Tải bản đầy đủ (.doc) (69 trang)

Quan hệ Mỹ Trung trong mười năm đầu thế kỷ XXI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (749.21 KB, 69 trang )

Trường: ĐHSP TP. Hồ Chí Minh
Khoa: Lịch sử
Ngành: Quốc tế học
Sinh viên thực hiện : Nguyễn Minh Kha – MSSV: K38.608.074
Quan hệ Mỹ - Trung trong
mười năm đầu thế kỷ XXI
Giảng viên hướng dẫn: TS. Lê Phụng Hoàng
70
Quan hệ Mỹ - Trung trong mười năm đầu thế kỷ XXI
Lời nói đầu
Trong thập niên đầu của thế kỷ XXI, thế giới đã chứng kiến những thay đổi hết sức lớn lao và nhanh
chóng trong môi trường quốc tế và khu vực đã và đang tác động rất mạnh đến chiến lược, chính sách và
quan hệ của các nước trên thế giới, nhất là sự thay đổi trong cán cân quyền lực giữa các nước lớn. Trong
đó nổi bật là Mỹ và Trung Quốc là hai nước lớn – một siêu cường đang tại vị và một cường quốc đang
lên – hiện có ảnh hưởng chi phối toàn diện đến tình hình an ninh, kinh tế, chính trị trên thế giới và khu
vực châu Á – Thái Bình Dương.
Quan hệ Mỹ – Trung Quốc là mối quan hệ ngày càng mang tính toàn cầu. Sự trỗi dậy toàn diện của
Trung Quốc với ảnh hưởng ngày càng lớn đang là mối quan tâm chủ yếu của các nhà chiến lược Mỹ,
cũng như ở khu vực. Vì họ cho rằng, trong các nước lớn ở khu vực này, Trung Quốc là nước duy nhất có
khả năng cạnh tranh và gây ảnh hưởng đến các lợi ích của Mỹ. Các nhà lãnh đạo Mỹ đã nhiều lần tuyên
bố: “Mỹ là một cường quốc ở khu vực châu Á – Thái Bình Dương với những lợi ích bao trùm khắp khu
vực.” Chính vì thế, Mỹ không ngừng thực hiện những điều chỉnh chiến lược trong quan hệ với Trung
Quốc.
Sau sự kiện ngày 11 tháng 9, trong bối cảnh quốc tế mới, Mỹ đã thực hiện điều chỉnh chiến lược toàn cầu
mới, trong đó chiến lược đối với Trung Quốc ngày càng trở thành một bộ phận cấu thành quan trọng.
Câu hỏi đặt ra là sự điều chỉnh chiến lược đối với Trung Quốc của Mỹ có gì mới? Nó đang tác động như
thế nào đối với Trung Quốc? Liệu Trung Quốc có chiến lược ứng phó ra sao? Những điều chỉnh này có
tác động như thế nào đến quan hệ Mỹ - Trung Quốc trong những năm tiếp theo? Đây là những vấn đề
đang được các nhà nghiên cứu quốc tế trong và ngoài khu vực quan tâm theo dõi chặt chẽ.
Mặc dù đã nỗ lực hết sức trong khâu chuẩn bị tài liệu và biên soạn, song những sai sót là khó tránh khỏi.
Em rất mong nhận được những đánh giá từ quý Thầy cô để bài tiểu luận của em được hoàn thiện hơn


nữa.
70
Quan hệ Mỹ - Trung trong mười năm đầu thế kỷ XXI
Phần nội dung
CHƯƠNG 1: NHỮNG NHÂN TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN SỰ ĐIỀU CHỈNH
CHIẾN LƯỢC TOÀN CẦU CỦA MỸ ĐỐI VỚI TRUNG QUỐC VÀ QUAN
HỆ MỸ - TRUNG QUỐC TRONG THẬP NIÊN ĐẦU THẾ KỶ XXI
I. Bối cảnh quốc tế và khu vực
Trong thập niên đầu thế kỷ XXI, xu thế chung trên thế giới là hoà bình, hợp tác, toàn cầu
hoá và hội nhập kinh tế khu vực, thế giới với sự nổi lên của nhiều quốc gia và nhiều khu
vực kinh tế. Hoà bình, hợp tác vì sự ổn định và phát triển kinh tế là nét cơ bản, song vẫn
còn nhiều vấn đề thách thức đặt ra với nền hoà bình chung trên thế giới và nền kinh tế
toàn cầu. Tất cả những gam màu tối, sáng của các quốc gia và các khu vực trên thế giới
đều có những tác động riêng đối với quan hệ giữa hai nước Mỹ và Trung Quốc, thúc đẩy
hợp tác hoặc xung đột vì lợi ích riêng của hai quốc gia. Dưới đây là một số nhân tố chủ
yếu thuộc về bối cảnh quốc tế có tác động tới mối quan hệ vốn diễn biến rất phức tạp
giữa Mỹ và Trung Quốc trong thập niên đầu thế kỷ XXI.
1. Quá trình toàn cầu hoá và khu vực hoá kinh tế
a. Toàn cầu hoá kinh tế
Toàn cầu hoá làm gia tăng mối quan hệ ràng buộc giữa các quốc gia, đặc biệt là mối quan
hệ ràng buộc giữa Mỹ và Trung Quốc khi cùng giải quyết những vấn đề chung. Và một
điều không thể phủ nhận được là toàn cầu hoá đã đem lại những lợi ích cho các nước
tham gia, thông qua sự tăng cường hợp tác kinh tế quốc tế và trao đổi thương mại. Quá
trình toàn cầu hoá cũng góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, xoá đói giảm nghèo, nâng
cao đời sống của người dân trên thế giới. Với vị thế là hai cường quốc hùng mạnh trên
thế giới, tất nhiên là Mỹ và Trung Quốc được hưởng lợi nhiều từ quá trình toàn cầu hoá.
Do những lợi ích từ quá trình toàn cầu hoá, trong thời kỳ chính quyền Bush, Mỹ đã có
những điều chỉnh chiến lược trong quan hệ đối với Trung Quốc với xu hướng tăng cường
hợp tác trong các lĩnh vực kinh tế, thương mại và đầu tư. Tuy nhiên, sự hợp tác kinh tế
này cũng đặt ra những vấn đề căng thẳng trong quan hệ thương mại giữa hai nước. Mỹ bị

thâm hụt cán cân thương mại với Trung Quốc, bị sức ép mạnh từ Trung Quốc bởi việc
nâng giá đồng nhân dân tệ và vấn đề bản quyền tri thức, vấn đề chưa thể mở rộng thị
trường Trung Quốc hơn nữa. Bên cạnh đó, Trung Quốc đang phải chịu sức ép lớn từ Mỹ
70
Quan hệ Mỹ - Trung trong mười năm đầu thế kỷ XXI
và một số quốc gia phương Tây khác do việc tẩy chay hàng hoá chất lượng kém và một
số vấn đề khác.
Trong quá trình toàn cầu hoá, nổi lên xu hướng liên kết kinh tế toàn cầu, từ đó dẫn đến sự
ra đời của các tổ chức kinh tế và thương mại, tài chính quốc tế và khu vực như: Tổ chức
Thương mại Thế giới (WTO), Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF), Ngân hàng Thế giới (WB),…
Không chỉ thế, song song với toàn cầu hoá là xu hướng khu vực hoá như: Liên minh
Châu Âu (EU), Khu vực Tự do Thương mại Bắc Mỹ (NAFTA), Hiệp hội các quốc gia
Đông Nam Á (ASEAN), Khối Thị trường chung Nam Mỹ (MERCOSUR)… Các tổ chức
này ngày càng mở rộng và phát triển, tăng cường sự hợp tác kinh tế giữa các quốc gia,
các khu vực, tăng cường trao đổi thương mại, đầu tư với lợi ích kinh tế là yếu tố được đặt
lên hàng đầu.
b. Khu vực hoá kinh tế
Châu Á – Thái Bình Dương là khu vực tập trung các nước lớn, trung tâm của mấy lực
lượng lớn, trong tương lai được một số nhà chiến lược đánh giá cao phần lớn tập trung tại
châu Á – Thái Bình Dương, đặc biệt là các nước lớn không phải là đồng minh mà là “đối
thủ cạnh tranh” của Mỹ như Trung Quốc, Nga và Ấn Độ. Để tăng cường ưu thế trong
cạnh tranh tại khu vực châu Á – Thái Bình Dương, Mỹ muốn mượn cớ bảo vệ an ninh để
tăng cường ưu thế quân sự. Tình hình an ninh khu vực châu Á – Thái Bình Dương khá
phức tạp, tập trung nhiều loại mâu thuẫn, xung đột lợi ích và vấn đề điểm nóng. Các mối
đe doạ an ninh chủ yếu mà Mỹ cần phải đối phó như phổ biến vũ khí hạt nhân thì ở khu
vực này cực kỳ nổi cộm, đặc biệt là nhiều nước đua nhau tăng chi phí quân sự, từ đó làm
cho khu vực châu Á – Thái Bình Dương xuất hiện xu thế chạy đua vũ trang. Ngoài ra,
khu vực châu Á, Thái Bình Dương là một trong những trung tâm kinh tế thế giới hiện
nay, tốc độ phát triển kinh tế nhanh, Mỹ có lợi ích kinh tế lớn ở khu vực này, nếu khu
vực có biến động lớn thì lợi ích của Mỹ cũng sẽ bị tổn hại.

Trong các tổ chức kinh tế lớn khu vực hiện nay, Diễn đàn khu vực châu Á – Thái Bình
Dương là nơi hội tụ các nền kinh tế phát triển năng động nhất hiện nay. Khu vực kinh tế
năng động này gồm 21 thành viên: Mỹ, Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, Canada, Nga,
Mexico, Việt Nam… và một số nước, khu vực lãnh thổ khác, có 2.6 tỷ người tiêu thụ,
tổng sản phẩm quốc nội (GDP), chiếm 47% giá trị trao đổi hàng hoá toàn cầu và đóng
góp 70% tỷ lệ tăng trưởng kinh tế thế giới.
1
Châu Á – Thái Bình Dương là một thị trường tiêu thụ rộng lớn, với nhu cầu rất đa dạng
do các nền kinh tế trong khu vực có sự chênh lệch khá lớn về mức độ phát triển. Các
1
Hội nghị thượng đỉnh Diễn đàn Hợp tác kinh tế châu Á – Thái Bình Dương: Hướng tới phát triển bền vững và
chống khủng bố, />70
Quan hệ Mỹ - Trung trong mười năm đầu thế kỷ XXI
nước công nghiệp như Mỹ, Nhật Bản, Canada… có tiềm lực lớn về vốn, công nghệ, là
các thị trường xuất nhập khẩu lớn trên thế giới. Các nước đang phát triển như như Trung
Quốc, ASEAN… được đánh giá là phát triển năng động hàng đầu thế giới, đặc biệt là nền
kinh tế Trung Quốc. Các nền kinh tế mới công nghiệp hoá như Hàn Quốc, Đài Loan,
Singapore… có tiềm lực về vốn và công nghệ, có khả năng cạnh tranh rất mạnh trong
những lĩnh vực yêu cầu công nghệ trung gian.
Bên cạnh đó, châu Á – Thái Bình Dương cũng là khu vực hiện đang đi đầu trong việc tự
do hoá thương mại và đầu tư, tạo điều kiện cho sự luân chuyển hàng hoá giữa các nước
trong khu vực. Trong những năm đầu thế kỷ XXI, châu Á – Thái Bình Dương trở thành
động lực vừa thúc đẩy hợp tác kinh tế vừa thúc đẩy sự cạnh tranh ảnh hưởng giữa Mỹ và
Trung Quốc. Có thể nói, sự phát triển năng động của khu vực châu Á – Thái Bình Dương
là một trong những nhân tố có ảnh hưởng lớn điều chỉnh chính sách đối ngoại của Mỹ đối
với Trung Quốc từ năm 2001 và dự đoán sẽ tiếp tục chi phối sự điều chỉnh chính sách đối
ngoại của Mỹ đối với Trung Quốc trong thời gian tới.
Sau Chiến tranh lạnh, Mỹ đã chuyển trọng tâm chiến lược sang khu vực châu Á – Thái
Bình Dương. Khu vực này ngày càng chiếm vị trí đặc biệt cả trong lĩnh vực kinh tế, chính
trị lẫn trong chiến lược an ninh quân sự của Mỹ.

Hơn nữa, việc Trung Quốc đang trỗi dậy và ảnh hưởng ngày càng mở rộng ra khu vực
châu Á – Thái Bình Dương gây ra sự cạnh tranh ảnh hưởng đối với vị thế và vai trò lãnh
đạo của Mỹ tại khu vực này đã khiến cho không ít người trong chính giới Mỹ hết sức lo
ngại.
Trong quá trình phát triển của khu vực châu Á – Thái Bình Dương, mối quan hệ Mỹ -
Trung đóng vai trò rất quan trọng. Mối quan hệ này được củng cố bằng mức tăng trưởng
đáng kể của khu vực, sự hợp tác kinh tế giữa hai quốc gia, và lợi ích mà hai quốc gia này
thu được từ sự ổn định của khu vực.
Dự báo trong thời gian tới, kinh tế khu vực châu Á – Thái Bình Dương sẽ phải đối đầu
với những rủi ro mới về tài chính, nhưng sẽ vẫn duy trì được sức mạnh tài chính. Sự suy
thoái của nền kinh tế Mỹ có thể ảnh hưởng đến sự tăng trưởng kinh tế của khu vực này.
Nhu cầu tiêu dùng của người Mỹ giảm, tác động tới vấn đề xuất khẩu hàng hoá từ các
nước châu Á sang thị trường Mỹ. Khu vực châu Á – Thái Bình Dương sẽ phải còn đối
mặt với nhiều khó khăn lớn như việc thắt chặt hơn tín dụng toàn cầu, các biện pháp điều
chỉnh đột ngột trong tỷ giá hối đoái, sự biến động giá dầu và giá cả các mặt hàng khác.
Quan hệ Mỹ - Trung Quốc sẽ tiếp tục đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển kinh tế
của khu vực này, nhất là khu vực Đông Á.
70
Quan hệ Mỹ - Trung trong mười năm đầu thế kỷ XXI
c. Sự hội nhập kinh tế khu vực Đông Á
Khu vực Đông Á bao gồm khu vực Đông Nam Á và Đông Bắc Á, nằm trong khu vực
kinh tế phát triển năng động nhất thế giới: châu Á – Thái Bình Dương. Từ nửa cuối thế
kỷ XX và những năm đầu thế kỷ XXI, thế giới đã chứng kiến sự phát triển ngoạn mục
của Đông Á với tư cách là khu vực có tốc độ tăng trưởng kinh tế nhanh nhất thế giới.
Đông Á là khu vực có GNP (tính theo sức mua tương đương lớn nhất thế giới PPP) lớn
nhất thế giới.
Tốc độ tăng trưởng kinh tế của khu vực Đông Á năm 2006 là 8.4%, năm 2007 là 8.7%
2
,
đạt mức cao so với những năm cuối thế kỷ XX. Sự tăng trưởng kinh tế trong khu vực đã

ghi nhận một thập kỷ chuyển biến tốt sau cuộc khủng hoảng tài chính khu vực năm 1998.
Có thể thấy Đông Á thực sự là một trung tâm kinh tế hùng mạnh và đang là động lực thúc
đẩy tăng trưởng kinh tế thế giới. Hiện nay, khu vực Đông Á đang trở thành tâm điểm thu
hút sự chú ý của thế giới do sự phát triển kinh tế mạnh mẽ theo hướng mở cửa với bên
ngoài, thu hút đầu tư. Cả Mỹ và Trung Quốc đều muốn được lợi từ sự hợp tác kinh tế với
khu vực Đông Á, tranh thủ ảnh hưởng tại khu vực Đông Á. Sự phát triển mạnh mẽ của
khu vực Đông Á và xu hướng liên kết kinh tế của các nước trong khu vực được cho là sẽ
có tác động đáng kể tới quan hệ Mỹ - Trung Quốc trong những thập niên đầu thế kỷ XXI.
Mỹ lo ngại Trung Quốc sẽ nhanh chóng trở thành đối thủ cạnh tranh vị trí chi phối ở châu
Á, đặc biệt là Đông Á. Điều này dựa trên cơ sở những bằng chứng khá rõ ràng. Năm
2003, Trung Quốc đã vượt qua Mỹ để trở thành đối tác thương mại số 1 của Hàn Quốc.
Theo Mỹ, việc đồng nhân dân tệ được định giá dưới mức thực tế không chỉ thu hút công
ăn việc làm và nguồn đầu tư vào Trung Quốc, mà còn là một trong những nguyên nhân
chính gây ra thâm hụt thương mại khổng lồ cho Mỹ. Bên cạnh đó, sự bùng nổ kinh tế của
Trung Quốc khiến quốc gia này trở thành nơi thu hút hàng nhập khẩu quan trọng, tạo ra
số việc làm lớn cho khu vực Đông Á.
Trong mấy thập kỷ gần đây, các quốc gia Đông Á có tốc độ tăng trưởng kinh tế nhanh
chóng và ngày càng trở nên phụ thuộc lẫn nhau thông qua hoạt động thương mại và đầu
tư. Các quốc gia Đông Nam Á ngày càng thể hiện khả năng cạnh tranh trên thị trường thế
giới. Thị phần của các quốc gia Đông Á trong tổng xuất khẩu hàng công nghiệp của thế
giới trong giai đoạn 1980 – 2002 đã tăng gấp đôi, từ 18% năm 1980 đến 39% năm 2002.
3
Trong đó, đáng chú ý nhất là các quốc gia mới công nghiệp hoá (NIEs), ASEAN và
Trung Quốc đều tăng thị phần đáng kể. Số liệu thống kê về tình hình thương mại cho thấy
2
Vn Media. />3
Theo www.tapchithoidai.org
70
Quan hệ Mỹ - Trung trong mười năm đầu thế kỷ XXI
kim ngạch xuất khẩu hàng công nghiệp của các quốc gia Đông Á tới các nước trong cùng

khu vực đã tăng mạnh với tốc độ cao hơn nhiều so với xuất khẩu ra toàn thế giới.
Các quốc gia trong khu vực Đông Á đang có những nỗ lực hội nhập nền kinh tế khu vực,
tiến tới nhất thể hoá các ngành kinh tế Đông Á. Hiện nay, khu vực Đông Á đang chuyển
động mạnh mẽ trong các hoạt động thương mại và đầu tư. Song song đó, tiến trình hội
nhập kinh tế của khu vực Đông Á được phản ánh thông qua sự gia tăng mạnh mẽ của các
hiệp định tự do thương mại được ký kết giữa các quốc gia trong khu vực. Nỗ lực của các
quốc gia trong khu vực nhằm hình thành một cộng đồng kinh tế Đông Á trong tương lai
không chỉ thúc đẩy mạnh mẽ hợp tác và hội nhập kinh tế trong khu vực mà còn giúp châu
Á cạnh tranh với nhiều khối kinh tế lớn nhất hiện nay là Khu vực Mậu dịch Tự do Bắc
Mỹ và Liên minh Châu Âu.
Mười năm sau cuộc khủng hoảng kinh tế tài chính châu Á, nhiều quốc gia vẫn cho rằng
Mỹ chưa quan tâm thoả đáng tới khu vực Đông Á. Từ sau sự kiện 11 – 9 – 2001, Mỹ tập
trung vào cuộc chiến chống khủng bố ở Afghanistan, Iraq. Trong khi đó, các quốc gia
Đông Á cố gắng phát triển Cộng đồng kinh tế Đông Á bao gồm cả các quốc gia ở bên
ngoài khu vực như Ấn Độ, Úc và New Zealand, nhưng không có Mỹ.
Đông Á cũng ngày càng có ý nghĩa quan trọng trong chiến lược toàn cầu của Mỹ sau
Chiến tranh lạnh, Mỹ cần liên minh mạnh ở Đông Á nhằm đối chọi với các cường quốc
khác. Ngày nay, cán cân quyền lực trong khu vực đã thay đổi. Vị thế của Mỹ đang trong
tình trạng suy giảm, Trung Quốc thì đang trỗi dậy, Nhật Bản và Hàn Quốc liên tục thay
đổi.
Từ sau Thế chiến thứ hai, Mỹ đóng vai trò chi phối ở Đông Á về kinh tế. Thông qua
thương mại và viện trợ, Mỹ đã giành được sự ủng hộ đối với các chính sách của mình ở
khu vực này. Tuy nhiên, trong bối cảnh khu vực hiện nay, vai trò của Mỹ không còn là
duy nhất nữa. Sân khấu chính trị trong khu vực được chia sẻ giữa Mỹ và các cường quốc
mới, đặc biệt bao gồm cả Trung Quốc. Vị thế về mặt kinh tế và chính trị của Trung Quốc
tại khu vực Đông Á ngày càng được mở rộng và củng cố. Trong đó, có thể nói sự tăng
trưởng kinh tế vượt bậc của Trung Quốc là một yếu tố quan trọng thúc đẩy chủ nghĩa khu
vực phát triển mạnh mẽ ở Đông Á. Và ngày nay, Trung Quốc đang dần thay thế Mỹ trở
thành thị trường xuất khẩu lớn nhất của Nhật Bản và Trung Quốc.
Như vậy, sự nổi lên của khu vực Đông Á và xu hướng hội nhập kinh tế tại khu vực Đông

Á góp phần thúc đẩy Mỹ có những điều chỉnh chiến lược trong chính sách ngoại giao với
Trung Quốc với lợi ích kinh tế được đặt lên hàng đầu, tranh thủ sự hợp tác kinh tế với các
quốc gia trong khu vực Đông Á. Sự phát triển mạnh mẽ của các nền kinh tế Đông Á đòi
70
Quan hệ Mỹ - Trung trong mười năm đầu thế kỷ XXI
hỏi Mỹ phải có chiến lược hợp tác với Trung Quốc, và song song đó là tìm cách kiềm chế
ảnh hưởng của Trung Quốc tại khu vực này.
Dễ dàng nhận thấy, sự nổi lên và hội nhập kinh tế của khu vực Đông Á đã trở thành một
thách thức quan trọng trong quan hệ Mỹ và Trung Quốc. Nước nào làm chủ khu vực này
chính là nước giữ ưu thế lớn nhất trên phạm vi toàn cầu. Mỹ và Trung Quốc đều phải tìm
sự cân bằng về thế lực ở khu vực này. Do đó, quan hệ Mỹ và Trung Quốc sẽ càng tạo nên
sự liên kết khu vực ngày càng có chiều sâu.
2. Hoà bình và hợp tác phát triển là xu thế chủ đạo, song các nguy cơ xung đột vẫn
tiềm ẩn
Hoà bình, hợp tác là mong muốn chung của hầu hết các quốc gia trên thế giới. Xu thế hoà
bình, hợp tác và phát triển có thể coi là sợi chỉ đỏ trong quan hệ quốc tế từ khi Chiến
tranh lạnh kết thúc cho đến nay và cả trong tương lai. Những sự biến đổi trong tình hình
thế giới trong những năm qua cho các lực lượng trên thế giới nhìn chung đang đấu tranh
cho hoà bình và hợp tác để phát triển lớn mạnh.
Mặc dù xu hướng hoà bình hợp tác là xu thế không thể phủ nhận, song vẫn có nước lợi
dụng vị thế siêu cường hoặc cường quốc của mình để áp đặt sự lãnh đạo và những giá trị
của mình lên dân tộc khác. Đó là nguyên nhân thường xuyên gây ra mất ổn định trên thế
giới.
Trong giai đoạn hiện nay, cuộc đấu tranh giữa các quốc gia có thể sẽ tập trung trên lĩnh
vực kinh tế và văn hoá nhằm cơ cấu lại nền kinh tế, điều chỉnh về mặt kinh tế vĩ mô
nhằm thúc đẩy tăng cường và phát triển. Trong quan hệ quốc tế, lợi ích các quốc gia được
đặt lên hàng đầu thay cho sự chi phối của ý thức hệ. Lợi ích quốc gia và phát triển kinh tế
vừa thúc đẩy cho sự hợp tác giữa các quốc gia vừa tăng cường sự cạnh tranh về kinh tế
giữa các quốc gia. Việc tăng cường hợp tác kinh tế là yếu tố góp phần vào sự phát triển
kinh tế của mỗi quốc gia. Và trong đó, các quốc gia và các khu vực trên thế giới luôn

mong muốn tối đa lợi ích cho mình, và đôi khi lợi ích quốc gia hay khu vực này lại mâu
thuẫn với lợi ích quốc gia và khu vực khác. Vì vậy, các cuộc đấu tranh không ngừng diễn
ra. Các cuộc đấu tranh do mâu thuẫn về lợi ích có thể diễn ra trên tất cả các lĩnh vực: kinh
tế, chính trị, văn hoá, an ninh, quân sự…
Trong bối cảnh quốc tế đó, và trong thời gian qua, diễn biến quan hệ Mỹ và Trung Quốc
ổn định nhưng khá phức tạp. Về cơ bản, quan hệ Mỹ - Trung Quốc dựa trên cơ sở hoà
bình, hợp tác phù hợp với xu thế chung. Cả hai nước đều thể hiện chí hoà bình và hợp tác
trong việc hàn gắn những bất đồng. Trung Quốc và Mỹ duy trì trao đổi và điều phối trong
các vấn đề quốc tế và khu vực quan trọng. Hai bên thiết lập nhiều cơ chế đối thoại, trong
70
Quan hệ Mỹ - Trung trong mười năm đầu thế kỷ XXI
đó có 4 cơ chế quan trọng là: Đối thoại Mỹ cũng không thể một mình giải quyết những
vấn đề quốc tế quan trọng. Chính vì vậy, Mỹ cần bắt tay với các cường quốc trên thế giới
như Trung Quốc nhằm giải quyết các vấn đề quốc tế. Còn đối với Trung Quốc, với những
tiềm năng to lớn về nhiều mặt (diện tích, dân số, tiềm lực kinh tế, chính trị, an ninh quốc
phòng…) thì Trung Quốc đang có vai trò ngày càng lớn trong khu vực châu Á – Thái
Bình Dương và trên thế giới. Theo dự đoán của giới phân tích trong tương lai, Trung
Quốc sẽ trở thành một cực trong trật tự thế giới mới, hoàn toàn có khả năng cạnh tranh
với Mỹ và vượt Mỹ trong thế kỷ này. Tuy nhiên, Trung Quốc vẫn cần hợp tác với Mỹ và
các cường quốc khác trên thế giới nhằm đối phó với những nguy cơ suy thoái kinh tế và
bất ổn định, những vấn đề an ninh, chính trị, môi trường… cần có sự hợp tác giải quyết
của cộng đồng thế giới.
II. Sự trỗi dậy của Trung Quốc
Kinh tế là nền tảng cơ bản mang lại sự trỗi dậy của Trung Quốc từ những năm 1990. Vào
năm 1990, Đặng Tiểu Bình đã tuyên bố không bao lâu nữa khi nước Cộng hoà nhân dân
Trung Hoa trở thành một quyền lực chính trị cũng như quyền lực kinh tế. Một loạt các
bài viết dự báo sự trỗi dậy mạnh mẽ của Trung Quốc bắt nguồn từ lĩnh vực kinh tế đã
xuất hiện như “China’s century”, “The Awakening of the Next Economic Powerhouse
của Brahm (2001)
4

, “The Chinese century, The Rising Chinese Economy and Its impact
on the Global Economy”, “The Balance of Power” and “Your Job” của Shenkar.
5
Và sự
phát triển kinh tế đó không còn là dự báo mà còn là thực tế. Tốc độ phát triển GDP chính
thức của Trung Quốc liên tục ở mức hai con số: 10.1% năm 2004, 10.5% năm 2005,
11.2% năm 2006 và 11.4% năm 2007. Cùng với tốc độ tăng trưởng kinh tế như vậy, tổng
giá trị sản phẩm quốc nội cũng không ngừng tăng lên, từ 215 tỷ USD năm 1978 lên 2,229
tỷ USD vào năm 2006 và đạt 3,400 tỷ USD vào năm 2007. Năm 2005, Trung Quốc đã
vượt qua Pháp trở thành nền kinh tế lớn thứ tư trên thế giới. Và hiện nay, Trung Quốc
đang là nền kinh tế lớn thứ hai trên thế giới. Với tổng kim ngạch thương mại đạt 1,420 tỷ
USD (năm 2005), Trung Quốc đã vượt Nhật Bản trở thành cường quốc thương mại thứ
ba trên thế giới sau Mĩ và Đức. Đến cuối năm 2007, Trung Quốc có tổng kim ngạch
thương mại hơn 2,000 tỉ USD. Trong lĩnh vực đầu tư, Trung Quốc đã đem lại cơ hội lớn
cho các nhà đầu tư nước ngoài. Từ năm 1990 đến năm 2004, lợi nhuận mà các nhà đầu tư
4
Brahm, Laurence .(ed). 2001. China’s Century. The Awakening of the Next economic Powerhouse. New York:
John Willey & Sons. (theo chú thích của Lê Khýõng Thùy (chủ biên), Quan hệ Mỹ - Trung Quốc thập niên ðầu thế
kỷ XXI , Nhà xuất bản Khoa học Xã hội, 2012)
5
Shenkar, Oded. (2005). “The Chinese century, The Rising Chinese Economy and Its impact on the Global
Economy”, “The Balance of Power” and “Your Job” Upper Saddle River: Wharton School Publishing. (theo chú
thích của Lê Khýõng Thùy (chủ biên), Quan hệ Mỹ - Trung Quốc thập niên ðầu thế kỷ XXI , tài liệu ðã dẫn, 2012)
70
Quan hệ Mỹ - Trung trong mười năm đầu thế kỷ XXI
nước ngoài thu được từ Trung Quốc đã lên tới ngưỡng 250,6 tỷ USD. Trung Quốc cũng
trở thành nước đứng đầu thế giới về thu hút vốn đầu tư nước ngoài (FDI) với trên 60 tỷ
USD/năm và năm 2004 – 2006 và đạt 82 tỷ USD năm 2007.
6
Đầu tư trực tiếp ra nước

ngoài (ODI) của Trung Quốc cũng hết sức ấn tượng, tăng từ mức bình quân khoảng 0,4
tỷ USD/năm trong thập kỷ 1980 lên khoảng 2.3 tỷ USD/năm trong thập kỷ 1990. Trong
mấy năm gần đây, từ năm 2004 đến năm 2006, tổng mức ODI của Trung Quốc tương
ứng là 5.5 tỷ USD, 6.92 tỷ USD, 16.1 tỷ USD. Vào cuối năm 2007, số ODI thực tế của
Trung Quốc đạt gần 100 tỷ USD.
7
Đến năm 2009, chỉ tính riêng khoảng đầu tư mua trái
phiếu Chính phủ Mỹ của Trung Quốc đã tăng lên trên 800 tỷ USD.
Bên cạnh đó là những con số đầy ấn tượng khác: Trung Quốc hiện đang là nhà sản xuất
hàng đầu thế giới về than, thép và xi măng, nhà tiêu thụ năng lượng thứ hai thế giới và là
nhà nhập khẩu dầu mỏ thứ ba thế giới. Trong vòng 15 năm qua, xuất khẩu của Trung
Quốc vào Mỹ đã tăng thêm 1600%, trong khi xuất khẩu của Mỹ vào Trung Quốc tăng
thêm 415%. Hiện nay, Trung Quốc chiếm hơn 4% tổng thương mại thế giới, 50% trong
tăng trưởng xuất khẩu của châu Á, 12% tổng nhập khẩu của Mỹ. Chênh lệch khoảng cách
giữa kinh tế Mỹ và kinh tế Trung Quốc ngày càng bị thu hẹp nhanh chóng. Năm 1979,
kinh tế Mỹ lớn hơn gấp 31.5 lần so với Trung Quốc. Năm 2002, Mỹ chỉ lớn hơn gấp 7.6
lần so với Trung Quốc. Năm 2007, GDP thực của nước Mỹ ước tính chỉ gấp 3.5 lần GDP
của Trung Quốc.
8
Bằng cách mua một lượng trái phiếu của Mỹ, Trung Quốc cùng với các nước châu Á
khác đã cho phép người dân và Chính phủ Mỹ giữ được mức cho vay và chi tiêu, và do
đó duy trì sự hoạt động của nền kinh tế thế giới. Tuy nhiên, với những người khác, một
thế kỷ Trung Quốc là mối đe doạ rõ ràng. Những lo sợ hàng xuất khẩu dệt may của Trung
Quốc tràn ngập thị trường bùng phát ở châu Âu và châu Mỹ năm 2005. Theo cục Hải
quan Trung Quốc, tổng thặng dư thương mại của Trung Quốc với thế giới tăng từ 23 tỷ
USD năm 2001 lên 30 tỷ USD năm 2002, 106 tỷ USD năm 2005, 177 tỷ USD năm 2007.
Dự trữ ngoại tệ của Trung Quốc, chủ yếu với hình thức vàng và đô la Mỹ, cũng tăng vọt
từ mức 711 tỷ USD năm 2005, vượt qua mức dự trữ của Nhật vào tháng 2 năm 2006 trở
thành nước có dự trữ ngoại tệ lớn nhất thế giới, rồi vượt mức 1000 tỷ USD vào mùa thu
2006, tiến tới ngưỡng 1,500 tỷ USD vào cuối năm 2007 và lên đến trên 1,800 tỷ USD vào

tháng 7 năm 2008. Đến giữa năm 2009, dự trữ ngoại tệ của Trung Quốc đã vượt qua mốc
2,000 tỷ USD.
6
Theo Yuan – Kang Wang. China’s Grand Strategy and US primacy. Is China Balancing American Power? The
Brooking Institute. www.brooking.edu. (Theo Lê Khýõng Thùy (chủ biên), Quan hệ Mỹ - Trung Quốc thập niên
ðầu thế kỷ XXI , tài liệu ðã dẫn, 2012)
7
Theo Phạm Thái Quốc, Trung Quốc – Những năm đầu thế kỷ XXI và triển vọng, NXB Lao động, 2008, trang 72 –
73.
8
Theo Yuan – Kang Wang, tài liệu đã dẫn.
70
Quan hệ Mỹ - Trung trong mười năm đầu thế kỷ XXI
Sự trỗi dậy của Trung Quốc khiến nước này cần sử dụng nhiều các nguồn lực tự nhiên và
do đó sẽ gây tác động tới môi trường là vấn đề quan trọng trong thế kỷ XXI. Trung Quốc
đã trở thành nước nhập khẩu dầu lửa đứng thứ ba thế giới sau Mỹ và và Nhật Bản với
hơn 100 triệu tấn vào năm 2005. Việc Trung Quốc mở rộng việc tìm kiếm nguồn năng
lượng ở nhiều nơi trên thế giới như ở Nga, ở Biển Đông và vươn ra thị trường Nam Mỹ,
châu Phi cho thấy khả năng dẫn đến sự tranh chấp nguồn cung năng lượng giữa các nước
này sẽ trở nên gay gắt trong tương lai.
Gần đây, hiệp định của Trung Quốc nhằm sản xuất và nhập khẩu khí ga thiên nhiên từ
Turkmenistan cho thấy bước tiến lớn trong việc tập hợp các nước giàu tài nguyên Trung
Á tách khỏi nước Nga. Tháng 9 năm 2007, Trung Quốc thông qua kế hoạch xây dựng
đường ống dẫn khí ga thiên nhiên từ Turkmenistan qua Uzbekistan và Kazakhtans tới
tỉnh Quảng Châu. Hầu hết các nguồn khí ga thiên nhiên của Turkmenistan đóng vai trò
quan trọng về địa chính trị ở khu vực. Chừng nào đường ống dẫn chưa được hoàn thành,
thì Nga và Ukraine còn kiểm soát con đường xuất khẩu khí ga thiên nhiên duy nhất của
Turmenistan.
Sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế đã khiến cho Trung Quốc không chỉ thoả mãn nhu
cầu trong nước mà đang vươn ra toàn thế giới. Trung Quốc đang tăng cường chiếm lĩnh

những thịn trường tiêu thụ mà Mỹ hay các nước phương Tây vẫn chiếm lĩnh từ bấy lâu
nay. Bên cạnh các đối tác thương mại lớn như Mỹ, EU, Trung Quốc cũng mở rộng quan
hệ thương mại với châu Á, châu Phi và Mỹ Latinh, thông qua đó mở rộng phạm vi ảnh
hưởng và vị thế của Trung Quốc ở các khu vực này. Ngoài ra, Trung Quốc cũng tăng
cường mở rộng phát triển hợp tác với các nước Đông Nam Á, một trong những khu vực
phát triển kinh tế năng động nhất thế giới. Trung Quốc là bạn hàng lớn thứ tư của
ASEAN. Trung Quốc đã đi trước Nhật Bản và Mỹ trong việc ký “Hiệp định khung về
hợp tác kinh tế toàn diện” với ASEAN, mở đường cho Khu vực mậu dịch tự do Trung
Quốc – ASEAN (ACFTA) vào năm 2010.
Sự mở rộng quan hệ kinh tế - thương mại của Trung Quốc với các thị trường trên đã đụng
chạm tới lợi ích kinh tế của Mỹ, thậm chí là ngay ở sân sau của Mỹ (Mỹ Latinh). Điều
này đã làm gia tăng thêm sự cạnh tranh về kinh tế giữa hai nước khiến cho Mỹ hết sức
quan tâm theo dõi.
Sự phát triển kinh tế của Trung Quốc tạo điều kiện cho các lĩnh vực khác phát triển.
Chẳng hạn, kinh tế phát triển kéo theo sự phát triển của hệ thống đào tạo, tạo ra một tầng
lớp trung lưu có trí thức hơn và có điều kiện đi du lịch nhiều hơn cùng khả năng tiếp cận
các thông tin trên mạng internet cho phép người Trung Quốc khám phá thế giới. Năm
1995 có khoảng 4.5 triệu lượt khách Trung Quốc ra nước ngoài thì đến năm 2005, thì con
70
Quan hệ Mỹ - Trung trong mười năm đầu thế kỷ XXI
số này đã tăng lên 30 triệu.
9
Ngoài ra, tầng lớp lãnh đạo tinh hoa cũng có trình độ ngày
càng cao. Trong đánh giá toàn diện của H.Lyman Miller và Liu Xiahong, vào tháng 9
năm 1997, trong số 24 quan chức Bộ Chính trị của Quốc hội khoá XV chỉ có 6 người
từng lãnh đạo Đảng trước năm 1992, còn hầu hết đều trẻ hơn các nhà lãnh đạo tiền nhiệm
10 tuổi. Những nhà lãnh đạo trẻ đã hoàn thành giáo dục và đào tạo ở các nước phương
Tây.
10
Sự phát triển kinh tế cũng mang lại bước tiến lớn về khoa học công nghệ. Trong lĩnh vực

nghiên cứu và phát triển, Trung Quốc đã có những tiến bộ vượt bậc về mọi mặt theo sát
các nước lớn như Mỹ, Liên minh châu Âu và Nhật Bản. Trung Quốc đã hai lần đưa người
lên vũ trụ thành công vào tháng 10 năm 2003 và tháng 12 năm 2005. Đặc biệt, việc Trung
Quốc thử nghiệm thành công tên lửa vệ tinh vào tháng 1 năm 2007 khiến thế giới ngạc
nhiên và lo lắng. Bằng việc hạ những vệ tinh dự báo thời tiết lỗi thời, các nhà lãnh đạo
Bắc Kinh chứng tỏ khả năng của họ trong việc làm giảm sự phụ thuộc vào cơ sở hạ tầng
không gian quan trọng cho thông tin liên lạc và tình báo nếu cần.
Sự phát triển nhanh chóng về kinh tế đưa đến gia tăng đáng kể tiềm lực quân sự. Nó giúp
Trung Quốc thực hiện các biện pháp tăng cường khả năng quân sự. Theo các nguồn tin
chính thức, chi tiêu quốc phòng tăng lên 300% trong thập kỷ qua và tăng thêm 17.8 %
năm 2007. Quân đội giải phóng nhân dân Trung Quốc đang được chuyển đổi từ lực lượng
phòng thủ mạnh nhất trên mặt đất thành một đội quân gọn nhẹ hơn, di động hơn và đa
chức năng với đội ngũ binh lính lớn nhất thế giới – 2.3 triệu quân. Một điểm quan trọng
nữa là việc hiện đại hoá hải quân sẽ nâng cao khả năng Trung Quốc tiếp cận được các vị
trí quyền lực. Khả năng tiếp cận quân sự của Trung Quốc vẫn còn khiêm tốn và lực lượng
quân đội của Trung Quốc vẫn còn dễ dàng bị lực lượng Mỹ đánh bại.
Việc Trung Quốc thay đổi quan điểm từ cô lập sang chính sách đối ngoại tích cực hơn
được thể hiện rõ ràng trong quan hệ tại Đông Á và các nước láng giềng Trung Á. Trung
Quốc đang mở đường tiến vào vị trí trung tâm châu Á và đẩy Nhật về vị trí ngoài rìa.
Chẳng hạn như, Trung Quốc củng cố mối quan hệ song phương với các nước Đông Nam
Á và ký kết quan hệ đối tác chiến lược với Nga, Ấn Độ và Pakistan. Đặc biệt, Trung
Quốc rất chú trọng thúc đẩy Liên minh Nga – Trung nhằm đối trọng lại chiến lược bao
vây của Mỹ và tạo dựng một thế giới đa cực. Theo đó, trong chuyến thăm Nga từ ngày 26
đến ngày 28 tháng 3 năm 2007, Chủ tịch Trung Quốc Hồ Cẩm Đào cùng tổng thống Nga
Putin đã ký kết “Tuyên bố chung 30 điểm” chống lại sức ép của Mỹ và phương Tây. Hai
bên cam kết thực hiện quy hoạch hợp tác song phương 10 năm lần thứ hai về “Quan hệ
9
“Outward Bound”, Economist, 22 June 2006, 74 (theo Lê Khýõng Thùy (chủ biên), Quan hệ Mỹ - Trung Quốc
thập niên ðầu thế kỷ XXI , tài liệu ðã dẫn, 2012)
10

Joshua Cooper Ramo, 2004, The Beijing Consensus (London, England: Foreign Policy Center, 2004), 19 – 20 (Lê
Khýõng Thùy (chủ biên), Quan hệ Mỹ - Trung Quốc thập niên ðầu thế kỷ XXI , tài liệu ðã dẫn, 2012)
70
Quan hệ Mỹ - Trung trong mười năm đầu thế kỷ XXI
hợp tác chiến lược Nga – Trung” đến năm 2018. Bên cạnh đó, Bắc Kinh vẫn liên tục
nhấn mạnh duy trì quan hệ Mỹ - Trung là ưu tiên hàng đầu cho chính sách đối ngoại của
Trung Quốc.
Với các nước Đông Nam Á, ngay từ cuối những năm 1990, Bắc Kinh bắt đầu xây dựng
khái niệm an ninh mới nhằm bảo đảm an ninh cho mình và nước khác thông qua xây
dựng sự tin cậy lẫn nhau với các nước láng giềng và tổ chức đa phương. Trung Quốc giải
quyết xung đột biên giới bằng việc ký kết các hiệp ước hữu nghị và hợp tác, các văn bản
tôn trọng chủ quyền và bình đẳng với 10 nước Đông Nam Á. Thêm vào đó, Bắc Kinh đưa
ra bộ luật Ứng xử Biển Đông, kí hiệp ước Khu vực phi hạt nhân Đông Nam Á và ký kết
nhiều hiệp ước hợp tác song phương và quan hệ đối tác chiến lược với các nước ở châu
Á.
11
Trung Quốc tích cực tham gia Diễn đàn an ninh khu vực ASEAN (ARF), ủng hộ Hội
nghị thượng đỉnh Đông Á đầu tiên, và tạo ra Quỹ hợp tác châu Á nhằm giúp đỡ các ban
ngành Trung Quốc trong hợp tác ASEAN.
Tại Mỹ Latinh, Trung Quốc sử dụng chiến thuật tương tự bằng cách nêu bật hình ảnh
Trung Quốc như một chủ thể không gây đe doạ. Phó Chủ tịch Zeng Qinghong trong
chuyến thăm Mexico tháng năm 2005 đã ký 7 Hiệp định hợp tác về chuyên chở hàng hải
và lĩnh vực khác tạo ra cơ hội cho quan hệ đối tác thiết thực trong tương lai. Cuối năm
đó, Phó Chủ tịch Zeng cũng ký 19 hiệp định với Venezuela.
12
Trung Quốc tham gia Tổ
chức các nước châu Mĩ với tư cách là quan sát viên, Ngân hàng Phát triển Liên Mỹ, và ký
hiệp định hợp tác với Cộng đồng các nước Andian.
Tại Châu Phi, Trung Quốc cũng theo đuổi chính sách tích cực với Lục địa đen, hỗ trợ hào
phóng về tài chính và kỹ thuật, nhanh chóng tăng đầu tư trực tiếp và hiệp định năng

lượng và thương mại. Trung Quốc lập ra diễn đàn Hợp tác Trung – Phi năm 2000 và
Chương trình vì sự hợp tác Trung – Phi trong phát triển kinh tế và xã hội, đều nhằm mục
tiêu củng cố hợp tác kinh tế, ye tế, phát triển và các vấn đề ngoại giao. Trung Quốc đã
cung cấp viện trợ kinh tế cho Liên minh châu Phi và giữ vai trò lớn hơn trong Ngân hàng
Phát triển Châu Phi thông qua Ngân hàng Phát triển Trung Quốc. Hiện tại, Trung Quốc
mua hơn 1/3 lượng dầu của Châu Phi.
Tại Trung Đông, chính sách đối ngoại của Trung Quốc cũng bị quyết định bởi vấn đề
tăng sự phụ thuộc vào năng lượng. Bắc Kinh nhập gần 50% dầu mỏ từ khu vực này,
khiến họ không thể bỏ qua những động thái chính trị ở khu vực khủng hoảng này. Trung
11
Philip Sauders, 2006. China’s Global Activism: Strategy, Drivers and Tools (Washington D.C.: National Defense
University Press, 2006). (Lê Khýõng Thùy (chủ biên), Quan hệ Mỹ - Trung Quốc thập niên ðầu thế kỷ XXI , tài liệu
ðã dẫn, 2012)
12
Kurlantzick, Joshua, 2007. Charm offensive, How China’s soft Power Is Transforming the World. New Haven,
CT: Yale University Press, 2007, page 49 to 51. (Lê Khýõng Thùy (chủ biên), Quan hệ Mỹ - Trung Quốc thập niên
ðầu thế kỷ XXI , tài liệu ðã dẫn, 2012)
70
Quan hệ Mỹ - Trung trong mười năm đầu thế kỷ XXI
Quốc đã trở thành đối tác thương mại dễ chịu tại khu vực Trung Đông, và chính sách của
Trung Quốc trực tiếp làm suy yếu ý đồ dân chủ hoá và quản trị của phương Tây. Hiệp
định năng lượng ký kết với Tehran của Bắc Kinh trị giá 100 tỷ USD đã bị phía Mỹ chỉ
trích gay gắt.
Những con số đầy ấn tượng trên đây về bề rộng và bề sâu của sự trỗi dậy của Trung Quốc
khiến cho người Mỹ hết sức lo lắng. Campbell cho rằng: “thế kỷ Mỹ đã qua đi” và thay
vào đó là “thế kỷ của Trung Quốc bắt đầu.
13
Với lý thuyết dịch chuyển quyền lực trong
quan hệ quốc tế, thế kỷ XXI sẽ là giai đoạn dịch chuyển nguy hiểm giữa một Trung Quốc
đang trỗi dậy và một nước Mỹ đang tại vị.

14
Những mối quan tâm địa chính trị về một “Thế kỷ Trung Quốc” khiến Tổng thống
George Bush phải khẳng định lại trước Nghị viện Nhật Bản về quan điểm Thái Bình
Dương mới, trong đó nêu rõ: “Tôi nhận thấy thế kỷ XXI sẽ là thế kỷ Thái Bình Dương.
Nhật Bản và Hoa Kỳ có chung quan điểm về tương lai của khu vực châu Á – Thái Bình
Dương là sự giao hảo các nước tự do ở Thái Bình Dương”.
15
Với Max Boot, Project for a New Chinese Century là kế hoạch Bắc Kinh dành cho sự lớn
mạnh của dân tộc.
16
Tuy nhiên, vẫn còn những nhận thức chưa chắc chắn về sự trỗi dậy
của Trung Quốc trong thế kỷ XXI. Như Goldstein lưu ý “một chiến lược thay đổi” bắt
đầu từ những năm 1980 tiếp tục kéo dài trong 30 – 50 năm tới tránh những vấn đề lâu dài
nảy sinh khi Trung Quốc trỗi dậy, do Trung Quốc nhận thấy mục tiêu đạt được các tiêu
chuẩn về sự hùng mạnh và của cải với nền tảng dân số lớn.
17
Quan điểm lâu dài gần đây
của Rennstich cho rằng: Trung Quốc sẽ trỗi dậy vào năm 2080.
Tuy nhiên, giữ can dự thấp nhằm trỗi dậy hoà bình là lý do Trung Quốc không nói nhiều
về việc thế kỷ XXI là thế kỷ của Trung Quốc. Như Wang Yiwei thừa nhận trong Beijing
Review “hiện Trung Quốc giữ mức độ can dự thấp nhưng đang chuẩn bị làm những gì
mình muốn”.
18

Như vậy, sự trỗi dậy mạnh mẽ và nhanh chóng của Trung Quốc với ảnh hưởng ngày càng
được mở rộng ra khắp các khu vực và trên thế giới đang trở thành một thách thức to lớn
13
Campbell Ian. 2004. “The Chinese Century Begins”, Washington Times 1 May
14
Kugler, Jack and Tammen, Ronald and Swaminathan, Siddhart. 2001. “Power Transitions and Alliances in the 21

st
Century”. Asian Perspective 25(3): Page 5 to 29.
15
Bush, George Walker. 2002 “President Discusses Unity Between the US and Japan”, 18 February.
16
Boot, Max. 2005. “Project for a New Chinese Century. Beijing Plans for National Greatness.” Weekly Standard,
11 (4) – 11 October
17
Goldstein, Avril, 2003. “An Emerging China’s Emerging Grand Strategy”. Page 57 to 106
18
Wang Yiwei, 2004 “Beijing Hands Moscow a Long Rope”, Beijing Review 11 November, page 23 (*)
(*) Tất cả chú thích 13, 14, 15, 16, 17, 18 thuộc chú thích của tác giả Lê Khýõng Thùy (chủ biên), Quan hệ Mỹ -
Trung Quốc thập niên ðầu thế kỷ XXI , tài liệu ðã dẫn, 2012
70
Quan hệ Mỹ - Trung trong mười năm đầu thế kỷ XXI
đối với nước Mỹ. Nó là một bài toán khó mà các nhà hoạch định chiến lược Mỹ luôn phải
tính đến mỗi khi điều chỉnh hay hoạch định chiến lược và chính sách của Mỹ đối với khu
vực và thế giới nói chung và với Trung Quốc nói riêng.
III. Một số vấn đề chính sách đối ngoại của Mỹ tác động đến việc hoạch định chính
sách Trung Quốc của Mỹ
Sau khi Chiến tranh lạnh chấm dứt cho đến trước sự kiện 11 – 9, Liên Xô sụp đổ khiến
cho Mỹ mất đi một mối đe doạ rõ rệt, nhưng thế giới vẫn còn đầy rẫy những nguy hiểm
và rối loạn. Mối đe doạ mà Mỹ hiện đang phải đối mặt phân tán hơn, khó đối phó hơn.
Mỹ gặp khó khăn trong việc hoạch định một chính sách đối ngoại rõ ràng. Trong môi
trường an ninh quốc tế, Mỹ phải dựa ngày càng nhiều vào hệ thống kinh tế quốc tế trong
thời đại toàn cầu hoá trong khi phải chú trọng cả về kinh tế, an ninh, dân chủ. Vì vậy,
việc hoạch định và thực thi chính sách đối ngoại bị hạn chế cả về đối nội và đối ngoại.
Sau Chiến tranh Lạnh, với tư cách siêu cường duy nhất và ưu thế chi phối về sức mạnh
kinh tế, quân sự và chính trị, giới cầm quyền Mỹ vừa muốn duy trì vị trí bá chủ thế giới,
vừa muốn thực hiện mục tiêu đó với phí tổn ít nhất. Để thực hiện điều đó, trong chính

sách đối ngoại của mình, các chính quyền Mỹ đã tìm cách cân bằng giữa các học thuyết
đang chi phối chính sách đối ngoại của Mỹ như chủ nghĩa biệt lập và chủ nghĩa can dự,
chủ nghĩa lý tưởng và chủ nghĩa thực dụng. Theo các nhà nghiên cứu, đặc trưng nổi bật
trong chính sách ngoại giao trước đây của chính quyền Clinton là sự kết hợp chủ nghĩa lý
tưởng và chủ nghĩa can thiệp. Nhưng đến nhiệm kỳ hai, khuynh hướng chính sách đối
ngoại đó đã có phần từ chủ nghĩa lý tưởng nghiêng về chủ nghĩa thực dụng và quyền lực
chính trị. Đến chính quyền Obama, chính sách đối ngoại đang được điều chỉnh theo
hướng ngoại giao “thông minh, đối thoại và lắng nghe” từ bỏ đường lối đơn phương
nhằm tạo ra một hình ảnh mới về nước Mỹ.
Vai trò chủ đạo trong việc hoạch định chính sách của Mỹ đối với Trung Quốc – cá nhân
và các cơ quan hoạch định chính sách
Trên thực tế, trong các đời Tổng thống, người ta thấy đều có các cá nhân hoặc cơ cấu
đóng vai trò chủ đạo trong việc hoạch định chính sách đối với Trung Quốc. Vào đầu thập
kỷ 70 của thế kỷ XX, dưới thời kỳ của Nich-xon, Mỹ và Trung Quốc bắt đầu tiếp xúc,
mở đầu cho việc hợp tác chiến lược có ý nghĩa lịch sử, nhằm chống lại các mối đe doạ
chiến lược của Liên Xô. Kissinger là người giữ vai trò then chốt trong các vấn đề Việt
Nam, Liên Xô và Trung Quốc. Và trong nhiệm kỳ Ford, Kissinger vừa là Cố vấn Hội
đồng an ninh quốc gia vừa là Ngoại trưởng Mỹ đã giữ vai trò quyết sách chủ đạo trong
vấn đề Trung Quốc. Hay trong các chính phủ sau đó, trong nhiệm kỳ Tổng thống J.
70
Quan hệ Mỹ - Trung trong mười năm đầu thế kỷ XXI
Carter, Bzrezinski cũng phát huy vai trò cực kỳ quan trọng. Dưới thời Reagan, việc quyết
sách đối với Trung Quốc lại chuyển sang Bộ Ngoại giao và do Ngoại trưởng Haig giữ vai
trò chi phối. Quan hệ quân sự Mỹ - Trung lên cao chưa từng thấy, trong việc giải quyết
vấn đề Đài Loan, chủ trương của Haig ảnh hưởng tới Reagan. Vai trò quan trọng của
Christopher thời Bush cha và Berger thời Clinton có ý nghĩa là quyết sách đối với vấn đề
Trung Quốc của Mỹ, tức là vẫn do Hội đồng An ninh quốc gia lãnh đạo.
Do sự thay đổi của tình hình quốc tế sau Chiến tranh Lạnh, Uỷ ban An ninh quốc gia
trong thời kỳ tổ chức lại, ảnh hưởng suy giảm và không còn giữ vai trò chủ đạo trong
quyết sách đối với Trung Quốc. Dưới thời chính quyền Bush, các Bộ Quốc phòng, Ngoại

giao, Thương mại và Uỷ ban An ninh quốc gia không phải một khối thống nhất vững
chắc, nhất là không hoàn toàn nhất trí về lập trường quan điểm đối với Trung Quốc, làm
cho ý kiến của Chính quyền Bush trở nên đa dạng hơn so với các chính quyền trước,
thiếu nhận thức chung mang tính chủ đạo, thể hiện sự hỗn tạp trong mục tiêu của các
ngành, ở cả sự đối kháng về ý thức hệ, kiềm chế về quân sự, tiếp xúc về kinh tế. Về chính
sách ngoại giao, Bush nghiêng về áp dụng thái độ võ đoán, coi trọng an ninh quân sự
hơn. Hơn nữa, trong các nhà hoạch định chính sách về Trung Quốc thường có hai ý kiến
khác nhau. Thứ nhất, là phái diều hâu trong Bộ Quốc phòng, cánh hữu trong quốc hội,
giới báo chí bảo thủ… mang ý thức thù địch dai dẳng, coi Trung Quốc là “đối thủ tiềm
ẩn”, chủ trương phát triển mối quan hệ Mỹ - Đài Loan. Phái thứ hai do Bộ Ngoại giao,
Bộ Thương mại, Uỷ ban An ninh Quốc gia làm chủ đạo, cùng với các quan chức Bộ quốc
phòng từng trải qua chiến tranh, các học giả và cựu chính khách. Phái này cho rằng Mỹ
cần chú ý đến Trung Quốc như một đối tác. Họ cho rằng sự phát triển của Trung Quốc
mang tính “không xác định”, Rice nói “Trung Quốc đang trong mô hình chuyển đổi mô
hình, kết quả chuyển đổi chưa rõ lắm, nhưng một nước Trung Hoa đi tới pháp trị, mở cửa
thị trường, cuối cùng tiến tới dân chủ, sẽ ảnh hưởng sâu xa tới an ninh và phồn vinh trên
thế giới.” Vì vậy, xét về tổng thể, “”hợp tác chiến lược Mỹ - Trung là tất yếu”. Tuy
nhiên, chính sách của Mỹ đối với Trung Quốc sẽ mang tính hai mặt.
IV. Điều chỉnh chíến lược toàn cầu Châu Á – Thái Bình Dương của Mỹ đối với
Trung Quốc thập niên đầu thế kỷ XXI
Chính sách của Mỹ đối với Trung Quốc trở thành một bộ phận quan trọng tronmg chiến
lược toàn cầu của Mỹ đối với Trung Quốc trở thành một bộ phận quan trọng trong chiến
lược toàn cầu của Mỹ trong thời kỳ sau Chiến tranh Lạnh. Quan hệ Mỹ - Trung là mối
quan hệ quan trọng nhất chi phối các vấn đề khu vực và thế giới.
1. Chiến lược toàn cầu/Châu Á – Thái Bình Dương – cơ sở hình thành chính sách
Trung Quốc của Mỹ sau Chiến tranh Lạnh
70
Quan hệ Mỹ - Trung trong mười năm đầu thế kỷ XXI
a. Mục tiêu chiến lược toàn cầu từ “ngăn chặn Liên Xô sang “duy trì vị trí siêu cường
duy nhất”

Sau Chiến tranh, Mỹ trở thành siêu cường duy nhất trên thế giới, mục tiêu giành vai trò
lãnh đạo thế giới cơ bản được thực hiện. Về sức mạnh tổng lực của Mỹ, báo “Thời đại”
của Cộng hoà Liên bang Đức ra ngày 29 – 9 – 2002 đã mô tả: “nước Mỹ bắt đầu thế kỷ
XXI với tư cách là quyền lực thế giới thực sự duy nhất. Cánh tay quân sự của nó vươn tới
bất cứ điểm nào của địa cầu. Sự thống trị về mặt chính trị của Mỹ đã làm cho nó trở
thành một dân tộc mà người ta không thể từ bỏ. Còn ảnh hưởng về văn hoá của Mỹ thì
lớn tới mức khắp nơi trên thế giới nhiều người coi toàn cầu hoá là một sự Mỹ hoá. Ưu thế
đa chiều này đã làm cho quyền lực của Mỹ trở thành duy nhất.”
19
Đối với Mỹ, George Bush lên nắm quyền trong bối cảnh quốc tế và trong nước hết sức
thuận lợi cho việc công khai khẳng định rõ ưu thế gần như tuyệt đối của Mỹ và tương
ứng với ưu thế đó là vai trò dẫn dắt thế giới.
“Ngày nay, nước Mỹ đang ở vị thế của một nước có sức mạnh quân sự và có tầm ảnh
hưởng to lớn về kinh tế và chính trị mà không ai so sánh được… Ngày nay, nhân loại có
trong tay một cơ hội thúc đẩy sự chiến thắng tự do trước tất cả mọi đối thủ. Nước Mỹ đề
cao tinh thần trách nhiệm để lãnh đạo thế giới trong sứ mệnh vĩ đại này”.
Và theo đà tăng trưởng của sức mạnh tổng hợp quốc gia và thay đổi về địa vị quốc tế, Mỹ
đã kịp thời điều chỉnh chiến lược toàn cầu. Mục tiêu chủ yếu của chiến lược toàn cầu mới
là chuyển từ “ngăn chặn Liên Xô, tranh giành bá quyền với Liên Xô” thành duy trì và
củng cố địa vị “siêu cường duy nhất” Để thực hiện mục tiêu chiến lược này, các nhà
chiến lược Mỹ đã đưa ra chiến lược toàn cầu mới với 3 trụ cột chủ yếu là: đảm bảo an
ninh cho Mỹ và đồng minh, mở rộng kinh tế và triển khai dân chủ trên toàn thế giới.
b. Chiến lược toàn cầu của Mỹ dưới thời B. Clinton
Theo chiến lược này, Chính quyền Clinton đưa ra chiến lược An ninh quốc gia “linh hoạt
và tham dự có lựa chọn” công bố hồi tháng 7 – 1994 dựa trên việc mở rộng cộng đồng
các nền dân chủ theo kinh tế thị trường đồng thời răn đe, ngăn chặn các hiểm hoạ đối với
Mỹ và đồng minh của Mỹ. Trên cơ sở đó, khi tập trung vào các mối đe doạ mới và các cơ
hội mới, thì các mục tiêu chính của Mỹ là: “Tăng cường an ninh của Mỹ qua việc duy trì
tiềm lực phòng thủ mạnh và thúc đẩy các biện pháp hợp tác an ninh; khuyến khích sự
thịnh vượng kinh tế của Mỹ qua việc mở cửa thị trường nước ngoài và thúc đẩy tăng

trưởng kinh tế toàn cầu, thúc đẩy dân chủ ở nước ngoài.”
20
19
Tài liệu tham khảo Đặc biệt, ngày 21 tháng 10 năm 2002, Thông tấn xã Việt Nam
70
Quan hệ Mỹ - Trung trong mười năm đầu thế kỷ XXI
Đến năm 1997, Chính quyền Bill Clinton công bố “Chiến lược An ninh quốc gia thế kỷ
mới” đánh dấu lần điều chỉnh chiến lược lần ba. Chiến lược này xác định phương châm
chú trọng răn đe thực tế và thách thức lâu dài nhằm đối phó với mối đe doạ xung đột khu
vực cũng như ngăn chặn phổ biến vũ khí hạt nhân, vũ khí hoá học và sinh học, phòng
ngừa khả năng xuất hiện một nước lớn có thể thách thức vị trí lãnh đạo của Mỹ sau 2010
– 2015. Dựa vào sức mạnh ngày càng tăng, vào cuối nhiệm kỳ thứ hai, Chính quyền
Clinton tăng cường can thiệp vào các cuộc xung đột khắp nơi trên thế giới như cuộc
không kích chống Nam Tư ở Kosovo, cuộc can thiệp vào Somali… Điều này cho thấy là
Chính quyền Bill Clinton đã bắt đầu điều chỉnh chính sách tăng cường quân sự cứng rắn
và cường quyền hơn cùng với việc gia tăng chi phí quân sự lần đầu tiên kể từ cuối thời kỳ
R. Reagan. Đồng thời, để tăng cường sức mạnh và lợi ích kinh tế của Mỹ, Chính quyền
Bill Clinton ủng hộ mạnh mẽ quá trình toàn cầu hoá coi trọng và thúc đẩy các thể chế
quốc tế đa phương cũng như các tổ chức phi chính phủ đa quốc gia.
Thực chất, chiến lược của chính quyền Clinton nhằm mục tiêu chủ yếu là duy trì vị trí
siêu cường duy nhất của Mỹ thời kỳ sau Chiến tranh Lạnh trên cơ sở mở rộng can thiệp
và dân chủ kiểu phương Tây trên thế giới.
c. Chiến lược toàn cầu của Mỹ dưới thời George Bush
Khi lên nắm quyền, G. Bush đặt lợi ích của Mỹ lên trên hết dựa trên sức mạnh quân sự,
kinh tế bằng mọi cách bảo đảm vai trò bá chủ thế giới của Mỹ, chủ trương can thiệp theo
chiều sâu trên cơ sở chủ nghĩa đơn phương.
Bảo vệ an ninh, mở rộng phát triển kinh tế và mở rộng quan niệm giá trị Mỹ luôn là ba
trụ cột lớn không thay đổi của chính sách ngoại giao Mỹ từ thời Bill Clinton đến G. Bush.
Tuy nhiên nếu như thời Bill Clinton chú trọng hơn vào chính sách đối nội với việc mở
rộng và phát triển kinh tế lên vị trí hàng đầu trong ba trụ cột lớn và tìm cách cải thiện

quan hệ với các địch thủ cũ, thì G. Bush là kết hợp chặt chẽ ngoại giao với quốc phòng,
kinh tế với quốc phòng và ngày càng coi trọng vấn đề an ninh quân sự hơn với thời Bill
Clinton. Ông đã tuyên bố sẽ tăng ngân sách quốc phòng năm 2002 lên đến 310 tỷ USD
tăng 14 tỷ USD so với năm 2001.
21
Chiến lược an ninh của Mỹ chuyển từ “nguyên tắc
cân bằng lợi ích các bên” sang “nguyên tắc đơn phương uy hiếp có hiệu lực”. Chính sách
này của G. Bush đã tạo nên sự căng thẳng trong quan hệ quốc tế giữa Mỹ với các nước
lớn và tác động không nhỏ đến các nước khác ở trong khu vực.
20
Clinton B. (1994), Chiến lược An ninh Quốc gia “can dự và mở rộng”, July (Tài liệu tham khảo Đặc biệt, ngày 21
tháng 10 năm 2002, Thông tấn xã Việt Nam)
21
Theo Lưu Phi Kiện, “Động hướng chính sách châu Á – Thái Bình Dương của chính quyền Bush”, T/C Trung
Quốc: Tầm nhìn, số 16, 4 – 2001, TKCN 1 – 7 – 2001
70
Quan hệ Mỹ - Trung trong mười năm đầu thế kỷ XXI
Như vậy, rõ ràng đã có những điều chỉnh Chiến lược an ninh quốc gia, nhưng tư tưởng
chiến lược an ninh của Mỹ trước sự kiện 11 – 9 vẫn tiếp tục tuân theo quan niệm an ninh
truyền thống “ngăn chặn và răng đe” với những đối tượng chủ yếu là các nước thù địch
tiềm tàng như Trung Quốc, Nga và các nước “không lương thiện”.
Sau sự kiện 11 – 9: sự kiện ngày 11 – 9 đã làm thay đổi đánh giá chiến lược của Mỹ. Mỹ
cho rằng chiến lược “ngăn chặn, răn đe” trước đây không còn hiệu quả nữa trước những
mối đe doạ mới. Vì vậy, Mỹ đã điều chỉnh chiến lược toàn cầu, chống khủng bố trở thành
mục tiêu hàng đầu, coi trọng ngăn chặn phổ biến vũ khí huỷ diệt và trừng trị các thế lực
Hồi giáo cực đoan.
Sau sự kiện ngày 11 – 9, Mỹ lợi dụng vị thế người bị hại và ưu thế nội lực tổng hợp của
mình nhằm khẳng định tính đơn cực hoá của trật tự thế giới mới và tăng cường can thiệp
toàn diện. Chính quyền Bush đã thúc đẩy nhanh tốc độ điều chỉnh chiến lược phòng vệ.
Trên thực tế, Mỹ đã thành công trong việc thành lập một liên minh chống khủng bố quốc

tế rộng lớn, chưa từng có trong lịch sử do Mỹ lãnh đạo, tăng cường vị trí trung tâm của
mình trong các nước đồng minh, tranh thủ sự ủng hộ của đa số các nước các quốc gia liên
quan; điều chỉnh quan hệ với Nga, Trung Quốc, Ấn Độ, Pakistan; tăng cường vai trò và
địa vị lãnh đạo của Mỹ trong các công việc quốc tế. Lợi dụng cơ hội chưa từng có do sự
kiện 11 – 9 đem lại, Mỹ chiếm vị thế đỉnh cao trong việc chi phối nền chính trị thế giới,
định ra luật chơi chống khủng bố trên phạm vi toàn cầu. Chính quyền Bush phân chia thế
giới thành hai nhóm nước chống khủng bố hay là khủng bố, thực chất là đi với Mỹ hay
chống Mỹ. Phạm vi chống khủng bố trên phạm vi toàn cầu hàm ẩn trong tuyên bố của
George Walker Bush là: “Chúng ta sẽ chiến đấu với những kẻ khủng bố không chỉ là trên
chiến trường này (Afghanistan). Hàng nghìn kẻ khủng bố được huấn luyện vẫn còn tự do
với các tổ chức ở Bắc Mỹ, Nam Mỹ, châu Âu, Trung Đông và khắp châu Á.”
22
Sau thắng lợi ở Afghanistan, sự can thiệp đơn phương của Mỹ ngày càng trở nên thô bạo
hơn. Chính quyền Bush đã đưa ra Học thuyết Chiến lược An ninh mới, khẳng định Mỹ có
quyền tiến hành tiến công trước nhằm vào các quốc gia có thể gây ra hiểm hoạ tiềm tàng.
Các chuyên gia nghiên cứu cho rằng, lý luận “chủ động tiến công” mà chính quyền Mỹ
đưa ra gần đây đã đánh dấu sự thay đổi về tư duy an ninh quốc gia của Mỹ, nó đứng trên
ưu thế áp đảo để chủ động tấn công và giành thắng lợi. Nhìn thổng thể, mục tiêu chiến
lược của Mỹ không có gì thay đổi nhiều, nhưng nét nổi bật hiện nay là ngày càng coi
trọng thủ đoạn quân sự để đạt được mục tiêu.
22
George Walker Bush, “Tăng cường các liên minh để đánh bại chủ nghĩa khủng bố toàn cầu và hành động để ngăn
chặn các cuộc tấn công của Mỹ và bạn bè của chúng ta”, Washington D. C. (Nhà hát Lớn quốc gia), ngày 14 – 9 –
2001, Tài liệu tham khảo đặc biệt, Thông tấn xã Việt Nam, 11 – 2002.
70
Quan hệ Mỹ - Trung trong mười năm đầu thế kỷ XXI
Nhìn chung, Chiến lược An ninh Quốc gia của Mỹ đã trải qua một số lần điều chỉnh,
nhưng tư tưởng chiến lược chủ đạo vẫn là: “ngăn chặn, răn đe” mang tính phòng thủ hiện
thực. Trọng điểm tiến hành điều chỉnh chiến lược của Mỹ là đặt việc chống chủ nghĩa
khủng bố và ngăn ngừa sự vươn lên của các nước lớn thách thức vai trò lãnh đạo thế giới

của Mỹ vào vị trí tương đối cân bằng. Vì sự “trả đũa” của Mỹ sẽ được áp dụng không chỉ
với các lực lượng khủng bố mà cả với các đối thủ “tiềm tàng” của Mỹ.
23
Như vậy, khi mới lên nắm quyền, Chính quyền Bush đã điều chỉnh chiến lược từ “ngăn
chặn, răn đe” sang chiến lược “đòn tấn công phủ đầu” trước nhằm thiết lập trật tự thế giới
mới do Mỹ đứng đầu với chủ nghĩa đơn phương.
Nhiệm kỳ thứ hai: Mặc dù đạt được một số kết quả nhất định trong việc tạo dựng một
liên minh quốc tế chống khủng bố toàn cầu, nhưng trong bối cảnh cục diện quốc tế có
nhiều biến đổi mạnh mẽ khiến cho chính quyền Bush hết sức lo lắng. Đó là việc còn lâu
thì chủ nghĩa khủng bố mới bị bứng rễ tận gốc. Đặc biệt, Mỹ còn bị sa lầy trong cuộc
chiến Iraq kéo dài với nhiều tổn thất gây nên làn sóng phản đối chiến tranh diễn ra liên
tục trong nước Mỹ; vấn đề hạt nhân của khu vực Bắc Triều Tiên kéo dài; sự trỗi dậy của
các nước lớn như Trung Quốc, Ấn Độ; các đồng minh Liên minh châu Âu cũng có vấn
đề; phong trào “cánh tả” của khu vực Mỹ Latinh phát triển mạnh… Tất cả những vấn đề
này đã khiến cho trào lưu chủ nghĩa biệt lập bắt đầu quay trở lại trong nước Mỹ. Và trên
thực tế, chính quyền Bush đã phải tiếp tục điều chỉnh chiến lược của mình theo hướng đa
phương hơn, đặc biệt nhấn mạnh thúc đẩy dân chủ với phạm vi mở rộng ra toàn thế giới,
chứ không còn bó gọn trong thế giới Hồi giáo.
Như vậy, sự điều chỉnh chiến lược toàn cầu mới của Chính quyền Bush là việc tiếp tục và
đi sâu hơn nữa sự điều chỉnh chiến lược của Mỹ từ sau sự kiện 11 – 9 đến nay. Đó là sự
tổng kết mang tính giai đoạn của chiến lược đối ngoại đối với các vấn đề như chống
khủng bố, chiến tranh Iraq, cùng những tính toán mới trước thay đổi môi trường quốc tế
hiện nay. Nội dung chủ yếu của cuộc điều chỉnh lần này bao gồm những ý tưởng của các
học thuyết do các nhà lãnh đạo hàng đầu của Mỹ đưa ra như: “Thuyết về thúc đẩy dân
chủ”, “Thuyết về chiến tranh ý thức thế hệ mới” của Bush, “Thuyết về cách mạng ngoại
giao” của C. Rice, “Thuyết về chuyển đổi mô hình quân sự” của Rumsfeld, và thuyết về
“Bên liên quan lợi ích có trách nhiệm” của R. Zoellick. Những luận thuyết đó được thể
hiện trong một số văn kiện nhà nước quan trọng, tiêu biểu là “Báo cáo Chiến lược An
ninh Quốc gia”, các bài phát biểu của Bush cùng các chính khách quan trọng khác, hàng
loạt điều chỉnh mới về quân sự ngoại giao của Mỹ.

23
Tài liệu tham khảo số 8 – 2002, Thông tấn xã Việt Nam.
70
Quan hệ Mỹ - Trung trong mười năm đầu thế kỷ XXI
2. Chiến lược châu Á – Thái Bình Dương của Mỹ - cụ thể hoá ba trụ cột chiến lược
của Mỹ
a. Trọng điểm chính sách của Mỹ chuyển mạnh sang châu Á – Thái Bình Dương
Sau Chiến tranh Lạnh, chính phủ Mỹ thực hiện chiến lược “can dự và mở rộng” trong đó
lấy lục địa Âu, Á làm trung tâm với hai cánh là Thái Bình Dương và Đại Tây Dương,
đồng thời liên tục điều chỉnh chiến lược châu Á – Thái Bình Dương. Với sự phát triển
mạnh mẽ của kinh tế toàn cầu hoá, chính quyền Clinton đã hoàn thành việc điều chỉnh
chiến lược toàn cầu mới từ mô hình an ninh truyền thống sang mô hình an ninh tổng hợp,
trọng điểm chuyển dần sang châu Á – Thái Bình Dương. Còn khi G. Bush lên nắm
quyền, Mỹ càng tập trung hơn nữa đến khu vực châu Á – Thái Bình Dương. Chính quyền
Bush lấy chủ nghĩa hiện thực truyền thống làm cơ sở, theo đuổi lợi ích an ninh tuyệt đối
của Mỹ, thể hiện rõ chính sách coi Trung Quốc là đối thủ chiến lược chủ yếu, nâng cấp
quan hệ Mỹ - Nhật Bản lên vị trí số một, hâm nóng quan hệ Mỹ - Ấn, làm dịu quan hệ
với Triều Tiên, thúc đẩy nhanh việc xây dựng hệ thống kiềm chế và bao vây chiến lược
lấy đồng minh Mỹ - Nhật Bản làm trung tâm, lấy quan hệ quân sự song phương và đa
phương làm điểm tựa, nhất là tăng nhanh mức độ kiểm soát với khu vực Châu Á – Thái
Bình Dương.
b. Các mục tiêu cụ thể của chiến lược Châu Á – Thái Bình Dương của Mỹ
Để thực hiện các mục tiêu chiến lược toàn cầu đối với khu vực châu Á – Thái Bình
Dương, Mỹ phải giữ được “vai trò lãnh đạo chủ chốt” để không cho bất cứ cường quốc
nào nổi lên chống lại Mỹ, đồng thời phải thúc đẩy kinh tế thị trường và tự do dân chủ có
lợi cho Mỹ. Theo đó, các mục tiêu cụ thể của Mỹ đối với khu vực châu Á – Thái Bình
Dương là:
- Không cho bất kỳ một quốc gia riêng lẻ hay một liên minh nào được phép thống trị khu
vực;
- Không cho bất kỳ quốc gia nào giành được thế mạnh quân sự và tạo ra mối đe doạ trực

tiếp đối với các quốc gia láng giềng;
- Bảo đảm sự lưu thông hàng hoá và tài nguyên trong khu vực và giữa khu vực này với
Mỹ;
- Khuyến khích các nhà đầu tư và các chế độ cam kết sự cởi mở về chính trị và tăng khả
năng kinh tế cho các công dân của họ;
70
Quan hệ Mỹ - Trung trong mười năm đầu thế kỷ XXI
- Tăng cường sáng kiến của các quốc gia khu vực nhằm hợp tác một cách chặt chẽ với
Mỹ trong các mục tiêu hoàn chỉnh về an ninh, kinh tế và chính trị.
Căn cứ vào các mục tiêu chiến lược toàn cầu và chiến lược châu Á – Thái Bình Dương
nêu trên của Mỹ, có thể thấy rõ chính sách đối với Trung Quốc là một bộ phận quan
trọng trong việc hoạch định chiến lược của Mỹ. Đặc biệt hiện nay, khi Trung Quốc đang
trỗi dậy với ảnh hưởng ngày càng lớn ở khu vực và thế giới thì mối quan tâm của Mỹ đối
với một Trung Quốc lớn mạnh ngày càng tăng, đó là làm thế nào để dẫn dắt Trung Quốc
trỗi dậy đi theo con đường có lợi cho Mỹ? Điều này có quan hệ chặt chẽ với việc hoạch
định chính sách Trung Quốc của Mỹ.

70
Quan hệ Mỹ - Trung trong mười năm đầu thế kỷ XXI
Chương 2: CHÍNH SÁCH CỦA MỸ VỚI TRUNG QUỐC VÀ THỰC
TRẠNG QUAN HỆ MỸ - TRUNG QUỐC THẬP NIÊN ĐẦU THẾ KỶ XXI
I. CHÍNH SÁCH CỦA MỸ ĐỐI VỚI TRUNG QUỐC THẬP NIÊN ĐẦU THẾ KỶ XXI
1. Mục tiêu chính sách của Mỹ đối với Trung Quốc sau Chiến tranh Lạnh
Sau Chiến tranh Lạnh, trên cơ sở ba trụ cột chiến lược toàn cầu và các mục tiêu chiến
lược Châu Á – Thái Bình Dương, Mỹ đã điều chỉnh chiến lược đối với Trung Quốc theo
hướng tăng thêm phần kiềm chế trong chiến lược chính sách. Bởi vì, một là, cơ sở chiến
lược của hợp tác liên minh Trung Quốc – Mỹ đối kháng Liên Xô đã tan vỡ. Hai là, sau
khi Liên Xô giải thể, Trung Quốc trở thành quốc gia cộng sản nắm chính quyền lớn nhất
mà sự kiện 4/6/1989 vẫn không làm thay đổi về chất đối với Đảng Cộng sản sau khi họ
tiến hành cải cách mở cửa. Ba là, sau khi Liên Xô tan rã, các nhà chiến lược Mỹ đã tìm

kiếm đối thủ chiến lược mới, và một quốc gia – kinh tế phát triển nhanh chóng, đất đai
rộng lớn, dân số đông, lại kiên trì con đường xã hội chủ nghĩa như Trung Quốc đã trở
thành một đối tượng mà Mỹ quan tâm theo dõi.
Nhưng mặt khác, một trụ cột khác trong chiến lược an ninh toàn cầu của Mỹ là “mở rộng
kinh tế” nên Mỹ cần có sự hợp tác của Trung Quốc. Bởi vì các nguyên nhân sau đây: Thứ
nhất, để mở rộng kinh tế, Mỹ cần phải khai thác thị trường nước ngoài. Thứ hai, nếu Mỹ
muốn thúc đẩy dân chủ ở Trung Quốc thì họ phải tiếp xúc với Trung Quốc. Thứ ba, sau
Chiến tranh lạnh, Mỹ quan tâm nhiều hơn tới mối đe doạ của nhân tố phi an ninh truyền
thống như phổ biến vũ khí hạt nhân, chủ nghĩa khủng bố… và càng chú trọng đến an ninh
và ổn định của khu vực châu Á – Thái Bình Dương. Vì vậy, Mỹ cần sự hợp tác của Trung
Quốc và các nước lớn khác. Tuy nhiên, đối với mối đe doạ an ninh truyền thống, nhiệm
vụ chủ yếu cảu Mỹ là ngăn chặn sự trỗi dậy của các đối thủ cạnh tranh tiềm tàng và
Trung Quốc là một trong những đối tượng mà Mỹ cần ngăn chặn.
24
Như vậy, có thể thấy Mỹ có những mục tiêu rõ ràng trong chính sách đối với Trung
Quốc. Thứ nhất, tăng cường quan hệ kinh tế với Trung Quốc để thu được lợi ích to lớn từ
nền kinh tế mới đầy tiềm năng này. Thứ hai, gây sức ép để mở rộng giá trị phương Tây ở
Trung Quốc. Thứ ba, ngăn chặn những mối đe doạ tiềm tàng của Trung Quốc đối với Mỹ
ở khu vực cũng như toàn thế giới.
2. Chính sách Trung Quốc của chính quyền B. Clinton
a. Nhiệm kỳ đầu của Chính quyền Bill Clinton
24
Nguyễn Thị Canh, Quan hệ Mỹ - Trung Quốc sau chiến tranh lạnh (1989 – 2000)
70
Quan hệ Mỹ - Trung trong mười năm đầu thế kỷ XXI
Chính sách đối với Trung Quốc do chính quyền Bill Clinton đề ra vừa nhằm mục đích
thúc đẩy những mục tiêu chính sách phục vụ cho ưu thế vượt trội của Mỹ, vừa thúc đẩy
mở rộng dân chủ, thị trường trên toàn thế giới. Ở nhiệm kỳ đầu, chính sách đối với Trung
Quốc của Clinton không thống nhất do khuynh hướng của Chính quyền Clinton muốn
xoa dịu cả các nhóm lợi ích và Quốc hội. Clinton đã gắn cấp quy chế tối huệ quốc cho

Trung Quốc vào mục tiêu thúc đẩy nhân quyền, một nhiệm vụ mà sau đó ông đã thừa
nhận là không thể.
b. Nhiệm kỳ thứ hai của Chính quyền Bill Clinton
Trong nhiệm kỳ này, Clinton bắt đầu xây dựng chính sách đối với Trung Quốc trên một
khuôn khổ có tính xây dựng hơn. Nguyên nhân của sự điều chỉnh chính sách này là do
Chính quyền Clinton nhận ra rằng họ cần có sự hợp tác của Trung Quốc trong việc giải
quyết vấn đề cấm phổ biến vũ khí hạt nhân, hoà bình và ổn định trên bán đảo Triều Tiên,
tổ chức và phối hợp giải quyết các vấn đề ở cấp độ khu vực và toàn cầu. Ngoài ra, chính
quyền Bill Clinton đã phải điều chỉnh sang chính sách “can dự”, chuyển từ ảnh hưởng
quân sự sang ảnh hưởng kinh tế.
Trên cơ sở chính sách can dự, chính quyền Clinton chủ trương coi Trung Quốc như một
“đối tác mang tính xây dựng” và đề ra hai mục tiêu: thứ nhất, theo đuổi sự quan tâm và
lợi ích của Mỹ ở mức độ thích hợp, thứ hai là cố gắng xây dựng sự tin cậy lẫn nhau và
thoả thuận trong các lĩnh vực Mỹ quan tâm.
Trên cơ sở các mục tiêu đó, Chính quyền Clinton đã đưa ra chính sách “cam kết toàn
diện”, thực hiện các biện pháp như
- Tăng cường các quan hệ và tiếp xúc kinh tế, thương mại với Trung Quốc để thúc đẩy
nước này phát triển dân chủ.
- Đưa ra chính sách “ba không” đối với Đài Loan, một chính sách được đánh giá rõ ràng
về vấn đề Đài Loan. Bên cạnh đó, Mỹ vẫn đồng thời, dùng chính sách kiềm chế dựa trên
“tinh thần cảnh giác chiến lược” đối với Trung Quốc thông qua các biện pháp như:
- Dùng quy chế tối huệ quốc gây sức ép trong vấn đề kinh tế;
- Dùng vấn đề nhân quyền, Tây Tạng, Tân Cương để gây sức ép về chính trị;
- Tăng cường hợp tác an ninh – quân sự với các nước xung quanh Trung Quốc để kiềm
chế Trung Quốc.
Tóm lại, trong hai nhiệm kỳ của Bill Clinton, chiến lược của Mỹ đối với Trung Quốc là
tiếp xúc và ngăn chặn, nhưng tiếp xúc là chủ yếu. Để thực hiện các mục tiêu trên, đối với
70
Quan hệ Mỹ - Trung trong mười năm đầu thế kỷ XXI
khu vực châu Á – Thái Bình Dương, Mỹ phải giữ được vai trò lãnh đạo chủ chốt để

không cho bất cứ một cường quốc nào nổi lên chống lại Mỹ, đồng thời phải thúc đẩy kinh
tế thị trường và tự do dân chủ có lợi cho Mỹ. Tuy nhiên, chính sách này của Mỹ trên thực
tế cũng đã thất bại vì Trung Quốc đã không đáp ứng yêu cầu của Mỹ đưa ra, đặc biệt là
vấn đề nhân quyền. Điều này đã làm cho Mỹ phải thiên về những biện pháp cứng rắn,
gây sức ép từ bên ngoài buộc Trung Quốc phải thay đổi hệ thống chính trị trong nước vào
cuối những năm 90 thế kỷ XX.
3. Chính sách Trung Quốc của chính quyền George Bush
a. Nhiệm kỳ thứ nhất của chính quyền G. W Bush
Sau khi lên nắm quyền, G. W. Bush điều chỉnh lại chiến lược toàn cầu. Trong ba trụ cột
chiến lược nói trên, Mỹ nhấn mạnh trụ cột an ninh. Chính quyền Bush chủ trương can
thiệp theo chiều sâu, dựa trên chính sách đơn phương đối với nhiều vấn đề quốc tế. Trên
cơ sở tư duy chiến lược đó, Chính quyền Bush chú trọng vấn đề an ninh quân sự, chủ
trương thực hiện ‘ngăn chặn, răn đe” với những đối tượng chủ yếu là các nước thù địch
tiềm tàng như Trung Quốc, Nga và các nước “không lương thiện” như Iran, Bắc Triều
Tiên… Xác định Trung Quốc là “đối thủ cạnh tranh chiến lược” chứ không phải là “đối
tác chiến lược”.
Thực tế, ngay từ đầu Chính quyền Bush có cách tiếp cận khác hoàn toàn trong giải quyết
các vấn đề quốc tế. Trong chiến dịch bầu cử năm 2000, các cố vấn cho Bush ủng hộ cách
sử dụng sức mạnh của Mỹ để thúc đẩy lợi ích quốc gia, xây dựng các liên minh an ninh
và cương quyết đối với các đối thủ tiềm năng. Trừ một số ngoại lệ, hầu hết cố vấn cao
cấp về chính sách đối ngoại đều là những người có tư tưởng bảo thủ, cứng rắn, từng phục
vụ trong Chính quyền Reagan và Bush cha trước đây. Họ phê phán cách tiếp cận của
chính quyền Bill Clinton là quá mềm mỏng, thiếu quyết đoán, chỉ quan tâm tới chủ nghĩa
đa phương mà không tập trung vào kết quả cuối cùng, và điều này cũng có thể là do thiên
hướng của nền chính trị Mỹ.
Ít nhất có hai khác biệt cơ bản giữa chính quyền Clinton và chính quyền Bush trong
hoạch định chính sách với Trung Quốc. Đó là: thứ nhất thay vì xem Trung Quốc như là
một đối tác chiến lược, Chính quyền Bush nêu đặc trưng quan hệ với Trung Quốc một
cách phức tạp hơn, trong đó hai nước vừa có thể hợp tác trên một số vấn đề cụ thể, nhưng
nhìn chung có xu hướng cạnh tranh hơn trên các vấn đề khác. Thứ hai là sự khác biệt về

cách tiếp cận chính sách. Nếu Clinton tìm cách gắn những tiến bộ về nhân quyền với cấp
quy chế tối huệ quốc cho Trung Quốc hoặc điều chỉnh những bất đồng trong các vấn đề
cụ thể nhằm xem xét những bối cảnh rộng hơn trong quan hệ hai bên thì Bush thông qua

×