Trường ĐHSPHN 2 Khóa luận tốt nghiệp đại học
Vũ Thị Thắm Lớp K35B - Sinh
1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Thế giới đã và đang bước sang thế kỷ XXI - thế kỷ của nền kinh tế tri
thức cùng với sự phát triển mạnh mẽ của khoa học - kỹ thuật. Cứ khoảng 4
đến 5 năm khối lượng tri thức nhân loại lại tăng lên gấp đôi lần hoặc hơn thế
nữa là cùng với sự phát triển như vũ bão của các ngành khoa học và công
nghệ mới như: công nghệ thông tin, công nghệ điện tử, công nghệ nano,…đòi
hỏi con người phải có tri thức, phải có đội ngũ chuyên gia, các kỹ thuật viên
có đủ trình độ và năng lực. Trong khi đó xét về mặt khoa học và công nghệ
Việt Nam thì nước ta đi sau rất nhiều các nước trên thế giới. Còn về mặt kinh
tế thì được xếp vào các nước nghèo có thu nhập thấp. “Việt Nam không thiếu
những người tài giỏi và đầy khả năng sáng tạo” đó là sự thật đã được minh
chứng. Hằng năm, học sinh Việt Nam vẫn đạt nhiều giải cao trong các cuộc
thi Olympic quốc tế. Những cuộc thi sáng tạo khoa học kỹ thuật các cấp vẫn
luôn có những sản phẩm, đề tài hay, đổi mới, mang tính ứng dụng cao. Ngay
cả nông dân, công nhân vẫn có những sáng chế độc đáo phục vụ cho công
việc hằng ngày, giúp cải thiện năng suất lao động….Có nghĩa là, xét trên tổng
thể, Việt Nam có những yếu tố tiềm ẩn về khả năng phát triển trí tuệ. Thế
nhưng nước ta vẫn lẹt đẹt đi sau nhiều nước trong khu vực trên lĩnh vực sáng
tạo và đổi mới. Vậy câu hỏi được đặt ra là: làm thế nào để nước ta tiến kịp các
nước trên thế giới? Chỉ có tri thức mới giúp chúng ta thực hiện được điều này.
Vậy làm sao để có tri thức? Để có được tri thức không còn cách nào khác là
ngay từ hôm nay chúng ta phải đầu tư cho giáo dục, đầu tư cho thế hệ trẻ -
chủ nhân của tương lai đất nước.
Bên cạnh đó thế hệ trẻ - lứa tuổi học sinh THPT là một trong những
giai đoạn có những biến đổi sâu sắc về mặt tâm sinh lý. Các em vẫn chưa
thoát khỏi sự cám dỗ, hiếu động xong lại muốn được mọi người xem mình là
Trường ĐHSPHN 2 Khóa luận tốt nghiệp đại học
Vũ Thị Thắm Lớp K35B - Sinh
2
người lớn, yêu cầu cao hơn trong công việc và trong cách suy nghĩ. Do đó học
sinh THPT ở độ tuổi này các em không chỉ nhận biết được cái tôi của mình
trong hiện tại mà còn nhận thức được vị trí của mình trong tương lai. Có thể
hiểu rõ được những phẩm chất nhân cách bộc lộ rõ và những phẩm chất phức
tạp, biểu hiện những quan hệ nhiều mặt của nhân cách do đó mà các em
trưởng thành, khôn ngoan hơn và không ít em bị dụ dỗ rồi rơi vào những cạm
bẫy của xã hội. Vậy những biến đổi và những lệch lạc ở giai đoạn này ảnh
hưởng đến hoạt động trí tuệ của học sinh như thế nào? Các em có những suy
nghĩ và cảm xúc ra sao? Do tính cấp thiết của việc đánh giá đúng trình độ trí
tuệ của người học nhằm tìm ra phương pháp giáo dục một cách có hiệu quả
nhất nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo những nhân tài trong tương lai,
em mạnh dạn đã chọn và tiến hành nghiên cứu đề tài: “Nghiên cứu mối tương
quan giữa các chỉ số năng lực trí tuệ cơ bản của học sinh trường Trung học
phổ thông Lê Xoay - Vĩnh Tường - Vĩnh Phúc”
2. Mục đích nghiên cứu
- Nghiên cứu về các chỉ số năng lực trí tuệ cơ bản thường có chỉ số thông
minh (IQ), chỉ số cảm xúc (EQ) và chỉ số vượt khó (AQ) của học sinh trường
THPT Lê Xoay - Vĩnh Tường - Vĩnh Phúc.
- Tìm hiểu mối tương quan giữa các chỉ số năng lực trí tuệ cơ bản của học
sinh trường THPT Lê Xoay - Vĩnh Tường - Vĩnh Phúc.
3. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Nghiên cứu IQ và mức trí tuệ của học sinh theo tuổi và giới tính.
- Nghiên cứu AQ, các chỉ số thành phần AQ và EQ của học sinh theo tuổi
và giới tính.
- Nghiên cứu mối tương quan giữa IQ với EQ, IQ với AQ và AQ với EQ.
Trường ĐHSPHN 2 Khóa luận tốt nghiệp đại học
Vũ Thị Thắm Lớp K35B - Sinh
3
4. Ý nghĩa khoa học thực tiễn của đề tài
- Kết quả nghiên cứu có tác động quan trọng đến việc thay đổi phương
pháp dạy học của giáo viên với các đối tượng học sinh khác nhau.
- Là cơ sở dữ liệu trong chiến lược phát triển con người chất lượng cao.
- Kết quả khảo sát giúp thay đổi nhận thức về cách tiếp cận dạy học tích
hợp các kiến thức về giá trị sống cho học sinh.
5. Đóng góp mới của đề tài
- Xác định thực trạng các chỉ số trí tuệ cơ bản của học sinh THPT.
- Tìm thấy mối tương quan giữa các chỉ số năng lực trí tuệ cơ bản của học
sinh trường THPT Lê Xoay - Vĩnh Tường - Vĩnh Phúc.
Trường ĐHSPHN 2 Khóa luận tốt nghiệp đại học
Vũ Thị Thắm Lớp K35B - Sinh
4
NỘI DUNG
CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. Trí tuệ
1.1.1. Lược sử nghiên cứu trí tuệ
1.1.1.1. Trên thế giới
Xuất phát từ tầm quan trọng của trí tuệ trong thực tiễn, nhiều tác giả đã
đi sâu vào nghiên cứu về trí tuệ, trong đó có các nghiên cứu về cơ sở sinh lý
thần kinh của hoạt động trí tuệ và các cách đo lường trí tuệ,…
F. J. Gall (TK XVIII), là người đầu tiên đưa ra quan điểm rằng có sự
định khu chức năng trong não. Ông đã đưa ra thuật ngữ “nói tướng học” và
cho rằng chức năng trí tuệ tập trung ở các vùng chuyên biệt của não nên có
thể đánh giá trí tuệ con người qua đường nét và đo sọ não người. Tuy nhiên
ông đã mắc phải sai lầm là đồng nhất giữa cấu tạo với chức năng của não.
Năm 1905, nhà tâm lí học người Pháp Alfred Binet đã đưa ra khái niệm
“tuổi trí khôn”, là đại lượng đầu tiên thể hiện ý tưởng đo lường trí tuệ trẻ em.
Ông cùng với bác sĩ T. Simon thực hiên một loạt các thực nghiệm nghiên cứu
năng lực trí tuệ của trẻ em ở những lứa tuổi khác nhau (3 đến 5 tuổi). Thang
đo lường trí tuệ Binet - Simon đã ra đời, đó là trắc nghiệm được tiêu chuẩn
hoá đầu tiên không chỉ về sự thống nhất hoá các bài tập và thủ tục thể hiện
chúng, mà cả về việc đánh giá các tài liệu thu được.
Năm 1912, nhà tâm lí học Đức V. Stern đã đưa ra khái niệm “hệ số
thông minh” xem nó như là chỉ số của nhịp độ phát triển trí tuệ, đặc trưng cho
một đứa trẻ nào đó. Hệ số này chỉ ra sự vượt lên trước hay chậm lại của tuổi
trí khôn so với tuổi thời gian.
Khi trào lưu phân tích nhân tố xuất hiện và thịnh hành trong nghiên cứu
trí tuệ, đã hình thành hai xu hướng lí luận điển hình, đặt cơ sở cho việc xây
dựng các trắc nghiệm: các mô hình trí tuệ hai thành phần và cấu trúc đa nhân
Trường ĐHSPHN 2 Khóa luận tốt nghiệp đại học
Vũ Thị Thắm Lớp K35B - Sinh
5
tố. Trong số trắc nghiệm dựa trên thuyết hai thành phần có trắc nghệm trí
tuệ nh R.Cattell. Ngày nay, các trắc nghiệm trí tuệ chủ yếu dựa trên mô hình
cấu trúc trí tuệ đa nhân tố. Ngoài ra còn phải kể đến các trắc nghiệm “khuôn
hình tiếp diễn” của nhà tâm lí học người Anh J.C.Raven, dựa trên quan điểm
của các nhà Ghestal về sự phát sinh tri giác và tư duy. Ông đã mô tả trắc
nghiệm này lần đầu tiên vào năm 1936. Phương pháp trắc nghiệm này của J.
C. Raven được gọi là trắc nghiệm phi ngôn ngữ về trí thông minh.
Năm 1914, nhà tâm lí học người Pháp Rơne Gille soạn thảo trắc
nghiệm “trí tuệ đa dạng” dựa trên cơ sở lí luận cấu trúc trí tuệ đa thành phần
và lí thuyết phát sinh trí tuệ.
Đã có rất nhiều phương pháp nghiên cứu trí tuệ được đề xuất vào năm
1939, phương pháp của D.Weschler - nhà tâm lí của Bệnh viện Tâm thần
Bellevne, giáo sư tâm lí học lâm sàng của trường Đại học Y khoa NewYork -
là phổ biến nhất. Năm 1949, ông đưa ra WIC (The Wechsler Intelligence
Scale for Children) dành cho trẻ em từ 5 đến 15 tuổi. Năm 1955, ông lại đưa
ra WAIS (The Wechsler Adult Intelligence Scale), là loại dành cho người từ
16 tuổi trở lên. Năm 1967 có thêm loại WPPSI (The Wechsler Pre-School and
Primary Scale of Intelligence) dành cho trẻ em từ 4 đến 6 tuổi rưỡi.
Năm 1995, Daniel Goleman trên cơ sở nghiên cứu mối quan hệ giữa IQ
với các yếu tố tư tưởng tạo thành tính cách của các nhà quản lí, đã kết luận sự
thành công của mỗi người không phải chủ yếu là do có chỉ số trí tuệ cao, mà
do các yếu tố tạo nên tính cách đó. Ông cho rằng, các cảm xúc chỉ đạo trí tuệ,
thậm chí nó còn lành mạnh hơn cả logic toán mà chúng ta vẫn thấy trong các
trắc nghiệm.
Cho đến nay vấn đề về năng lực trí tuệ không còn là vấn đề quá mới mẻ
nhưng con người vẫn chưa hiểu hết về nó, đó là lí do tại sao trí tuệ đã, đang
Trường ĐHSPHN 2 Khóa luận tốt nghiệp đại học
Vũ Thị Thắm Lớp K35B - Sinh
6
và sẽ thu hút rất nhiều sự quan tâm của các nhà khoa học, các nhà nghiên cứu
trong và ngoài nước.
1.1.1.2. Ở Việt Nam
Việc nghiên cứu trí tuệ ở Việt Nam được tiến hành trong vài chục năm
gần đây. Trước năm 1975, các công trình nghiên cứu trí tuệ của con người
chưa được quan tâm nhiều, chỉ có rất ít công trình do cán bộ ngành y tế
nghiên cứu để chẩn đoán trí tuệ của bệnh nhân tâm thần bệnh viện Bạch Mai
và bệnh viện nhi Thuỵ Điển (theo [15]). Từ cuối những năm 1980 đến nay, đã
có nhiều công trình nghiên cứu trí tuệ của học sinh Việt Nam. Một số tác giả
quan tâm đến bản chất và cấu trúc của trí tuệ . Kết quả nghiên cứu của các
công trình cho thấy, có thể sử dụng test trí tuệ để chẩn đoán khả năng hoạt
động trí tuệ của trẻ em Việt Nam.
Trần Trọng Thuỷ (1989) là một trong số các tác giả đầu tiên nghiên cứu
về trí tuệ của học sinh Việt Nam. Qua nghiên cứu, ông đã xác định chiều
hướng, cường độ, trình độ và chất lượng phát triển trí tuệ của học sinh. Tác
giả nhận thấy, sự phân bố học sinh Việt Nam theo IQ gần sự phân phối chuẩn,
có sự khác biệt giữa học sinh thành thị và học sinh nông thôn, có sự liên quan
giữa học lực và thành phần gia đình [14].
Trịnh Văn Bảo nhận thấy, có sự phù hợp giữa chỉ số IQ và nhận thức
trong quá trình học tập của học sinh. Trong đó, yếu tố di truyền là tiền đề, là
cơ sở của sự phát triển trí tuệ của học sinh [18].
Tạ Thuý Lan, Võ Văn Toàn nghiên cứu khả năng hoạt động trí tuệ của
học sinh bằng test Raven và điện não đồ. Nghiên cứu cho thấy, năng lực trí
tuệ của học sinh tăng dần theo tuổi và có mối tương quan thuận với kết quả
học tập. Ở đầu cấp tiểu học, điểm trí tuệ của học sinh thấp hơn so với điểm
chuẩn quốc tế, còn ở các lớp trên thì lại cao hơn. Điểm trí tuệ của học sinh Hà
Nội cao hơn so với học sinh Quy Nhơn cùng tuổi [9], [19].
Trường ĐHSPHN 2 Khóa luận tốt nghiệp đại học
Vũ Thị Thắm Lớp K35B - Sinh
7
Công trình nghiên cứu của Tạ Thuý Lan, Trần Thị Loan cho thấy, khả
năng hoạt động trí tuệ của học sinh tăng dần theo tuổi nhưng tốc độ tăng
không đều. Năng lực trí tuệ của học sinh nông thôn thấp hơn so với chuẩn và
so với học sinh Hà Nội cùng tuổi, còn học sinh Hà Nội lại có điểm trí tuệ cao
hơn so với chuẩn. Mức độ hoạt động trí tuệ giữa học sinh nam và học sinh nữ
không có sự khác biệt rõ, chứng tỏ hoạt động trí tuệ của học sinh không phụ
thuộc vào giới tính [11].
Nguyễn Thạc, Lê Văn Hồng (1993) đã nghiên cứu sự phát triển trí tuệ
của học sinh Hà Nội có độ tuổi từ 10-14. Kết quả cho thấy, sự phát triển trí
tuệ tăng theo lứa tuổi và có sự phân hoá từ 11 tuổi trở đi, trong đó trí tuệ của
nam cao hơn của nữ. Các tác giả còn đề cập đến ảnh hưởng của điều kiện
sống tới sự phát triển trí tuệ của học sinh [7].
Trần Thị Loan nghiên cứu sự phát triển trí tuệ của học sinh từ 6 đến 17
tuổi quận Cầu Giấy - Hà Nội. Kết quả cho thấy, quá trình phát triển trí tuệ của
học sinh diễn ra liên tục, tương đối đồng đều và không có sự khác biệt về giới
tính. Có rất nhiều công trình nghiên cứu về trí tuệ của nhiều tác giả khác nhau
trên đối tượng học sinh, sinh viên cũng cho kết quả tương tự [16], [17].
Tạ Thúy Lan và Mai Văn Hưng, nghiên cứu trí tuệ của học sinh ở
Thanh Hóa đã nhận thấy, năng lực trí tuệ của học sinh tăng dần theo tuổi và
có mối liên quan thuận với học lực [12].
Mai Văn Hưng (2003) nghiên cứu một số chỉ số thể lực và năng lực trí
tuệ của sinh viên ở một số trường đại học phía Bắc Việt Nam. Kết quả nghiên
cứu cho thấy, mối tương quan thuận không chặt chẽ giữa chỉ số trí tuệ và thể
lực [5]. Có rất nhiều công trình nghiên cứu về trí tuệ của nhiều tác giả khác
trên đối tượng học sinh, sinh viên cũng cho kết quả tương tự.
Trường ĐHSPHN 2 Khóa luận tốt nghiệp đại học
Vũ Thị Thắm Lớp K35B - Sinh
8
1.2. Chỉ số cảm xúc
Thuật ngữ “ trí tuệ cảm xúc” (Emotional Intelligence - EI) thường
dùng dưới hàm nghĩa nói về chỉ số cảm xúc (Emotional intellegence quotient
- EQ) của mỗi cá nhân. “Chỉ số cảm xúc (EQ) là một tập hợp các kỹ năng
cảm xúc mà một người sử dụng để vượt qua những trở ngại trong cuộc sống
hàng ngày” (Theo Multi - Health Systems, 2008). Nói một cách đơn giản, trí
tuệ cảm xúc chính là sự phán đoán dựa trên kinh nghiệm hoặc khả năng hòa
nhập với mọi người.
Trí tuệ cảm xúc mới được biết đến vào đầu những năm 90 của thế kỷ
XX nhưng việc nghiên cứu, ứng dụng trí tuệ cảm xúc vào cuộc sống đang thu
hút được sự quan tâm chú ý của nhiều người và đang ngày càng trở nên phổ
biến hơn. Đã không ít ý kiến cho rằng: “Chỉ số cảm xúc được coi là quan
trọng hơn IQ và AQ đối với sự thành bại của con người”. Nhà Tâm lý học
người Mỹ Daniel Goleman đã nhận định: “Trong những nhân tố quyết định sự
thành bại trong cuộc đời, IQ chiếm ít nhất là 20%, còn ngoài ra bị quy định
bởi các nhân tố khác”.
Howard Garden (1983), trong học thuyết đa trí tuệ của mình đã từng đề
cập đến loại trí tuệ về người khác (Interpersonal Intelligence), bao gồm các
năng lực nhận thức rõ ràng và đáp ứng lại các tâm trạng, khí chất, động cơ và
các nhu cầu của người khác một cách thích hợp. Người có trí tuệ loại này có
khả năng khích lệ và nâng đỡ người khác. Như vậy, mặc dù Gardener đã
không dùng thuật ngữ trí tuệ cảm xúc nhưng quan niệm của ông về trí tuệ của
mình và của người khác là sự thừa nhận tầm quan trọng của việc hiểu biết và
áp dụng có kỹ năng đời sống xúc cảm trong hoạt động thích ứng và trí tuệ.
Nhưng phải đến năm 1990, thuật ngữ trí tuệ cảm xúc mới thực sự xuất
hiện lần đầu tiên trong một bài báo của 2 tác giả người Mỹ: Peter Salovey và
John Mayer đã công bố một bài báo gây ấn tượng: “Trí thông minh cảm xúc”,
Trường ĐHSPHN 2 Khóa luận tốt nghiệp đại học
Vũ Thị Thắm Lớp K35B - Sinh
9
một bài tuyên bố có ảnh hưởng mạnh nhất đến lý thuyết trí thông minh cảm
xúc tại thời điểm đó. Hai ông cho rằng trí tuệ cảm xúc là khả năng làm chủ,
điều khiển, kiểm soát tình cảm, cảm xúc của mình và của người khác, và khả
năng sử dụng các thông tin này để dẫn dắt, định hướng cách suy nghĩ và hành
động của một cá nhân. Điều này minh chứng một nhu cầu cần phải tách biệt
các năng lực về trí thông minh cảm xúc khỏi các năng lực trí tuệ khác, các nét
nhân cách và nghiên cứu sâu về nó.
Sau một thời gian nghiên cứu Mayer và Salovery (1997) đã chính thức
định nghĩa trí tuệ cảm xúc: “Là khả năng nhận biết, bày tỏ xúc cảm, hòa xúc
cảm vào suy nghĩ, hiểu, suy luận với xúc cảm, điều khiển, kiểm soát xúc cảm
của mình và của người khác” [1], [2].
Năm 1995, Daniel Goleman, tâm lý gia và nhà báo người Mỹ, với
cuốn sách “Thông minh cảm xúc”, không đưa ra lý thuyết mới nhưng nhấn
mạnh vai trò của cảm xúc trong việc làm. Ông đã không ngần ngại khẳng định
vai trò của thông minh cảm xúc như yếu tố cấu thành của thành công trong
giao tiếp và thành công trong nghề nghiệp, đường đời. Ông dựa trên các công
trình của Salovey và Mayer để đưa ra bốn điều chính :
1+2: khả năng hiểu và điều khiển những cảm xúc của mình để hành
động.
3+4: khả năng hiểu các cảm xúc của người đối diện để phản ứng tốt và
điều khiển các quan hệ xã hội [3].
“Quan niệm”, những khẳng định và sự lạc quan của Goleman được báo
chí rầm rộ ủng hộ. Phải nói là vấn đề này, mở cửa cho một thị trường đầy lợi
nhuận: thị trường đào tạo kỹ năng cảm xúc để thành công. Những khẳng định
của Goleman lại rất là thích hợp với cảm tính và thị hiếu của dân tình.
Trường ĐHSPHN 2 Khóa luận tốt nghiệp đại học
Vũ Thị Thắm Lớp K35B - Sinh
10
1.2.1. Các công trình nghiên cứu chỉ số cảm xúc ở Việt Nam
Nghiên cứu về trí tuệ cảm xúc ở Việt Nam còn rất mới mẻ, nó chỉ thực
sự được nghiên cứu một cách bài bản, sâu hơn là trong đề tài cấp nhà nước
KX - 05 - 06 (2001- 2005): “Nghiên cứu sự phát triển các chỉ số trí tuệ (IQ,
CQ, EQ) của học sinh, sinh viên và lao động trẻ đáp ứng yêu cầu CNH, HĐH
đất nước” (2001- 2005) do PGS. TS.Trần Kiều làm chủ nhiệm. Công trình
nghiên cứu này chỉ ra rằng chỉ số cảm xúc chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố:
giới, ngành học, môi trường văn hóa nhà trường
Tiếp đó là những công trình nghiên cứu của tác giả Nguyễn Thị Dung
(2002) đã tiến hành đo đạc chỉ số cảm xúc của giáo viên tiểu học để xem IQ
hay EQ đóng vai trò quan trọng hơn trong công tác chủ nhiệm.
Năm 2004, tác giả Dương Thị Hoàng Yến của trường Cao Đẳng Sư
Phạm Hà Nội do PGS Trần Trọng Thủy chủ nhiệm đã sử dụng công cụ trắc
nghiệm để đo chỉ số cảm xúc của sinh viên hai trường Đại học Sư phạm Hà
Nội và Đại học Sư phạm Thái Nguyên [4].
Năm 2005, đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ của trường Đại học Sư
phạm Hà Nội do PGS.Trần Trọng Thủy chủ nghiệm đã sử dụng công cụ trắc
nghiệm để đo chỉ số cảm xúc của sinh viên hai trường Đại học Sư phạm Hà
Nội và Đại học Sư phạm Thái Nguyên [13].
1.3. Chỉ số vượt khó
Chỉ số vượt khó (Adversity Quotient - AQ) là chỉ số đo khả năng đối
xử trên quản lý nghịch cảnh, khó khăn, stress, gọi tắt là chỉ số vượt khó. Bên
cạnh những chỉ số quen thuộc như IQ (Intelligence Quotient - chỉ số thông
minh) thể hiện trí thông minh “thô” nhưng nhiều nhà khoa học cho rằng, nó
chỉ là yếu tố nhỏ tạo nên thành công [20] .
IQ, theo quan niệm phổ thông, thường được mặc định song hành với
khả năng tư duy. Tuy nhiên, sau này, nhà tâm lí học Howard Gardner đã mở
Trường ĐHSPHN 2 Khóa luận tốt nghiệp đại học
Vũ Thị Thắm Lớp K35B - Sinh
11
rộng khái niệm IQ, khi chứng minh sự tồn tại của 8 dạng thức thông minh
khác nhau và các yếu tố này đều ảnh hưởng đến thành công của một người.
Năm 1997, nhà tâm lí học người Mỹ Paul Stoltz [21] lần đầu tiên đưa
ra một khái niệm mới: AQ (Adversity Quotient) trong cuốn sách “Adversity
Quotient: Turning Obstacler into Opportunities”. AQ: Xoay chuyển trở ngại
thành cơ hội). Trong đó, ông định nghĩa AQ là đại lượng đo khả năng đối diện
và xoay sở của một người trước những thay đổi, áp lực và các tình huống khó
khăn.
Trong cuốn sách xuất bản sau đó, Adversity Quotient @ work, bàn kĩ
hơn về vấn đề tương tự, ông giải thích cụ thể hơn cách thức áp dụng khái
niệm AQ để có thể mang lại lợi ích.
Tác giả khẳng định, AQ giải thích tại sao một số người không hẳn đã
thông minh hoặc được giáo dục tốt, đồng thời thiếu hiểu biết xã hội mà lại
thành công trong khi nhiều người khác thất bại.
Được viết ra trên cơ sở tích lũy kinh nghiệm thực tế từ nhiều nghiên
cứu với hàng ngàn giám đốc điều hành và nhân viên trong hàng trăm lĩnh vực
kinh doanh đa dạng, cuốn sách này đã nhanh chóng trở thành handbook-bí
quyết thành công của nhiều tập đoàn, tổ chức. Nó cũng được sử dụng trong
những bài tập dành cho những vận động viên thể thao Olympic, những trường
học, những tập đoàn, doanh nghiệp dùng để đào tạo nhân viên.
Paul Stoltz đã phát triển khá nhiều ý tưởng của mình từ những nhà tâm
lí học đi trước, như Abrecham Maslow, từ Martin Seligman, tác giả của sách
“Học lạc quan”, và Stephen R.Covey, tác giả của “Tồn tại thói quen của
người thành đạt”.
Nhiều nhà tâm lí đã ủng hộ rất nhiệt tình cho thuyết AQ này. Điều này
góp phần khẳng định việc lượng hóa những phẩm chất tâm lí bậc cao là một
điều có thể làm được như đã từng làm với trí tuệ (IQ) và cảm xúc (EQ).
Trường ĐHSPHN 2 Khóa luận tốt nghiệp đại học
Vũ Thị Thắm Lớp K35B - Sinh
12
Paul Stoltz cho rằng, những người có AQ thấp thường dễ xúc động và
dễ buông xuôi trước nhiều vấn đề trong cuộc sống. Trong khi, những người
có AQ cao sẽ ít khi đầu hàng và dễ dàng trở thành lãnh đạo trong tương lai.
Ông phân tích ra 3 dạng người dựa trên cách thức họ đối diện với
những khó khăn thử thách trong cuộc đời. Đó là: Quitter, Camper và Climber.
- Quitter: Là những người dễ buông xuôi. Họ dễ dàng nản chí, dễ
dàng từ bỏ việc theo đuổi một công việc, một dự định và cao hơn là một mục
đích sống. Và, kết quả là thường giữa đường đứt gánh, nhận thất bại hoặc kết
quả không như ý.
- Camper: Là những người chịu khó, làm việc chăm chỉ, có ý thức
phấn đấu rèn luyện bản thân, và sẽ làm nhiều thứ để đạt tới một mức độ nhất
định nào đó trong cuộc sống. Tuy nhiên, họ dễ hài lòng và thỏa hiệp với bản
thân để thấy như vậy là đủ.
- Climber: Là những người có sự kiên định và hoài bão lớn. Họ luôn
học hỏi, rèn luyện bản thân, nỗ lực cố gắng để đạt tới những mức độ tốt nhất
có thể trong khả năng. Họ cũng thường là túyp người không chấp nhận một
tình thế sẵn có, và tìm cách xoay sở để cải thiện nó tốt hơn.
Theo đó, ông coi chỉ số đo khả năng vượt qua những điều kiện khó
khăn là yếu tố lớn nhất trong những phẩm chất tạo nên sự thành công cho con
người.
Theo Paul Stoltz, AQ có thể đo mức độ hoài bão, nỗ lực, sáng tạo, năng
lượng, sức khỏe lý tính, xúc cảm và hạnh phúc của một người. Nó cũng chính
là một cảnh báo về 4 mức độ cao thấp của bản lĩnh sống :
- Đối diện khó khăn
- Xoay chuyển cục diện
- Vượt lên nghịch cảnh
- Tìm được lối ra
Trường ĐHSPHN 2 Khóa luận tốt nghiệp đại học
Vũ Thị Thắm Lớp K35B - Sinh
13
Theo quan niệm của nhiều người, IQ và EQ là những khái niệm « fix »,
có nghĩa là phần nhiều thuộc về thiên phú, khó có khả năng thay đổi. Trong
khi đó, AQ là đại lượng có thể rèn luyện để cải thiện và nâng cấp.
AQ gồm 4 chỉ số thành phần : C, O, R, E
- Chỉ số C (Control): Kiểm soát, điều khiển. Những người có AQ cao
có thể kiểm soát được tốt các tình huống xảy ra hơn là người có AQ thấp. Ngay
cả trong tình huống xuất hiện quá khả năng của họ thì những người có AQ cao
vẫn có thể tìm thấy giải pháp. Những người có AQ thấp thì ít hoặc không kiểm
soát tốt. Đo chỉ số C để xác định mức độ kiểm soát của một người khi họ vượt
qua trở ngại. Đó là khả năng phục hồi về thể chất và tinh thần.
- Chỉ số O (Ownership): Quyền sở hữu. Những người có AQ cao
thường có trách nhiệm giữ mình để đối phó với bất kì tình huống nào do họ
gây ra. Những người có AQ thấp thường cảm thấy cô đơn và cần giúp đỡ. Đo
chỉ số O để xác định mức độ chịu trách nhiệm và khả năng xử lí tình huống,
hành động.
- Chỉ số R (Reach): Phạm vi hoạt động. Những người có AQ cao chấp
nhận thất bại và thách thức trong mọi thời điểm, không cho chúng ảnh hưởng
đến công việc và cuộc sống của họ. Những người có AQ thấp thường bị rơi
vào trạng thái thê thảm, bị thất bại. Đo chỉ số R để xác định mức độ, phạm vi
tiếp cận sự kiện,sức chịu đựng các cấp độ căng thẳng.
- Chỉ số E (Endurance): Khả năng chịu đựng, tính nhẫn nại. Những
người có AQ cao luôn đối diện với khó khăn với thái độ lạc quan và giữ hi
vọng. Những người có AQ thấp xem trở ngại như là khó khăn không giải
quyết nổi. Đo chỉ số E để xác định thời gian chịu đựng các sự kiện, là thước
đo về sự lạc quan, hi vọng.
Chỉ số AQ mới được đưa ra cách đây hơn 10 năm nên ở Việt Nam chỉ
số AQ còn ít được nghiên cứu.
Trường ĐHSPHN 2 Khóa luận tốt nghiệp đại học
Vũ Thị Thắm Lớp K35B - Sinh
14
CHƯƠNG 2. ĐỐI TƯỢNG, THỜI GIAN, ĐỊA ĐIỂM
VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Đối tượng nghiên cứu
Học sinh có độ tuổi từ 15 đến 17 (từ lớp 10 đến lớp 12). Các đối tượng
chúng tôi nghiên cứu có sức khỏe, trạng thái tâm lý bình thường. Tuổi của các
đối tượng được tính theo quy ước chung của các tài liệu Y tế thế giới và Việt
Nam. Đó là cách tính tuổi quy về tháng hay năm gần nhất, nghĩa là một độ
tuổi nào đó bao gồm những cá thể có số năm trước hoặc sau 6 tháng.
Tổng số đối tượng nghiên cứu là 304 học sinh, trong đó có 147 học
sinh nam và 157 học sinh nữ.
Sự phân bố đối tượng nghiên cứu có thể thấy ở bảng 2.1.
Bảng 2.1. Phân bố đối tượng nghiên cứu theo tuổi và giới tính
Tuổi Tổng số Nam Nữ
15 100 47 53
16 101 51 50
17 103 49 54
2.2. Phạm vi nghiên cứu
Các chỉ số thần kinh cấp cao IQ, EQ, AQ
2.3. Địa điểm và thời gian nghiên cứu
Địa điểm: Trường THPT Lê Xoay - Vĩnh Tường - Vĩnh Phúc.
Trung tâm Nhân học và Phát triển trí tuệ, Trường Đại học Giáo dục -
Đại học Quốc gia Hà Nội.
Thời gian: tháng 9/2012 đến 5/2013. Trong thời gian này chúng tôi tiến
hành nghiên cứu tài liệu, xây dựng đề cương, thực hiện nghiên cứu và thu
thập số liệu viết luận văn.
Trường ĐHSPHN 2 Khóa luận tốt nghiệp đại học
Vũ Thị Thắm Lớp K35B - Sinh
15
2.4. Phương pháp nghiên cứu các chỉ số sinh học
2.4.1. Nghiên cứu về chỉ số thông minh (IQ)
2.4.1.1. Yêu cầu của bài trắc nghiệm
IQ được xác định bằng phương pháp trắc nghiệm RCC của Philippe
Chartier, xây dựng dựa trên cơ sở năng lực suy luận gần với khái niệm trí
thông minh và hệ số G. Spearman (1863 - 1945) là người đã đưa ra khái niệm
hệ số G vào năm 1930 (nhân tố tổng quát về trí thông minh) và ông nhận ra
rằng những người thành công trong một bài test về trí thông minh thì cũng có
xu hướng thành công trong các bài test trí thông minh khác.
Để nghiên cứu IQ, nghiệm viên sử dụng bài test gồm 30 câu trắc
nghiệm. Chia làm 3 phần, mỗi phần có 10 câu trắc nghiệm: có liên quan đến
không gian, con số và số học.
Yêu cầu của bài trắc nghiệm RCC 30 là tìm ra các đặc điểm của 1 lá bài
hay nhiều lá bài được dấu (úp lại) (ví dụ như giá trị và màu sắc của nó) trong
mối quan hệ với các lá bài đang được mở trên cùng một trang giấy, một bài
tập. Các lá bài được dấu chỉ có giá trị: từ số 1 (quân zách) đến số 10 (quân
10); với 4 chất ứng với: rô, cơ, tép, bích.
Thời gian thực hiện tối đa là 20 phút
Bài trắc nghiệm được dùng cho đối tượng từ trẻ 12 tuổi đến người lớn.
Kết quả của bài trắc nghiệm: Tính được điểm tổng quát (từ 0 đến 30
điểm), ba điểm chi tiết không gian, con số và số học (mỗi phần sẽ có điểm từ
0 đến 10). Sự phân biệt giữa các học sinh được thể hiện qua điểm tổng cũng
như điểm chi tiết do đó ta có thể phân tích từng câu hỏi.
Phân tích được sai lầm thực sự: không đúng về giá trị lẫn màu hoặc sai
lầm một nửa: chỉ có một biến số (màu hoặc giá trị) đúng đáp án đối với từng
loại câu trắc nghiệm.
Trường ĐHSPHN 2 Khóa luận tốt nghiệp đại học
Vũ Thị Thắm Lớp K35B - Sinh
16
Bài trắc nghiệm đã được kiểm định với các thông số như độ tin cậy, giá
trị, sự khác biệt của mẫu đáng tin cậy [8].
2.4.1.2. Nhận định kết quả
+ Kết quả về độ tin cậy của bài trắc nghiệm được đánh giá thông qua hệ
số tương quan cronbach anpha giữa các items trong từng nhóm lập luận của cả
bài.
+ Các đại lượng đặc trưng cho mức độ phân tán và tập trung của bài
trắc nghiệm RCC.
+ Phân bố điểm chuẩn của bài trắc nghiệm đối với mẫu.
+ Sự khác biệt giữa các đối tượng thực hiện trắc nghiệm (khối lớp, giới
tính,…)
+ Xác định lại các điểm chuẩn (normos). Bước này cũng bao hàm
những gợi ý, những cảnh báo về việc nên sử dụng trắc nghiệm như thế nào.
+ Kiểm tra mức độ hiểu, làm quen với bộ bài, mức độ hấp dẫn người
làm trắc nghiệm.
Từ các kết quả trên, có thể đánh giá được quy trình triển khai thực hiện
trắc nghiệm có đạt chuẩn hay không.
Mỗi bài tập trả lời đúng được 1 điểm. Căn cứ vào điểm test của mỗi
nghiệm thể, tính IQ theo nghiệm theo công thức của D.Wechsler [21]:
IQ =
SD
XX −
. 15 + 100
Trong đó:
SD: Là độ lệch chuẩn.
X: Là điểm trắc nghiệm cá nhân.
X
: Là điểm trắc nghiệm trung bình trong cùng 1 độ tuổi.
Trên cơ sở IQ, có thể phân loại thành 7 mức trí tuệ bảng 2.2
Trường ĐHSPHN 2 Khóa luận tốt nghiệp đại học
Vũ Thị Thắm Lớp K35B - Sinh
17
Bảng 2.2. Phân bố mức trí tuệ theo D.Wechsler
STT Mức trí tuệ IQ Loại trí tuệ
1 I >130 Rất xuất sắc
2 II 120-129 Xuất sắc
3 III 110-119 Thông minh
4 IV 90-109 Trung bình
5 V 80-89 Tầm thường
6 VI 70-79 Kém
7 VII <70 Ngu độn
2.4.2. Nghiên cứu về chỉ số vượt khó (AQ)
2.4.2.1. Yêu cầu của bài trắc nghiệm
Mỗi bài test AQ gồm 4 nhóm câu hỏi, mỗi nhóm có nội dung thuộc 1
trong 4 chỉ số thành phần gồm: C, O, R, E.
- Nhóm câu hỏi thuộc chỉ số C (Control - kiểm tra, điều khiển): Bao
gồm các câu hỏi mà nội dung của nó nhằm đo bản lĩnh sống của mỗi cá nhân
khi đối diện với các thay đổi, áp lực và các tình huống khó khăn trong cuộc
sống, từ đó con người kiểm tra, điều khiển hành vi của bản thân ở các mức độ
khác nhau.
- Nhóm câu hỏi thuộc chỉ số O (Ownership - quyền sở hữu): Bao gồm
các câu hỏi mà nội dung của nó nhằm đo bản lĩnh sống của mỗi cá nhân khi
đối diện với các thay đổi, áp lực và các tình huống khó khăn trong cuộc sống,
từ đó con người xác định mức độ chịu trách nhiệm và khả năng xử lý tình
huống, hành động ở các mức độ khác nhau.
- Nhóm câu hỏi thuộc chỉ số R (Reach - phạm vi hoạt động): Bao gồm
các câu hỏi mà nội dung của nó nhằm đo bản lĩnh sống của mỗi cá nhân khi
đối diện với các thay đổi, áp lực và các tình huống khó khăn trong cuộc sống,
Trường ĐHSPHN 2 Khóa luận tốt nghiệp đại học
Vũ Thị Thắm Lớp K35B - Sinh
18
từ đó con người xác định mức độ, phạm vi tiếp cận sự kiện, sức chịu đựng các
cấp độ căng thẳng ở các mức độ khác nhau.
- Nhóm câu hỏi thuộc chỉ số E (Edurance - khả năng chịu đựng tính
nhẫn nại): Bao gồm các câu hỏi mà nội dung của nó nhằm đo bản lĩnh sống
của mỗi cá nhân khi đối diện với các thay đổi, áp lực và các tình huống khó
khăn trong cuộc sống, từ đó con người xác định thời gian chịu đựng các sự
kiện xấu, là thước đo về sự lạc quan, hy vọng ở các mức độ khác nhau.
2.4.2.2. Nhận định kết quả
Câu hỏi AQ gồm 4 chỉ số C, O, R, E
Viết các số đối tượng nghiên cứu đã khoanh tròn trên Câu hỏi AQ (gồm
20 câu hỏi), tương ứng với các ô bên dưới, tính tổng cho mỗi cột, tính tổng
của 4 cột, nhân 2, tìm được chỉ số AQ
AQ = (C + O + R + E) x 2
AQ trung bình = 147,5. Chỉ số này càng cao càng tốt. Câu hỏi AQ cần
hình thành trong vòng 8 →10 phút.
Bảng 2.3. Phân loại các chỉ số thành phần AQ
C O R E
1 2 3 4
7 6 5 8
13 11 9 10
15 16 12 14
17 18 20 19
Tổng: Tổng: Tổng: Tổng:
Trường ĐHSPHN 2 Khóa luận tốt nghiệp đại học
Vũ Thị Thắm Lớp K35B - Sinh
19
2.4.3. Nghiên cứu chỉ số cảm xúc (EQ)
2.4.3.1. Yêu cầu của bài trắc nghiệm
Trắc nghiệm đo lường trí thông minh cảm xúc được sử dụng của Baron
(Baron EQ - I,1997), dùng cho người lớn (từ 16 tuổi trở lên). Bài trắc nghiệm
này gồm 134 items sử dụng cho cá nhân hoặc nhóm trong thời gian 30 phút.
Tuy nhiên, tùy theo mục đích khảo sát, đối tượng khảo sát mà số câu hỏi có
thể thay đổi.
Học sinh sẽ đọc mỗi item trong bài test và điền đáp án đúng nhất vào
phiếu trả lời. Có câu trả lời nào vừa đúng vừa sai thì học sinh sẽ phải chọn
theo những suy nghĩ nào diễn ra trong đầu trước tiên.
+ Từ câu 1 đến câu 22 (Năng lực nhận thức cảm xúc của người khác và
bày tỏ cảm xúc hợp lý): nếu đạt đủ 22/22 điểm, có khả năng thích ứng trong
các mối quan hệ xã hội rất tốt, luôn hài hòa và biết thiết lập, duy trì và phát
triển tốt trong các mối quan hệ xã hội, đặc biệt trong hoat động làm việc theo
nhóm.
+ Từ câu 23 đến câu 30 (Năng lực thấu hiểu cảm xúc bản thân, quản lý
cảm xúc và hành động hiệu quả): nếu đạt được 8/8 điểm, nghiệm thể có thể
thấu hiểu được cảm xúc của bản thân và đưa ra những quyết định hợp lý, hiệu
quả. Nghiệm thể có thể biết tự cân bằng cảm xúc của bản thân, tránh được
những stress quá tải (hung hăng, nóng nảy,…) hoặc stress thiếu tải (buồn
chán, ủ rũ, đau khổ,…) khi gặp phải những tình huống bất thường. Đây là
bước biến chuyển cảm xúc thành hành động ý chí, trở thành trí tuệ cảm xúc
mức độ cao.
2.4.3.2. Nhận định kết quả
+ Mỗi câu trả lời đúng được cho 1 điểm.
+ Tổng số điểm dành được/tổng số các item sẽ là kết quả để lượng hóa
mức độ phát triển chỉ số cảm xúc của người được đánh giá.
Trường ĐHSPHN 2 Khóa luận tốt nghiệp đại học
Vũ Thị Thắm Lớp K35B - Sinh
20
Đánh giá kết quả: điểm đạt lý tưởng là 30 điểm và thấp nhất là 0 điểm,
điểm trung bình là 15.
2.5. Phương pháp xử lí số liệu
2.5.1. Xử lí thô
+ Kiểm tra các phiếu trả lời của đối tượng nghiên cứu. Những phiếu
nào không đáp ứng được yêu cầu nghiêm ngặt của test cần được loại bỏ hoặc
yêu cầu đối tượng làm lại.
+ Đối chiếu với tiêu chuẩn đánh giá của các loại test được sử dụng để
chấm điểm các phiếu trả lời của từng đối tượng.
+ Lập bảng thống kê số liệu theo các chỉ số nghiên cứu.
2.5.2. Xử lí số liệu bằng phương pháp thống kê xác xuất dùng cho sinh học
Số liệu được xử lý trên máy vi tính bằng chương trình Exell để tính các
trị số như giá trị trung bình (
X
), độ lệch chuẩn SD. Số liệu được kiểm định
bằng hàm “T - test” theo phương trình Student - Fisher với ý nghĩa α = 0,05.
Kết quả nghiên cứu được so sánh với số liệu trong cuốn “HSSH” [6].
Các số liệu nhập đầy đủ hết, được máy tính xử lí theo các chỉ số: số
lượng, tỉ lệ %, các giá trị trung bình (
X
), sai số trung bình (SD) và hệ số
tương quan (r) của các dữ liệu đã chọn.
*Tính giá trị trung bình (
X
):
X
=
n
Xi
n
i
∑
=1
X
: Là giá trị trung bình
X
i
: Là giá trị thứ i của đại lượng X
n : Là số cá thể ở mẫu nghiên cứu
*Độ lệch chuẩn:
SD =
n
i
n
i
X
X
∑
−
=1
2
)(
n≥30 SD=
1
2
)(
−
∑
−
n
i
X
X
n≤30
Trường ĐHSPHN 2 Khóa luận tốt nghiệp đại học
Vũ Thị Thắm Lớp K35B - Sinh
21
X
i
-
X
là độ lệch của từng giá trị so với giá trị trung bình.
n là số cá thể ở mẫu nghiên cứu.
*Hệ số tương quan (r) :
r =
.
1
1
1
1
2
2
2
1
2
1
∑∑
∑
==
=
−−−
−
k
i
i
i
k
i
ii
k
i
i
ii
Y
y
m
X
xm
y
xm
nn
YX
n
Trong đó : r là hệ số tương quan giữa 2 đại lượng X và Y
X
i
là từng giá trị của đại lượng X
Y
i
là từng giá trị của đại lượng Y
n là số cá thể mẫu nghiên cứu
Sự tương quan giữa hai đại lượng X và Y được kiểm định bằng phương pháp
sau
Tính hệ số (t) t =
r
nr
2
1
2
−
−
Trong đó r: hệ số tương quan
n: số cá thể ở mẫu nghiên cứu
Tra bảng phân phối student với n - 2 bậc tự do ở mức ý nghĩa α, để tìm t
α.
Nếu
t
≥ t
α
: các đại lượng X và Y tương quan với mức ý nghĩa α
Nếu
t
≤ t
α
: các đại lượng X và Y không tương quan với mức ý nghĩa α
Hai giá trị trung bình của hai mẫu nghiên cứu khác nhau được so sánh theo
các phương pháp Student - Fisher.
Trường ĐHSPHN 2 Khóa luận tốt nghiệp đại học
Vũ Thị Thắm Lớp K35B - Sinh
22
CHƯƠNG 3. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
3.1. Chỉ số thông minh (IQ) của học sinh 15 - 17 tuổi
3.1.1. IQ của học sinh theo tuổi
Kết quả nghiên cứu IQ của học sinh theo tuổi được trình bày trong
bảng 3.1 và hình 3.1.
Bảng 3.1. IQ của học sinh theo tuổi
Tuổi n
IQ
(
X
±
SD)
Tăng
15 100 106,42
±
7,85 -
16 101 107,83
±
8,08 1,41
17 103 109,34
±
8,51 1,51
Tổng 304 107,88
±
8,21
Tăng trung bình/năm 0,76
104.5
105
105.5
106
106.5
107
107.5
108
108.5
109
109.5
110
15 16 17
Tuổi
IQ
IQ
Hình 3.1. Biểu đồ thể hiện IQ của học sinh theo tuổi
Kết quả bảng 3.1 và hình 3.1 cho thấy, ở giai đoạn 15 - 17 tuổi điểm số
IQ của học sinh tăng dần theo tuổi. Cụ thể, ở tuổi 15 điểm số IQ đạt 106,42
điểm tăng tới 107,83 điểm ở tuổi 16 và 109,34 điểm ở tuổi 17 như vậy tăng
trung bình 0,76 điểm/năm. Dựa vào thang phân bố mức trí tuệ của Wechsler
Trường ĐHSPHN 2 Khóa luận tốt nghiệp đại học
Vũ Thị Thắm Lớp K35B - Sinh
23
(bảng 2.2) thì kết quả nghiên cứu điểm số IQ của học sinh 15 - 17 tuổi trong
nghiên cứu của chúng tôi đạt 107,88 xếp ở mức trung bình (IQ = 90 - 109).
3.1.2. IQ trung bình của học sinh theo tuổi và giới tính
Kết quả nghiên cứu IQ của học sinh theo tuổi và giới tính được thể
hiện trong bảng 3.2 và hình 3.2.
Bảng 3.2. IQ của học sinh theo tuổi và giới tính
Tuổi
IQ
1
X
-
2
X
P (1-2)
Nam
(1)
Nữ
(2)
n
X
± SD
Tăng n
X
± SD
Tăng
15 47 106,70
±
7,07
- 53 106,17
±
8,54 - 0,53 >0,05
16 51 108,02
±
8,61
1,32 50 107,64
±
8,57 1,47 0,38 >0,05
17 49 109,69
±
8,80
1,67 54 109,02
±
8,30 1,38 0,67 >0,05
Tổng 147 108,16
±
8,25
- 157 107,62
±
8,19 - 1,07 >0,05
Tăng trung bình/năm 1,49 1,43
Các số liệu trong bảng 3.2 và hình 3.2 cho thấy, điểm số IQ của học
sinh nam và học sinh nữ đều tăng dần theo tuổi. Cụ thể, ở học sinh nam điểm
số IQ lúc 15 tuổi là 106,70 điểm và tăng lên 109,69 điểm lúc 17 tuổi. Còn ở
học sinh nữ điểm số IQ lúc 15 tuổi là 106,17 điểm và tăng lên 109,02 điểm
lúc 17 tuổi.
Trong cùng một độ tuổi, xu hướng điểm số IQ của học sinh nam đều
theo chiều cao hơn học sinh nữ. Tuy nhiên mức độ chênh lệch về điểm số IQ
của học sinh nam và học sinh nữ không nhiều (hình 3.2) và không có ý nghĩa
thống kê (p>0,05). Điều này có thể giải thích rằng ở lứa tuổi THPT trí tuệ của
các em vẫn tiếp tục được phát triển và hoàn thiện.
Trường ĐHSPHN 2 Khóa luận tốt nghiệp đại học
Vũ Thị Thắm Lớp K35B - Sinh
24
104
105
106
107
108
109
110
15 16 17
Tuổi
IQ
Nam
Nữ
Hình 3.2. Biểu đồ biểu diễn IQ của học sinh theo tuổi và giới tính
3.1.3. Phân bố học sinh theo các mức trí tuệ
Căn cứ vào thang phân bố mức trí tuệ của Wechsler (bảng 2.2), có thể
xếp học sinh theo 7 mức trí tuệ. Kết quả nghiên cứu được thể hiện trong bảng
3.3, hình 3.3 và hình 3.4.
Bảng 3.3. Bảng phân bố học sinh theo các mức trí tuệ
Tuổi
Giới
tính
n
Tỉ lệ (%) học sinh thuộc các mức trí tuệ
I II III IV V VI VII
15
Nam 47 - 4,25 38,29
57,45
- - -
Nữ 53 - 7,55 30,19
56,60
1,89 1,89 -
Chung
100 - 6 34 57 1 1 -
16
Nam 51 - 9,80 45,09
41,18
3,92 - -
Nữ 50 - 12 36 52 - - -
Chung
101 - 10,89
40,59
46,53
1,98 - -
17
Nam 49 2,04 18,37
44,89
46,94
2,04 - -
Nữ 54 - 9,25 31,48
44,44
1,85 - -
Chung
103 0,97 13,59
37,86
45,63
1,94 - -
Tổng
Nam 147 0,68 10,88
34,69
48,98
2,04 - -
Nữ 157 - 9,55 32,48
50,95
2,55 0,68 -
Chung
304 0,33 10,19
37,50
50,01
1,64 0,33 -
Trường ĐHSPHN 2 Khóa luận tốt nghiệp đại học
Vũ Thị Thắm Lớp K35B - Sinh
25
0
10
20
30
40
50
60
I II III IV V VI VII
Mức trí tuệ
Tỉ lệ (%)
15
16
17
Hình 3.3. Biểu đồ thể hiện sự phân bố học sinh theo các mức trí tuệ
và tuổi
Kết quả trình bày trên bảng 3.3 và hình 3.3 cho thấy, nếu xét mức trí
tuệ ở từng độ tuổi, học sinh có mức I (rất xuất sắc) và học sinh có mức VII
(ngu độn) đều chiếm tỉ lệ rất thấp. Cụ thể, mức I số học sinh chiếm tỉ lệ cao
nhất (0,97%) ở tuổi 17, mức VII số học sinh chiếm tỉ lệ cao nhất ở tuổi 15
(1%) và ở các tuổi 16 và tuổi 17 không có học sinh đạt 2 mức trí tuệ này.
Trong đó học sinh có trí tuệ mức IV (trung bình) chiếm tỉ lệ cao (45,63% -
57%) và cao nhất ở tuổi 15 (57%).
Tuy nhiên, tỉ lệ các mức trí tuệ giữa các lớp tuổi có sự chênh lệch nhau
không đáng kể và không có ý nghĩa thống kê (p>0,05).