Tải bản đầy đủ (.pdf) (103 trang)

Pháp luật về trưng cầu dân ý kinh nghiệm thế giới và một số gợi mở cho Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.38 MB, 103 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT



ĐINH NHÃ PHƢƠNG




PHÁP LUẬT VỀ TRƢNG CẦU DÂN Ý KINH NGHIỆM
THẾ GIỚI VÀ MỘT SỐ GỢI MỞ CHO VIỆT NAM



LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC


Hà Nội - 2014
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT



ĐINH NHÃ PHƢƠNG


PHÁP LUẬT VỀ TRƢNG CẦU DÂN Ý KINH NGHIỆM
THẾ GIỚI VÀ MỘT SỐ GỢI MỞ CHO VIỆT NAM

Chuyên ngành : Lý luận lịch sử nhà nƣớc và pháp luật


Mã số : 60 38 01 01

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Người hướng dẫn khoa học: TS. Đặng Minh Tuấn


Hà Nội - 2014


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các
kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào
khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin
cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả
các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể
bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!


NGƢỜI CAM ĐOAN



Đinh Nhã Phƣơng

MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN 0

MỤC LỤC 2
DANH MỤC CÁC BẢNG 4
MỞ ĐẦU 1
CHƢƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ TRƢNG CẦU DÂN Ý 6
1.1. Khái niệm trưng cầu dân ý 6
1.2. Vị trí, vai trò của trưng cầu dân ý 12
1.3. Phân loại trưng cầu dân ý 14
1.3.1. Phân loại theo tiêu chí hình thức 14
1.3.2. Phân loại theo tiêu chí nội dung 16
1.4. Quy trình, thủ tục Trưng cầu dân ý 17
CHƢƠNG 2: THỰC TIỄN TRƢNG CẦU DÂN Ý Ở MỘT SỐ NƢỚC
TRÊN THẾ GIỚI 27
2.1. Trưng cầu dân ý ở một số nước phát triển 27
2.1.1. Trưng cầu dân ý ở Thụy Sỹ 27
2.1.2. Trưng cầu dân ý ở Pháp 34
2.1.3. Trưng cầu dân ý ở Nga 37
2.2. Trưng cầu dân ý ở một số nước Châu Á 40
2.2.1. Trưng cầu dân ý ở Nhật Bản 40
2.2.2. Trưng cầu dân ý ở các nước Đông Nam Á 43
CHƢƠNG 3: PHÁP LUẬT VÀ THỰC TIỄN TRƢNG CẦU DÂN Ý Ở
VIỆT NAM 49
3.1. Quy định về Trưng cầu dân ý trong các Hiến pháp 49
3.2. Pháp luật về Dân chủ trực tiếp 58
3.2.1. Tham gia đóng góp ý kiến khi Nhà nước tổ chức lấy ý kiến nhân dân 58
3.2.2. Thực hiện các quyền dân chủ trực tiếp ở cơ sở 62
3.3. Xây dựng luật trưng cầu dân ý 69

3.3.1. Sự cần thiết ban hành luật trưng cầu dân ý 69
3.3.2. Các yêu cầu của luật trưng cầu dân ý 72
3.3.3. Đề xuất các kiến nghị xây dựng luật trưng cầu dân ý 75

KẾT LUẬN 87
PHỤ LỤC 89
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 94

DANH MỤC CÁC BẢNG

Bảng 2.1. Quy định về Trưng cầu dân ý bắt buộc và không bắt buộc trong các
bang của Thụy Sỹ tính đến tháng 12/2004 30
Bảng 2.2. Khảo sát về quy định Trưng cầu dân ý ở một số nước Châu Á 47

1

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trưng cầu ý dân/phúc quyết (referendum) là quá trình mà người dân bỏ
phiếu quyết định (đồng ý hay không đồng ý) về những vấn đề của Nhà nước,
thường là các vấn đề liên quan đến chính trị quan trọng của quốc gia như sửa đổi
Hiến pháp, tham gia liên minh, quyết định các vấn đề lớn liên quan đến quyền
làm chủ của người dân… Trong xã hội hiện đại, trưng cầu ý dân là một chế định
pháp luật tồn tại trong nhiều hệ thống chính trị khác nhau ở các châu lục.Cho đến
nay đã có 101 nước trên tổng số 190 nước có quy định về trưng cầu ý dân.
Theo Hiến pháp hiện hành, “Nhân dân có quyền biểu quyết khi Nhà nước
tổ chức trưng cầu dân ý” (Điều 53). Để thực hiện quyền hiến định quan trọng
này, Hiến pháp tiếp tục quy định: “Quốc hội quyết định việc trưng cầu dân ý”
(Khoản 14 Điều 84). Những quy định trên của Hiến pháp hiện hành có cơ sở từ
bản Hiến pháp đầu tiên năm 1946, trong đó khẳng định việc sửa đổi Hiến pháp
phải được quyết định bằng trưng cầu dân ý: “Những điều thay đổi khi đã được
Nghị viện ưng chuẩn thì phải đưa ra toàn dân phúc quyết”. Việc tham gia bỏ
phiếu trưng cầu dân ý là một quyền dân chủ trực tiếp được Hiến pháp quy định,
phản ánh bản chất của nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, đảm

bảo quyền tham gia quản lý nhà nước của nhân dân.
Mặc dù được tuyên bố trong Hiến pháp, nhưng thực tiễn cho thấy nhân
dân chưa bao giờ thực hiện quyền biểu quyết trong các cuộc trưng cầu dân ý.
Thực tiễn này xuất phát từ nhiều lý do, mà trước hết phải kể đến bối cảnh khó
khăn của những giai đoạn giành và giữ chủ quyền trong hai cuộc chống giặc Mỹ
và Pháp. Bước sang giai đoạn độc lập hoàn toàn, trong thời kỳ đầu của giai đoạn
tổ chức nhà nước theo nguyên tắc tập quyền, nhà nước quản lý xã hội theo
phương thưc tập trung, bao cấp, các quyền tự do dân chủ trực tiếp còn chưa được
thực sự được chú trọng. Tuy nhiên, trong thời kỳ đổi mới mở rộng dân chủ, đặc
biệt là dân chủ trực tiếp, trưng cầu dân ý trở thành một vấn đề quan trọng được
2

quan tâm từ cả phía học giả lẫn chính trị. Tuy vậy, việc tổ chức một cuộc trưng
cầu dân ý vẫn chưa diễn ra, có nguyên nhân chính xuất phát từ các hạn chế của
quy định Hiến pháp hiện hành về trưng cầu dân ý, theo đó Hiến pháp không quy
định rõ về nội dung, quy trình trưng cầu dân ý, mà lại trao cho Quốc hội quyết
định việc trưng cầu dân ý. Quyền hiến định này của người dân không được thực
thi khi Quốc hội không tổ chức trưng cầu dân ý cho người dân biểu quyết.
Ngoài những vấn đề lớn ảnh hưởng đến sự vô hiệu quy định này như
quyền dân chủ trực tiếp vẫn chưa thực sự được đề cao, Quốc hội thiếu thực
quyền, thì sự thiếu vắng một đạo luật quy định về trưng cầu dân ý cũng được nêu
như là một trong những rào cản về mặt pháp lý cho việc thực thi trưng cầu dân ý
trên thực tế. Rõ ràng, việc tuyên bố trong Hiến pháp quyền tham gia trưng cầu
dân ý đặt ra trách nhiệm của Nhà nước trong việc tổ bảo đảm thực hiện quyền
đó. Trước hết, Quốc hội phải ban hành luật trưng cầu dân ý quy định các quy tắc
quy định quy trình, thủ tục để các cơ quan nhà nước tổ chức trưng cầu dân ý và
người dân thực hiện quyền tham gia biểu quyết.
Trong các thảo luận sửa đổi Hiến pháp gần đây, nhiều người quan tâm đến
quy định Hiến pháp về trưng cầu dân ý. Nhiều đề xuất đề nghị quy định rõ các
vấn đề trưng cần dân ý thay vì trao quyền cho Quốc hội quyết định việc trưng

cầu dân ý. Các tranh luận tập trung xoay quanh vấn đề trưng cầu dân ý về sửa
đổi Hiến pháp, bởi quyền lập hiến là quyền thuộc về nhân dân, nên việc sửa đổi
Hiến pháp phải do nhân dân quyết định.
Từ những phân tích ở trên, việc nghiên cứu đề tài: “Pháp luật về trưng cầu
dân ý Kinh nghiệm thế giới và một số gợi mở cho Việt Nam” là hết sức cần thiết.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Hiện nay ở Việt Nam, hầu như chưa có công trình nghiên cứu đầy đủ nào
về trưng cầu dân ý. Vấn đề này chỉ mới bắt đầu được đặt ra khi chúng ta có chủ
trương xây dựng Luật Trưng cầu dân ý trong thời gian gần đây. Một số ít công
trình nghiên cứu gần đây như:
3

2.1. Sách, báo, tạp chí
- Sách “Trưng cầu ý dân- Những vấn đề lý luận và thực tiễn”, tác giả
Trương Thị Hồng Hà, NXB Chính trị- Hành chính, 2011.
- “Sổ tay IDEA Quốc tếDân chủ trực tiếp”, NXB Đại học Quốc Gia Hà
Nội, 2014.
- Bàn về chế định trưng cầu dân ý, Tạp chí nghiên cứu lập pháp, số 59,
tháng 9 năm 2005.
- Đánh giá kết quả trưng cầu dân ý ở Australia, Tạp chí Nghiên cứu lập
pháp, số 67, tháng 1 năm 2006.
- Trưng cầu dân ý và dự thảo Luật về trưng cầu dân ý, Tạp chí Nghiên cứu
lập pháp – Hiến kế lập pháp, số 68, tháng 2 năm 2006.
- Thủ tục trưng cầu dân ý, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 69, tháng 2
năm 2006.
- Một số ý kiến về dân chủ trực tiếp, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số
128, tháng 12 năm 1998.
- Trưng cầu ý dân ở Liên Xô và Liên bang Nga, Tạp chí nghiên cứu lập
pháp, số 59, tháng 9 năm 2005…
2.2. Hội thảo khoa học

-Hội thảo Trưng cầu dân ý- Những vấn đề lý luận và thực tiễn do Hội
Luật gia Việt Nam tổ chức tại Hà Nội ngày 04/6/2013
- Hội thảo quốc tế về Luật Trưng cầu ý dân của một số nước và kinh
nghiệm cho Việt Namdo Hội Luật gia Việt Nam phối hợp Chương trình phát
triển của Liên hợp quốc UNDP tổ chức tại Hà Nội ngày 17-18/11/2014
Nhìn chung, mỗi công trình trên thường đi sâu nghiên cứu một mặt hoặc
một vấn đề cụ thể nào đó của trưng cầu dân ý như: khái niệm trưng cầu dân ý;
bản chất, nội dung và yêu cầu cơ bản của trưng cầu dân ý; Chủ nghĩa Mác- Lê
Nin và tư tưởng Hồ Chí Minh về trưng cầu dân ý; các hình thức trưng cầu dân
ý…Cho đến nay một số công trình nghiên cứu đã cung cấp cho khoa học nhiều
4

tư liệu quý về trưng cầu dân ý, song chưa có một công trình khoa học nào nghiên
cứu tổng quát những vấn đề cơ bản về pháp luật và thực tiễn trưng cầu dân ý trên
thế giới và ở Việt Nam.
3. Mục tiêu nghiên cứu đề tài
3.1. Mục tiêu tổng quát
Luận văn làm rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn của pháp luật trưng cầu
dân ý ở nước ngoài và Việt Nam, đưa ra những đóng góp, đề xuất để hoàn thiện
pháp luật trưng cầu dân ý.
3.2. Mục tiêu cụ thể
- Làm rõ những vấn đề cơ bản về trưng cầu dân ý;
- Đánh giá pháp luật và thực tiễn trưng cầu dân ý ở một số nước điển hình
trên thế giới;
- Đánh giá pháp luật và thực tiễn trưng cầu dân ý ở Việt Nam, đề xuất
quan điểm, giải pháp hoàn thiện pháp luật về trưng cầu dân ý, đặc biệt trong việc
xây dựng Luật Trưng cầu dân ý.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là pháp luật trưng cầu dân ý ở Việt
Nam và một số nước trên thế giới.Qua đó chỉ ra những hạn chế còn tồn tại của

pháp luật trưng cầu dân ý ở Việt Nam từ đó đưa ra những giải pháp xây dựng
Luật Trưng cầu dân ý.
Phạm vi của đề tài tập trung nghiên cứupháp luật và thực tiễn thi hành
pháp luật về trưng cầu dân ý;Trưng cầu dân ý ở một số nước điển hình có giá trị
tham khảo cho Việt Nam: một số nước phát triển (Thụy Sỹ, Pháp, Nga); một số
nước Châu Á (Nhật Bản, các nước Đông Nam Á); Phương hướng giải pháp
nhằm xây dựng Luật Trưng cầu dân ý.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu như: Phương pháp kết hợp
lý luận với thực tiễn, phương pháp phân tích và tổng hợp, phương pháp hệ thống,
luật học so sánh và khảo sát thực tế để làm sáng tỏ những nội dung cần nghiên
cứu của luận văn.
5

6. Những đóng góp mới của luận văn
Luận văn nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn của pháp luật
trưng cầu dân ý ở Việt Nam cũng như nước ngoài, qua đó có cái nhìn tổng quát
nhất về thực trạng trưng cầu dân ý ở Việt Nam hiện nay. Đề xuất các giải pháp
góp phần hoàn thiện và xây dựng Luật Trưng cầu dân ý trong thời gian tới.
7. Kết cấu luận văn
Về kết cấu của luận văn, ngoài Phần mở đầu, Kết luận và Danh mục tài
liệu tham khảo, luận văn gồm có 3 chương;9 tiết.
Chương 1: Những vấn đề cơ bản về trưng cầu dân ý.
Chương 2: Thực tiễn trưng cầu dân ý ở một số nước trên thế giới.
Chương 3: Pháp luật và thực tiễn trưng cầu dân ý ở Việt Nam.
6

CHƢƠNG 1:NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ TRƢNG CẦU DÂN Ý
1.1. Khái niệm trƣng cầu dân ý
Trưng cầu dân ý là một hình thức dân chủ trực tiếp, qua đó người dân bỏ

phiếu quyết định (đồng ý hay không đồng ý) về những vấn đề của Nhà nước,
thường là các vấn đề liên quan đến chính trị quan trọng của quốc gia như sửa đổi
Hiến pháp, tham gia liên minh, quyết định các vấn đề lớn liên quan đến quyền
làm chủ của người dân… Vì vậy, để làm rõ được bản chất của trưng cầu dân ý
trước tiên chúng ta cần tìm hiểu về khái niệm dân chủ trực tiếp.
Dân chủ trực tiếp cùng với dân chủ gián tiếp là hai cơ chế chủ yếu để
người dân thực hiện quyền lực của mình. Nếu như dân chủ gián tiếp là cơ chế
mà người dân thực hiện quyền lực thông qua cơ quan đại diện do mình bầu ra thì
dân chủ trực tiếp là cơ chế mà người dân được trực tiếp tham gia các công việc
của nhà nước và cộng đồng, không thông qua bất kỳ một khâu trung gian nào.
Dân chủ trực tiếp được hiểu theo các truyền thống đó là “sự thể hiện một cách
trực tiếp ý chí của nhân dân về một vấn đề nào đó mà không cần thông qua một
tổ chức hay các nhân nào thay mặt mình và ý chí đó có giá trị thi hành
ngay”[19, tr.15]. Theo quan điểm hiện đại, “dân chủ trực tiếp là một phương
thức làm chủ của nhân dân khi nhân dân- chủ thể của quyền lực- quyết định
hoặc bày tỏ ý chí, nguyện vọng, đề đạt kiến nghị nào đó trong xây dựng nhà
nước, trong quản lý nhà nước, quản lý xã hội, đồng thời thực hiện kiểm tra, giám
sát bộ máy nhà nước do chính mình lập nên”.[19,tr.16]
Dân chủ trực tiếp xuất hiện đầu tiên ở nhà nước Aten cổ đại. Khi đó người
ta thường tập hợp số lượng dân chúng tối đa khoảng 5000 đến 6000 người ở một
địa điểm để cùng bàn bạc, thảo luận và trực tiếp đưa ra các quyết định về các vấn
đề của đất nước. Đó chính là những hoạt động trưng cầu dân ý của người dân
vào buổi sơ khai. Người ta còn tìm thấy các quy định về trưng cầu dân ý, quy
định kết quả của các cuộc trưng cầu dân ý là bắt buộc đối với mọi vương quốc và
mọi thần dân trong rất nhiều các Đạo luật cổ như: Đạo luật Valery và Horasy
năm 449 TCN, đạo luật Publia năm 339 trước TCN và sau đó là đạo luật
Hortensia năm 287 TCN.
7

Qua đó có thể thấy, trưng cầu dân ý là một phạm trù có tính lịch sử, xuất

hiện và phát triển cùng với sự phát triển của dân chủ, được sử dụng ngày càng
phổ biến trong sinh hoạt chính trị, pháp lý của nhiều quốc gia. Tới nay, đã có
101 nước trên tổng số 190 nước có quy định về trưng cầu dân ý.
- Theo cuốn Đại từ điển Tiếng Việt do Nhà xuất bản Đại học Quốc gia Hồ
Chí Minh tái bản lần thứ 13, Nguyễn Như Ý chủ biên thì Trưng cầu được hiểu là
“đưa ra hỏi ý kiến của số đông một cách có tổ chức để thêm căn cứ khi đưa ra
quyết định vấn đề gì”; Trưng cầu dân ý là “hỏi ý kiến nhân dân bằng cách tổ
chức bỏ phiếu để nhân dân trực tiếp quyết định”.[31, tr.1682]
- Theo cuốn Từ điển Tiếng Việt do Nhà xuất bản từ điển Bách khoa phát
hành thì Trưng cầu dân ý là “cuộc hỏi ý kiến của toàn thể dân chúng về một vấn
đề chính trị hay pháp luật bằng cách tổ chức bỏ thăm” [20, tr.1116]
Ở Việt Nam thuật ngữ trưng cầu dân ý tuy không phải mới mẻ, nhưng do
ít được đề cập, bàn luận nên trên thực tế còn có những cách hiểu chưa thống
nhất, thậm chí rất khác nhau. Chẳng hạn như gọi việc công bố dự thảo Hiến pháp
hay một dự án luật để lấy ý kiến nhân dân là trưng cầu dân ý; nhầm tưởng việc
điều tra xã hội học là trưng cầu dân ý…Vì vậy, để có được một cách hiểu chính
xác nhất về trưng cầu dân ý, trước hết phải phân biệt trưng cầu dân ý với các
thuật ngữ khác, như phúc quyết, lấy ý kiến nhân dân, bầu cử, điều tra xã hội học.
* Trưng cầu dân ý và phúc quyết toàn dân
Phúc quyết toàn dân là việc Nhà nước đưa một vấn đề (văn bản pháp luật,
quyết định hành chính…) đã được cơ quan nhà nước thông qua ra để nhân dân
quyết định lại.Trong khi đó, trưng cầu dân ý là việc Nhà nước đưa một vấn đề
quan trọng để nhân dân trực tiếp quyết định thông qua việc bỏ phiếu.
Có thể thấy điểm khác biệt lớn nhất giữa phúc quyết và trưng cầu dân ý
chính là đối tượng mà chế định này hướng tới, nếu như đối tượng của phúc quyết
là những vấn đề đã được quyết định, nhưng sau nhận thấy cần phải đưa ra để
nhân dân biểu quyết lại. Trong khi đó, đối tượng của trưng cầu dân ý là các vấn
8

đềmà cơ quan nhà nước chưa có hướng giải quyết, và kết quả biểu quyết của

nhân dân là quyết định cuối cùng. Đi sâu vào chi tiết hơn thì phạm vi phúc quyết
có thể là những vấn đề quan trọng của quốc gia như Hiến pháp, văn bản pháp
luật… cũng có thể chỉ là những vấn đề nhỏ ở trong một đơn vị hành chính sự
nghiệp như việc bỏ phiếu tín nhiệm đối với lãnh đạo, hay các quyết định mang
tính chất nội bộ của cơ quan… Điều này cũng đồng nghĩa với việc chủ thể của
quyền phúc quyết có thể là toàn dân, cũng có thể chỉ là một bộ phận nhỏ người
dân trong một cơ quan, tổ chức. Khác với phúc quyết, phạm vi của trưng cầu dân
ý là những vấn đề quan trọng của quốc gia hay của địa phương, ví dụ như thông
qua Hiến pháp mới, sửa đổi bổ sung Hiến pháp cũ, chia tách địa giới hành
chính… những vấn đề này đều là những vấn đề quan trọng ảnh hưởng tới một bộ
phận không nhỏ người dân, chính vì vậy chủ thể của trưng cầu dân ý rộng hơn
rất nhiều so với phúc quyết.
Pháp luật Việt Nam, thuật ngữ phúc quyết được sử dụng trong Hiến pháp
năm 1946 ở các Điều 21 “Nhân dân có quyền phúc quyết về Hiến pháp và những
điều liên quan tới vận mệnh quốc gia…”,Điều 32 “Những việc quan trọng đến
vận mệnh quốc gia sẽ đưa ra nhân dân phúc quyết, nếu hai phần ba tổng số nghị
viện đồng ý” và Điều 70 “Những điều thay đổi khi được Nghị viện ưng thuận thì
phải đưa ra toàn dân phúc quyết”. Tuy nhiên nội hàm của các quy định này lại
giống với trưng cầu dân ý, vì vậy tới bản Hiến pháp 1959 và Hiến pháp 1980
quyền này được đổi thành trưng cầu ý kiến nhân dân, tới bản Hiến pháp 1992 thì
được gọi là trưng cầu ý dân.
* Trưng cầu dân ý và lấy ý kiến nhân dân
Trong Hiến pháp và pháp luật hiện hành của nước ta đã có những ghi
nhận về việc trưng cầu dân ý và lấy ý kiến nhân dân. Đây là hai hình thức hoạt
động của cơ quan nhà nước có mục đích, yêu cầu gần giống nhau nhưng cách
thức tiến hành lại hoàn toàn khác nhau. Do vậy về mặt lý luận và hoạt động thực
tế rất cần có sự phân biệt rõ ràng sự khác nhau giữa trưng cầu dân ý và lấy ý kiến
nhân dân để đề ra và thực hiện mục đích, yêu cầu của mỗi hoạt động này được
đúng đắn và tốt hơn.
9


Trưng cầu dân ý là đưa một vấn đề quan trọng của đất nước ra cho toàn
dân thảo luận và cử tri biểu quyết, quyết định theo đa số. Khi đã đưa một vấn đề
nào đó ra trưng cầu dân ý thì các cơ quan nhà nước, các tổ chức, đoàn thể chỉ có
nhiệm vụ tổ chức thực hiện như là một bộ máy thư ký giúp việc cho cử tri và
kiểm phiếu, công bố kết quả chứ không phải là cơ quan tổng hợp, tập hợp ý kiến
của cử tri để nghiên cứu tiếp thu, giải trình, chỉnh lý, càng không có quyền bảo
lưu ý kiến của mình.
Trong khi đó, lấy ý kiến nhân dân là việc Nhà nước tổ chức để nhân dân
đóng góp, tham gia ý kiến của mình về một vấn đề cụ thể đưa ra lấy ý kiến.
Những ý kiến đóng góp này chỉ được cơ quan hữu quan tổng hợp, nghiên cứu
giải trình, tiếp thu khi chỉnh lý dự thảo để trình cơ quan có thẩm quyền xem xét.
Có thể nhận thấy cả trưng cầu dân ý và lấy ý kiến nhân dân đều là hình
thức dân chủ trực tiếp; xét về bản chất, trưng cầu dân ý là một trong những hình
thức của lấy ý kiến nhân dân.Tuy nhiên, nội hàm của trưng cầu dân ý hẹp hơn so
với nội hàm của lấy ý kiến nhân dân. Những việc đưa ra lấy ý kiến nhân dân có
khi là để xem xét quyết định về một vấn đề cụ thể (như việc có nên xây dựng
một công trình hay không) giống như trong trưng cầu dân ý nhưng cũng có thể là
việc góp ý để hoàn chỉnh thêm các vấn đề đưa ra lấy ý kiến (như việc lấy ý kiến
đối với dự án luật, pháp lệnh). Điểm khác biệt cơ bản giữa lấy ý kiến nhân dân
và trưng cầu dân ý là ở chỗ:
- Thông qua trưng cầu dân ý người dân trực tiếp quyết định đối với vấn đề
được đưa ra trưng cầu; còn thông qua việc lấy ý kiến nhân dân, ý kiến của người
dân chỉ mang tính chất tham khảo với cơ quan nhà nước, việc quyết định về vấn
đề đưa ra lấy ý kiến như thế nào vẫn hoàn toàn phụ thuộc vào cơ quan nhà nước.
- Đối tượng của việc lấy ý kiến nhân dân là tất cả những người có khả
năng và tâm huyết đóng góp ý kiến, không hạn chế bất kỳ một trường hợp nào
dù người ấy có quyền công dân hoặc quyền bầu cử hay không. Trong khi đó, đối
tượng của trưng cầu dân ý chỉ gồm những người có quyền bầu cử.
10


- Hình thức trưng cầu dân ý bắt buộc phải thực hiện bằng hình thức bỏ
phiếu với câu trả lời đồng ý hay không đồng ý với vấn đề đề đưa ra trưng cầu,
còn việc lấy ý kiến nhân dân thường không thực hiện bằng hình thức bỏ phiếu,
người dân góp ý bằng cách thể hiện ý kiến trong văn bản và gửi cho cơ quan tổ
chức việc lấy ý kiến nhân dân.
* Trưng cầu dân ý và bầu cử
Bầu cửlà hoạt động bỏ phiếu của người dân để chọn ra những cá nhân
nắm giữ các chức vụ quan trọng hoặc tham gia vào cơ quan đại diện của mình.
Bầu cử có thể là bầu đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng địa phương hoặc cũng
có thể là bầu người lãnh đạo trong các cơ quan, tổ chức…
Bầu cử và trưng cầu dân ý có khá nhiều nét tương đồng, đặc biệt là ở quy
trình thủ tục thực hiện hai hoạt động này. Cả bầu cử là trưng cầu dân ý đều có
chung một chủ thể được gọi là cử tri và thực hiện dưới hình thức bỏ phiếu. Tuy
nhiên có thể nhận thấy điểm khác biệt cơ bản giữa bầu cử và trưng cầu dân ý ở chỗ:
- Đối tượng của bầu cử hướng tới là chọn lựa ra các cá nhân cụ thể, trong
khi đối tượng của trưng cầu dân ý là lựa chọn đồng ý hay không đồng ý một vấn
đề mà cơ quan nhà nước đưa ra.
- Bầu cử là việc trao quyền lực (uỷ thác quyền lực) của nhân dân cho
người được chọn, đó là việc chuyển hoá ý chí của người dân sang cơ quan đại
diện. Trong khi đó, trưng cầu dân ý là việc người dân trực tiếp thực hiện quyền
lực của mình, trực tiếp thể hiện ý chí của mình mà không thông qua bất kỳ một
cơ quan, tổ chức nào khác.
- Quy mô của các cuộc bầu cử có thể là trên toàn quốc như tổng tuyển cử
toàn quốc bầu đại biểu Quốc hội, ở phạm vi địa phương như bầu đại biểu Hội
đồng nhân dân cũng có khi là bầu người lãnh đạo trong các tổ chức doanh
nghiệp. Quy mô của các cuộc trưng cầu dân ý thường chỉ có hai mức độ là trưng
cầu dân ý trên phạm vi cả nước như là việc thông qua Hiến pháp, pháp luật và
trưng cầu dân ý ở địa phương đó là những vấn đề quan trọng của địa phương như
sát nhập địa giới hành chính, xây dựng các công trình công cộng…

11

* Trưng cầu dân ý và điều tra xã hội học
Điều tra xã hội học là một hoạt động khảo sát ý kiến người dân về một
vấn đề cụ thể hoặc một cá nhân cụ thể trong xã hội.Hoạt động điều tra xã hội học
có thể được thực hiện bởi cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội cũng có khi chỉ là
hoạt động nghiên cứu của một các nhân.Vì vậy mà kết quả của hoạt động điều
tra xã hội học chỉ có tính chất tham khảo, không có giá trị bắt buộc đối với cơ
quan nhà nước.
Trong khi đó, trưng cầu dân ý là hoạt động lấy ý kiến nhân dân thông qua
hình thức bỏ phiếu. Hoạt động trưng cầu dân ý bắt buộc phải do các cơ quan nhà
nước có thẩm quyền thực hiện tổ chức và kết quả của cuộc trưng cầu dân ý có
giá trị bắt buộc đối với cơ quan nhà nước.
Có thể thấy trưng cầu dân ý là một chế định xã hội có cùng tính chất với
điều tra dư luận xã hội nhưng ở mức độ cao hơn, nếu xét về mức độ thực hiện
chế định dân chủ trực tiếp (Dân chủ được thực hiện dưới hai hình thức là dân
chủ trực tiếp và dân chủ đại diện, trong đó dân chủ trực tiếp là nhân dân bày tỏ
chính kiến của mình, trực tiếp quyết định những vấn đề của đời sống xã hội).
Trong trưng cầu dân ý thì chủ thể đưa ra vấn đề để trưng cầu luôn là Nhà nước,
còn người dân sẽ biểu đạt ý chí của mình thông qua việc bỏ phiếu.
Từ những định nghĩa của các cuốn từ điển uy tín, cũng như những phân
tích phân biệt giữa trưng cầu dân ý với các khái niệm có liên quan ở trên cho
thấy trưng cầu dân ý có các dấu hiệu đặc trưng sau: donhân dân - chủ thể tối cao
toàn bộ quyền lực nhà nước thực hiện; đối tượng của trưng cầu ý dân là những
vấn đề quan trọng mà bản thân các cơ quan nhà nước không thể tự mình quyết
định được; được thực hiện dưới hình thức trực tiếp; kết quả của cuộc trưng cầu
dân ý có gái trị cao nhất mà không có cơ quan nàocó quyền sửa đổi và có giá trị
bắt buộc thực hiện.
Từ nhữngdẫn chứng trên, có thể rút ra khái niệm:
Trưng cầu dân ý là hình thức dân chủ trực tiếp, theo đó nhân dântrực tiếp

quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước theo quy định của pháp luật
hoặc theo sáng kiến trưng cầu dân ý, thông qua thủ tục bỏ phiếu.
12

1.2. Vị trí, vai trò của trƣng cầu dân ý
Vị trí, vai trò của dân chủ trực tiếp nói chung và của trưng cầu dân ý nói
riêng trong đời sống chính trị của mỗi quốc gia như thế nào, điều đó phụ thuộc
vào nhiều yếu tố khác nhau, như các điều kiện về chính trị, kinh tế, văn hoá, xã
hội, trình độ dân trí, trình độ chính trị, trình độ pháp lý, thói quen thực hiện dân
chủ của người dân theo từng nước; phụ thuộc vào sự tác động của các quốc gia
khác nhau trong khu vực và trên thế giới… Tuy nhiên, có thể khẳng định rằng,
khi dân chủ càng phát triển thì càng tạo điều kiện mở rộng và phát huy trưng cầu
dân ý. Ngược lại, ở đâu và nơi nào quan tâm và chú trọng tới dân chủ trực tiếp
cũng như trưng cầu dân ý, thì nơi đó nền dân chủ mới thực sự phát triển và chế
độ chính trị ở đó mới thực sự mang bản chất “quyền lực nhà nước thuộc về nhân
dân”. Nói cách khác, dân chủ là tiền đề để thực hiện và mở rộng trưng cầu dân ý;
và ngược lại, trưng cầu dân ý là công cụ, phương tiện quan trọng thúc đẩy sự
phát triển của dân chủ cả về phạm vi và mức độ.
Trưng cầu dân ý là hình thức dân chủ trực tiếp nhất. Bên cạnh các hình
thức dân chủ khác như: bầu cử, quyền khiếu nại tố cáo, quyền được bàn bạc,
quyết định các vấn đề phát triển kinh tế ở địa phương, quyền tự quản ở khu dân
cư… thì trưng cầu dân ý được coi là hình thức dân chủ trực tiếp nhất. Bởi lẽ,
thông qua bầu cử người dân mới bầu ra người đại diện cho mình tham gia vào
các cơ quan quyền lực nhà nước, mọi tâm tự nguyện vọng của người dân sẽ được
biểu đạt thông qua người đại diện, tuy nhiên trên thực tế ý chí của người đại diện
đó lại bị chi phối bởi nhiều yếu tố do vậy nhiều khi hoạt động của người đại biểu
đó lại không phản ánh được ý chí của nhân dân. Trong khi đó, thông qua hoạt
động trưng cầu dân ý, công dân thể hiện trực tiếp ý chí của mình đối với các vấn
đề quan trọng của quốc gia thông qua lá phiếu. Do đó, những quyết định quan
trọng của chính quyền luôn phù hợp và phản ánh được ý chí của người dân.

Ngoài ra các hình thức thực hiện dân chủ ở cơ sở, người dân mặc dù được tham
gia góp ý vào các hoạt động của cơ quan nhà nước, kiểm tra, giám sát các hoạt
13

động của cơ quan nhà nước tại địa phương. Tuy nhiên những ý kiến, nguyện
vọng của nhân dân chỉ có tính chất tham khảo đối với cơ quan nhà nước chứ
không có tính quyết định đối với hoạt động của cơ quan này. Trong khi, kết quả
của hoạt động trưng cầu dân ý có tính chất bắt buộc đối với các cơ quan nhà
nước, không có bất kỳ một cơ quan nhà nước nào có thể làm khác đi kết quả
trưng cầu dân ý.
Trưng cầu dân ý là cầu nối giữa Nhà nước và nhân dân, giúp Đảng và
Nhà nước khắc phục bệnh quan liêu, xa rời thực tế. Nhà nước đóng vai trò là chủ
thể tổ chức các cuộc trưng cầu dân ý còn nhân dân đóng vai trò là chủ thể trung
tâm của trưng cầu dân ý. Thông qua các cuộc trưng cầu dân ý, mối quan hệ của
Nhà nước với công dân cũng được củng cố càng chở nên gắn bó, mật thiết hơn,
công dân có điều kiện tìm hiểu, quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước.
Nhà nước dễ bao quát được mọi khía cạnh của đời sống thực tiễn, hiểu được ý
chí, mong muốn của người dân, qua đó sẽ có những quyết định, sách lược phù
hợp với điều kiện xã hội, phù hợp với lòng dân. Trưng cầu dân ý giúp Đảng và
Nhà nước kiểm nghiệm lại đường lối, chính sách, pháp luật, khắc phục bệnh
quan liêu, xa rời thực tế, giúp cho đất nước ngày càng phát triển và lớn mạnh.
Bên cạnh đó, trưng cầu dân ý giúp ngăn ngừa những quyết định được đưa ra vội
vã, thiếu cân nhắc từ phía Nhà nước.
Trưng cầu dân ý góp phần nâng cao ý thức, trách nhiệm chính trị của
người dân. Trưng cầu dân ý tạo thói quen cho người dân phát biểu chính kiến
của mình về các vấn đề chung của đất nước; đồng thời, đây cũng là bước chuẩn
bị, tạo sự sẵn sàng cho người dân trong việc thực hiện các quy định của pháp
luật, đảm bảo tính khả thi cũng như hiệu quả của pháp luật. Vì vậy quá trình này
sẽ tạo động lực cũng như là một cơ hội tuyệt vời cho nhân dân tìm hiểu về các
vấn đề quan trọng của đất nước, thể hiền quyền cũng như nghĩa vụ của mình đối

với đất nước.
14

1.3. Phân loại trƣng cầu dân ý
Trong phần này, nghiên cứu sẽ làm rõ các loại trưng cầu dân ý dựa theo
các tiêu chí khác nhau: hình thức và nội dung.
1.3.1. Phân loại theo tiêu chí hình thức
- Nếu căn cứ vào chủ thể đề xuất của cuộc trưng cầu dân ý thì có thể phân
ra làm hai hoại trưng cầu dân ý là trưng cầu dân ý bắt buộc và trưng cầu dân ý
tuỳ nghi.
+ Trưng cầu dân ý bắt buộc: là cuộc bỏ phiếu của cử tri được tiến hành
một cách đương nhiên đối với những vấn đề cụ thể mà hiến pháp hoặc pháp luật
quy định. Trưng cầu dân ý bắt buộc thường chỉ áp dụng đối với các quyết định
chính trị rất quan trọng. Trưng cầu dân ý bắt buộc thường được áp dụng đối với
việc sửa đổi Hiến pháp, bất đồng giữa tổng thống và cơ quan lập pháp, phê
chuẩn các điều ước quốc tế, tham gia một tổ chức siêu quốc gia, các vấn đề về
chủ quyền quốc gia hoặc tự quyết.
Ví dụ: ở Úc, Đan Mạch và Venezuela, tất cả các sửa đổi về hiến pháp đều
phải bắt buộc thông qua trưng cầu dân ý; còn ở các nước như Iceland và Peru,
trưng cầu dân ý được áp dụng đối với một số trường hợp sửa đổi Hiến pháp nhất
định. Tại Thụy Sỹ - quê hương của trưng cầu dân ý, một số điều ước quốc tế bắt
buộc phải đưa ra trưng cầu dân ý trước khi phê chuẩn và ở Đan Mạch thì việc
trao quyền cho các tổ chức quốc tế hoặc tổ chức siêu quốc gia phải được thực
hiện thông qua hình thức trưng cầu dân ý.[22, tr.132]
+ Trưng cầu dân ý tuỳ nghi: là cuộc bỏ phiếu của cử tri không theo quy định
của pháp luật mà theo đề xuất của Chính phủ hoặc một số trường hợp theo đề xuất
của của các đảng phái. Loại trưng cầu dân ý này có nhiều hình thức khác nhau.
Trưng cầu dân ý được quy định trước mang tính nguyên tắc trong hiến
pháp hoặc trong các quy chế về trưng cầu dân ý. Như ở Tây Ban Nha, Hiến pháp
quy định: “các quyết định mang tính chất chính trị đặc biệt quan trọng có thể

được đưa ra trưng cầu dân ý để tham vấn và nhà vua có thể tiến hành cuộc
15

trưng cầu dân ý theo đề nghị của Tổng thống sau khi được Hạ nghị viện uỷ
quyền”; ở Argentina, Hiến pháp quy định: “cả cơ quan lập pháp và cơ quan
hành pháp đều có quyền khởi xướng việc trưng cầu dân ý”.[22, tr.133]
Trưng cầu dân ý không được quy định trước trong Luật và Hiến pháp.Đó
là một loại trưng cầu dân ý mà mỗi lần cần thực hiện thì cơ quan lập pháp sẽ ban
hành một đạo luật riêng để áp dụng trong trường hợp cụ thể đó. Ví dụ ở Na Uy,
Hiến pháp không có quy định gì về trưng cầu dân ý và cơ quan lập pháp có
quyền quyết định có tổ chức trưng cầu dân ý hay không và nếu quyết định trưng
cầu dân ý thì cơ quan này sẽ quy định chi tiết việc thực hiện.
- Nếu căn cứ vào thời điểm đề xuất thì có thể phân ra là: trưng cầu dân ý
trước khi Nghị viện thông qua một vấn đề nào đó; trưng cầu dân ý sau khi Nghị
viện thông qua một vấn đề nào đó.
+ Trưng cầu dân ý trước khi Nghị viện thông qua một vấn đề nào đó: là
việc trước khi Nghị viện thông qua một đạo luật, chẳng hạn Nghị viện muốn biết
ý kiến của nhân dân về nội dung của đạo luật bằng cách trưng cầu dân ý.
+ Trưng cầu dân ý sau khi Nghị viện thông qua một vấn đề nào đó: là khi
Nghị viện thông qua một nghị quyết hay đạo luật nào đó, nghị quyết hay đạo luật
đó cần phải được nhân dân biểu thị ý kiến- thông qua hay không thông qua. Ý
kiến của nhân dân được thể hiện thông qua trưng cầu dân ý. Kết quả trưng cầu
dân ý trong trường hợp này là ý kiến cuối cùng, nếu kết quả trưng cầu dân ý cho
thấy đa số tán thành thì đạo luật hay nghị quyết được đưa ra trưng cầu dân ý mới
có hiệu lực thi hành, ngược lại nghị quyết hay đạo luật đó sẽ bị huỷ bỏ.
Ngoài hai trường hợp kể trên còn có trưng cầu dân ý ngoài hoạt động của
Nghị viện là trường hợp một quyết định hay một dự luật được thông qua mà
không cần tới ý kiến của Nghị viện một khi Tổng thống muốn thông qua luật
nhưng không tin tưởng vào sự ủng hộ của Nghị viện.
- Nếu căn cứ vào phạm vi địa lý tiến hành trưng cầu dân ý thì có thể phân

loại ra làm hai hình thức:
16

+ Trưng cầu dân ý trên phạm vi cả nước: là cuộc trưng cầu dân ý được
tiến hành trên phạm vi lãnh thổ của toàn quốc gia với sự tham gia của tất cả các
cử tri trong cả nước.
+ Trưng cầu dân ý ở địa phương: là cuộc trưng cầu dân ý được tiến hành
trong một phạm vi lãnh thổ của một đơn vị hành chính hoặc một số đơn vị hành
chính của quốc gia với sự tham gia của cử tri địa phương hoặc của vùng đó.
1.3.2. Phân loại theo tiêu chí nội dung
- Nếu căn cứ vào đối tượng đưa ra trưng cầu dân ý thì có thể phân ra làm
những loại như sau:
+ Trưng cầu dân ý về lập hiến: là cuộc trưng cầu dân ý về nội dung của
bản Hiến pháp đã được Quốc hội thông qua, có nên hay không nên sửa đổi Hiến
pháp hiện hành hoặc về nội dung của Hiến pháp đã được sửa đổi, bổ sung.
+ Trưng cầu dân ý về lập pháp: là cuộc trưng dân ý cầu về các đạo luật đã
được Quốc hội thông qua hoặc về sáng kiến của nhân dân đề nghị ban hành một
đạo luật hay là cuộc trưng cầu để nhân dân trực tiếp quyết định về việc quốc gia
mình có tham gia hoặc không tham gia vào một điều ước quốc tế.
+ Trưng cầu dân ý về hành pháp: là cuộc trưng cầu dân ý mà nhân dân
trực tiếp quyết định các vấn đề về quản lý nhà nước như quyết định việc chia,
tách, sáp nhập, điều chỉnh những thay đổi khác về địa giới hành chính- lãnh thổ
nơi mình sinh sống; hay việc nhân dân tự mình quyết định về một dự án quy
hoạch, đầu tư xây dựng công trình liên quan trực tiếp đến lợi ích của cộng đồng
dân cư…
- Nếu căn cứ vào tính chất chất của cuộc trưng cầu dân ý có thể chia ra
thành: trưng cầu dân ý bắt buộc và trưng cầu dân ý tham khảo.
+ Trưng cầu dân ý bắt buộc: là trưng cầu dân ý mà kết quả của cuộc trưng
cầu dân ý là kết quả cuối cùng, buộc các cơ quan nhà nước phải quyết định theo
mà không thể có quyết định nào khác.

17

+ Trưng cầu dân ý tham khảo: là trưng cầu dân ý để biết ý kiến của nhân
dân về một hay các vấn đề nào đó mà Nghị viện sẽ quyết định thông qua. Ý kiến
của nhân dân trong trường hợp này sẽ được Nghị viện xem xét, có thể sẽ không
bắt buộc phải theo.
1.4. Quy trình, thủ tục trƣng cầu dân ý
Trưng cầu dân ý cũng giống như bầu cử đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội
đồng nhân dân, quyền của nhân dân tự quyết trong vấn đề thể hiện ý chí của
mình là rất quan trọng vì bản chất của trưng cầu dân ý là muốn lấy được ý chí
đích thực của người dân. Nếu một cuộc trưng cầu dân ý không chặt chẽ về mặt
thủ tục sẽ khiến người dân thờ ơ với việc bỏ phiếu, ngược lại nếu thủ tục trưng
cầu dân ý quá rườm rà, phức tạp về thủ tục không những làm giảm đi tính kịp
thời của quyết định mà còn mất đi ý nghĩa của cuộc trưng cầu dân ý, đồng thời
tạo nên rào cản cho việc nhân dân thể hiện ý kiến của mình. Do vậy, cần tạo cho
hoạt động trưng cầu dân ý được diễn ra theo một quy trình hợp pháp, công khai
và dân chủ. Quy trình, thủ tục trưng cầu dân ý là khuân thước, chuẩn mực để
người dân và các cơ quan nhà nước có thẩm quyền thực hiện theo, đem lại cho
cuộc trưng cầu dân ý kết quả khách quan, công bằng nhất và giảm thiểu các
khiếu nại, tranh chấp phát sinh từ quá trình thực hiện trưng cầu dân ý.
Trình tự tiến hành trưng cầu dân ý gồm các bước sau:
Bước 1: Sáng kiến trưng cầu dân ý
Để tiến hành một cuộc trưng cầu dân ý, trước hết phải có được sáng kiến
trưng cầu dân ý. Sáng kiến trưng cầu dân ý là bước đầu tiên của quy trình trưng
cầu dân ý, là cơ sở để hình thành một cuộc trưng cầu dân ý trong tương lai, có
thể trên phạm vi toàn quốc hoặc địa phương.
Sáng kiến trưng cầu dân ý bắt nguồn từ nhiều nguồn khác nhau và ở mỗi
nước cũng có những quy định không giống nhau một cách tuyệt đối về chủ thể
có quyền trình sáng kiến trưng cầu dân ý. Theo quy định của pháp luật một số
nước, những chủ thể sau có quyền đưa ra sáng kiến trưng cầu dân ý:

18

- Đối với sáng kiến trưng cầu dân ý trên phạm vi toàn quốc:
+ Nguyên thủ quốc gia
+ Nghị viện (Quốc hội)
+ Chính phủ
+Nghị sĩ (nhóm đại biểu Quốc hội)
+ Công dân (nhóm cử tri)
- Đối với trưng cầu dân ý ở phạm vi đại phương.
+ Công dân (nhóm cử tri)
+ Cơ quan dân cử của địa phương.
Sáng kiến trưng cầu dân ý gồm hai quyền là trình sáng kiến trưng cầu dân
ý của các cơ quan có thẩm quyền theo luật định hoặc là quyền đưa ra các kiến
nghị sáng kiến trưng cầu dân ý của các cơ quan, tổ chức, các nhân và công dân
đề nghị tới cơ quan có thẩm quyền. Tuỳ thuộc vào đặc điểm kinh tế- xã hội ở
mỗi quốc gia, mà pháp luật các nước cũng có những quy định khác nhau về vấn
đề này. Ở Cộng hoà Pháp, Chính phủ và Quốc hội là hai chủ thể có quyền sáng
kiến trưng cầu dân ý, khi hai chủ thể này có sáng kiến trưng cầu dân ý về một
vấn đề nào đó thì buộc Tổng thống phải xem xét và quyết định có nên tổ chức
trưng cầu dân ý hay không, ở Armenia, sáng kiến trưng cầu dân ý thuộc về Quốc
hội. Ở một số nước khác, lại quy định nhân dân cũng có quyền nêu sáng kiến
trưng cầu dân ý. Ở Macedonia, người dân muốn tổ chức trưng cầu dân ý thì phải
thu thập được 150.000 chữ ký của cử tri vào bản kiến nghị (khoản 3, Điều 73,
Hiến pháp Macedonia 1991). Ở Italia, sáng kiến trưng cầu dân ý của công dân
được công nhận khi có 500.000 chữ ký ủng hộ của cử tri. Ở Hungary, sáng kiến
trưng cầu dân ý được quy định cho các chủ thể như chủ tịch nước, Hội đồng bộ
trưởng, Nghị sĩ nếu như có 50 chữ ký đề nghị và cử tri nếu thu thập được ít nhất
50.000 chữ ký (Hiến pháp Hungary năm 1949, bổ sung năm 1990). Ở Việt Nam
hiện nay chưa có quy định về chủ thể có quyền sáng kiến trưng cầu dân ý.


19

Bước 2: Quyết định trưng cầu dân ý
Một cuộc trưng cầu dân ý có được thực hiện trong thực tiễn hay không
phụ thuộc vào quyết định trưng cầu dân ý của chủ thể có thẩm quyền. Những vấn
đề được đưa ra trưng cầu dân ý là những vấn đề quan trọng của quốc gia, của địa
phương bên cạnh đó việc tổ chức trưng cầu dân ý lại rất tốn kém nên pháp luật
các nước chỉ trao thẩm quyền quyết định cho một chủ thể nhất định thông
thường là Quốc hội, tổng thống hoặc nguyên thủ quốc gia. Ở Pháp, Nga, Ai
Cập… chủ thể được trao thẩm quyền quyết định trưng cầu dân ý là Tổng thống;
trong khi đó ở các nước như Braxin, Hunggary… thì chủ thể có quyền quyết
định trưng cầu dân ý là Nghị viện. Ở Việt Nam, theo quy định tại điểm 15, Điều
70 của Hiến pháp 1992 thì Quốc hội là cơ quan duy nhất có thẩm quyền quyết
định trưng cầu dân ý.
Tuỳ theo đặc điểm tình hình, cách thức tổ chức quyền lực nhà nước ở mỗi
quốc gia và tuỳ thuộc vào nội dung trưng cầu dân ý mà có các quy định khác
nhau về thủ tục trưng cầu dân ý. Ở các nước mà thẩm quyền quyết định trưng
cầu dân ý là Quốc hội thì quyết định đó đều phải thông qua thủ tục bỏ phiếu biểu
quyết tại Quốc hội đạt được đa số phiếu. Còn ở những nước mà thẩm quyền
quyết định trưng cầu dân ý là Tổng thống, thì quyết định đó cũng phải dựa trên
cơ sở đề nghị hoặc đồng thuận của đa số các đại biểu Quốc hội.
Bước 3: Công bố trưng cầu dân ý
Sau khi sáng kiến trưng cầu dân ý đã được cơ quan có thẩm quyền thông
qua và quyết định đưa vấn đề đó ra trưng cầu dân ý thì bước tiếp theo chính là
công bố trưng cầu dân ý. Qua bước này quyết định về trưng cầu dân ý chính thức
được thông tin rộng rãi tới nhân dân. Công bố trưng cầu dân ý được ban hành
dưới hình thức nghị quyết hoặc quyết định.
Thời gian công bố trưng cầu dân ý thường được ấn định trước thời điểm
bỏ phiếu một khoảng thời gian nhất định.Khoảng thời gian này là thời gian để
người dân tiến hành tìm hiểu, suy nghĩ, cân nhắc để có thể đưa ra những quyết

×