - 06/2015
DANH SÁCH NHÓM 3
HỌ VÀ TÊN
NHIỆM VỤ
1. Trần Thị Bích Nga Nhóm trưởng
2. Vũ Ngọc Hoài Chân Thành viên
3. Phạm Thị Ngọc Thảo Thành viên
4. Đỗ Thị Kim Anh Thành viên
5. Hoàng Diệu Thùy Thành viên
6. Lê Thiên Hương Thành viên
7. Châu Đỗ Trọng Quí Thành viên
8. Phạm Thị Trà My Thành viên
ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ LÀM VIỆC NHÓM
Họ và tên Trách nhiệm
1. Trần Thị Bích Nga Phần các công cụ được sử dụng trong điều hành chính sách
tiền tệ
2. Phạm Thị Ngọc Thảo Phần cơ sở lý thuyết chính sách tiền tệ
3. Phạm Thị Trà My Phần mở đầu và kết luận, tổng hợp nội dung
4. Vũ Ngọc Hoài Chân Phần nhận xét điều hành chính sách tiền tệ ở Việt Nam
5. Lê Thiên Hương Phần kết quả điều hành chính sách tiền tệ 2014 và định
hướng 2015


6. Châu Đỗ Trọng Quí Phần tổng hợp và chỉnh sửa bài
7. Hoàng Diệu Thùy Phần điều hành chính sách tiền tệ của Việt nam so với các
nước trên thế giới
8. Đỗ Thị Kim Anh Phần tổng hợp thực hiện powerpoint
MỤC LỤC
MỤC LỤC
DANH MỤC BẢNG BIỂU, HÌNH VẼ
…………… ……………
HÌNH VẼ Trang
Hình 2.1: Tỷ lệ tăng trưởng theo quý của GDP, GDP theo ngành kinh tế năm 2014… 9
Hình 2.2: Tỷ lệ tăng CPI so với cùng kỳ năm 2013……… 10
Hình 2.3: Hệ thống lãi suất điều hành của ngân hàng Nhà nước 2012-2014 15
Hình 2.4: Diễn biến tỷ giá năm 2014 (VND/USD) 16
6
LỜI MỞ ĐẦU
Chính sách tiền tệ, một trong những chính sách điều tiết kinh tế vĩ mô quan trọng
của nhiều quốc gia trên thế giới. Nó là giải pháp hữu hiệu giúp các nhà cầm quyền tác
động vào các mục tiêu trong nền kinh tế như lạm phát, thất nghiệp, tốc độ tăng trưởng…
thông qua các công cụ cơ bản của nó. Không nằm ngoài xu hướng chung của thế giới,
Việt Nam cũng đang từng bước vận dụng những tác động đáng kể của chính sách tiền tệ
vào việc quản lý kinh tế trong nước.
Nước ta hiện nay đang ra sức vào công cuộc hội nhập về kinh tế quốc tế, đổi mới
về tư duy phát triển thị trường. Bên cạnh những thuận lợi là những khó khăn đang song
song tồn tại, làm sao để kinh tế Việt Nam phát triển ổn định, tạo ra nhiều công ăn việc
làm cho người dân luôn là một câu hỏi được quan tâm. Chính lúc này, vai trò của chính
sách tiền tệ trong việc điều tiết vĩ mô nền kinh tế càng trở nên quan trọng. Với đặc điểm
riêng của nền kinh tế Việt Nam, thì việc lựa chọn mục tiêu nào làm mục tiêu qua từng
giai đoạn, công cụ nào của chính sách tiền tệ, sử dụng chúng ra sao ở các giai đoạn cụ thể
của nền kinh tế luôn là vấn đề cần phải được quan tâm, theo dõi và giải quyết đối với
những nhà hoạch định và điều hành chính sách tiền tệ.

Hiểu được vai trò quan trọng của chính sách tiền tệ quốc gia, cũng như mong
muốn được nghiên cứu sâu rộng hơn về chính sách tiền tệ hiện nay tại Việt Nam, nhóm
chúng em xin chọn đề tài “KẾT QUẢ ĐIỀU HÀNH CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ CỦA
VIỆT NAM NĂM 2014 VÀ ĐỊNH HƯỚNG NĂM 2015” làm đề tài tiểu luận. Với vốn
kiến thức hữu hạn, đề tài tiểu luận sẽ chưa thể khái quát hết được mọi mặt của chính sách
tiền tệ tại Việt Nam, do đó nhóm chúng em rất mong nhận được những ý kiến đóng góp
từ cô để có thể tích lũy được nhiều kiến thức hơn nữa phục vụ cho nhiều đề tài nghiên
cứu sau này.
Trong quá trình nghiên cứu, nhóm chia bài tiểu luận ra thành ba phần để thực hiện
phân tích:
Chương 1: CƠ SỞ LÝ THUYẾT.
Chương 2: KẾT QUẢ ĐIỀU HÀNH CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ CỦA VIỆT NAM
NĂM 2014 VÀ ĐỊNH HƯỚNG NĂM 2015.
7
Chương 3: ĐIỀU HÀNH CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ CỦA VIỆT NAM SO VỚI
CÁC NƯỚC TRÊN THẾ GIỚI.
8
CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ THUYẾT
1.1. Chính sách tiền tệ
1.1.1. Khái niệm
Chính sách tiền tệ quốc gia là các quyết định về tiền tệ ở tầm quốc gia của cơ quan
nhà nước có thẩm quyền, bao gồm quyết định mục tiêu ổn định giá trị đồng tiền biểu hiện
bằng chỉ tiêu lạm phát, quyết định sử dụng các công cụ và biện pháp để thực hiện mục
tiêu đề ra.
Tùy thuộc điều kiện kinh tế của mỗi quốc gia mà chính sách tiền tệ có thể được
xác lập theo hai hướng: Chính sách tiền tệ thắt chặt (giảm cung tiền, tăng lãi suất làm
giảm đầu tư vào sản xuất kinh doanh từ đó làm giảm lạm phát nhưng thất nghiệp tăng –
chính sách tiền tệ ổn định giá trị đồng tiền); chính sách tiền tệ mở rộng (tăng cung tiền,
giảm lãi suất qua đó khuyến khích đầu tư mở rộng sản xuất kinh doanh, thất nghiệp giảm

nhưng lạm phát tăng – chính sách tiền tệ chống thất nghiệp).
1.1.2. Vai trò của chính sách tiền tệ
Chính sách tiền tệ có một vai trò quan trọng và tương đối độc lập với các chính
sách kinh tế khác xuất phát từ ba luận điểm sau mang tính định hướng:
Thứ nhất, sẽ không có tăng trưởng kinh tế nếu không có đầu tư.
Thứ hai, không thể có đầu tư mà không có tiết kiệm.
Thứ ba, không thể có tiết kiệm nếu thiếu sự ổn định giá cả và tiền tệ.
Chính vì vậy, chính sách tiền tệ có nhiệm vụ tác động vào nhiều hướng nhằm: tạo
ra đầu tư, tạo ra tiết kiệm và tạo ra sự ổn định tiền tệ, ổn định giá cả, ổn định tỷ giá hối
đoái. Như vậy, chính sách tiền tệ góp phần quan trọng vào sự thành công hay thất bại của
sự phát triển nền kinh tế.
1.1.3. Các mục tiêu của chính sách tiền tệ
1.1.3.1. Mục tiêu kiểm soát lạm phát và ổn định giá trị đồng tiền
Ngân hàng Trung ương thông qua chính sách tiền tệ có thể tác động đến sự tăng
hay giảm giá trị đồng tiền của nước mình. Giá trị đồng tiền ổn định được xem xét trên 2
9
mặt: Sức mua đối nội của đồng đồng tiền (chỉ số giá cả hàng hóa và dịch vụ trong nước)
và sức mua đối ngoại (tỷ giá của đồng tiền nước mình so với ngoại tệ). Tuy vậy, chính
sách tiền tệ hướng tới ổn định giá trị đồng tiền không có nghĩa là tỷ lệ lạm phát bằng
không, vì như vậy nền kinh tế không thể phát triển được. Trong điều kiện nền kinh tế trì
trệ thì kiểm soát lạm phát ở một tỷ lệ hợp lý (thường ở mức một con số) sẽ kích thích
tăng trưởng kinh tế trở lại.
1.1.3.2 Mục tiêu tạo công ăn việc làm, giảm tỷ lệ thất nghiệp
Chính sách tiền tệ mở rộng hay thắt chặt có ảnh hưởng trực tiếp tới việc sử dụng
có hiệu quả các nguồn lực xã hội, quy mô sản xuất kinh doanh và từ đó ảnh hưởng tới tỷ
lệ thất nghiệp của nền kinh tế. Để có một tỷ lệ thất nghiệp giảm thì chấp nhận một tỷ lệ
lạm phát gia tăng.
1.1.3.3. Mục tiêu tăng trưởng kinh tế
Chính sách tiền tệ của các quốc gia hướng đến, mục đích cao nhất là làm thế nào
để phát triển kinh tế, gia tăng sản lượng. Để tăng trưởng kinh tế, ngân hàng trung ương

thực hiện chính sách tiền tệ nới rộng. Tác động đó thông qua hai chiều.Khi khối tiền tệ
tăng, sẽ tác dụng làm giảm lãi suất. Khi lãi suất giảm sẽ khuyến khích các chủ doanh
nghiệp đầu tư, mở rộng sản xuất. Đầu tư gia tăng dẫn đến tổng sản phẩm xã hội cũng
tăng.
1.1.3.4. Ổn định thị trường tài chính
Tình trạng khủng hoảng tài chính có thể làm giảm khả năng của thị trường tài
chính trong việc tạo ra kênh dẫn vốn cho người có cơ hội đầu tư vào sản xuất, qua đó làm
giảm quy mô hoạt động kinh tế. Bởi vậy, việc tạo ra hệ thống tài chính ổn định hơn, tránh
được các cuộc khủng hoảng tài chính là mục tiêu quan trọng của ngân hàng trung ương.
Sự ổn định thị trường tài chính được hỗ trợ bởi sự ổn định của lãi suất, bởi vì sự biến
động của lãi suất tạo ra sự bất định lớn cho các định chế tài chính. Sự gia tăng lãi suất tạo
ra các tổn thất lớn về vốn cho trái phiếu dài hạn và các khoản cho vay cầm cố, cũng như
những tổn thất này có thể làm cho các định chế tài chính nắm giữ nó sụp đổ.
10
1.1.3.5. Ổn định thị trường hối đoái
Với tầm quan trọng ngày càng tăng của tỷ giá hối đoái trong thương mại quốc tế,
ổn định tỷ giá trở thành mục tiêu mong muốn của chính sách tiền tệ. Tỷ giá hối đoái có
ảnh hưởng đến sức cạnh tranh của hàng hóa và dịch vụ trong nước so với nước ngoài.
Ngoài ra, ổn định tỷ giá giúp cho các doanh nghiệp và cá nhân trao đổi hàng hóa với
nước ngoài dễ dàng lập kế hoạch hơn.
1.1.3.6. Ổn định thị trường lãi suất
Sự biến động của lãi suất có thể tạo ra tính bất định trong nền kinh tế và khó khăn
trong lập kế hoạch cho tương lai. Biến động của lãi suất ảnh hưởng tới lượng dự trữ, mức
chi tiêu của người dân và đồng thời ảnh hưởng tới khả năng mở rộng sản xuất knh doanh
của các doanh nghiệp.
Giữa các mục tiêu trên có mối quan hệ chặt chẽ, hỗ trợ nhau, không tách rời.
Nhưng xem xét trong thời gian ngắn hạn thì các mục tiêu này có thể mâu thuẫn với nhau
thậm chí triệt tiêu lẫn nhau. Vậy để đạt được các mục tiêu trên một cách hài hòa thì ngân
hàng trung ương trong khi thực hiện chính sách tiền tệ cần phải có sự phối hợp với các
chính sách kinh tế vĩ mô khác.

1.2. Các công cụ của chính sách tiền tệ
1.2.1. Công cụ tái cấp vốn
1.2.1.1. Khái niệm
Việc điều hành công cụ tái cấp vốn để thực thi chính sách tiền tệ được thông qua
lãi suất tái chiết khấu, ngân hàng trung ương có thể khuyến khích giảm hoặc tăng mức
cung ứng tín dụng của ngân hàng thương mại đối với nền kinh tế, đồng thời giảm hoặc
tăng mức cung ứng tiền. Khi thực hiện chính sách hạn chế (thắt chặt) tiền tệ, ngân hàng
trung ương sẽ nâng lãi suất tái chiết khấu lên. Khi đó, các ngân hàng thương mại sẽ nâng
lãi suất cho vay hoặc hạn chế bớt cơ hội cho vay, ngược lại, nếu thực hiện chính sách tiền
tệ mở rộng (nới lỏng) ngân hàng trung ương hạ thấp lãi suất chiết khấu, nên ngân hàng
thương mại được vay với giá rẻ, nên có khuynh hướng giảm bớt lãi suất cho vay dẫn đến
nhu cầu vay của doanh nghiệp gia tăng.
11
1.2.1.2. Ưu điểm
Các khoản cho vay của ngân hàng trung ương đều được đảm bảo bằng các giấy tờ
có giá do nó có khả năng tự thanh toán. Đồng thời, công cụ tái chiết khấu có tính chất chủ
động trong việc thực hiện chính sách tiền tệ mở rộng hay thắt chặt.
1.2.1.3. Nhược điểm
Ngân hàng trung ương thụ động trong việc cung ứng tiền tệ , vì việc vay hay
không vay chủ động nằm ở ngân hàng thương mại.
1.2.2. Công cụ lãi suất
1.2.2.1. Khái niệm
Để thực hiện chính sách tiền tệ mở rộng, ngân hàng trung ương thường điều chỉnh
hạ lãi suất để kích thích các ngân hàng thương mại và tổ chức tín dụng sử dụng tiền vay
của ngân hàng trung ương để tăng cường tín dụng cho nền kinh tế và ngược lại.
1.2.2.2. Ưu điểm
Đây là công cụ linh hoạt để ngân hàng trung ương sử dụng dụng để điều hành
chính sách tiền tệ quốc gia.
1.2.2.3. Nhược điểm
Giảm sự cạnh tranh của các ngân hàng thương mại khi ngân hàng trung ương áp

lãi suất trần hoặc sàn.
1.2.3 Công cụ tỷ giá hối đoái
Ngân hàng trung ương can thiệp vào thị trường ngoại hối nhằm ổn định tỷ giá hối
đoái, để giữ vững sức mua đối ngoại của đồng tiền bản tệ. Khi tỷ giá hối đoái biến động,
ngân hàng trung ương phải can thiệp vào thị trường để ổn định tỷ giá hối đoái bằng cách
mua hoặc bán một lượng ngoại tệ.
1.2.4 Công cụ dự trữ bắt buộc
1.2.4.1. Khái niệm
Dự trữ bắt buộc là số tiền mà các tổ chức tín dụng phải giữ lại mà không được
dùng để cho vay hoặc đầu tư. Mức dự trữ cho ngân hàng trung ương quy định và bằng
một tỷ lệ nhất định so với tổng số tiền gửi của khách hàng tại các tổ chức tín dụng.
12
1.2.4.2. Ưu điểm
Là công cụ ảnh hưởng rất mạnh đến lượng tiền cung ứng.
1.2.4.3. Nhược điểm
Kém linh hoạt, ảnh hưởng rất nhiều đến lợi nhuận của các ngân hàng thương mại.
1.2.5 Công cụ nghiệp vụ thị trường mở
1.2.5.1. Khái niệm
Nghiệp vụ thị trường mở là việc ngân hàng trung ương mua bán các giấy tờ có giá
ngắn hạn trên thị trường tiền tệ, chủ yếu là tín phiếu kho bạc, nhằm làm tăng hoặc giảm
lượng tiền cung ứng. Đây là công cụ quan trọng nhất của ngân hàng trung ương trong
việc điều tiết lượng tiền cung ứng.
1.2.5.2. Ưu điểm
- Linh hoạt, chính xác cao
- Nhanh chóng, ít tốn chi phí
- Kiểm soát hoàn toàn lượng nghiệp vụ thị trường mở
- Dễ dàng đảo ngược tình thế khi lượng tiền cung ứng thừa hay thiếu
1.2.5.3. Nhược điểm
Chỉ có thể áp dụng trong điều kiện mà hầu hết tiền lưu thông đều nằm ở tài khoản
tại ngân hàng.

13
CHƯƠNG 2
KẾT QUẢ ĐIỀU HÀNH CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ CỦA VIỆT NAM
NĂM 2014 VÀ ĐỊNH HƯỚNG NĂM 2015
2.1. Kết quả điều hành chính sách tiền tệ của Việt Nam năm 2014
Năm 2014, kinh tế thế giới tiếp tục đà phục hồi nhưng chưa bền vững và đồng
đều, lạm phát có xu hướng giảm, hầu hết các ngân hàng trung ương duy trì chính sách
tiền tệ nới lỏng để hỗ trợ tăng trưởng kinh tế.Thị trường tài chính chứa đựng nhiều rủi ro
với giá vàng biến động phức tạp, đồng USD tăng giá, giá dầu thô giảm mạnh.Ở trong
nước, kinh tế vĩ mô diễn biến theo hướng tích cực, phù hợp với chủ trương và các giải
pháp điều hành của Chính phủ. Trên cơ sở bám sát mục tiêu của Quốc hội, Chính phủ, và
nhiệm vụ của ngành ngân hàng tại Chỉ thị số 01/CT-NHNN ngày 15/1/2014. Ngân hàng
Nhà nước đã đạt được một số kết quả sau:
- Lượng tiền cung ứng cho thị trường được điều hành hợp lý giữa các kênh nhằm
đảm bảo kiểm soát tiền tệ phù hợp với mục tiêu kiểm soát lạm phát trong điều
kiện Ngân hàng Nhà nước mua được một lượng lớn ngoại tệ để tăng dự trữ ngoại
hối Nhà nước. Tính đến ngày 15/12/2014, tổng chi ngân sách nhà nước ước đạt
968,5 nghìn tỷ, bằng 96,2% dự toán năm. Tính đến ngày 27/12/2014, tổng
phương tiện thanh toán tăng 15,65% so với cuối năm 2013, phù hợp với chỉ tiêu
định hướng 14-16% đề ra từ đầu năm. Như vậy, với thực tế về số liệu chi ngân
sách nhà nước, cung tiền năm 2014 đều gần bằng và vượt mức của năm 2013.
Huy động vốn tăng 15,15%, trong đó huy động vốn bằng VND tăng khá cao
16,31% so với cuối năm 2013. Về thanh khoản, các TCTD được đảm bảo và dư
thừa,hoạt động của các TCTD ổn định, thị trường liên ngân hàng thông suốt, lãi
suất trên thị trường nội tệ liên ngân hàng giảm và ổn định ở mức thấp.
- Về tăng trưởng kinh tế: Tổng sản phẩm trong nước (GDP) năm 2014 ước tính tăng
5,98% so với năm 2013, trong đó quý I tăng 5,06%; quý II tăng 5,34%; quý III
tăng 6,07%; quý IV tăng 6,96%. Đây là mức tăng cao nhất so với 2 năm trước.
Điều này cho thấy, đà phục hồi của nền kinh tế năm 2014 đã có dấu hiệu tích cực.
14

Tỷ lệ tăng trưởng theo quý ngày càng tăng, xếp hạng tín nhiệm của nền kinh tế đã
tăng từ B+ lên BB-, chỉ số sản xuất công nghiệp tăng cao nhất và chỉ số hàng tồn
kho tăng thấp, chỉ số PMI gần đạt mức đỉnh của tháng 5, vốn đầu tư của khu vực
có vốn đầu tư nước ngoài tăng cao nhất và là khu vực đóng góp hơn 2/3 kim
ngạch xuất khẩu của Việt Nam. Cơ cấu tín dụng tiếp tục chuyển dịch theo hướng
tích cực, tập trung vào các lĩnh vực sản xuất kinh doanh, đặc biệt là các lĩnh vực
ưu tiên theo chủ trương của Chính phủ. Các chương trình, chính sách tín dụng
ngành, lĩnh vực đã được hệ thống ngân hàng triển khai kịp thời, góp phần hỗ trợ
tăng trưởng kinh tế và đảm bảo an sinh xã hội.
Hình 2.1: Tỷ lệ tăng trưởng theo quý của GDP, GDP theo ngành kinh tế năm 2014
- Về lạm phát: Các tháng năm 2014 so với cùng kỳ đạt cao nhất vào tháng 1 cũng
chỉ là 5,45%. Kể từ tháng 6, tỷ lệ tăng của CPI ngày càng giảm. CPI tháng 12 chỉ
tăng 1,84% so với cùng kỳ năm 2013, kéo tỷ lệ lạm phát bình quân tháng chỉ còn
4,09%/năm, thấp hơn mức trung bình của năm 2013 là 2,5 điểm phần trăm. Theo
Tổng cục Thống kê, trong 12 tháng vừa qua, nhóm hàng có đóng góp nhiều nhất
vào sự gia tăng CPI vẫn là hàng ăn và dịch vụ ăn uống (chiếm 38,8%), đến là giáo
dục (14,2%), nhà ở và vật liệu xây dựng (9,3%), nhóm hàng giao thông chỉ đóng
15
góp 4%.Với sự điều chỉnh giảm liên tục của giá xăng dầu trong nước, chi phí sinh
hoạt cho nhóm hàng giao thông sẽ giảm đi, từ đó tác động làm giảm CPI.
Hình 2.2: Tỷ lệ tăng CPI so với cùng kỳ năm 2013
- Tỷ giá và thị trường ngoại hối về cơ bản ổn định, đồng nội tệ được duy trì ổn
định, dự trữ ngoại tệ tăng, tài khoản thanh toán được đảm bảo cân đối. Mức biến
động VND so với USD chỉ hơn 1% so với thời điểm đầu năm, cán cân thanh toán
thặng dư 10 tỷ USD, cán cân thương mại nghiêng về xuất siêu, là những lý do
chính hỗ trợ bình ổn thị trường tài chính tiền tệ. Các nhu cầu ngoại tệ hợp pháp
của tổ chức, cá nhân đều được đáp ứng đầy đủ, kịp thời, niềm tin vào VND được
củng cố, nhờ đó ngân hàng Nhà nước tiếp tục mua được ngoại tệ để bổ sung dự
trữ ngoại hối Nhà nước lên mức kỷ lục. Tình trạng đô la hóa tiếp tục giảm, tỷ lệ
tiền gửi ngoại tệ/tổng phương tiện thanh toán đạt khoảng 11,6%, giảm so với mức

khoảng 12,4% của cuối năm 2012-2013.
- Việc điều hành chính sách tiền tệ của ngân hàng Nhà nước không chỉ giúp kiềm
chế lạm phát ở mức thấp; tỷ giá tương đối ổn định mà các động thái giảm lãi suất
ở mức hợp lý đã tạo thuận lợi cho hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp. Mặt bằng lãi suất giảm 1,5-2%/năm so với cuối năm 2013. Trong đó, mặt
bằng lãi suất huy động giảm 1,5-2%/năm, lãi suất cho vay giảm khoảng 2%/năm,
đưa mặt bằng lãi suất thấp hơn mức lãi suất của giai đoạn 2005-2006. Lãi suất của
các khoản vay cũ tiếp tục được các tổ chức tín dụng tích cực điều chỉnh giảm. Dư
16
nợ cho vay bằng VND có lãi suất trên 15%/năm chiếm khoảng 3,9% tổng dư nợ
cho vay VND, giảm so với tỷ trọng 6,3% cuối năm 2013; dư nợ có lãi suất trên
13%/năm chiếm 10,65%, giảm so với tỷ trọng 19,72% cuối năm 2013.
- Không có nhiều đợt sóng lớn do yếu tố đầu cơ gây ra, thị trường vàng trong nước
năm 2014 đã thể hiện rõ xu hướng ổn định hơn so với diễn biến của năm trước.
Mở cửa ngày giao dịch đầu năm 2014 giá vàng SJC giao dịch ở ngưỡng 34,80
triệu đồng/lượng. Đến cuối năm giá bán ra dao động ở ngưỡng 35,15 triệu đồng
mỗi lượng. Như vậy, trong năm qua, thương hiệu SJC chỉ tăng 350.000
đồng/lượng. Do ngân hàng Nhà nước không phải tổ chức đấu thầu bán vàng
miếng đã góp phần hạn chế việc sử dụng ngoại tệ của quỹ bình ổn tỷ giá và giá
vàng để nhập khẩu vàng trên thị trường quốc tế. Diễn biến ổn định của thị trường
vàng đã góp phần duy trì sự ổn định của tỷ giá, thị trường ngoại hối, tăng dự trữ
ngoại hối Nhà nước và ổn định kinh tế vĩ mô.
- Quá trình cơ cấu lại hệ thống các tổ chức tín dụng tiếp tục được thực hiện theo đúng
đề án đã được phê duyệt, trên cơ sở chấp thuận của Thủ tướng Chính phủ. Việc sáp
nhập, hợp nhất, mua lại các tổ chức tín dụng đã và đang diễn ra khá mạnh mẽ, chủ
yếu thực hiện theo nguyên tắc tự nguyện, an toàn của hệ thống tổ chức tín dụng
được bảo đảm, nguy cơ gây đổ vỡ, mất an toàn hệ thống đã được giảm dần, khả
năng chi trả của các tổ chức tín dụng được cải thiện, tài sản của Nhà nước và tiền
gửi của nhân dân được an toàn, chi trả đầy đủ, kịp thời, kể cả ở một số ngân hàng
thương mại cổ phần yếu kém phải cơ cấu lại. Hệ thống ngân hàng đã tích cực thực

hiện các giải pháp đồng bộ để kiềm chế nợ xấu gia tăng và xử lý nợ xấu. Nhờ đó,
nợ xấu của các tổ chức tín dụng đã từng bước được xử lý, chất lượng hoạt động
của các tổ chức tín dụng được nâng lên. Các giải pháp xử lý nợ xấu đã được ngành
Ngân hàng triển khai quyết liệt, nợ xấu tiếp tục được xử lý. Hệ thống ngân hàng đã
tích cực thực hiện các giải pháp đồng bộ để kiềm chế nợ xấu gia tăng và xử lý nợ
xấu. Nhờ đó, nợ xấu của các tổ chức tín dụng đã từng bước được xử lý, chất
lượng hoạt động của các tổ chức tín dụng được nâng lên. Về xử lý nợ xấu, sau ba
năm thực hiện (2012-2014), tổng các khoản nợ xấu được xử lý ước đạt 311,1
17
nghìn tỷ đồng, tương đương 67% tổng số nợ xấu ước tính tại thời điểm tháng
9/2012. Tính đến 31/12/2014, công ty quản lý tài sản của các tổ chức tín dụng
Việt Nam (VAMC) đã mua trên 137 nghìn tỷ đồng nợ xấu với giá mua nợ trên
111 nghìn tỷ đồng. Đến cuối tháng 12/2014, tỷ lệ nợ xấu chiếm 3,25% tổng dư nợ
(cuối tháng 12/2013, tỷ lệ nợ xấu là 3,61%).
- Chính sách tiền tệ đã có sự phối hợp chặt chẽ với các chính sách kinh tế vĩ mô
khác, đặc biệt là phối hợp với chính sách tài khóa. Vai trò của việc phối hợp giữa
chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ là rất quan trọng trong thực hiện mục
tiêu kiềm chế lạm phát và tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam. Ngân hàng Nhà nước
đã phối hợp với Bộ Tài chính để “đóng/mở” nhịp nhàng hai “van” (đầu tư công và
tín dụng ngân hàng) bơm tiền vào nền kinh tế. Đảm bảo mục tiêu kiểm soát lạm
phát, tăng tính ổn định kinh tế vĩ mô và hỗ trợ tăng trưởng kinh tế hợp lý.
2.2. Các công cụ được sử dụng trong điều hành chính sách tiền tệ năm 2014
Để đạt được kết quả nổi bật như trên, một phần là do ngân hàng Nhà nước đã điều
hành linh hoạt các công cụ chính sách tiền tệ, giúp kiềm chế lạm phát, ổn định giá trị đối
ngoại của đồng Việt Nam, tăng trưởng GDP và góp phần giải quyết an sinh xã hội, cụ thể
như sau:
2.2.1. Công cụ lãi suất và công cụ tái cấp vốn: sử dụng linh hoạt, phối hợp với
nhau
Để hỗ trợ thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, giải quyết việc làm và các vấn đề an sinh
xã hội khác, trong năm 2014, ngân hàng Nhà nước điều hành linh hoạt chính sách tiền tệ

theo hướng tập trung tháo gỡ các khó khăn về mở rộng tín dụng an toàn, đáp ứng nhu cầu
vốn vay hợp lý cho các đối tượng khách hàng, giảm các loại lãi suất,… Ngân hàng Nhà
nước đã thực hiện 2 lần cắt giảm lãi suất điều hành như sau:
Lần thứ nhất, thực hiện vào ngày 17-3-2014: lãi suất tái cấp vốn từ 7%/năm xuống
6,5%/năm; lãi suất tái chiết khấu từ 5%/năm xuống 4,5%/năm; lãi suất cho vay qua đêm
từ 8%/năm xuống 7,5%/năm; lãi suất tối đa áp dụng đối với tiền gửi không kỳ hạn và có
kỳ hạn dưới 1 tháng giảm từ 1,2%/năm xuống 1%/năm; lãi suất tối đa áp dụng đối với
tiền gửi có kỳ hạn từ 1 tháng đến dưới 6 tháng giảm từ 7%/năm xuống 6%/năm. Từ thời
18
điểm này, Ngân hàng Nhà nước không khống chế lãi suất tiền gửi có kỳ hạn từ 6 tháng
trở lên như trước đó mà các tổ chức tín dụng chủ động ấn định trên cơ sở cung - cầu vốn
thị trường. Lãi suất cho vay ngắn hạn 5 lĩnh vực ưu tiên giảm từ 9%/năm xuống 8%/năm.
Lãi suất (%/năm) Trước 17/03/2014 17/03/2014 29/10/2014
LS tái cấp vốn 7 6,5
LS tái chiết khấu 5 4,5
LS cho vay qua đêm 8 7,5
LS tiền gửi 1-6 tháng 7 6 5,5
LS cho vay ngắn hạn 5 LV ưu tiên 9 8 7
Lần thứ hai, thực hiện vào ngày 29-10-2014: Lãi suất tiền gửi tối đa bằng VND từ
mức 6%/năm xuống 5,5%/năm đối với tiền gửi có kỳ hạn từ 1 tháng đến dưới 6 tháng;
giảm lãi suất cho vay ngắn hạn tối đa các lĩnh vực ưu tiên từ mức 8%/năm xuống còn
7%/năm; giảm lãi suất tối đa đối với tiền gửi bằng USD từ mức 1%/năm xuống
0,75%/năm.
Thay đổi trong điều hành lãi suất năm 2014 của Ngân hàng Nhà nước đã tác động
tích cực đến cơ cấu tiền gửi theo kỳ hạn tại các ngân hàng thương mại. Nguồn vốn huy
động có kỳ hạn từ 12 tháng trở lên của các ngân hàng thương mại được gia tăng hơn.
Nhiều người lựa chọn gửi kỳ hạn tới 24 và 36 tháng vì dự báo lãi suất sẽ tiếp tục giảm
trong năm 2015. Lãi suất huy động kỳ hạn dài chênh lệch kỳ hạn ngắn từ 1,6% -
2,6%/năm, đường cong lãi suất trở về đúng với bản chất vốn có của nó.
Xét riêng diễn biến lãi suất bình quân của các ngân hàng thương mại nhà nước và ngân

hàng thương mại nhà nước đã cổ phần hóa, khối này chiếm trên 50% thị phần huy động
vốn và cho vay trong năm 2014 thì có thể thấy, lãi suất cho vay đã giảm tới 3%, lãi suất
huy động vốn cả 2 kỳ hạn đều giảm 1%. So sánh thời điểm hiện nay thì cả lãi suất tiền
19
gửi và lãi suất cho vay nội tệ của các tổ chức tín dụng đều giảm về mức thấp hơn mặt
bằng lãi suất cách đây 10 năm.
Nhìn chung, toàn bộ thị trường đến cuối tháng 12-2014, lãi suất giảm từ 1,5% -
2% so với cuối năm 2013, nhưng người dân vẫn gửi tiền vào hệ thống ngân hàng thương
mại. Tính đến hết năm 2014, ước tính tổng phương tiện thanh toán tăng 16%, huy động
vốn tăng 15,5% so với cuối năm 2013; trong đó huy động vốn VND tăng 16,5%, chủ yếu
ở khu vực dân cư; vốn huy động ngoại tệ tăng 8,2%. Thanh khoản của các tổ chức tín
dụng được bảo đảm và dư thừa.
Nguyên nhân chủ yếu là do điều hành chính sách tiền tệ bảo đảm cho người gửi
tiền có lãi suất thực dương. Lãi suất tiền gửi nội tệ bình quân lên tới 6% - 8%/năm, trong
đó chỉ số CPI chỉ từ 2,08% - 2,2%, do đó người gửi tiền vẫn có thu nhập thực tế từ lãi
suất khoảng 4% - 5,8%. Đầu tư vào vàng, ngoại tệ, chứng khoán,… đều bị thua lỗ; đầu tư
vào bất động sản có nhiều rủi ro; bỏ vốn ra kinh doanh thì vẫn gặp nhiều khó khăn do cầu
của nền kinh tế yếu. Bên cạnh đó, cơ cấu lại các ngân hàng thương mại đã đạt được
những kết quả quan trọng, nên người dân tin tưởng gửi tiền vào hệ thống tổ chức tín dụng
ở Việt Nam. Ngân hàng Nhà nước thực hiện quyết liệt đề án tái cơ cấu, kiểm soát chặt
chẽ hoạt động của hệ thống ngân hàng. Nếu nhìn vào động thái diễn biến lãi suất điều
hành của Ngân hàng Nhà nước kể từ giữa năm 2013 đến nay, rõ ràng là chính sách tiền tệ
đang theo hướng nới lỏng, song thực tế thì tổng phương tiện thanh toán và dư nợ tín dụng
của năm 2014 chỉ tăng theo dự kiến.
Về hoạt động tín dụng, đến hết năm 2014, tổng dư nợ cho vay của nền kinh tế tăng
khoảng 13% so với cuối năm 2013. Đó là do Ngân hàng Nhà nước tăng cường các hoạt
động thanh tra, giám sát, áp dụng các quy định mới về tỷ lệ an toàn và phân loại nợ, các
tổ chức tín dụng thực hiện nghiêm túc các quy định về cho vay Bên cạnh đó, sử dụng
các gói hỗ trợ tín dụng như cho vay hỗ trợ mua nhà ở xã hội với công nhân viên chức có
thu nhập thấp với lãi suất 6%/năm (2013), cho vay hỗ trợ phát triển nông nghiệp nông

thôn,…
20
Hình 2.3: Hệ thống lãi suất điều hành của ngân hàng Nhà nước 2012-2014
2.2.2. Công cụ tỷ giá hối đoái
Những diễn biến thuận lợi trong cán cân thanh toán và tác động tích cực của các
chính sách chống đô la hóa, cung ngoại tệ trong nền kinh tế đã vượt xa cầu ngoại tệ. Để
duy trì mục tiêu giữ ổn định tỷ giá. Ngay từ đầu năm 2014, ngân hàng Nhà nước đã có
những chủ trương và biện pháp để điều chỉnh tỷ giá sẽ không quá 2%. Khi tỷ giá trên thị
trường biến động do những nguyên nhân khách quan tác động đến tâm lý thị trường,
chẳng hạn như tình hình biển Đông diễn ra vào cuối tháng 5 đầu tháng 6 trên thị trường
lại xuất hiện kỳ vọng sẽ điều chỉnh tỷ giá. Trước tình hình này, trong bối cảnh lạm phát
đang được kiểm soát ở mức thấp, ngân hàng Nhà nước đã chủ động điều chỉnh tăng tỷ giá
để can thiệp và bình ổn thị trường ngoại tệ, đồng thời góp phần hỗ trợ xuất khẩu trong 6
tháng cuối năm, qua đó hỗ trợ tăng trưởng kinh tế theo mục tiêu đề ra. Sau khi điều chỉnh
tăng 1% tỷ giá bình quân thị trường liên ngân hàng vào ngày 19/6/2014, tỷ giá giao dịch
của các ngân hàng thương mại dần ổn định ở mặt bằng mới. Tính đến 12/12/2014, tỷ giá
VND/USD liên ngân hàng là 21.126 đồng, không thay đổi kể từ ngày 19/6/2014, thấp
21
hơn 0,6% so với trần tỷ giá. Thanh khoản thị trường ngoại hối khá tốt, các nhu cầu ngoại
tệ hợp pháp của tổ chức và cá nhân đều được tổ chức tín dụng đáp ứng đầy đủ, kịp thời.
Bên cạnh đó, diễn biến thị trường vàng tương đối ổn định, giá vàng trong nước
dao động phù hợp với giá vàng trên thị trường quốc tế xoay quanh mức 36 triệu
đồng/lượng và có xu hướng giảm tới mốc 35 triệu đồng/lượng. Ngân hàng Nhà nước
không phải tổ chức đấu thầu bán vàng miếng, nhờ đó hạn chế việc sử dụng ngoại tệ của
quỹ bình ổn tỷ giá và giá vàng để nhập khẩu vàng quốc tế. Điều này, góp phần duy trì sự
ổn định của tỷ giá và thị trường ngoại hối, tạo thuận lợi cho việc thu mua ngoại tệ tăng dự
trữ ngoại hối Nhà nước. Tính đến cuối quý II/2014, ngân hàng Nhà nước đã đưa một
lượng lớn tiền ra để mua ngoại tệ tăng dự trữ ngoại hối, đưa dự trữ ngoại hối lên mức kỷ
lục vào khoảng 35 tỷ USD.
Hình 2.4: Diễn biến tỷ giá năm 2014(VND/USD)

2.2.3. Công cụ thị trường mở
Để góp phần thực hiện kiềm chế lạm phát, ngân hàng Nhà nước cũng đã kịp thời
rút bớt tiền về thông qua hoạt động phát hành tín phiếu ngân hàng Nhà nước trong suốt
giai đoạn này. Tính từ đầu năm đến nay, giá trị tín phiếu phát hành chiếm tỷ trọng 89% và
22
giá trị cho vay qua mua giấy tờ có giá chiếm 11% tổng khối lượng mà ngân hàng Nhà
nước can thiệp vào thị trường tiền tệ. Tỷ lệ này trong cùng kỳ năm 2013 tương ứng ở
mức 60% và 40% và trong cùng kỳ năm 2012 ở mức 21% và 79%.
Từ ngày 01-5/12, đối với nghiệp vụ phát hành tín phiếu, tổng giá trị tín phiếu
trúng thầu là 23.256 tỷ đồng (tăng 44% so với tuần trước), trong đó có 8.430 tỷ đồng tín
phiếu kỳ hạn 28 ngày, 6.477 tỷ đồng tín phiếu kỳ hạn 56 ngày, 228 tỷ đồng tín phiếu kỳ
hạn 91 ngày và 8.121 tỷ đồng tín phiếu kỳ hạn 182 ngày.
Như vậy kể từ đầu năm đến nay, ngân hàng Nhà nước đã đấu thầu thành công tổng cộng
870.484 tỷ đồng tín phiếu, trong đó có 697.487 tỷ đồng tín phiếu đã đáo hạn. Hiện còn
172.997 tỷ đồng tín phiếu chưa đáo hạn, trong đó tín phiếu kỳ hạn 28 ngày, 56 ngày, 84
ngày, 91 ngày và 182 ngày lần lượt là 21.153 tỷ đồng, 28.665 tỷ đồng, 3.670 tỷ đồng,
111.388 tỷ đồng và 8.121 tỷ đồng .
2.2.4. Công cụ dự trữ bắt buộc
Có thể nói, dự trữ bắt buộc là một trong những công cụ được sử dụng rất linh hoạt
từ năm 2007-2010 để ngăn ngừa sự tăng trưởng tín dụng quá nóng và kiềm chế lạm phát
tuy nhiên từ năm 2011 tỷ lệ dự trữ bắt buộc dần bị lãng quên. Ngân hàng nhà nước vẫn cố
định tỷ lệ dự trữ bắt buộc theoquy định trong Quyết định 581/2003/QĐ – NHNN và được
sửa đổi bổ sung theo Quyết định 1130/2005/QĐ – NHNN. Điều này có thể được lý giải là
do chính sách tiền tệ trong năm 2014 được vận dụng theo hướng linh hoạt, thích ứng kịp
thời với sự biến động của thị trường để giúp kiềm chế lạm phát, tăng trưởng kinh tế. Do
đó, không nhất thiết phải vận dụng tất cả các công cụ trong quá trình điều hành mà có thể
phối hợp một vài công cụ giúp đem lại sự linh hoạt trong chính sách tiền tệ.
2.3. Định hướng Chính sách tiền tệ năm 2015
Trên cơ sở bám sát mục tiêu của Quốc hội tại Nghị quyết số 77/2014/QH13 ngày
10/11/2014 về kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội năm 2015 và kết quả đạt được trong

điều hành năm 2014. ngân hàng Nhà nước xác định mục tiêu và các giải pháp lớn về điều
hành chính sách tiền tệ năm 2015 như sau:
Thứ 1, ngân hàng Nhà nước điều hành chủ động và linh hoạt các công cụ chính
sách tiền tệ nhằm kiểm soát lạm phát theo mục tiêu (dưới 5%), không chủ quan với lạm
23
phát, ổn định kinh tế vĩ mô và hỗ trợ tăng trưởng kinh tế ở mức hợp lý (6,2%), đảm bảo
an toàn thanh khoản của các tổ chức tín dụng và nền kinh tế.
Thứ 2, điều hành lãi suất và tỷ giá phù hợp với diễn biến kinh tế vĩ mô, tiền tệ, đặc
biệt là diễn biến của lạm phát, bảo đảm giá trị đồng Việt Nam, tiếp tục khắc phục tình
trạng đô la hóa, vàng hóa trong nền kinh tế. Cụ thể như sau:
- Phấn đấu tiếp tục giảm mặt bằng lãi suất cho vay trung, dài hạn thêm từ 1%/năm
đến 1,5%/năm, hỗ trợ thị trường tài chính trong huy động vốn cho đầu tư phát
triển.
- Định hướng tổng phương tiện thanh toán tăng khoảng 16 - 18%, tín dụng tăng
khoảng 13 - 15%, có điều chỉnh phù hợp với diễn biến, tình hình thực tế; ổn định
tỷ giá (mức điều chỉnh không quá 2%), tỷ giá trong năm 2015 sẽ được giữ vững
trong biên độ 2%.
Thứ 3, thực hiện các giải pháp điều hành tín dụng theo hướng mở rộng tín dụng đi
đôi với kiểm soát chất lượng tín dụng; tập trung tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp
trong việc tiếp cận nguồn vốn tín dụng phục vụ phát triển sản xuất kinh doanh; tiếp tục
triển khai các chương trình gắn kết tín dụng ngân hàng với chính sách ngành kinh tế,
chuyển dịch cơ cấu tín dụng theo hướng tập trung vốn cho vay đối với các lĩnh vực ưu
tiên theo chủ trương của Chính phủ. Cụ thể: dòng vốn tín dụng sẽ được ưu tiên tập trung
vào những lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn, xuất khẩu, công nghiệp hỗ trợ, doanh nghiệp
nhỏ và vừa, doanh nghiệp ứng dụng công nghệ cao. Ngân hàng Nhà nước cũng sẵn sàng
với kế hoạch tăng trưởng tín dụng có thể cao trên 15%, thay vì 13 - 15% như đã dự liệu.
Đối với cho vay ngoại tệ, Ngân hàng Nhà nước thực hiện chính sách cho vay bằng ngoại
tệ đảm bảo phù hợp với chủ trương của Chính phủ về hạn chế đô la hóa trong nền kinh tế,
góp phần ổn định tỷ giá và thị trường ngoại tệ, hỗ trợ cho các doanh nghiệp xuất khẩu,
doanh nghiệp có nguồn thu ngoại tệ thực hiện đến hết năm 2015. Ngân hàng Nhà nước sẽ

tiếp tục triển khai có hiệu quả các chương trình, chính sách tín dụng ngành, lĩnh vực như
hỗ trợ vốn kịp thời cho đề án tái cơ cấu ngành nông nghiệp; chương trình cho vay đối với
các mô hình liên kết trong chuỗi sản xuất và tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp; chính sách
tín dụng phục vụ đánh bắt xa bờ; cho vay đối với chăn nuôi và thủy sản; tín dụng đối với
24
người nuôi tôm và cá tra; tín dụng phục vụ kinh doanh, xuất khẩu, tạm trữ lúa gạo; giảm
tổn thất sau thu hoạch đối với lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn, chính sách tái canh cây
cà phê; đẩy mạnh triển khai chương trình cho vay hỗ trợ nhà ở theo Nghị quyết số
02/NQ-CP ngày 7/1/2013 và Nghị quyết số 61/NQ-CP ngày 21/8/2014 của Chính phủ;
chương trình liên kết 4 nhà trong lĩnh vực xây dựng nhằm góp phần tháo gỡ khó khăn
cho doanh nghiệp; khuyến khích doanh nghiệp tham gia vào sản xuất nông nghiệp và
phát triển nông thôn.
Thứ 4, đẩy nhanh tiến độ xử lý nợ xấu gắn với cơ cấu lại các tổ chức tín dụng,
riêng mục tiêu đưa nợ xấu về mức dưới 3% được cho là vẫn còn khó khăn do vấp phải
rào cản về khuôn khổ pháp lý liên quan đến xử lý nợ. Bởi vậy, cơ chế để xử lý nợ xấu sẽ
được ngân hàng Nhà nước hoàn thiện ngay trong năm nay. Đảm bảo thực hiện đúng lộ
trình của đề án cơ cấu lại hệ thống các tổ chức tín dụng giai đoạn 2011-2015 đã được Thủ
tướng Chính phủ phê duyệt.
Thứ 5, phát huy những kết quả đã đạt được trong quản lý và ổn định thị trường
vàng, chủ động phối hợp với các Bộ, ngành đẩy mạnh việc triển khai đầy đủ, có hiệu quả
các nội dung của Nghị định số 24/2012/NĐ-CP ngày 3/4/2012 của Chính phủ.
Thứ 6, nâng cao chất lượng thống kê, dự báo phục vụ cho hoạch định và điều hành
chính sách tiền tệ; trong đó phối hợp có hiệu quả với Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Tài
chính, Bộ Công thương trong nghiên cứu, đề xuất, triển khai, thực hiện, giám sát và đánh
giá các chính sách kinh tế vĩ mô theo Quy chế số 9087/BKHĐT-NHNN-BTC-BCT ngày
02/12/2014 về phối hợp trong quản lý và điều hành kinh tế vĩ mô.
Thứ 7, tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát thị trường tiền tệ và hoạt
động ngân hàng, đảm bảo an toàn hoạt động hệ thống các tổ chức tín dụng.
Thứ 8, tăng cường phối hợp với các chính sách vĩ mô khác, đặt biệt là việc phối
hợp nhịp nhàng với chính sách tài khóa.

25
CHƯƠNG 3
ĐIỀU HÀNH CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ CỦA VIỆT NAM SO VỚI
CÁC NƯỚC TRÊN THẾ GIỚI
3.1. Điều hành chính sách tiền tệ của Việt Nam so với các nước trên thế giới
Phần này sẽ liên hệ giữa điều hành chính sách tiền tệ của ngân hàng Nhà nước
Việt Nam với ngân hàng trung ương các nước khác trên thế giới, từ đó thấy được những
nét tương đồng trong cơ chế điều hành, cũng như những điểm tiến bộ trong cơ chế điều
hành của các nước khác trong khu vực để Việt Nam có thể học hỏi kinh nghiệm trong
điều hành chính sách tiền tệ của mình.
3.1.1. Ngân hàng trung ương Trung Quốc (PBC)
Hiện tại, theo Luật Ngân hàng nhân dân Trung Quốc thì chức năng nhiệm vụ của
PBC là: (i) Hoạch định chính và thực hiện chính sách tiền tệ; (ii) Phát hành đồng Nhân
dân tệ (NDT) và giám sát sự lưu thông tiền tệ; (iii) Giám sát hoạt động thị trường liên
ngân hàng và thị trường trái phiếu ngân hàng; (iv) Giám sát ngoại hối và giám sát thị
trường ngoại tệ liên ngân hàng. Mục tiêu hoạt động, mục tiêu trung gian và mục tiêu cuối
cùng của PBC cũng thay đổi. Tùy thuộc vào từng giai đoạn khác nhau của nền kinh tế mà
PBC đặt ra cho mình các mục tiêu khác nhau.
Cũng giống như ngân hàng Nhà nước Việt Nam, PBC sử dụng các công cụ: (1) Dự
trữ bắt buộc, (2) Thị trường mở; (3) Tái chiết khấu; (4) Tái cấp vốn; (5) Lãi suất; (6) Tỷ
giá để thực hiện chính sách tiền tệ. Trong quá trình chuyển đổi nền kinh tế, các công cụ
chính sách tiền tệ cũng được chuyển dần từ trực tiếp sang gián tiếp.
Thứ nhất, là công cụ dự trữ bắt buộc: hiện tại, PBC sử dụng hai tài khoản tiền gửi
cho các tổ chức tín dụng: (1) tài khoản dự trữ bắt buộc, yêu cầu hàng ngày các tổ chức tín
dụng phải duy trì đúng quy định, hiện được trả lãi. (2) Tài khoản dự trữ bắt buộc vượt.
Ngoài ra, PBC còn ban hành chính sách mới về áp dụng tỷ lệ dự trữ bắt buộc phạt
đối với từng tổ chức tín dụng tăng trưởng tín dụng cao. Trước đây, PBC đã từng áp dụng
biện pháp dự trữ bắt buộc phạt trong trường hợp các tổ chức tín dụng không đảm bảo tỷ
lệ vốn tối thiểu hoặc có tỷ lệ nợ xấu cao hơn mức cho phép. Tùy vào từng mục tiêu cụ

×