Lời cảm ơn!
Lời đầu tiên, em xin trân trọng cảm ơn các thầy, cô giáo trong khoa Tâm lý
- Giáo dục học đã nhiệt tình giảng dạy và giúp đỡ em trong suốt khoá học.
Đặc biệt, em xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành và sâu sắc tới thầy
giáo, PGS.TS Phạm Khắc Chương đã chu đáo và tận tình hướng dẫn để em
thực hiện đề tài nghiên cứu của mình.
Tôi xin gửi lời cảm ơn tới Ban giám hiệu trường Đại học Tân Trào, Ban
lãnh đạo khoa Giáo dục Mầm non, các cán bộ, giảng viên trong nhà trường và
sinh viên khoa mầm non đã nhiệt tình tạo điều kiện giúp đỡ tôi trong quá trình
điều tra, khảo sát nghiên cứu và thực hiện đề tài.
Xin dành lời cảm ơn chân thành tới gia đình, người thân và bạn bè đã
động viên, khuyến khích, tạo điều kiện cho tôi hoàn thành tốt đề tài luận văn
của mình.
Hà Nội, tháng 10 năm 2014.
Tác giả
Chu Thị Mỹ Nga
DANH MỤC VIẾT TẮT
ĐĐNN: Đạo đức nghề nghiệp
GDĐĐNN: Giáo dục đạo đức nghề nghiệp
CNH-HĐH: Công nghiệp hoá - Hiện đại hoá
GD - ĐT: Giáo dục - Đào tạo
LLGD: Lực lượng giáo dục
SVSPMN: Sinh viên sư phạm mầm non
SV: Sinh viên
GV: Giảng viên
GVMN: Giáo viên mầm non
BGH: Ban giám hiệu
CBGV: Cán bộ giảng viên
XHCN: Xã hội chủ nghĩa
KTX: Kí túc xá
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU 1
NỘI DUNG 8
CHƯƠNG 1 8
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ VẤN ĐỀ GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC NGHỀ NGHIỆP CHO SINH VIÊN SƯ PHẠM MẦM NON 8
1.1. LỊCH SỬ NGHIÊN CỨU VẤN ĐỀ
8
1.2. MỘT SỐ KHÁI NIỆM CƠ BẢN CỦA ĐỀ TÀI
16
!"#
$% !"
1.3. GDĐĐNN CHO SINH VIÊN SƯ PHẠM MẦM NON
22
&'()*+,-'./0121* *31214 !"564!7
891:;<-'=&>
1.3.2.1. Giáo viên mầm non - Người mẹ hiền hết lòng chăm sóc, nuôi dạy trẻ 25
1.3.2.2. Giáo viên mầm non - Nhà sư phạm mẫu mực 27
1.3.2.3. Giáo viên mầm non - Người bác sĩ tận tâm 28
1.3.2.4. Giáo viên mầm non - Người cấp dưỡng cần cù, tận tụy 29
1.3.2.5. Giáo viên mầm non - Người nghệ sĩ tài hoa, duy trì và phát triển cái đẹp, thẩm mĩ 29
?*3@1121**:A#
1.3.3.1. Vai trò, vị trí của giáo dục đạo đức nghề nghiệp cho SVSPMN 30
1.3.3.2. Một số nội dung và nguyên tắc giáo dục đạo đức 31
* Một số nội dung giáo dục đạo đức 31
1.3.3.3. Những con đường cơ bản nhằm giáo dục đạo đức nghề nghiệp cho sinh viên sư phạm mầm non 38
TIỂU KẾT CHƯƠNG 1 41
CHƯƠNG 2 42
THỰC TRẠNG GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC NGHỀ NGHIỆP CHO 42
SINH VIÊN SƯ PHẠM MẦM NON TRƯỜNG ĐẠI HỌC TÂN TRÀO 42
2.1. KHÁI QUÁT VỀ TRƯỜNG ĐẠI HỌC TÂN TRÀO
42
?BCDC+@E F-'=0G7G
&'()*+,-'=0G7G4*@H !"-'+'B
IB:6J)I?&I-'=0G7G
2.2. VÀI NÉT VỀ KHOA GIÁO DỤC MẦM NON TRƯỜNG ĐẠI HỌC TÂN TRÀO
44
&'()*+,-'K' !">21
LMN*3)@*3$
6KB@O*/:
2.3. THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG GDĐĐNN CHO SINH VIÊN SƯ PHẠM MẦM NON TRƯỜNG ĐẠI HỌC TÂN TRÀO
47
PQN@ H/-' RRA*?&?S>=0G7G*
T/-' RRA*?&*2156'0-'U
-'= *3121V/-'RRA*?&* 91:2W);
<-'=&>
PQN@ HU A?&?S>O=0G7GTGHH
L!6AV =AX*/!"V1L'1'A-'
RRA*=V86/CD*KYKZ4*LA-'
=
[4DKN@ T
GH/-' RRA*?&?S>=0G7G*
2.3.1.1. Nhận thức của các LLGD và SV về tầm quan trọng của đạo đức nghề nghiệp trong công tác của người
giáo viên mầm non 48
2.3.1.2. Nhận thức của các lực lượng giáo dục và sinh viên về các phẩm chất đạo đức nghề nghiệp cần thiết,
đặc thù của người giáo viên mầm non 51
2.3.1.3. Thái độ của sinh viên đối với nghề giáo viên mầm non 53
GHU A@*3@1121=0G7G$
2.3.2.1. Thực trạng việc thực hiện các nội dung GDĐĐNN cho sinh viên sư phạm mầm non 56
2.3.2.2. Thực trạng các con đường GDĐĐNN đã được vận dụng 59
2.3.2.3. Thực trạng về mức độ tham gia GDĐĐNN của các LLGD trong và ngoài nhà trường 63
2.3.2.4. Hiệu quả thực hiện các biện pháp giáo dục đạo đức nghề nghiệp 65
2.4. NHỮNG THUẬN LỢI VÀ KHÓ KHĂN ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG GDĐĐNN CHO SINH VIÊN SƯ PHẠM MẦM NON TRƯỜNG ĐẠI
HỌC TÂN TRÀO
68
G6/CD
QYKZ
2.4.2.1. Yếu tố chủ quan 69
2.4.2.2. Yếu tố khách quan 70
TIỂU KẾT CHƯƠNG 2 73
CHƯƠNG 3 73
BIỆN PHÁP GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC NGHỀ NGHIỆP CHO SINH VIÊN SƯ PHẠM MẦM NON TRƯỜNG ĐẠI HỌC
TÂN TRÀO 73
3.1. NHỮNG NGUYÊN TẮC ĐỀ XUẤT BIỆN PHÁP
74
6\3]:TN1.N 6\*'(--'N*3L!\
0) !"**'(-L-'@*3L0/)^C6\
6\3]'TN1.N_`.L)_4)_KWa'4 .
A@*3$
6\3]TN1.N<D*Hbc$
6\3]TN1.N_656N*KN56 dH$
3.2. BIỆN PHÁP GDĐĐNN CHO SVSPMN TRƯỜNG ĐẠI HỌC TÂN TRÀO
76
% T7'/ .L)N*3*@*3**+,)*'(-'
3.2.1.1. Mục …êu của biện pháp 76
3.2.1.2. Tổ chức thực hiện 76
3.2.1.3. Điều kiện thực hiện 78
% TQWD;e*J4L!\0 023C*
L=C3C)H41",f!\8]*!\=f
3.2.2.1. Mục …êu của biện pháp 79
3.2.2.2. Tổ chức thực hiện 79
3.2.2.3. Điều kiện thực hiện 80
% TAH'*JGI?gI>h1H31i 56\W)L
56\)56\+-'=)H **ZY')* C6/)*)
f0/*C1j:1Bg`I,>f#
3.2.3.1. Mục …êu của biện pháp 80
3.2.3.2. Tổ chức thực hiện 81
3.2.3.3. Điều kiện thực hiện 82
% TS4D;e8'=)'d*,56\+'Bh1.`
!k) !"**ZY')`=Z;8*C
69
3.2.4.1. Mục …êu của biện pháp 82
3.2.4.2. Tổ chức thực hiện 83
3.2.4.3. Điều kiện thực hiện 83
$% $TQ6\WK,__H)H )H56N-'/F)Y1) 7*
0/ *3121b36.F6X
3.2.5.1. Mục …êu của biện pháp 84
3.2.5.2. Tổ chức thực hiện 84
3.2.5.3. Điều kiện thực hiện 85
% Tl7\!H1U= !"')C1*(4 L
b36H-'KW+=NOW1"b36 !")-'=m
YY1"b36 !") *3121n
3.2.6.1. Mục …êu của biện pháp 86
3.2.6.2. Tổ chức thực hiện 87
3.2.6.3. Điều kiện thực hiện 88
% T KW56N^C6\.h 4DH
-' 7) -'/F* -' *3
3.2.7.1. Mục …êu của biện pháp 88
3.2.7.2. Tổ chức thực hiện 88
3.2.7.3. Điều kiện thực hiện 89
% TGZ=B@O*/:)6`CH,6K6/CD*J
L-)-F1 !"
3.2.8.1. Mục …êu của biện pháp 89
3.2.8.2. Tổ chức thực hiện 90
3.2.8.3. Điều kiện thực hiện 90
3.3. TỔ CHỨC KHẢO NGHIỆM TÍNH CẦN THIẾT, TÍNH KHẢ THI CỦA CÁC BIỆN PHÁP GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC NGHỀ NGHIỆP CHO
SINH VIÊN SƯ PHẠM MẦM NON TRƯỜNG ĐẠI HỌC TÂN TRÀO
90
>",KN1#
RH'01F
QW56NKN1
TIỂU KẾT CHƯƠNG 3 107
KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ 109
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 114
DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU
BẢNG 2.1: ĐÁNH GIÁ CỦA CBQL, GIẢNG VIÊN VÀ SINH VIÊN 48
VỀ NGHỀ GIÁO VIÊN MẦM NON 48
BẢNG 2.2: NHẬN THỨC CỦA CBQL, GIẢNG VIÊN VÀ SINH VIÊN VỀ TẦM QUAN TRỌNG CỦA ĐẠO ĐỨC NGHỀ
NGHIỆP TRONG CÔNG TÁC CỦA NGƯỜI GVMN 50
BẢNG 2.3. NHẬN THỨC CỦA CBQL, GV VÀ SV VỀ CÁC PHẨM CHẤT ĐẠO ĐỨC NGHỀ NGHIỆP CẦN THIẾT,
ĐẶC THÙ CỦA NGƯỜI GVMN. (ĐƠN VỊ: %) 51
BẢNG 2.4. LÝ DO CHỌN NGÀNH HỌC CỦA SINH VIÊN SƯ PHẠM MẦM NON 53
ĐỂ TÌM HIỂU THỰC TRẠNG LÒNG YÊU NGHỀ CỦA SINH VIÊN SƯ PHẠM MẦM NON, CHÚNG TÔI TÌM HIỂU
KHẢ NĂNG TỰ ĐÁNH GIÁ THÁI ĐỘ CỦA CÁC EM ĐỐI VỚI NGHỀ GIÁO VIÊN MẦM NON. CHÚNG TÔI TIẾN
HÀNH ĐIỀU TRA Ở BỐN MỨC ĐỘ SAU: “RẤT YÊU NGHỀ”, “YÊU NGHỀ”, “BÌNH THƯỜNG” VÀ “KHÔNG YÊU
NGHỀ” 55
BẢNG 2.5. TỰ ĐÁNH GIÁ THÁI ĐỘ CỦA SINH VIÊN ĐỐI VỚI NGHỀ GVMN 55
BẢNG 2.6. ĐÁNH GIÁ CỦA CBQL, GIẢNG VIÊN VÀ SINH VIÊN VỀ MỨC ĐỘ THỰC HIỆN GDĐĐNN CHO
SVSPMN Ở TRƯỜNG ĐẠI HỌC TÂN TRÀO 56
BẢNG 2.7. MỨC ĐỘ THỰC HIỆN CÁC NỘI DUNG GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC NGHỀ NGHIỆP 58
BẢNG 2.8. THỰC TRẠNG MỨC ĐỘ THỰC HIỆN CÁC CON ĐƯỜNG GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC NGHỀ NGHIỆP CHO
SINH VIÊN SƯ PHẠM MẦM NON 60
BẢNG 2.9. MỨC ĐỘ THAM GIA CỦA CÁC LLGD TRONG VÀ NGOÀI NHÀ TRƯỜNG VÀO CÔNG TÁC GDĐĐNN
CHO SINH VIÊN SƯ PHẠM MẦM NON 63
BẢNG 2.10. HIỆU QUẢ THỰC HIỆN CÁC BIỆN PHÁP GDĐĐNN 65
BẢNG 3.1. KẾT QUẢ KHẢO NGHIỆM MỨC ĐỘ CẦN THIẾT VÀ TÍNH KHẢ THI CỦA CÁC BIỆN PHÁP GDĐĐNN
ĐƯỢC ĐỀ XUẤT 101
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
1.1. Cơ sở lý luận
Giáo dục và đào tạo là hoạt động có tổ chức, có mục đích của xã hội
nhằm bồi dưỡng và phát triển các phẩm chất và năng lực của con người. Mục
đích tối cao của giáo dục chính là phát triển nhân cách toàn diện cho mỗi
người học - công dân, nguồn nhân lực của đất nước.
Giáo dục trong nhà trường gồm hai quá trình không thể tách rời nhau
đó là quá trình hình thành tri thức và quá trình giáo dục phẩm chất đạo đức.
Trong đó giáo dục đạo đức cho người học là một bộ phận then chốt, quan
trọng của giáo dục nhân cách con người phát triển toàn diện. Theo quan điểm
truyền thống cũng như hiện đại thì đạo đức là mặt nhân lõi của nhân cách. Vì
lẽ đó để hình thành và phát triển nhân cách thì song song với giáo dục trí tuệ
không thể thiếu việc hình thành các phẩm chất đạo đức và các giá trị đạo đức
phù hợp.
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn quan tâm đến vấn đề giáo dục,
rèn luyện đạo đức nhân cách cho thế hệ trẻ, theo Người: “Có tài mà không có
đức là người vô dụng. Có đức mà không có tài thì làm việc gì cũng khó”.
Đồng thời Bác cũng nhấn mạnh: “…công tác giáo dục đạo đức trong trường
học là một bộ phận quan trọng có tính chất nền tảng của nhà trường XHCN”.
Nhiệm vụ giáo dục đạo đức cho người học đã được nhấn mạnh và
khẳng định trong văn bản của Đảng và Nhà nước ta. Đây là vấn đề lớn trong
chiến lược con người mà Đảng và Nhà nước ta xác định phải quan tâm trong
thời kì đổi mới, thời kì CNH - HĐH đất nước. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ XI ghi rõ: “Giáo dục - đào tạo đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp
công nghiệp hoá - hiện đại hoá”[21]. Đảng ta luôn coi phát triển giáo dục và
đào tạo là một trong những động lực quan trọng, là yếu tố cơ bản để phát triển
xã hội, tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững.
Tại Điều 34 - Luật giáo dục năm 2005 cũng đã xác định: “Nội dung
giáo dục nghề nghiệp là phải tập trung đào tạo năng lực thực hành nghề
1
nghiệp, coi trọng giáo dục đạo đức, rèn luyện sức khoẻ, rèn luyện kĩ năng
theo yêu cầu đào tạo của từng nghề…”[36] nhằm đạt mục tiêu: đào tạo người
lao động vừa có kiến thức, kỹ năng nghề nghiệp, vừa có đạo đức và lương
tâm nghề nghiệp…
Để thành công trong nghề nghiệp, cá nhân không chỉ cần phải có kiến
thức, kỹ năng mà đạo đức nghề nghiệp là một yêu cầu không thể thiếu. Bởi
đạo đức là cái gốc quan trọng giúp mỗi người đứng vững với nghề, nâng cái
nghề ấy trở nên cao quý.
Muốn phát triển giáo dục và đạo tạo đạt hiệu quả cao, trước tiên phải
nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên. Theo Giáo sư - Viện sĩ Phạm Minh
Hạc: Giáo viên là nhân tố quyết định chất lượng giáo dục và nhân cách người
thầy giáo là nhân tố đảm bảo chất lượng giáo dục (…) người thầy không
những phải có vốn kiến thức phong phú, sâu rộng mà còn phải có phẩm chất
đạo đức trong sáng (…). Do đó việc hình thành những phẩm chất đạo đức của
người thầy giáo cho sinh viên ngay từ khi còn ở trên giảng đường là một trong
những nhiệm vụ quan trọng của nhà trường sư phạm. Bởi những phẩm chất
đạo đức không thể hình thành trong một sớm một chiều mà cần một quá trình
lâu dài và liên tục. Những phẩm chất đạo đức muốn có được phải được tổ
chức giáo dục chặt chẽ, khéo léo ngay từ khi sinh viên mới bước vào trường
chuyên nghiệp.
1.2. Cơ sở thực tiễn
Việt Nam đã và đang trên con đường hội nhập và phát triển. Cùng với
đó là những biến động mạnh mẽ trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Xã
hội tồn tại những quan điểm đạo đức đối lập nhau, những biểu hiện tiêu cực
về đạo đức đang tồn tại và ngày càng trở nên phức tạp.
Trong công cuộc đổi mới đất nước, đại đa số sinh viên có ý chí vươn
lên trong học tập, có ý thức tu dưỡng đạo đức, có hoài bão và khát vọng đưa
đất nước thoát khỏi nghèo nàn lạc hậu. Tuy vậy, trong những năm gần đây do
tác động của cơ chế thị trường và nhiều nguyên nhân khác, đã ảnh hưởng đến
tâm lí, lối sống của nhiều tầng lớp xã hội đặc biệt là sinh viên. Sinh viên là
2
lứa tuổi nhạy cảm, dễ chịu ảnh hưởng của những tác động từ môi trường xung
quanh. Sự tác động của nhiều yếu tố chủ quan và khách quan đã ảnh hưởng
rất lớn đến đạo đức và đạo đức nghề nghiệp của giới trẻ. Giáo dục những giá
trị đạo đức tốt đẹp và ngăn chặn kịp thời những biểu hiện sai lệch để các em
phát triển lành mạnh là một vấn đề khó, phức tạp và có tính cấp thiết.
Nhà trường sư phạm có nhiệm vụ GD - ĐT nguồn nhân lực là những
người thầy giáo, cô giáo trong tương lai. Đó là những con người vừa hồng,
vừa chuyên để tiếp tục dìu dắt các thế hệ học trò của đất nước. Tuy nhiên, một
bộ phận không nhỏ sinh viên sư phạm có biểu hiện đi xuống về đạo đức và do
đó ảnh hưởng đến đạo đức nghề nghiệp của họ. Nếu nhà trường sư phạm
không có những biện pháp giáo dục đạo đức nghề nghiệp phù hợp, hiệu quả,
thì không thể có chất lượng nguồn nhân lực đáp ứng được yêu cầu của xã hội.
Trường Đại học Tân Trào nằm trong hệ thống các trường đại học đa
ngành, trong đó có nhiệm vụ đào tạo các thầy, cô giáo trong tương lai. Công
tác giáo dục đạo đức cho sinh viên của nhà trường cũng đã được thực hiện,
nhưng còn nhiều bất cập như: nội dung còn nghèo nàn, hình thức thiếu phong
phú, đa dạng, quá trình thực hiện chưa đồng bộ, quá trình đào tạo còn nặng về
trang bị, cung cấp kiến thức khoa học mà xem nhẹ việc giáo dục, rèn luyện
phẩm chất đạo đức của người giáo viên do đó hiệu quả chưa thực sự rõ rệt.
Đối với sinh viên chuyên ngành sư phạm mầm non, những phẩm chất
đạo đức tốt đẹp, tâm hồn lành mạnh, trong sáng và tình yêu nghề, yêu trẻ là
những yêu cầu vô cùng quan trọng để họ có thể thực hiện xuất sắc nhiệm vụ,
hoàn thành sứ mệnh cao cả mà xã hội giao cho. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dạy:
“Làm mẫu giáo tức là thay mẹ dạy trẻ. Muốn làm được thế thì phải yêu trẻ.
Các cháu nhỏ hay quấy, phải bền bỉ, chịu khó mới nuôi dạy được các cháu.
Dạy trẻ cũng như trồng cây non. Trồng cây non được tốt thì sau này cây lên
tốt, dạy trẻ tốt thì sau này các cháu thành người tốt (…) Anh chị em giáo viên
và mẫu giáo cần luôn luôn gương mẫu về đạo đức để các cháu noi theo ”
3
[34]. Trong những năm gần đây, khi xu hướng toàn cầu hoá và kinh tế thị
trường diễn ra, thì mặt trái của nó cũng đã len lỏi, xâm nhập, tác động vào đời
sống nghề nghiệp của GVMN. Bên cạnh những tấm gương đạo đức cao đẹp,
đã có không ít những biểu hiện lệch lạc, sa sút về đạo đức, mờ nhạt về lí
tưởng và hoài bão, ước mơ… Do đó, việc giáo dục đạo đức và đạo đức nghề
nghiệp cho sinh viên mầm non ngay từ khi các em còn ngồi trên ghế nhà
trường sư phạm là một yêu cầu vô cùng quan trọng, cấp thiết, không thể thiếu
trong toàn bộ quá trình giáo dục - đào tạo của nhà trường.
Xuất phát từ lí luận và thực tiễn, bản thân là một giảng viên của trường
Đại học Tân Trào, tôi luôn nhận thức được vai trò quan trọng của việc
GDĐĐNN cho các thế hệ sinh viên sư phạm. Đó là một trong những nhiệm
vụ then chốt của nhà trường nhằm đào tạo đội ngũ giáo viên có năng lực sáng
tạo và phẩm chất đạo đức tốt góp phần phát triển sự nghiệp giáo dục trong
thời kì CNH - HĐH đất nước. Với mong muốn đề xuất được những biện pháp
nhằm nâng cao chất lượng GDĐĐNN cho sinh viên sư phạm mầm non, góp
phần nâng cao chất lượng giáo dục - đào đạo của nhà trường Đại học Tân
Trào, chúng tôi lựa chọn đề tài nghiên cứu: “Biện pháp giáo dục đạo đức
nghề nghiệp cho sinh viên sư phạm mầm non trường Đại học Tân Trào”.
Đề tài mang ý nghĩa lý luận và giá trị thực tiễn đặc thù của địa phương không
trùng lặp những đề tài đã được công bố.
2. Mục đích nghiên cứu
Xác định một số biện pháp GDĐĐNN cho sinh viên sư phạm mầm non
trường Đại học Tân Trào, nhằm nâng cao chất lượng giáo dục - đào tạo của
nhà trường Đại học Tân Trào, góp phần phục vụ sự nghiệp CNH - HĐH đất
nước trong giai đoạn hiện nay.
3. Khách thể và đối tượng nghiên cứu
3.1. Khách thể nghiên cứu
Quá trình giáo dục đạo đức cho sinh viên sư phạm mầm non ở trường
Đại học Tân Trào.
3.2. Đối tượng nghiên cứu
4
Biện pháp giáo dục đạo đức nghề nghiệp cho sinh viên sư phạm mầm
non trường Đại học Tân Trào.
4. Giả thuyết khoa học
Trường Đại học Tân Trào đã tiến hành GDĐĐNN cho sinh viên sư
phạm mầm non nhưng hiệu quả còn rất hạn chế. Nếu nhà trường có những
biện pháp GDĐĐNN phù hợp, đồng bộ sẽ nâng cao chất lượng, hiệu quả
GDĐĐNN, góp phần thực hiện mục tiêu đào tạo đội ngũ giáo viên mầm non
đủ đức, đủ tài phục vụ đất nước.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
5.1. Nghiên cứu cơ sở lí luận của việc GDĐĐNN trong nhà trường sư phạm
hiện nay.
5.2. Khảo sát thực trạng GDĐĐNN cho SVSPMN ở trường Đại học Tân Trào.
5.3. Đề xuất một số biện pháp GDĐĐNN cho SVSPMN trường Đại học Tân
Trào và khảo nghiệm những biện pháp đó.
6. Phạm vi nghiên cứu
6.1. Giới hạn về phạm vi nghiên cứu
Nghiên cứu một số biện pháp giáo dục đạo đức nghề nghiệp cho sinh
viên sư phạm mầm non trường Đại học Tân Trào.
6.2. Giới hạn về khách thể khảo sát
Nghiên cứu trên đối tượng khảo sát là:
+ 30 cán bộ giảng viên (Trong đó: Ban giám hiệu: 3; Lãnh đạo khoa
Mầm non: 2; Giảng viên: 25)
+ 165 sinh viên hệ cao đẳng năm thứ 2 và thứ 3 khoa Mầm non (Trong
đó SV năm thứ 2: 82; SV năm thứ 3: 83)
+ Cán bộ quản lý địa phương
+ Phụ huynh của sinh viên.
7. Phương pháp nghiên cứu
7.1. Phương pháp nghiên cứu lí luận
- Sưu tầm, phân tích, tổng hợp, khái quát hóa hệ thống hóa các văn bản,
tài liệu sách báo, tạp chí chuyên ngành, tạp chí thông tin khoa học, các công
trình nghiên cứu có liên quan đến hoạt động giáo dục đạo đức nghề nghiệp và
các biện pháp giáo dục đạo đức nghề nghiệp cho sinh viên.
- Tìm hiểu những quy định về phẩm chất đạo đức nghề nghiệp, những
nội quy, quy chế trường mầm non, Luật Bảo vệ, chăm sóc trẻ em
5
- Những văn bản tổng kết, đánh giá kết quả dạy học và giáo dục của
nhà trường trong những năm gần đây.
7.2. Phương pháp nghiên cứu thực tiễn
7.2.1. Phương pháp quan sát
Sử dụng phương pháp quan sát nhằm tìm hiểu thực trạng GDĐĐNN
cho sinh viên. Quan sát thông qua dự giờ học, giờ sinh hoạt lớp, sinh hoạt tập
thể, sinh hoạt chuyên đề, ngoại khóa
Quan sát các hoạt động giáo dục trong nhà trường Đại học Tân Trào để
tìm hiểu những biện pháp GDĐĐNN cho SVSPMN sau đó đối chiếu với kết
quả điều tra.
7.2.2. Phương pháp điều tra (bằng Ankét)
Sử dụng phương pháp điều tra bằng ankét nhằm khảo sát thực trạng
GDĐĐNN cho SVSPMN. Thông qua hệ thống câu hỏi nhằm khẳng định một
cách khoa học những vấn đề đã trao đổi, tiếp xúc với đối tượng điều tra. Từ
đó đề xuất biện pháp GDĐĐNN cho SVSPMN trường Đại học Tân Trào.
6
7.2.3. Phương pháp phỏng vấn
Sử dụng phương pháp phỏng vấn tìm hiểu quan điểm, nhận thức và
nguyện vọng của SV về giáo dục đạo đức và đạo đức nghề nghiệp.
Trao đổi với GV để thu thập những thông tin cần thiết phục vụ yêu cầu
của đề tài.
Trao đổi với cán bộ quản lý của địa phương và phụ huynh của sinh viên
về tầm quan trọng của đạo đức nghề nghiệp và vấn đề phối hợp với nhà
trường trong việc GDĐĐNN cho SV.
Thăm dò dư luận xã hội về vấn đề đạo đức của SV sư phạm hiện nay.
7.2.4. Phương pháp tham khảo ý kiến chuyên gia
Tham khảo ý kiến của một số chuyên gia để được tư vấn, định hướng
trong quá trình nghiên cứu và lựa chọn các biện pháp GDĐĐNN cho
SVSPMN trường Đại học Tân Trào.
7.2.5. Phương pháp khảo nghiệm
Tổ chức khảo nghiệm tính cấp thiết và tính khả thi của các biện pháp.
7.2.6. Phương pháp thống kê toán học
Được sử dụng để xử lý số liệu đảm bảo tính chính xác khoa học nhằm
nâng cao tính khách quan của đề tài nghiên cứu.
8. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và phụ lục, luận văn gồm 3 chương:
- Chương 1: Cơ sở lý luận về vấn đề giáo dục đạo đức nghề nghiệp cho
sinh viên sư phạm mầm non.
- Chương 2: Thực trạng giáo dục đạo đức nghề nghiệp cho sinh viên sư
phạm mầm non trường Đại học Tân Trào.
- Chương 3: Biện pháp giáo dục đạo đức nghề nghiệp cho sinh viên sư
phạm mầm non trường Đại học Tân Trào.
7
NỘI DUNG
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ VẤN ĐỀ GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC NGHỀ NGHIỆP
CHO SINH VIÊN SƯ PHẠM MẦM NON
1.1. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
1.1.1. Ở nước ngoài
Đạo đức là một hình thái ý thức xã hội được hình thành rất sớm trong
lịch sử phát triển nhân loại và được mọi giai cấp, mọi xã hội và thời đại quan
tâm. Giáo dục đạo đức cho con người là vấn đề đã được đặt ra từ xa xưa và
luôn được đổi mới để thích ứng với thực tiễn của thời đại.
Khổng Tử (551 - 479 TCN) một nhà giáo dục tiêu biểu của Trung Hoa
cổ đại đã cho rằng: Nhân - Nghĩa là cốt lõi của đạo đức. Bàn về đạo đức của
người thầy giáo, Khổng Tử nhấn mạnh: người thầy giáo phải "Học không biết
chán, dạy không biết mỏi" ("Học nhi bất yếm, hối nhân bất quyện"), "Ôn hòa,
hiền lương, cung kính, tiết kiệm, khiêm nhường" ("Ôn, lương, cung, kiệm,
nhượng dĩ đắc chi"), bốn điều tuyệt đối không làm "không riêng tư, không
quyết rằng điều đó tất đúng, không cố chấp, không vì mình" (Tử tuyệt tứ: vô
ý, vô tất, vô cố, vô ngã), Không nói, không dạy những điều quái dị, vũ lực,
phản loạn, quỷ thần (Tứ bất ngữ, bất giáo: Quái, lực, loạn, thần).
Ở phương tây, Nhà triết học Xôcrat (470 - 399 TCN) hướng triết học
vào việc giáo dục con người có đạo đức. Ông cho rằng: "Nguyên nhân sâu xa
của hành vi có hay không có đạo đức là do nhận thức". Aritxtốt thì xem đạo
đức và chính trị là triết học về con người. Đạo đức là cái thiện của cá nhân,
còn chính trị là cái thiện của xã hội.
Sau này trên thế giới có nhiều triết gia, nhiều nhà khoa học, nhà giáo
dục khác đã bàn về đạo đức và giáo dục đạo đức:
J.A. Cômenxki (1592-1670) - nhà sư phạm lỗi lạc người Tiệp Khắc -
trong quá trình giảng dạy cho thanh niên, học sinh, ông quan tâm đến phương
8
pháp nêu cho học sinh bắt chước, đặc biệt là sự gương mẫu của thầy giáo, cha
mẹ và những người thân, phải giáo dục trẻ bằng tình yêu thương chân thành.
Người thầy giáo phải "phải yêu thương học sinh chân thành" hay "Anh không
như một người cha thì cũng không thể như một người thầy". Theo ông: "Việc
trau dồi đức hạnh cần phải bắt đầu từ lúc còn thơ, trước khi tâm hồn bị hoen
ố" và "đức hạnh của con người có thể trau dồi được bằng cách luôn luôn xử
sự chân chính" [38]
Theo Pétxtalôdi (1746 - 1827) - nhà giáo dục người Thụy Sĩ- người
thầy giáo phải là "người cha của mọi đứa trẻ, tất cả cho người khác, không gì
riêng cho mình". [2]
Theo K.Đ. Usinxki (1824 - 1870), người thầy giáo là người giữ gìn,
truyền đạt di huấn thiêng liêng của các bậc tiền bối đã đấu tranh cho chân lý
và hạnh phúc. "Dạy học là một nghề vinh quang nhưng phải thường xuyên
bồi dưỡng để tiến kịp với thời đại". [2]
Theo N.I.Nôvicốp (1826 - ?), "không có gì tác động lên tâm hồn non
nớt của trẻ bằng quyền lực của sự làm gương và giữa muôn vàn tấm gương,
không có tấm gương nào sâu sắc và bền chặt bằng tấm gương của các bậc
cha mẹ và thầy cô giáo".[2]
Tại Bungari vào những năm 1977 - 1978, trung tâm nghiên cứu khoa
học về thanh niên đã tiến hành một số đề tài nghiên cứu khoa học về giáo dục
đạo đức cho thanh niên. Các nhà khoa học đã đề cập đến vấn đề định hướng
giá trị cho thanh niên nói chung, trong đó các giá trị đạo đức như: lý tưởng
cộng sản chủ nghĩa, đạo đức cộng sản, tinh thần tập thể XHCN; giáo viên
phải có đủ các giá trị đạo đức nêu trên.
Năm 1975, nhà xuất bản thuộc trường đại học Tổng hợp quốc gia Nga
công bố tuyển tập các báo cáo của N.I. Bônđưrev. Trong đó nổi bật là vấn đề
"chuẩn bị cho sinh viên làm công tác giáo dục ở nhà trường phổ thông". Ông
cho rằng một sinh viên sư phạm trước khi làm công tác giáo dục ở nhà trường
phổ thông cần được chuẩn bị hành trang hết sức công phu và kĩ càng. Cụ thể,
9
sinh viên sư phạm cần có đủ các năng lực giáo dục, năng lực giao tiếp và đặc
biệt phải có lý tưởng nghề nghiệp, yêu trẻ, bao dung và độ lượng. Ông nhấn
mạnh chỉ có sự chuẩn bị như thế sinh viên sư phạm mới trở thành những giáo
viên có phẩm chất và năng lực cần thiết đáp ứng những yêu cầu của nhà
trường XHCN.
Nhà giáo dục P.N. Gônôbôlin cho rằng uy tín đích thực của người giáo
viên được xây dựng trên hệ thống các phẩm chất. Ông viết: "có người nói mối
quan hệ xấu nhất giữa giáo viên và học sinh xảy ra khi nào các em thoáng
nghi ngờ về khả năng nhận thức của thầy. Chúng tôi xin bổ sung thêm là
người giáo viên còn lâm vào cảnh bất hạnh hơn nếu đó là sự ngờ vực về
phẩm chất đạo đức". [24]
Nhiều tác giả như A.X. Xukhômlinxki, G. Bađeladge và M. Calinin
cũng đánh giá cao về vai trò của các phẩm chất đạo đức trong nhân cách sư
phạm, thậm chí còn quan trọng hơn cả năng lực nghề nghiệp. Nhìn chung các
tác giả đều thừa nhận người giáo viên chỉ được xem là "toàn diện" khi và chỉ
khi hội hội tụ đủ các phẩm chất đạo đức trong sáng. Các phẩm chất đó tác
động trực tiếp đến tâm tư, tình cảm của học sinh.
Trong cuốn "Đào tạo và đánh giá dựa trên năng lực" của Viện Đại học
Douglas Mauson - Bang Adelaie - Nam Úc, các tác giả cho rằng ĐĐNN là
một yêu cầu không thể thiếu của bất cứ loại hình công việc nào, mỗi loại nghề
nghiệp lại đòi hỏi người hoạt động trong lĩnh vực đó ba thành tố: Tri thức
(knowledgement), thái độ (attitue) và kĩ năng (skills). Tại bang Victoria (Úc),
các quy định về chuẩn mực đạo đức nghề dạy học bao gồm nhiều phẩm chất:
Sự tôn trọng người khác, lòng nhân hậu, sự nghiêm minh và công bằng, tính
lương thiện và ngay thẳng. Các chuẩn mực ĐĐNN này là cơ sở để cụ thế hóa
các hành vi đạo đức mà giáo viên phải tuân theo, đồng thời đó cũng là căn cứ
để giáo viên soi mình, xem xét, điều chỉnh và hoàn thiện ĐĐNN trước con
mắt của người học, đồng nghiệp, phụ huynh và cộng đồng.
10
Có thể nói, kết quả nghiên cứu của các nhà khoa học giáo dục là những
tiền đề quan trọng, là cơ sở lý luận để tham khảo, xây dựng khái niệm ĐĐNN
cũng như việc đề xuất các biện pháp GDĐĐNN cho sinh viên sư phạm nói
chung và SVSPMN nói riêng.
1.1.2. Ở trong nước
Ở Việt Nam, từ xa xưa đã có rất nhiều tác giả bàn về đạo đức và giáo
dục đạo đức. Tiêu biểu phải kể đến cụ Phan Bội Châu và cụ Phan Chu Trinh.
Trong "Khổng đăng học" cụ Phan Bội Châu đã rút ra 6 tính tốt cần rèn luyện
gọi là lục ngôn: Nhân, Trí, Tín, Trực, Dũng, Cương. Bởi theo cụ giáo dục 6
đức tính đó sẽ tăng cường bản lĩnh cho con người trong thời đại ấy.
Với "Đạo đức và luân lí", cụ Phan Chu Trinh đã cho thấy sức mạnh cho
dân cho nước là ở sức mạnh đạo đức, nhân cách và bản lĩnh của con người.
Một dân tộc muốn khẳng định mình, không bị khuất phục thì phải có một nền
đạo đức vững chắc.
Sau này, chủ tịch Hồ Chí Minh đã đưa ra những quan điểm, tư tưởng
triết lý giáo dục hết sức vĩ đại và sâu sắc nhưng cũng rất cụ thể và gần gũi với
mọi đối tượng. Trong đó phải kể đến những lời dạy của Người đối với công
tác giáo dục - đào tạo nói chung, trong đó có giáo dục đạo đức nhân cách cho
những người thầy, cô giáo nói riêng.
Theo Hồ Chủ Tịch, người thầy giáo trước hết phải là một công dân mẫu
mực, phải mang trong mình đạo đức cách mạng. Đó là thứ đạo đức mới, đạo
đức vĩ đại, nó không phải vì danh vọng cá nhân mà vì lợi ích chung của Đảng,
của nhân dân, của dân tộc và của loài người. Đạo đức cách mạng thể hiện vắn
tắt trong những phẩm chất: Nhân (Là thật thà thương yêu, hết lòng giúp đỡ
đồng chí, đồng bào), Nghĩa (Là ngay thẳng, không có tư tâm, không làm việc
bậy, không có việc gì phải giấu Đảng), Trí (Không có việc gì là mù quáng cho
nên đầu óc trong sạch, sáng suốt, dễ hiểu lý luận, dễ tìm phương hướng, biết
xét người, biết xét việc), Dũng (Là dũng cảm, gan góc, gặp việc phải có gan
11
làm, cực khổ, khó khăn có gan chịu đựng), Liêm (Là không tham địa vị,
không tham tiền tài, không tham sung sướng, không tham người tâng bốc
mình, quang minh, chính đại. Chỉ ham học, ham làm, ham tiến bộ).
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đánh giá rất cao vai trò của người thầy giáo
trong sự nghiệp cách mạng: "Tôi mong rằng trong một thời kì rất ngắn lòng
hăng hái và sự nỗ lực của anh chị em sẽ có kết quả vẻ vang. Đồng bào ta ai
cũng biết đọc, biết viết. Cái vinh dự đó thì tượng đồng, bia đá nào cũng
không bằng".[34], hay "thầy giáo tốt - thầy giáo xứng đáng là thầy giáo, là
người vẻ vang nhất. Dù tên tuổi không đăng báo, không được thưởng huân
chương, song những thầy giáo tốt là những anh hùng vô danh" [34].
Từ những đạo đức cách mạng khái quát, Bác Hồ đòi hỏi người thầy
giáo phải có những phẩm chất cụ thể. Bác đã từng nhắc nhở:
+ "Các thầy giáo, các cô giáo phải gần gũi dân chúng. Các thầy giáo
cũng như các trí thức khác là lao động trí óc. Lao động trí óc phải biết sinh
hoạt của nhân dân, nếu chỉ giở sách đọc thì không đủ. Phải yêu dân, yêu học
trò, gần gũi nhau, gần gũi cha mẹ học trò" [34]
+ "Các thầy giáo, các cô giáo cần luôn luôn bồi dưỡng tư tưởng
XHCN, đấu tranh tiêu diệt cá nhân chủ nghĩa” [34].
+ “Làm mẫu giáo tức là thay cha, mẹ dạy trẻ. Muốn làm như thế thì
trước hết phải yêu trẻ. Các cháu nhỏ hay quấy phải bền bỉ, chịu khó nuôi dạy
các cháu".[34]
+ "Học trò tốt hay xấu là do thầy giáo, cô giáo tốt hay xấu. Các cô, chú
phải nhận rõ trách nhiệm về mình".[34]
+ Thầy giáo phải như trò phải thật thà yêu nghề, yêu trường của mình.
Nhiệm vụ của các thầy giáo, cô giáo rất nặng nề, nhưng rất vẻ vang. Muốn
làm tròn trách nhiệm đó thì phải gương mẫu về mọi mặt, không ngừng bồi
dưỡng đạo đức cách mạng, lập trường chính trị, phải ra sức đoàn kết giúp đỡ
nhau cùng tiến bộ".[34]
12
+ Giáo viên phải chú ý cả tài, cả đức. Tài là văn hóa, chuyên môn, đức
là chính trị. Muốn cho học sinh có đức thì giáo viên phải có đức. Thầy giáo,
cô giáo phải gương mẫu, nhất là với trẻ con".[34]
Ngày 29/6/1962, cố Tổng bí thư Lê Duẩn đã có bài phát biểu tại trường
Đại học Sư Phạm Hà Nội, đồng chí nhấn mạnh: "Những thầy giáo không yêu
nghề cũng có nghĩa là đồng chí đó không yêu người. Càng yêu nghề bao
nhiêu thì càng yêu người bấy nhiêu". Lời căn dặn của đồng chí Tổng bí thư đã
trở thành phương châm hành động của rất nhiều thế hệ giáo viên. Các phẩm
chất yêu người và yêu nghề là phẩm chất trụ cột, nền tảng trong ĐĐNN của
nghề dạy học.
Trong những năm gần đây, đã có nhiều công trình nghiên cứu xoay
quanh vấn đề giáo dục đạo đức, quản lý hoạt động giáo dục đạo đức. Có thể
kể đến một số công trình sau:
- "Giá trị - Định hướng giá trị nhân cách và giáo dục giá trị" thuộc đề
tài khoa học cấp nhà nước mã số KX - 07 - 04 (1995). Các tác giả trình bày về
hệ thống thang bậc giá trị, sự hình thành định hướng giá trị nhân cách cũng
như việc giáo dục giá trị. Trong đó, khía cạnh phẩm chất đạo đức trong nhân
cách được coi là giá trị đích thực, cao quý của con người, của mỗi cá nhân mà
xã hội đang đòi hỏi, mong đợi. Các tác giả cũng nhấn mạnh phải coi trọng cả
việc kế thừa những giá trị truyền thống lẫn giá trị hiện đại trong việc giáo dục
giá trị cho thế hệ trẻ.
- "Về phát triển toàn diện con người thời kì CNH-HĐH" thuộc đề tài
khoa học cấp nhà nước do Giáo sư - Viện sĩ Phạm Minh Hạc chủ trì, mã số
KHXH 04 - 04 (2001). Trong đó dành hẳn một chương nói về định hướng
chiến lược xây dựng đạo đức con người Việt Nam. Các tác giả trình bày thực
trạng đạo đức, nêu rõ mục tiêu giáo dục đạo đức trong gia đoạn hiện nay cũng
như việc đề ra các giải pháp giáo dục đạo đức cho con người Việt Nam thời kì
CNH-HĐH.
- Tác giả Bùi Văn Huệ đã phân tích vị trí của người giáo viên trong xã
hội hiện đại, chỉ ra những đặc thù lao động của người giáo viên tiểu học. Tác
13
giả cho rằng: công cụ lao động của người giáo viên là phẩm chất và trí tuệ của
mình. Tác giả cũng đã đưa ra hệ thống phẩm chất đạo đức của người giáo
viên tiểu học bao gồm: Lý tưởng nghề dạy học: yếu tố tạo nên sức mạnh tinh
thần giúp giáo viên có sức mạnh vượt qua những khó khăn để hoàn thành
nhiệm vụ; Tư duy giáo dục: yếu tố giúp cho người giáo viên như là "thần
tượng của học sinh, các em dễ tin, dễ nghe theo lời dạy của mình"; Yêu nghề,
yêu trẻ.
- Tác giả Nguyễn Ngọc Bảo trong nghiên cứu của mình, ông phân tích
mặt tâm lý hoạt động của người cán bộ giảng dạy và đã chỉ ra những yếu tố
liên quan trực tiếp tới nhân cách của người hành nghề sư phạm. Tác giả cũng
đã đề cập tới những vấn đề: Hình thành xu hướng nghề nghiệp của nhân cách
sinh viên; Những tình cảm và những phẩm chất ý chí; Những cơ sở tâm lý của
sự hình thành sự sẵn sàng hoạt động lao động khi sinh viên tốt nghiệp
Những phân tích sâu sắc của tác giả có ý nghĩa trong quá trình tiến hành hoạt
động giáo dục đạo đức nghề nghiệp cho giáo sinh sư phạm.
- Trong bài viết đăng trên tạp chí Nghiên cứu giáo dục (tháng 1/1993),
tác giả Trần Trọng Thủy đã chỉ ra một số phẩm chất đạo đức mà sinh viên
mới ra trường cần phải có đó là: lòng yêu nghề, lòng mến trẻ, có lý tưởng đào
tạo thế hệ trẻ trở thành những công dân có ích cho xã hội.
- Trong công trình nghiên cứu của mình, hai tác giả Phạm Khắc
Chương và Hà Nhật Thăng đã chỉ ra một số phẩm chất cao quý của người
thầy giáo, "thầy giáo là người giàu lòng nhân ái, sống mẫu mực, đạo đức
trong sáng, không tham công danh, phú quý. Có thể nói, cái tâm, cái trí của
thầy giáo là tấm gương sáng của con người trong các thời kỳ lịch sử" [16].
- Trong các bài viết xoay quanh vấn đề "Đạo đức của giáo viên qua bộ
luật đạo đức nghề nghiệp của một số nước" đăng trên Tạp chí Giáo dục của
tác giả Nguyễn Thanh Hoàn như: "Bộ luật ứng xử cho giáo viên", "Chuẩn đạo
đức nghề nghiệp cho giáo viên" hay "Bộ luật đạo đức nghề nghiệp", tác giả đã
cho thấy các bộ luật này quy định những tiêu chuẩn về đạo đức nghề nghiệp
14
của giáo viên. Trong các nghiên cứu của mình tác giả đã đưa ra mô hình
người giáo viên gồm 3 thành tố: Phẩm chất cá nhân, kiến thức và kỹ năng.
- Luận án tiến sĩ: "Những biện pháp giáo dục đạo đức nghề nghiệp cho
sinh viên sư phạm trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam" của tác giả
Nguyễn Anh Tuấn đã chỉ ra những tác động của nền kinh tế thị trường tới
sinh viên nói chung và sinh viên các trường sư phạm nói riêng. Tác giả đã đưa
ra những biện pháp giáo dục đạo đức cho sinh viên sư phạm có ý nghĩa lý
luận và ý nghĩa thực tiễn sâu sắc.
Những phẩm chất đạo đức mà người giáo viên cần phải có đã được
khẳng định trong Luật giáo dục sửa đổi được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam thông qua năm 2005. Luật giáo dục ghi rõ: "Nhà giáo
phải có những tiêu chuẩn sau đây: Phẩm chất đạo đức, tư tưởng tốt, đạt trình
độ chuẩn được đào tạo về chuyên môn và nghiệp vụ, đủ sức khỏe theo yêu
cầu nghề nghiệp, lý lịch bản thân rõ ràng" [36]. Trên cơ sở những tiêu chuẩn
đó, nhà giáo phải có các tiêu chuẩn sau: "Giáo dục, giảng dạy theo mục tiêu,
nguyên lý, chương trình giáo dục" cụ thể là: Gương mẫu thực hiện nghĩa vụ
công dân, các quy định của pháp luật và điều lệ nhà trường; giữ gìn uy tín,
phẩm chất, danh dự của nhà giáo, tôn trọng nhân cách người học, đối xử công
bằng với người học, bảo vệ quyền lợi, lợi ích chính đáng của người học,
không ngừng học tập, rèn luyện đề cao phẩm chất đạo đức, trình độ chuyên
môn, nghiệp vụ, nêu cao gương tốt cho người học…
Bộ Giáo dục và Đào tạo cũng đã ban hành quyết định số 16/2008/QĐ-
BGDĐT ngày 16 tháng 4 năm 2008 "Quy định về đạo đức nhà giáo". Quyết
định số 02/2008/QĐ-BGDĐT ngày 22 tháng 1 năm 2008 của Bộ Giáo dục và
Đào tạo ban hành quy định về chuẩn nghề nghiệp giáo viên mầm non. Đây
chính là những căn cứ pháp lý quan trọng để chúng ta tiến hành công tác
GDĐĐNN cho sinh viên sư phạm nói chung và sinh viên sư phạm mầm non
nói riêng.
Tóm lại, đã có rất nhiều công trình khoa hoa học trong nước và ở nước
ngoài đã đề cập đến vấn đề giáo dục đạo đức và giáo dục đạo đức nghề
15
nghiệp. Tuy nhiên, việc nghiên cứu GDĐĐNN cho sinh viên một ngành nghề
cụ thể như sinh viên chuyên ngành giáo dục mầm non còn rất hạn chế. Đối
tượng mà chúng tôi muốn hướng tới là sinh viên chuyên ngành sư phạm mầm
non của trường Đại học Tân Trào. Sinh viên ở một tỉnh miền núi có nhiều
điểm khác biệt so với các địa phương khác. Do đó, đây là một đề tài nghiên
cứu rất mới mẻ, thiết thực, có giá trị thực tiễn cao nhằm phục vụ cho sự
nghiệp giáo dục và đạo tạo của tỉnh Tuyên Quang nói riêng, khu vực miền núi
nói chung.
1.2. Một số khái niệm cơ bản của đề tài
1.2.1. Đạo đức
Đạo đức là một hình thái ý thức xã hội, xuất hiện sớm trong quá trình
vận động, phát triển của xã hội, gắn liền với biến đổi của nền kinh tế xã hội.
Từ khi xã hội hình thành, phạm trù về đạo đức đã được phản ánh một cách
sinh động trong đời sống xã hội thông qua mối quan hệ biện chứng giữa con
người với con người, giữa con người với xã hội. Đạo đức luôn là một trong
những phương thức hữu hiệu điều chỉnh hành vi của con người, góp phần
quan trọng trong việc duy trì trật tự xã hội trong các chế độ xã hội.
Ở bất cứ thời đại nào cũng tồn tại mối quan hệ giữa cá nhân và xã hội,
giữa các cá nhân với nhau. Đạo đức được nảy sinh từ nhu cầu của xã hội điều
hòa và thống nhất các mâu thuẫn giữa lợi ích chung của tập thể, xã hội và lợi
ích riêng của cá nhân. Để giải quyết các mâu thuẫn đó thì một trong những
phương thức của xã hội là đề ra các yêu cầu dưới dạng các chuẩn mực giá trị
được mọi người công nhận và được củng cố bằng sức mạnh của phong tục,
tập quán, dư luận, lương tâm
Vậy đạo đức là gì? Mỗi lĩnh vực, mỗi nhà khoa học với những góc độ
khác nhau của cuộc sống lại đưa ra quan niệm, cách nhìn nhận, đề cập tới đạo
đức ở những khía cạnh, nội dung và phạm vi khác nhau:
- Các Mác cho rằng: "Đạo đức chính là lực lượng bản chất của con
người trong sự phát triển của nó theo hướng ngày càng đạt tới giá trị đích thực
16
của cái thiện" Theo C. Mác, bất luận trong mối quan hệ xã hội nào thì đạo đức
cũng là quan hệ thực sự người, là sự phản ánh tồn tại xã hội, cho nên mỗi hình
thái kinh tế - xã hội hay mỗi giai đoạn lịch sử đều định hình những nguyên
tắc, chuẩn mực đạo đức tương ứng.
- Theo từ điển Tiếng Việt: "Đạo đức là những tiêu chuẩn, những
nguyên tắc, quy định hành vi của con người đối với nhau và đối với xã hội.
Đạo đức là những phẩm chất tốt đẹp của con người theo những chuẩn mực
đạo đức của một giai cấp nhất định".
- "Đạo đức là toàn bộ các quy tắc, chuẩn mực nhằm điều chỉnh và đánh
giá cách ứng xử của con người với nhau trong quan hệ xã hội và quan hệ với
tự nhiên".[17]
- "Đạo đức là hệ thống những quy tắc, chuẩn mực biểu hiện sự tự giác
trong quan hệ giữa con người với con người, giữa con người với cộng đồng
xã hội, với tự nhiên và cả bản thân mình".[17]
Như vậy, dù tiếp cận theo góc độ nào thì cần hiểu: đạo đức là một hình
thái ý thức xã hội, là hệ thống những quy tắc, những chuẩn mực do xã hội đề
ra, nhờ nó con người tự giác điều chỉnh hành vi của mình sao cho phù hợp
với lợi ích, hạnh phúc của con người và tiến bộ xã hội.
Đạo đức thể hiện ở hệ thống các quy tắc, chuẩn mực xã hội. Thể hiện ở
các quan niệm về thiện và ác, lòng nhân ái, lương tâm, lòng tự trọng, nghĩa
vụ, danh dự, lẽ công bằng… Căn cứ vào các chuẩn mực đó, con người đánh
giá hành vi của người khác và của chính mình. Các chuẩn mực đạo đức có thể
không được ghi thành văn bản pháp quy nhưng chúng vẫn được mọi người
thực hiện do sự thôi thúc của lương tâm cá nhân và dư luận xã hội.
Xét đến cùng, đạo đức thuộc về ý thức con người, nó được biểu hiện ở
nhận thức, động cơ hành động và sự tự đánh giá. Nhờ đó mỗi cá nhân tự kiểm
soát, tự điều chỉnh hành động và cách ứng xử trong cuộc sống phù hợp với
chuẩn mực, nguyên tắc đạo đức xã hội.
1.2.2. Nghề nghiệp
17
Nghề nghiệp, chữ La tinh là Professio, có nghĩa là công việc chuyên
môn được hình thành một cách chính thống, là dạng hoạt động đòi hỏi một
trình độ học vấn nào đó, là cơ sở hoạt động giúp con người tồn tại.
Theo từ điển tiếng Việt định nghĩa: “Nghề là công việc chuyên làm
theo sự phân công lao động xã hội”.[38]
Tác giả E.A.Klimov thì: “Nghề nghiệp là một lĩnh vực sử dụng sức lao
động vật chất và tinh thần của con người một cách có giới hạn, cần thiết cho
xã hội (do sự phân công lao động xã hội mà có). Nó tạo cho con người khả
năng sử dụng lao động của mình để thu lấy những phương tiện cần thiết cho
việc tồn tại và phát triển”.
Như vậy, có thể hiểu nghề nghiệp như một dạng lao động vừa mang tính
xã hội (sự phân công xã hội) vừa mang tính cá nhân (nhu cầu bản thân) trong đó
con người với tư cách là chủ thể của hoạt động, sử dụng sức lao động của mình
để tạo ra sản phẩm vật chất, tinh thần cho cá nhân và cho xã hội.
Nghề nghiệp nào cũng hàm chứa trong nó một hệ thống giá trị kiến
thức, thái độ, kỹ năng, kỹ xảo nghề, truyền thống nghề, hiệu quả do nghề
mang lại. Nghề là cơ sở để con người có “nghiệp’ - việc làm, sự nghiệp.
Có thể nói nghề nghiệp là một dạng lao động đòi hỏi con người phải có
một quá trình đào tạo chuyên biệt để có những kiến thức chuyên môn, kỹ
năng, kỹ xảo nhất định. Nghề nghiệp là công việc mà người ta thực hiện trong
thời gian lâu dài.
Bất cứ một loại hình nghề nghiệp nào cũng có đối tượng quan hệ trực tiếp
của nó. Căn cứ vào đặc điểm này mà người ta chia nghề nghiệp thành 4 loại:
- Nghề quan hệ với kĩ thuật (Sửa chữa máy móc, lắp ráp, gia công…)
- Nghề quan hệ với tín hiệu (Thợ lắp chữ, sửa bản in, đánh máy…)
- Nghề quan hệ với động vật và thiên nhiên (Chăn nuôi, địa chất…)
- Nghề quan hệ trực tiếp với con người (Cán bộ quản lý, thầy thuốc, sư
phạm, bán hàng, hướng dẫn viên du lịch…)
18
Căn cứ vào trình độ chuyên môn được đòi hỏi, có thể phân loại nghề
nghiệp như sau:
- Các nghề không chuyên môn hoá: Những nghề này cần sự thích ứng
trong khoảng thời gian ngắn với những yêu cầu của lao động thấp (chỉ cần đạt
được một số ít tri thức và kĩ xảo nghề nghiệp) Ví dụ: Nghề bốc dỡ vận chuyển
nguyên vật liệu
- Các nghề nửa chuyên môn hoá: là những nghề đòi hỏi một trình độ
chuyên môn hạn chế, các tri thức và kĩ năng kĩ xảo nghề nghiệp chỉ đủ để
thực hiện những thao tác đơn giản hay những thao tác được chuyên môn hoá
một cách chặt chẽ.
- Các nghề chuyên môn hoá: Là những nghề đòi hỏi một quá trình đào
tạo nghề nghiệp chính quy, cá nhân nhận giấy chứng nhận tay nghề do các cơ
sở đạo tạo cấp. Trên cơ sở đó người lao động được nhận vào làm việc thuộc
lĩnh vực nghề nghiệp tương ứng.
1.2.3. Đạo đức nghề nghiệp
Đạo đức nghề nghiệp là một bộ phận của đạo đức xã hội. Nói tới đạo
đức nghề nghiệp tức là muốn thu hẹp phạm vi của khái niệm đạo đức nói
chung và được cụ thể hoá cho từng nghề nghiệp nhất định. Đạo đức nghề
nghiệp là tên gọi khoa học về cách sử dụng nghề nghiệp của con người.
Đạo đức nghề nghiệp là một hệ thống chuẩn mực đạo đức của một lĩnh
vực lao động, sản xuất, hoạt động xã hội. Nó phản ánh những phẩm chất mà
con người cần có khi hoạt động trong một ngành, một nghề cụ thể, quy định
và điều chỉnh hành vi ứng xử, thái độ của con người trong lao động, với đối
tượng lao động, với sản phẩm và vị trí của nghề nghiệp trong sự phát triển
của xã hội. Đạo đức nghề nghiệp đòi hỏi họ phải tự giác thực hiện, giúp họ
hoàn thành nhiệm vụ của mình với kết quả cao nhất.
Như vậy, đạo đức nghề nghiệp là hệ thống những yêu cầu đạo đức đặc
biệt, có liên quan đến việc tiến hành một hoạt động nghề nghiệp nào đó. Mỗi
19