Tải bản đầy đủ (.doc) (39 trang)

PHÂN TÍCH, NHẬN XÉT TÌNH HÌNH LẠM PHÁT CỦA VIỆT NAM TRONG NHỮNG NĂM QUA (20062012). HÃY SO SÁNH VỚI THỜI KÌ SIÊU LẠM PHÁT THẬP NIÊN 80

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (555.47 KB, 39 trang )

BỘ CÔNG THƯƠNG
TRƯỜNG ĐẠI HỌC CÔNG NGHIỆP TP HỒ CHÍ MINH
KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ
BÀI TIỂU LUẬN
ĐỀ TÀI: PHÂN TÍCH, NHẬN XÉT TÌNH HÌNH LẠM PHÁT
CỦA VIỆT NAM TRONG NHỮNG NĂM QUA (2006-2012).
HÃY SO SÁNH VỚI THỜI KÌ SIÊU LẠM PHÁT THẬP NIÊN 80
GVHD:
MSHP:
NHÓM: 4D
TP. Hồ Chí Minh, tháng 6 năm 2013
DANH SÁCH NHÓM
4D
STT HỌ VÀ TÊN MSSV
1 Nguyễn Hoàng Khang
2 Đinh Trọng Nghĩa
3 Hoàng Thị Thu Hường
4 Nguyễn Thị Đào
5 Dương Lưu Thùy Trang
6 Thạch Sà Khum
7 Nguyễn Định Phát
NHẬN XÉT CỦA GIÁO VIÊN
………………………………………………………………………
………………………………………………………………………
………………………………………………………………………
………………………………………………………………………
………………………………………………………………………
………………………………………………………………………
………………………………………………………………………
………………………………………………………………………
………………………………………………………………………


………………………………………………………………………
………………………………………………………………………
………………………………………………………………………
………………………………………………………………………
………………………………………………………………………
………………………………………………………………………
………………………………………………………………………
………………………………………………………………………
………………………………………………………………………
………………………………………………………………………
………………………………………………………………………
………………………………………………………………………
………………………………………………………………………
………………………………………………………………………
………………………………………………………………………
………………………………………………………………………
………………………………………………………………………
………………………………………………………………………
………………………………………………………………………
………………………………………………………………………
………………………………………………………………………
………………………………………………………………………
………………………………………………………………………
………………………………………………………………………
………………………………………………………………………
………………………………………………………………………
………………………………………………………………………
………………………………………………………………………
PHẦN I: MỞ ĐẦU
Trong sự nghiệp phát triển kinh tế xã hội của các quốc gia trên thế giới và ở Việt

Nam, lạm phát nổi lên là một vấn đề đáng quan tâm về tác động của nó đối với sự
nghiệp phát triển kinh tế. Lạm phát là một trong những chỉ tiêu đánh giá trình độ
phát triển kinh tế của một quốc gia nhưng cũng là một trong những trở ngại lớn nhất
trong công cuộc phát triển đất nước. Lạm phát được coi như là một căn bệnh thế kỷ
của nền kinh tế thị trường. Càng ngày, cùng với sự phát triển đa dạng phong phú
của nền kinh tế thì nguyên nhân dẫ đến lạm phát cũng ngày càng trở nên phức tạp
hơn.Đối với nước ta, trong sự nghiệp phát triển kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa có sự điều tiết của nhà nước, cơ chế mới sẽ là môi trường thúc đẩy sự
phát triển của nền kinh tế theo xu hướng hiện đại, chắc lọc thừa kế những thành tựu
và khắc phục những tồn tại đã qua. Trong đó, lạm pháp nổi lên như là mộtvấn đề
hết sức nghiêm trọng. Vì vậy, việc nguyên cứu về lạm phát, tìm hiểu nguyên nhân
và các biện pháp chống lạm phát là hết sức cần thiết và có vai trò to lớn góp phần
vào sự nghiệp phát triển của đất nước.
Từ năm 1976 đến nay, Việt Nam trải qua hai giai đoạn phát triển chính được đánh
dấu bằng mốc khởi đầu đổi mới năm 1986 : nền kinh tế chuyển từ kế hoạch hóa tập
trung sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Trong cả hai giai
đoạn này, lạm phát luôn là mọt vấn đề được quan tâm hang đầu trong các chính
sách và chến lược phát triển, nhất là trong những thời điểm lạm phát dâng cao như
nửa cuối thập niên 1970 – nửa đầu thập niên 1980 và lại nổi lên từ năm 2006 cho
đến nay.
Lạm phát ở nước ta giai đoạn 2006 cho đến nay có tác động sâu rộng đến các lĩnh
vực của đời sống xã hội. Với sự điều hành quản lý của nhà nước đã phần nào ngăn
chặn, khắc phục nhưng tác động của lạm phát, tình hình ngày càng được ổn định.
Tuy nhiên, lạm phát vẫn chưa thật sự được đẩy lùi mà còn có nguy cơ quay trở lại,
diễn biến một cách phức tạp. Vì thế, việc tìm hiểu lạm phát trong thời gian qua về
nguyên nhân, diễn biến, tác động, giải pháp… sẽ giúp ta có một cái nhìn tổn quan
hơn, đúc kết được kinh ngiệm để xây dựng chiến lược phát triển đất nước trong thời
gian sắp tới.
PHẦN II : NỘI DUNG
CHƯƠNG I : TÓM TẮT CHƯƠNG LẠM PHÁT

1.2 Các quan niệm về lạm phát
Đối với vấn đề lạm phát có rất nhiều trường phái với nhiều cách tiếp cận khác nhau
và mỗi trường phái đều có những lý luận khác nhau :
1.2.1 Trương phái lưu thông tiền tệ
Theo trường phái lạm phát "lưu thông tiền tệ" (đại diện là Miltơn Priedman) họ cho
rằng lạm phát tiền tệ là đưa nhiều tiền thừa vào lưu thông làm cho giá cả hàng hoá
tăng lên. Chúng ta đều biết rằng không phải bất cứ số lượng tiền nào tăng lên trong
lưu thông với nhịp điệu nhanh hơn sản xuất cũng đều là lạm phát, nếu như nhà
nước không giảm bớt nội dung vàng hoặc giá trị tượng trưng trong đồng tiền để bù
đắp cho bội chi ngân sách. K.Mazx đã chỉ ra rằng ý nghĩ về lạm phát của học
thuyết này là quá đơn giản. Những người theo học thuyết này đã dùng logic hình
thức để kết hợp một cách máy móc hiện tượng tăng số lượng tiền với hiện tượng
tăng giá để rút ra bản chất kinh tế của lạm phát.
1.1.2 Trường phái cầu kéo
Trường phái lạm phát do cầu kéo mà đại diện là J.Keynes cho rằng. Lạm phát là
"cầu dư thừa tổng quát cho phát hành tiền ra quá mức sản xuất trong thời kỳ toàn
dụng dẫn đến mức giá chung tăng. Chúng ta nhận thức được rằng nói lạm phát là
"cầu dư thừa tổng quát" là không chính xác, vì trong giai đoạn khủng hoảng ở thời
kỳ CNTB phát triển mặc dù có khủng hoảng sản xuất thừa mà không có lạm phát.
Còn ở Việt Nam trong năm 1991 có tình trạng cung lớn hơn cầu mà vẫn có lạm phát
giá cả và lạm phát tiền tệ. Tuy Keynes đã tiến sâu hơn trường phái lạm phát lưu
thông tiền tệ là không lấy hiện tượng bề ngoài, không coi điều kiện của lạm phát là
nguyên nhân của lạm phát nhưng lại mắc sai lầm về mặt logíc là đem kết quả của
lạm phát quy vào bản chất của lạm phát. Khái niệm của Keynes vẫn chưa nên được
đúng bản chất kinh tế - xã hội của lạm phát.
1.1.4 Trường phái lạm phát và giá cả
Trường phái lạm phát giá cả họ cho rằng lạm phát là sự tăng giá. Thực
chất lạm phát chỉ là một trong nhiều nguyên nhân của tăng giá. Có những
thời kỳ giá mà không có lạm phát như: thời kỳ "cách mạng giá cả" ở thế kỷ
XVI ở châu Âu, thời kỳ hưng thịnh của một chu kỳ sản xuất, những năm

mất mùa tăng giá chỉ là hệ quả là một tín hiệu dễ thấy của lạm phát nhưng
có lúc tăng giá lại trở thành nguyên nhân của lạm phát. Lạm phát xảy ra là
do tăng nhiều cái chứ không phải chỉ đơn thuần do tăng giá. Vì vậy quan
điểm của trường phái này đã lẫn lộn giữa hiện tượng và bản chất, làm cho
người ta dễ ngộ nhận giữa tăng giá và lạm phát.
1.1.4 Trường phái K.Marx
K.Marx đã cho rằng "lạm phát là sự tràn đầy các kênh, các luồng lưu
thông những tờ giấy bạc thừa làm cho giá cả (mức giá) tăng vọt và việc phân
phối lại sản phẩm xã hội giữa các giai cấp trong dân cư có lợi cho giai cấp tư
sản. Ở đây Marx đã đứng trên góc độ giai cấp để nhìn nhận lạm phát, dẫn tới
người ta có thể hiểu lạm phát là do nhà nước do giai cấp tư bản, để bóc lột
một lần nữa giai cấp vô sản. Quan điểm này có thể xếp vào quan điểm lạm
phát "lưu thông tiền tệ" song định nghĩa này hoàn hảo hơn vì nó đề cấp tới
bản chất kinh tế - xã hội của lạm phát. Tuy nhiên nó có nhược điểm là cho
rằng lạm phát chỉ là phạm trù kinh tế của nền kinh tế tư bản chủ nghĩa và
chưa nêu được ảnh hưởng của lạm phát trên phạm vi quốc tế.
Trên đây là các quan điểm của các trường phái kinh tế học chính. Nói
chung các quan điểm đều chưa hoàn chỉnh, nhưng đã nêu được một số mặt
của hai thuộc tính cơ bản của lạm phát. Bàn lạm phát là vấn đề rộng và để
định nghĩa được nó đòi hỏi phải có sự đầu tư sâu và kỹ càng.
Chúng ta có thể dễ chấp nhận quan điểm của trường phái giá cả, (ở
nước ta và nhiều nước quan niệm này tương đối phổ biến). Sở dĩ như vậy là
vì thế kỷ XX là thế kỷ lạm phát, lạm phát hầu như diễn ra ở tuyệt đại bộ
phận các nước mà sự tăng giá lại là tín hiệu nhạy bén, dễ thấy của lạm phát.
Như vậy chúng ta sẽ hiểu đơn giản là "lạm phát là sự tăng giá kéo dài, là sự
thừa các đồng tiền trong lưu thông, là việc nhà nước phát hành thêm tiền
nhằm bù đắp bội chi ngân sách". Hay lạm phát là chính sách đặc biệt nhanh
chóng và tối đa nhất trong các hình thức phân phối lại giá trị vật chất xã hội
mà giai cấp cầm quyền sử dụng để đáp ứng nhu cầu chi tiêu. Nhưng nói
chung lạm phát là một hiện tượng của các nền kinh tế thị trường

1.2 Phân loại lạm phát
1.2.1 Căn cứ vào định lượng gồm:
* Lạm phát vừa phải :Còn gọi là lạm phát một con số ,có tỷ lệ lạm
phát dưới 10% một năm .Lạm phát vừa phải làm cho giá cả biến động tương
đối. Trong thời kì này nền kinh tế hoạt động một cách bình thường ,đời sống
của người lao động ổn định .Sự ổn định đó được biểu hiện : Giá cả tăng chậm
,lãi xuất tiền gửi không cao ,không xảy ra tình trạng mua bán và tích trữ hàng
hoá với số lượng lớn …
Có thể nói đây là mứ clạm phát mà nền kinh tế chấp nhận được ,những
tác động của nó là không đáng kể
*Lạm phát phi mã : lạm phát xảy ra khi giá cả tăng tương đối nhanh
với tỷ lệ 2 con số 1 năm . Ở mức 2 con số thấp :11,12% thì nói chung các
tác động tiêu cực không đáng kể và nền kinh tế vẫn có thể chấp nhận được.
Nhưng khi tăng đến hai chữ số cao thì lạm phát sẽ làm cho giá cả chung tăng
lên nhanh chóng ,gây biến động lớn về kinh tế ,các hợp đồng được chỉ số
hoá. Lúc này người dân tích trữ hàng hoá ,vàng bạc ,bất động sản và không
bao giờ cho vay tiền ở mức lãi xuất bình thường .Như vậy lạm phát sẽ làm
ảnh hưởng xấu đến sản xuất và thu nhập vì những tác động tiêu cực của nó
không nhỏ .Bên cạnh đó lạm phát phi mã còn là mối đe doạ đối với sự ổn
định của nền kinh tế
* Siêu lạm phát : 3 con số một năm xảy ra khi lạm phát đột biến tăng
lên với tốc độ rất nhanh ,tỷ lệ lạm phát cao .Tốc độ và tỷ lệ siêu lạm phát
vượt xa lạm phát phi mã ,nó như một căn bệnh chết người ,tốc độ lưu thông
tiền tệ tăng kinh khủng ,giá cả tăng nhanh và không ổn định ,tiền luơng thục
tế của người lao động bị giảm mạnh ,tiền tệ mất giá nhanh chóng ,thông tin
không còn chính xác ,các yếu tố thị trường biến dạng và hoạt động sản xuất
khin doanh lâm vào tình trạng rối loạn ,mất phương hướng .Tóm lại ,siêu
lạm phát làm cho đời sống và nền kinh tế suy sụp một cách nhanh chóng
.Tuy nhiên siêu lạm phát rất ít xảy ra .
1.2.2Căn cứ vào định tính :

* Lạm phát cân bằng và lạm phát không cân bằng .
- Lạm phát cân bằng : Tăng tương ứng với thu nhập thực tế của
người lao động ,tăng phù hợp với hoạt động sản xuất kinh doanh của các
doanh nghiệp .Do đó không gây ảnh hưởng đến đời sống hàng ngày của
người lao động và dến nền kinh tế nói chung.
-Lạm phát không cân bằng :Tăng không tương ứng với thu nhập của
người lao động.Trên thực tế loại lạm phát này cũng thường hay xảy ra .
*Lạm phát dự đoán trước được và lạm phát bất thường
- Lạm phát dự đoán trước : là loại lạm phát xảy ra hàng năm trong
một thời kì tương đối dài và tỷ lệ lạm phát ổn định đều đặn .Loại lạm phát
này có thể dự đoán trước được tỷ lệ của nó trong các năm tiếp theo.Về mặt
tâm lý ,người dân đã quen với tình trạng lạm phát đó và đã có sự chuẩn bị
trước.Do đó không gây ảnh hưởng đến đời sống ,đến kinh tế .
- Lạm phát bất thường: xảy ra đột biến mà có thể từ trước chưa xuất
hiện .Loại lạm phát này ảnh hưởng đến tâm lý ,đời sống người dân vì họ
chưa kịp thích nghi .Từ đó mà loại lạm phát này sẽ gây ra biến động đối với
nền kinh tế và niềm tin của nhân dân vào chính quyền có phần giảm sút .
Đối với các nước đang phát triển lạm phát thường kéo dài , do đó các nhà kinh tế
đã chia lạm phát thành 3 loại với tỷ lệ khác nhau : lạm phát kinh liên kéo dài trên
3 năm với tỷ lệ lạm phát dưới 50% một năm ,lạm phát nghiêm trọng thường kéo
dài hơn 3 năm với tỷ lệ lạm phát trên 50% và siêu lạm phát kéo dài trên một năm
với tỷ lệ lạm phát trên 200% một năm .
1.3Nguyên nhân lạm phát
1.3.1 Lạm phát do cầu kéo :
Đây chính là sự mất cân đối trong quan hệ cung – cầu. Nguyên nhân
chính là do tổng cầu tăng quá nhanh trong khi tổng cung không tăng hoặc
tăng không kịp , hay nói cách khác là nền king tế đã vượt qua mức sản lượng tiềm
năng của nó . Lúc này thì đồng tiền cầu sẽ vượt quá mức cung hàng hóa có giới hạn
và sẽ làm cho chúng tăng giá . Trong nền kinh tế thị trường thì lao động cũng là một
dịch vụ , trong thời gian đó thị trường lao động trở nên khan hiếm nên tăng lương

cũng là một phần của quá trình lạm phát .
Khi nền kinh tế đạt tới hoặc vượt qua mức sản lượng tiềm năng , việc tăng mức
cầu dẫn tới lạm phát do cầu kéo . Vì tổng mức chi đối với C + I + G tăng , chi tiêu
tăng lên trong khi có một mức cung hạn chế về sản lượng thực tế , phần lớn tổng
mức chi cao hơn dẫn đến giá cả cao hơn . Do đó chính mức cầu cao hơn kéo giá lên
cao hơn , đó là lạm phát do cầu kéo
1.3.2 Lạm phát do chi phí đẩy :
Hình thức của lạm phát do chi phí đẩy phat sinh từ phía cung ,do chi
phí sản xuất cao hơn đã được chuyển sang người tiêu dùng .Điều này chỉ có
thể đạt trong giai đoạn tăng trưởng kinh tế khi người tiêu dùng sẵn sàng trả
với giá cao hơn .Ví dụ : Nếu tiền lương chiếm một phần đáng kể trong chi
phí sản xuất và dịch vụ và nếu tiền lương tăng nhanh hơn năng suất lao
động thì tổng chi phí sản xuất sẽ tăng lên .Nếu nhà sản xuất có thể chuyển
việc tăng chi phí này cho người tiêu dùng thì giá bán sẽ tăng lên ,công nhân
và các công đoàn sẽ yêu cầu tiền lương cao hơn trước đẻ phù hợp với chi phí
sinh hoạt tăng lên điều đó tạo vòng xoáy lượng giá .
Một yếu tố chi phí khác là giá cả nguyên nhiên vật liệu tăng do tỷ giá
tăng hoặc khả năng khả thác hạn chế.Một ví dụ điển hình cho thấy giá cả
nguyên nhiên vật liệu là giá dầu thô tăng .Trong năm 1972-1974 hầu như
giá dầu quốc tế tăng 5 lần dẫn đến lạm phát tăng từ 4,6% đến 13,5% bình
quân trên qoàn thế giới .Ngoài ra sự suy sụp của giá dầu (1980) làm cho lạm
phát giảm xuống mức thấp chưa từng thấy .
Bên cạnh đó giá cả nhập khẩu cao hơn được chuyển cho người tiêu dùng nội
địa cũng là một yếu tố gây lên lạm phát .Nhập khẩu càng trở lên đắt đỏ khi
đồng nội tệ yếu đi hợac mất giá so với đồng tiền khác
1.3.3 Lạm phát do cung tiền tệ tăng cao và liên tục
Theo quan điểm của các nhà kinh tế học thuộc phía tiền tệ ,khi cung
tiền tệ tăng lên kéo dài làm cho mức giá tăng lên kéo dài và gây ra lạm phát
.Có thể thấy ngưỡng tăng cung tiền để gây lạm phát là nền kinh tế toàn dụng
.Khi nền kinh tế chưa toàn dụng thì nguồn nguyên nhiên vật liệu còn nhiều

,chưa khai thác nhiều .Có nhiều nhà máy xí nghiệp bị đóng cửa chưa đi vào
hoạt động .Do đó nhân viên nhàn rỗi lớn và tỷ lệ thất nghiệp cao … Trong
trường hợp này ,khi tăng cung tiền thì dẫn đến lãi suất giảm đến một mức độ
nào đó ,các nhà đầu tư thấy rằng có thể có lãi và đầu tư tăng nhiều.từ đó các
nhà máy ,xí nghiệp mở cửa để sản xuất ,kinh doanh .Lúc này nguyên nhiên
vật liệu bắt đầu được khai thác ,người lao động có việc làm và sản lượng
tăng lên .
Ở nền kinh tế toàn dụng ,các nhà máy ,xí nghiệp được hoạt động hết
công suất ,nguồn nguyên nhiên vật liệu được khai thác tối đa .Khi đó lực
lượng lao động được sử dụng một cách triệt để và làm sản lượng tăng lên rất
nhiều.Tuy nhiên tình hình sẽ dẫn đến một vài kênh tắc nghẽn trong lưu
thông .Chẳng hạn khi các nhà máy ,xí nghiệp hoạt động hết công suất sẽ dẫn
đến thiếu năng lượng ,thiếu lao động ,nguyên vật liệu dần bị han hiếm
…Vai trò của chính phủ và các nhà quản lý phải xác định được kênh lưu
thông nào bị tắc nghẽn và tìm cách khơi thông nó .Nếu không sẽ gây ra lạm
phát.Lúc đó sản lượng không tăng mà giá cả tăng nhiều thì lạm phát tất yếu
sẽ xảy ra .
Trong việc chống lạm phát các Ngân hàng trung ương luôn giảm sút
việc cung tiền .
Trường hợp tăng cung tiền có thể đạt được bằng hai cách :
Ngân hàng trung ương in nhiều tiền hơn (khi lãi xuất thấp và điều
kiện kinh doanh tốt ) hoặc các ngân hàng thương mại có thẻ tăng tín dụng
.Trong cả hai trường hợp sẵn có lượng tiền nhiều hơn cho dân cư và chi phí
.Về mặt trung và dài hạn ,điều đó dẫn đến cầu và hàng hoá và dịch vụ tăng
.Nếu cung không tăng tương ứng với cầu thì việc dư cầu sẽ được bù đắp
bằng việc tăng giá.Tuy nhiên giá cả sẽ không tăng ngay nhưng nó sẽ tăng
sau đó 2-3 năm .In tiền để trợ cấp cho chi tiêu công cộng sẽ dẫn đến lạm
phát nghiêm trọng .Ví dụ năm 1966-1967 ,chính phủ Mỹ đã sử dụng việc
tăng tiền để trả cho những chi phí leo thang của cuộc chiến tranh taị Việt
Nam ,lạm phát tăng từ 3%(năm 1967) đến 6% (năm 1970).

Xét trong dài hạn lãi xuất thực tế (i) và sản lượng thực tế (Y) đạt mức cân
bằng ,nghĩa là (i) và (Y) ổn định .Mức cầu tiền thực tế không đổi nên M/P
cũng không đổi .Suy ra khi lượng tiền danh nghĩa (M) tăng lên thì giá cả sẽ
tăng lên với tỷ lệ tương ứng .Vậy lạm phát là một hiện tượng tiền tệ .Đây
cũng chính là lý do tại sao Ngân hàng Trung ương rất chú trọng đến nguyên
nhân này.
1.3.4 Các nguyên nhân khác
Ngoài các nguyên nhân chủ yếu đã đề cập ở trên ,một số các nguyên
nhân khác cũng gây ra lạm phát .Thứ nhất có thể kể đến là tâm lý của dân cư
.Khi người dân không tin tưởng vào đồng tiền của Nhà nước ,họ sẽ không
giữ tiền mà đẩy vào lưu thông bằng việc mua hàng hoá dự trữ hoặc đầu tư
vào một lĩnh lực kinh doanh nào đó … Như thế cầu sẽ tăng lên mà cung cấp
không đáp ứng được cân bằng cung cầu trên thị trường hang hoá không còn
nữa và tiếp tục đẩy giá lên cao ,từ đó lạm phát sẽ xảy ra .Có thể thấy giá cả
tăng lên làm tiêu dùng tăng ,cứ như vậy sẽ gây ra xoáy ốc lạm phát.Thứ hai
thâm hụt ngân sách cũng có thể là một nguyên nhân dẫn đến tăng cung ứng
tiền tệ và gây ra lạm phát cao.
Khi chính phủ lâm vào tình trạng thâm hụt ngân sách thì có thể khắc
phục bằng cách phát hành trái phiếu chính phủ để vay vốn từ người dân
nhằm bù đắp phần thiếu hụt .Biện pháp này không làm ảnh hưởng đến cơ số
tiền và do vậy mà làm tăng mức cung ứng tiền tệ và không gây ra lạm phát
.Tuy nhiên khi sự thâm hụt trầm trọng và kéo dài thì chính phủ phải áp dụng
biện pháp in tiền.Việc phát hành tiền sẽ ảnh hưởng đến cơ số tiền tệ làm
tăng mức cung ứng tiền ,đẩy tổng cầu lên cao và làm tăng thêm tỷ lệ lạm
phát .Tuy nhiên,đối với các nước đang phát triển ,việc phát hành trái phiếu
chính phủ gặp nhiều khó khăn vì nguồn vốn trên thị trường còn hạn chế
.Biện pháp in tiền được coi là có hiệu quả nhất .Vì thế mà khi thâm hụt ngân
sách càng nhiều và càng kéo dài thì tiền tệ sẽ tăng theo và tỷ lệ gây lạm phát
càng lớn.
Còn đối với những quốc gia có nền kinh tế phát triển thì việc phát

hành trái phiếu có lợi hơn.Nhưng việc phát hành này kéo dài sẽ làm cầu về
vốn sẽ tăng và lãi xuất tăng cao hơn .Lúc này để giảm lãi xuất trên thị
trưòng Ngân hàng Trung ương lại phải mua vào các trái phiếu đó .Như thế
mức cung tiền lại tăng lên và dễ gây lạm phát.
Tóm lại , nếu như thâm hụt ngân sách kéo dài thì trong mọi trường
hợp vẫn làm tăng cung tiền và lạm phát xảy ra là một điều chắc chắn.
Một nguyên nhân nữa có thể gây ra lạm phát là tỷ giá hối đoái .Khi tỷ
giá tăng đồng bản tệ sẽ bị mất giá Khi đó tâm lý những người sản xuất trong
nước muốn đẩy giá hàng lên tương ứng với mức tăng tỷ giá hối đoái .Mặt
khac khi tỷ giá hối đoái tăng ,chi phí cho các nguyên vật liệu ,hàng hoá nhập
khẩu sẽ tăng lên .Do đó giá cả của các hàng hoá này tăng lên cao.Đây chính
là lạm phát do chi phí đẩy
Bên cạnh đó các nguyên nhân liên quan đến chính sách của nhà nước
,chính sách thuế ,chính sách cơ cấu kinh tế không hợp lý ,mất cân đối cũng
xảy ra lạm phát.
1.4 Tác động của lạm phát
1.4.1 Lạm phát không dự kiến được
*Tác động đến lĩnh vực sản xuất
-Tiêu cực : tỷ lệ lạm phát cao sẽ làm cho giá đầu vào và giá đầu ra biến động
không ngừng gây ra sự mất ổn định đối với nhà sản xuất. Sự mất giá của đồng tiền
làm cho nghiệp vụ kế toán không còn chính xác nữa. Những doanh nghiệp có tỷ
xuất lợi nhuận thấp sẽ có nguy cơ phá sản rất lớn.
-Tích cực : khi lạm phát xảy ra với một tỷ lệ chấp nhận được thì sẽ có lợi cho nền
kinh tế. Lãi xuất giảm khuyến khích doanh nghiệp gia tăng vốn đầu tư để mở rộng
sản xuất. Đồng thời cũng khuyến khích tiêu dùng làm cho hàng hóa được bán chạy
hơn. Do đó, lúc này lạm phát sẽ có tác dụng kích thích tăng trưởng kinh tế.
*Tác động đến lĩnh vực lưu thông
Lạm phát thúc đẩy quá trình đầu cơ, tích trữ dẫn đến khan hiếm hàng hóa, làm mất
cân đối quan hệ cung cầu trên thị trường. Đồng thời do đồng tiền đang bị mất giá
nên không ai muốn giữ tiền. Tiền nhanh chóng bị đẩy ra kênh lưu thông. Do có

nhiều người tham gia vào lưu thông nên lĩnh vực này trỏ nên hỗn loạn, tốc độ lưu
thông tiền tăng vọt và điều này càng thúc đẩy lạm phát gia tăng.
*Tác động đến lĩnh vực tiền tệ, tín dụng
Lạm phát làm cho quan hệ thương mại, tín dụng, ngân hàng bị thu hẹp. Lượng tiền
gửi vào ngân hàng giảm mạnh nên không đáp ứng được nhu cầu của người đi vay,
cộng với việc giảm sút quá nhanh của đồng tiền, sự điều chỉnh lãi suất tiền gửi
không làm an tâm những các nhân, doanh nghiệp đang có lượng tiền nhàn rỗi trong
tay. Ngân hàng gặp khó khăn trong viêc huy động vốn, hệ thông ngân hàng phải
luôn cố gắng duy trì mức lãi suất ổn định. Lãi suất thực = lãi suất danh nghĩa - tỷ
lệ lạm phát. Khi tỷ lệ lạm phát cao, muốn lãi suất thực tế ổn định thì lãi suất danh
nghĩa phải tăng lên cùng với tỷ lệ lạm phát. Trong khi đó, người đi vay là những
người có lợi từ sự mất giá của đồng tiền. Do vậy hoạt động của hệ thống ngân hang
không còn bình thường nữa, chức năng kinh doanh tiền tệ bị hạn chế.
*Tác động đến cán cân ngân sách – chính sách tài chính của nhà nước
Lạm phát gây ra sự biến động lớn trong giá cả và sản lượng hàng hóa. Khi lạm phát
xảy ra thì những thộng tin trong xã hội bị phả hủy do biến động của giá cả và làm
cho thị trường bị rối loạn. Khi đó khó cố thể phân biệt được doanh nghiệp làm ăn
tốt hay kém. Đồng thời làm cho nhà nước thiếu vốn, giảm các nguồn thu. Do đó,
các khoản chuyển nhượng, trợ cấp, phúc lợi xã hội hay các khoản đầu tư của nhà
nước trong các ngành nghề, lĩnh vực đều bị cắt giảm. Một khi ngân sách nhà nước
bị thâm hụt thì các mục tiêu cải thiên và nâng cao đời sống kinh tế xã hội sẽ không
có điều kiện thực hiện.
*Tác động làm phân phối lại của cải trong xã hội
Lạm phát có xu hướng phân phối lại của cải từ những người có tài sản với lãi suất
danh nghĩa cố định sang tay những người có những khoản nợ với lãi suất danh
nghĩa cố định.
1.5.2 Lạm phát dự kiến được
Trong trường hợp lạm phát dự kiến được, ta có thể chủ đông ứng phó. Tuy nhiên,
nó vẫn gây ra nhứng tổn thất nhất định. Lạm phát làm thay đổi giá một cách không
mong muốn.

* Khi lạm phát xảy ra, một số doanh nghiệp tăng giá, bên cạnh đó cũng có một số
doanh nghiệp không tăng giá do không muỗn phát sinh thêm một số chi phí khi
tăng giá. Do vậy có một sự chênh lệch giứa các doanh nghiệp tăng giá và các
doanh nghiệp không tăng giá. Do nền kinh tế thị trường phân bổ nguồn lực dựa
trên giá tương đối nên lạm phát đã dẫn tới tình trạng kém hiệu quả xét trên gốc độ
vi mô.
*Lạm phát còn gây ra sự nhầm lẫn bất tiện. Đồng tiền được sử dụng để làm thước
đo giá trị. Khi có lạm phát, thước đo này bị co giãn. Vì thế gây khó khăn cho quá
trình ra quyết định của cá nhân, tổ chức.
*Đồng thời, lạm phát còn làm phát sinh các chi phí như in ấn, phát hành bảng giá,
bảng quảng cáo mới…
1.6 Chính sách và biện pháp trong thời kì lạm phát
1.5.1 Biện pháp đối phó với lạm phát
1.5.1.1Những biện pháp tình thế
*Chính sách đóng băng tiền tệ : giảm lượng tiền trong nền kinh tế bằng cách ngưng
phát hành tiền vào kênh lưu thông. Đồng thời, dừng các nghiệp vụ làm tăng lượng
cung ứng tiền tệ như dừng các nghiệp vụ chiết khấu và tái chiết khấu đối với các tổ
chức tín dụng,dừng việc mua vào các chứng khoán ngắn hạn, không phát hành tiền
bù đắp bội chi ngân sách. Bên cạch đó còn có các biện pháp làm giảm lượng tiền
cung ứng như ngân hàng trung ương bán ra các chứng khoán ngắn hạn, bán ngoại tệ
, phát hành các công cụ nợ của chính phủ để vay tiền trong nền kinh tế để bù đắp
cho thâm hụt ngân sách, tăng lãi suất tiền gửi
*Thi hành chính sách thắt chặt tài chính như tạm hoãn nhứng khoản chi không cần
thiết, cân đối lại ngân sách và cắt giảm chi tiêu đến mức có thể.
*Tăng lượng hàng hóa tiêu dùng để cân đối với lượng tiền trong lưu thông bằng
cách khuyến khích tự do mậu dịch, giảm thuế quan…
*Đi vay hoặc xin viện trợ từ nước ngoài
*Cải cách tiền tệ. Đây là biện pháp cuối cùng khi các biện pháp kia không hiệu quả.
1.5.1.2Những biện pháp chiến lược
*Biện pháp chiến lược hàng đầu để ổn định tiền tệ trong nền kinh tế là thúc đẩy

phát triển sản xuất hàng hóa và mở rộng lưu thông hàng hóa vì khi nền sản xuất
phát triển sẽ tạo tiền đề vững chắc cho sự ổn đinh tiền tệ.
*Kiện toàn bộ máy hành chính, cắt giảm biên chế quản lý hành chính. Đây là biện
pháp nhằm giảm thiểu khoản thâm hụt ngân sách nhà nước.
*Tăng cường công tác quản lý điều hành nhà nước trên cơ sở tăng các khoản thu
một cách hợp lý, chống thất thu đặc biệt là thất thu về thuế, nâng cao hiệu quả của
các khoản chi ngân sách.
1.5.2Chính sách lạm phát
1.5.3 Mối quan hệ giữa lạm phát và tăng trưởng kinh tế
Trong thời gian gần đây một số nhà kinh tế cho rằng tỷ lệ lạm phát của Việt Nam
bằng tốc độ tăng trưởng là tốt cho sự phát triển kinh tế. Phải chăng đó là lạm phát
tối ưu cho tăng trưởng kinh tế?
Giữa lạm phát và tăng trưởng thường có mối quan hệ nhất định. Tuy nhiên mức độ
gắn kết như thế nào vẫn còn là vấn đề tranh cãi. Đó là hai mặt của xã hội, là hai vấn
đề trong nền kinh tế. Có thể coi lạm phát là kẻ thù của tăng trưởng kinh tế nhưng nó
là hai vấn đề luôn tồn tại song song với nhau. Cố định lạm phát ở mức thấp là môi
trường kinh tế vĩ mô thuận lợi để khuyến khích tiết kiệm, mở rộng đầu tư và thúc
đẩy tăng trưởng kinh tế. Một số nghiên cứu cho thấy, lạm phát tác động tiêu cực
đến tăng trưởng kinh tế khi nó vượt qua một ngưỡng nhất định. Và mối quan hệ
giữa lạm phát và tăng trưởng kinh tế là mối quan hệ phi tuyến tính.
Nghiên cứu gần đây nhất của M.Khan và A.Senchadji (năm 2005), các tác giả đã sử
dụng kỹ thuật phân tích hiện đại nhất để kiểm định mối quan hệ giữa lạm phát và
tăng trưởng. Một lần nữa kết quả cho thấy giữa chúng có mối tương quan dương và
trên mức đó lạm phát gây ảnh hưởng tiêu cực đến tăng trưởng.
Một phát hiện rất có hiệu quả của các tác giả là mức ngưỡng đó khác nhau ở các
nước khác nhau. Ở các nước công nghiệp, mức ngưỡng này rất thấp khoảng 1- 3%;
còn ở các nước đang phát triển mức đó vào khoảng 7 – 11%. Dựa trên cơ sở lý
thuyết và kinh nghiệm quốc tế, diễn biến lạm phát và tăng trưởng kinh tế của Việt
Nam trong thời gian qua, nhiều nhà kinh tế cho rằng mức lạm phát tối ưu của nền
kinh tế Việt Nam là ở mức 5 – 7%.

Thực tế trên cả lý thuyết và cả thực tiễn đều cho thấy mối quan hệ giữa lạm phát và
tăng trưởng kinh tế đều biểu diễn bằng hình chữ “U” ngược. Điều đó hàm ý rằng
tồn tại một phạm vi lạm phát an toàn khi mà lạm phát và tăng trưởng quan hệ cùng
chiều. Trong trường hợp đó lạm phát là cái giá phải trả của tăng trưởng kinh tế.
Nới lỏng chính sách tài khóa và tiền tệ có xu hướng tăng lạm phát, mặt khác sẽ có
tác dụng khuyến khích đầu tư, mở rộng tổng cầu và do vậy cho phép sử dụng hiệu
quả hơn các nguồn lực hiện có và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Nhiều nước dã sử
dụng chính sách này để tăng trưởng kinh tế. Đây là giải pháp thúc đẩy nhanh nhưng
kém bền vững, nó còn được gọi là giải pháp tăng trưởng “ bong bóng” . Lạm phát
quá cao chắc chắn sẽ ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế.
Các nước phát triển chọn giải pháp tăng trưởng kinh tế thực chất, đó là dựa trên cơ
sở lạm phát ở mức thấp. Trong nền kinh tế thị trường, lạm phát ổn định thì hiệu quả
của việc dự báo được nâng cao. Điều đó giúp các nhà đầu tư có thể xây dựng các
phương án đầu tư hiệu quả, còn đối với người tiêu dùng thì yên tâm chi tiêu, không
phải cân nhắc các mặt hàng khác thay thế do giá tăng. Tất cả các điều đó góp phần
vào tăng trưởng thực chất.
Tuy nhiên cũng phải hiểu rằng lạm phát ổn định chỉ là điều kiện đủ cho tăng trưởng
kinh tế còn điều kiện cần phải là vấn đề của chính phủ trong việc phát triển nguồn
lực, vốn, công nghệ kỹ thuật…
1.5.4 Lạm phát theo mục tiêu
1.5.4.1Giới thiệu lạm phát mục tiêu (LPMT)
Tại nhiều nước lạm phát được coi là vấn đề kinh tế - xã hội rất nghiêm trọng. Một
khi nền kinh tế có lạm phát ở mức cao độ sẽ làm giảm tiết kiệm, sụp đổ đầu tư, các
nguồn vuốn trong nước sẽ chạy ra nước ngoài. Lạm phát còn làm giảm tốc độ tăng
trưởng kinh tế, mất khả năng thực hiện những kế hoạch dài hạn và tạo nên sự căng
thẳng quốc gia.
Trên thế giới có nhiều nước lấy khối lượng tiền (M2 hay M3) hoặc tỷ giá làm mục
tiêu trung gian để điều hành Chính sách tiền tệ (CSTT) của quốc gia. Tuy nhiên
sang những năm 90, nhiều nước công nghiệp phát triển đã phá lệ truyền thống trong
việc xây dựng các mục tiêu trung gian tương tự mà tập trung tâm điểm vào chỉ số

lạm phát. Cách tiếp cận mới này tập trung vào việc kiểm soát lạm phát và được gọi
là lạm phát mục tiêu, một cơ chế điều hành CSTT tương đối mới. Đi đầu áp dụng là
ở Niu – Dilân ( năm 1990).
Vậy tại sao phải áp dụng LPMT?
Thực tế chỉ ra rằng việc mau chóng đạt được 1 vài mục tiêu ( tạo thêm việc làm
hoặc tăng trưởng kinh tế…) với sự trợ giúp của CSTT mở rộng sẽ không tránh khỏi
lạm phát gia tăng dẫn đến việc xung đột nguyên tắc ổn định giá. Từ đó nhận ra rằng
đạt được ổn định giả mới là yếu tố tiên quyết thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Hay nói
cách khác mục tiêu cơ bản nhất của CSTT là ổn định giả cả, bên cạnh đó tập trung
vào các mục tiêu kinh tế khác như tạo thêm việc làm, tạo sự nhịp nhàng giữa lao
động sản xuất và việc làm trong ngắn hạn… nhưng không được xung đột với
nguyên tắc cơ bản nhất là ổn định giá cả. Theo lời của nhà kinh tế học nổi tiếng
F.Mishkin: “ Tập trung phát triển sức mạnh kinh tế sẽ đến sau khi thực hiện các
phương pháp kiềm chế lạm phát, đối với các nước tiến hành kế hoạch hóa lạm
phát… có thể kết luận rằng lạm phát mục tiêu sẽ củng cố quá trình phát triển kinh tế
và thêm vào đó kiềm chế được lạm phát”
Ưu việc cơ bản nhất của LPMT là nó không bị can thiệp bởi các chỉ số kinh tế vĩ
mô khác như các mục tiêu trung gian truyền thống (M2, M3, tỷ giá). Một điểm khác
biệt nữa so với các cơ chế điều hành khác là nó tạo cho NHTW một sự tự do và linh
hoạt trong việc điều hành CSTT.
1.5.4.4 Đặc điểm của lạm phát mục tiêu
Lạm phát mục tiêu có thể được miêu tả như một cơ chế điều hành CSTT dựa trên
nền tảng việc sử dụng việc dự báo lạm phát làm mục tiêu trung gian. Ngân hàng
trung ương (NHTW) sẽ dự báo xu hướng lạm phát năm tới để đưa ra chỉ số lạm
phát mục tiêu ( là một con số cụ thể hay một khoảng biên độ) cho năm kế hoạch mà
không có trách nhiệm thực hiện bất kỳ một mục tiêu nào khác. Trong giới hạn của
mình, NHTW có thể sử dụng bất kỳ công cụ nào để chỉ đạt một mục tiêu duy nhất
là chỉ số lạm phát mục tiêu.
Tuy nhiên không phải bất kỳ nước nào cũng có thể thực hiện được LPMT. Kinh
nhiệm từ các nước áp dụng LPMT đã chỉ ra sự cần thiết phải có những điều kiện tối

thiểu để áp dụng lạm phát mục tiêu trong điều hành CSTT là:
 Lạm phát chỉ có thể áp dụng ở những nước mà ở đó có thể đảm bảo được
lạm phát ở mức thấp không chỉ trên hình thức mà cả trên thực tế.
 NHTW cần có một mức độc lập tương đối để thực thi CSTT. Mắc dù trên
thực tế không có một NHTW nào có thể hoàn toàn dộc lập khỏi sự ảnh
hưởng của chính phủ. Để thực hiện yêu cầu này, quốc gia cần từ bỏ nguyên
tắc “ngân sách chi phối” cũng như các vấn đề thuộc chính sách tài khóa
không được gây bất cứ ảnh hưởng nào đến CSTT và các thị trường tài chính
trong nước phải có đủ độ sâu để “nuốt chửng” các đợt phát hành nợ của
chính phủ. Chính phủ phải có cơ sở nguồn thu rộng rãi và không đưa vào hệ
thống nguồn thu bù đắp của chính phủ là nguồn thu từ in tiền.
 NHTW phải có khả năng thực hiện lạm phát mục tiêu và không có trách
nhiệm với bất kỳ mục tiêu khác như: tiền lương, mức thất nghiệp hay tỉ giá
Lạm phát mục tiêu cũng có một số nhược điểm khi việc áp cụng không thỏa mãn
một số điều kiện của nó:
 Khi năng lực điều tiết của CSTT không cao sẽ đẩy NHTW vào vòng lẩn
quẩn trong việc lựa chọn ưu tiên giữa các cơ chế điều hành (tỷ giá, lạm phát
và khối lượng tiền) của CSTT.
 Khi áp dụng LPMT , NHTW sẽ phải chịu trách nhiệm chính thức trong việc
thực hiện CSTT để đạt được chỉ số mục tiêu dựa trên dự báo chỉ số lạm phát
do chính phủ đưa ra. Khi đó dự báo lạm phát được xem như là mục tiêu
trung gian của CSTT, vì vậy không ít người đã không đề cập đến lạm phát
mục tiêu mà chỉ nói đến dự báo lạm phát mục tiêu.
1.5.4.5 Quy trình thực hiện LPMT
Quy trình của LPMT khá đơn giản, bản chất của nó bao gồm: NHTW dự đoán xu
hướng lạm phát năm sau, dự báo này được so với chỉ số mục tiêu mà NHTW mong
muốn đạt được, khoảng cách chênh lệch giữa chỉ số dự báo và chỉ số mục tiêu sẽ
nói lên mức độ mà CSTT cần điều chỉnh. Tuy nhiên trên thực tế vẫn đề kỹ thuật
thực hiện quy trình này khá phức tạp và khác nhau ở các nước. Vấn đề kỹ thuật bao
gồm:

*Công bố mục tiêu lạm phát
Khi tiếp cận với vấn đề công bố chỉ số lạm phát mục tiêu, có sự khác nhau rõ rệt
giữa các quốc gia. Chỉ số lạm phát mục tiêu có thể do NHTW tự mình công bố như
ở Phần Lan, Thụy Điển, Tây Ban Nha… cũng có thể là do thỏa thuận giữa NHTW
và Bộ tài chính như ở Canada… Ở đâu tính độc lập của NHTW càng cao thì ở đó
NHTW càng phải chịu trách nhiệm quản trị cơ chế lạm phát mục tiêu.
Công bố lạm phát dự báo duy nhất sẽ giúp cho dư luận hiểu được sự mong muốn
thực hiện được CSTT. Nếu không sẽ làm cho xã hội hiểu lầm về tính minh bạch của
chính sách.
*Xác định chỉ số lạm phát mục tiêu
Tầm nhìn mục tiêu: Tầm nhìn mục tiêu chính là quãng thời gian mà quốc gia đó có
thể đạt được và duy trì kế hoạch mục tiêu đã đề ra. Việc xác định tầm nhìn mục tiêu
phụ thuộc rất nhiều vào tỷ lệ lạm phát tại thời điểm bắt đầu thực hiện cơ chế LPMT.
Chỉ số giá cả: Hầu hết các nước áp dụng LPMT đều dùng CPI làm công cụ nền
tảng. Bởi CPI có những lợi thế riêng như : tính quãng bá rộng rãi đối với xã hội,
được công bố và tính toán thường xuyên.
1.5.4.4 Khả năng áp dụng LPMT ở các nước đang phát triển và ở ViệtNam
*Ở những nước đang phát triển
Một câu hỏi đặt ra là ở các nước đang phát triển có nên áp cụng lạm phát mục tiêu
không? Bởi ở các nước đang phát triển có những điểm giống và khác nhau riêng
biệt, đặc biệt là trong CSTT và thị trường vốn. Một mặt chúng giống nhau ở: cải tổ
thị trường vốn, mở cửa tham gia vào thị trường vốn quốc tế, nâng cao tác dụng công
cụ gián tếp của CSTT… Nhưng chúng khác nhau rõ rệt về các chỉ số như: tỷ lệ lãi
suất, mức độ phát triển của thị trường vốn nội địa… Do đó rất khó khăn trong việc
đánh giá khả năng áp dụng LPMT, thậm chí không thể phân nhóm một cách thỏa
đáng đối với các nước đang phát triển.
Như đã nói ở phần trên, những điều kiện cần thiết để áp dụng LPMT là tính độc lập
với ngân sách và trách nhiệm bắt buộc của NHTW đối với các chỉ tiêu khác. Đây là
các vấn đề mà hiện tại các nước đang phát triển gặp phải. Ngoài ra khi xem xét khả
năng áp dụng ở các nước đang phát triển những trở ngại cơ bản nhất là thu nhập của

chính phủ dựa vào nguồn in tiền, thị trường tài chính trong nước yếu kém và hệ
thống ngân hàng không ổn định.
Dựa vào nguồn in tiền: chú trọng nguồn thu từ in tiền là một bằng chứng đơn giản
và rõ ràng nhất của ngân sách chi phối khi chính phủ không đủ khả năng nâng cao
và mở rộng cơ sở nguồn thu của mình. Đối với các nước đang phát triển, việc
thường xuyên sử dụng in tiền làm nguồn thu chính là nguyên nhân biến dạng cấu
trúc hệ thống thuế…Tuy nhiên thông thường không điều gì có thể giới hạn được
chính phủ sử dụng in tiền nhất là trong giai đoạn khủng hoảng.
Thị trường tài chính: Thị trường tài chính yếu kém cũng có thể là một minh chứng
cho việc ngân sách chi phối. Ở các nước đang phát triển Ngân hàng thường bị buộc
trách nhiệm vào việc phát hành giấy tờ có giá trị của chính phủ.
Hệ thống ngân hàng: Một vấn đề khó khăn nữa trong việc áp dụng LPMT tại các
nước đang phát triển là hệ thống ngân hàng dễ đổ vỡ. Củng cố khu vực ngân hàng
cũng có thể dẫn đến xung đột nguyên tắc ổn định giá cả. Để nâng cao tính thanh
khoản cho hệ thống ngân hàng, điều thường xảy ra ở các nước đang trong giai đoạn
chuyển đổi việc rót vốn làm tăng tổng tiền cung ứng ngoài kế hoạch và cuối cùng sẽ
phá tan kế hoạch duy trì giá cả ổn định của NHTW.
Ở những nước mà thị trường tài chính hoạt động tương đối tốt, lạm phát tương đối
vừa phải và không có tình trạng ngân sách chi phối thì sự độc lập của CSTT phụ
thuộc chủ yếu chế độ tỷ giá hối đoái và khả năng dịch chuyển của các luồng vốn.
Hiện nay hầu hết các nước bao gồm các nước đang phát triển lựa chọn chế độ tỷ giá
thả nổi có quản lý. Nhưng chế độ tỷ giá linh hoạt không làm các cơ quan quản lý
đánh giá thấp hơn tầm quan trọng đối với mục tiêu tỷ giá hoặc chấm dứt việc sử
dụng tỷ giá như một công cụ của CSTT. Điều này dẫn đến gánh nặng cho CSTT,
bởi như một trong những tiền đề của việc áp dụng LPMT là ưu tiên mục tiêu lạm
phát hơn các mục tiêu chính sách khác. Hay chỉ tiêu lạm phát phải chiếm ưu thế hơn
tất cả các mục tiêu còn lại của CSTT. Do đó duy trì tỷ giá hối đoái sẽ xung đột với
nguyên tắc lạm phát mục tiêu.
Do đó cần phải xem xét rất thận trọng khả năng áp dụng lạm phát mục tiêu tại các
nước đang phát triển hoặc có nền kinh tế chuyển đổi. Khả năng áp dụng cơ chế này

chỉ có thể xảy ra ở các nước hội đủ các điều kiện hoặc trong trường hợp cần có sự
thay đổi do tình trang quá thất vọng của CSTT hiện tại.
* Ở Việt Nam
Chúng ta không thể không thừa nhận những đóng góp của chính sách tiền tệ trong
việc đẩy lùi và kiềm chế lạm phát trong thời gian qua. Các công cụ của CSTT dần
dần được hoàn chỉnh. Tuy nhiên do CSTT của Việt Nam theo đuổi đa mục tiêu nên
việc thực hiện mục tiêu chính - ổn định giá cả, kiềm chế lạm phát còn khiến chúng
ta phải suy nghĩ nhiều.
Để có thể đưa ra giải đáp cho việc Viêt Nam có thể áp dụng LPMT không chúng ta
nên so sánh những tiêu chí cơ bản áp dụng của LPMT với hiện trạng của nền kinh tế
Việt Nam. Hiện tại NHTW Việt Nam chưa có sự độc lập hoàn toàn trong việc điều
hành quản lý, mục tiêu lạm phát bị ràng buộc trong mối tương quan với cân đối
ngân sách nhà nước và mức tăng trưởng kinh tế, tài chính trong nước còn non yếu,
hệ thống ngân hàng chưa thật vững chắc, công việc xây dựng chỉ số lạm phát cơ bản
còn hạn chế. Mặt khác Việt Nam có nền kinh tế chuyển đổi và đang phát triển
chúng ta có nên đánh đổi giữa tăng trưởng kinh tế và LPMT hay không?
Ngoài ra, đầu vào sản xuất hàng hóa trong nước chủ yếu có nguồn gốc từ nước
ngoài, với giá thế giới thất thường như hiện nay thì chúng ta càng nên thận trọng.
NHTW chỉ có thể thực thi LPMT trong điều kiện có một sự độc lập tương đối, một
nền sản xuất nội địa vững chắc, lạm phát dao động ở mức hợp lý, cơ sở nguồn thu
của ngân sách được mở rộng và hệ thống tài chính – ngân hàng phát triển.
CHƯƠNG II : LẠM PHÁT Ở VIỆT NAM 2006-2012
2.2 Sơ lược lịch sử lạm phát ở Việt Nam:
2.1.1 Diễn biến
( Nguồn: Đề tài nghiên cứu “lạm phát trường hợp Việt Nam” của tác giả Hoài Bảo)
Quá trình lạm phát ở Việt Nam có thể chia ra làm hai giai đoạn lớn: những năm
trước Đổi mới 1986 và từ 1986 đến nay.
2.1.1.1Giai đoạn những năm trước Đổi mới 1986:
* Giai đoạn 1980 về trước:
Từ năm 1980 trở về trước, lạm phát đã tồn tại nhưng không công khai, các nghị

quyết của Đảng Cộng sản Việt Nam không sử dụng khái niệm lạm phát mà chỉ sử dụng
các cụm từ “chênh lệch giữa thu và chi, giữa hàng và tiền”, “thị trường vật giá không ổn
định ”. Hay nói cách khác, lạm phát trong giai đoạn này là “lạm phát ngầm”. Do cơ
chế kinh tế kế hoạch hóa tập trung, Nhà nước có vai trò định giá cho hầu hết các sản
phẩm và dịch vụ lưu thông trên thị trường.
+ Thời kỳ 1938-1945: Ngân hàng Đông Dương cấu kết với chính quyền thực dân Pháp
đã lạm phát đồng tiền Đông Dương để vơ vét của cải nhân dân Việt Nam nhằm đem về
Pháp đóng góp cho cuộc chiến tranh chống phát xít Đức. Hậu quả nặng nề của lạm phát
là nhân dân Việt Nam phải chịu giá sinh hoạt từ năm 1939-1945 bình quân là 25 lần.
+ Thời kỳ 1946-1954 : chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hoà do chủ tịch Hồ Chí Minh
sáng lập và lãnh đạo đã phát hành đồng tài chính thay cho đồng Đông Dương và sau đó
là đồng ngân hàng thay cho sức người, sức của toàn dân tiến hành cuộc kháng chiến 9
năm đánh đuổi quân xâm lược Pháp, kết quả giải phóng hoàn toàn nửa đất nước.
+ Thời kỳ 1955-1965 : chính phủ tay sai Mỹ ở miền Nam Việt Nam liên tục lạm
phát đồng tiền miền Nam để bù lại cuộc chiến tranh chống lại phong trào giải phóng dân
tộc ở miền Nam. Mặc dù chính phủ Mỹ đổ vào miền Nam một khối lượng hàng viện trợ
khổng lồ với giá trị hàng trăm tỉ đô la nhưng cũng không thể bù đắp được chi phí bỏ ra.
+ Thời kỳ 1965-1975 : ở miền Bắc Việt Nam, chính phủ Việt Nam dân chủ cộng
hoà tiến hành một cuộc chiến tranh chống Mỹ cứu nước, chống chiến tranh phá hoại của
Mỹ tại miền Bắc, giải phóng miền Nam thống nhất đất nước. Chính phủ đã phát hành số
tiền lớn (gấp 3 lần tiền lưa thông của năm 1965 ở miền Bắc) để huy động lực lượng toàn
dân đánh thắng quân xâm lược. Nhưng nhờ có sự viện trợ to lớn của Liên Xô, Trung
Quốc và các nước XHCN anh em nên chúng ta đã hạn chế được lạm phát trong thời
gian này.
+ Thời kỳ 1976-1980: sau khi thống nhất đất nước, chúng ta thiếu nhiều kinh
nghiệm trong thời bình nên duy trì quá lâu cơ chế tập trung quan liêu bao cấp toàn diện,
không mở rộng sản xuất. XHCN không tiến hành hạch toán kinh doanh nên đã tự gây
cho mình nhiều khó khăn, sản xuất không đủ tiêu dùng, ngân sách không đủ chi tiêu,
lạm phát tiền giấy liên tục và bùng nổ dữ dội với tỷ lệ lên tới 3 con số.
* Giai đoạn 1981-1985:

Lạm phát thời kỳ này diễn ra trong điều kiện bắt đầu có những cải cách quan trọng
trong nhiều lĩnh vực của cơ chế kinh tế. Lạm phát đã diễn ra trên quy mô cả nước.
Giá cả hàng hoá tăng với tốc độ phi mã: Chỉ số giá bán lẻ năm 1985 tăng 13,97 lần so
với năm 1980.Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) từ 1981-1985 lần lượt tăng là: 70%,95%, 50%,
65% và 92%. Không có giải pháp tổng thể nào được đưa ra trong một thời gian dài cho
đến khi xảy ra cuộc đổi tiền vào năm 1985.
Có lẽ có quan niệm cho rằng đổi tiền sẽ khôi phục lại giá trị đồng bạc Việt Nam và lạm
phát sẽ chấm dứt nên Chính phủ mới có qui định “Sức mua của đồng tiền mới bằng 10
lần sức mua của đồng tiền cũ” (Quyết định 01/HĐBT-TĐ ngày 13/9/1985).
Nhưng sau đổi tiền, CPI năm 1985 tăng đến 92%. Cải cách 1981-1992 và 1985 không
giúp lạm phát giảm mà còn trở thành tác nhân trực tiếp của lạm phát sau đó
2.2.4.4Giai đoạn lạm phát sau Đổi mới 1986 đến nay:
* Siêu lạm phát 1986-1988:
Tiếp tục hậu quả từ quy định về sức mua đồng tiền mới năm 1985, năm 1986 CPI tăng
lên đến 775%, nền kinh tế bước vào thời kỳ lạm phát dữ dội với tỉ lệ tăng ba chữ số kéo
dài trong 2 năm tiếp theo. Chỉ số giá bán lẻ năm 1988 tăng 181,48 lần so với năm 1985.
Lạm phát trong giai đoạn này có năm đặc trưng cơ bản: 1. Lạm phát ba con số kéo dài 2
năm liên tục, được mở rộng bằng cuộc cải cách lớn về giá và lương cùng việc đổi tiền.
Thời kỳ này ảnh hưởng giá cả trong quan hệ xuất nhập khẩu tuy có nhẹ hơn thời kỳ
1981-1985 song vẫn bất lợi cho cán cân thanh toán của Việt Nam. Tính chất công khai
của lạm phát được bộc lộ rõ rệt hơn bất cứ giai đoạn nào trước đó. Hệ quả siêu lạm phát
nghiêm trọng trong 2 năm là rất nặng nề.
* Giai đoạn kiềm chế và đẩy lùi lạm phát cao (1989-1994):
Sau một thập kỷ lạm phát cao liên tục, nền kinh tế rơi vào khủng hoảng kéo dài
nhưng đến năm 1989 đã chuyển sang một giai đoạn mới của lạm phát được đặc trưng
bởi sự hạ sốt lạm phát và đến năm 1994 triển vọng bước qua thời kỳ kiểm
soát lạm phát một con số là khả năng thực hiện được. Trong giai đoạn này, lạm phát
giảm nhanh và giảm dần song song với tiến trình đổi mới kinh tế, chuyển hẳn và chuyển
toàn diện sang kinh tế thị trường.
* Kiểm soát lạm phát ở Việt Nam từ 1995 – 2006:

Theo định hướng chung, nền kinh tế Việt Nam (nền kinh tế thị trường nhiều thành phần,
xóa bỏ hoàn toàn chế độ quan liêu bao cấp) trong những năm này tiếp tục trên đà phát
triển và mục tiêu đặt ra là kiểm soát chặt chẽ sự lạm phát. Từ năm 1995 đến năm 2006,
mức lạm phát của nước ta luôn ở một con số. Trong giai đoạn này, nền kinh tế vì thế đã
thoát khỏi khủng hoảng và phát triển khá bền vững.
năm 1995 1996 1997 1998 1999 2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006
lạm
phát
12,7% 4,5% 3,6% 9,2% 0,1% 0,06% 0,8% 4% 3% 9,5% 8,5% 6,6%
*Giai đoạn khủng hoảng kinh tế 2007 - 2009:
Do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu, cộng với những nguyên nhân
chủ quan bên trong, lạm phát đã trở lại, chỉ số lạm phát đã tăng lên hai con số. Dấu hiệu
lạm phát cao đã bắt đầu xuất hiện từ tháng 06 năm 2007 khi CPI tháng 06 tăng đột biến
xấp xỉ 1%, và tỉ lệ lạm phát tăng tới 12,6% so với tháng 12 năm 2006 và đến năm 2008,
mức tăng CPI lên tới 19,89% so với tháng 12 năm 2007. Giai đoạn lạm phát 2007-2009
đã ảnh hưởng không nhỏ đến kinh tế - chính trị - xã hội Việt Nam.
2.2.5 Nguyên nhân
2.1.2.1.Nguyên nhân khách quan.
Do nền kinh tế của nước ta vốn lạc hậu, lại gánh chịu nhiều hậu quả nặng nề do hai cuộc
chiến tranh chống Pháp-Mỹ để lại .Những hậu quả của cuộc chiến tranh này thật nặng
nề, đòi hỏi phải có nguồn chi to lớn để hàn gắn các vết thương, hồi phục nền kinh tế
Ngay sau đó Việt Nam lại phải tham gia vào cuộc chiến tranh biên giới phía Tây Nam
và phía Bắc.Và dù không có chiến tranh biên giới thì sự nhòm ngó đe doạ từ bên ngoài
luôn buộc nhà nước Việt Nam phải chi phí cho việc bảo vệ đất nước.
2.1.2.2 Nguyên nhân chủ quan:
Một là, lạm phát xuất hiện trong nền kinh tế mà thành phần kinh tế nhà nước chiếm tỉ
trọng rất lớn: vốn cố định trong những năm 80 chiếm 85 - 87%, cán bộ kỹ sư - kỹ thuật
chiếm 95%. Trong tay thành phần kinh tế nhà nước có nguồn tài nguyên to lớn, nhưng
sử dụng kém hiệu quả. Đại bộ phận các doanh nghiệp nhà nước làm ăn thua lỗ. Doanh
nghiệp nhà nước nhận các khoản trợ cấp từ ngân sách nhà nước gấp 3 lần các khoản

doanh nghiệp nhà nước nộp cho ngân sách nhà nước. Các khoản trợ cấp này cao hơn số
bội chi ngân sách nhà nước. Đây là một trong những nguyên nhân sâu xa và cơ bản dẫn
đến lạm phát.
Hai là, chính sách đổi tiền tăng giá là một trong những chính sách phá giá đồng
tiền. Từ đầu những năm 1980 đến nay, Nhà nước ta đã ba lần tổng điều chỉnh giá với
mức quá lớn, không đồng bộ. Nhà nước Trung ương không điều hành nổi cơ chế giá ở
tầm vĩ mô, buộc phải chấp nhận cơ chế giá trượt trong thu mua nông sản, thực phẩm và
bù giá vào lương. Nhiều ngành, địa phương đã tự điều chỉnh giá để kiềm chế sự chênh
lệch giá. Điều này đã gây ách tắc, rối loạn thị trường và tăng bội chi ngân sách.
Ba là, lạm phát xuất hiện trong nền kinh tế mà độc quyền Nhà nước và cơ chế tập trung
bao cấp, quan liêu mệnh lệnh thống trị, Nhà nước không chỉ nắm trong tay độc quyền
lãnh đạo chính trị, quản lý và kiểm soát nền kinh tế nói chung (độc quyền này là cần
thiết) mà còn độc quyền sản xuất, kinh doanh trong tất cả các ngành kinh tế quốc dân.
V.I.Lênin đã xác định, một trong những đặc trưng kinh tế cơ bản của chủ nghĩa đế quốc
là tập trung sản xuất và tư bản đến trình độ phát triển cao dẫn đến độc quyền và nó có
vai trò nhất định trong đời sống kinh tế. Độc quyền kinh tế; một mặt, thúc đẩy phát triển
chủ nghĩa tư bản đương thời; mặt khác, nó kiềm hãm phát minh, sáng kiến, cạnh tranh.
Sự phát triển của lực lượng sản xuất của nước ta trong những năm 70, 80 chưa đạt đến
trình độ độc quyền kinh tế. Trong điều kiện đó, độc quyền nhà nước là độc quyền phi
kinh tế vì nó không dựa trên cơ sở kinh tế.
Trong thời gian dài tồn tại cơ chế tập trung bao cấp, quan liêu mệnh lệnh đã
khuyến khích cấp dưới chờ cấp trên phân phối vật tư, lao động và tiền vốn, thiếu tính
toán hiệu quả kinh tế. Tình hình trên làm cho hoạt động của nền kinh tế kém hiệu quả,
dẫn đến lạm phát.
Bốn là, cơ cấu kinh tế, cơ cấu đầu tư không hợp lý làm cho sản xuất chậm phát
triểm trong khi dân số tăng nhanh, gây mất cân đối trên nhiều mặt , sản xuất chậm phát
triển thu nhập quốc dân trong nước chỉ đảm bảo 80-90%quỹ tiêu dùng xã hộị
Trong tình hình ấy tài chính - tín dụng có tài giỏi đến mấy cũng không thể phân

×