Tải bản đầy đủ (.pdf) (120 trang)

Giải quyết tranh chấp hợp đồng tín dụng có thế chấp tài sản qua thực tiễn xét xử tại Vĩnh Phúc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.29 MB, 120 trang )



ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT





HOÀNG VĂN BÍCH





GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG CÓ THẾ CHẤP TÀI
SẢN QUA THỰC TIỄN XÉT XỬ TẠI VĨNH PHÖC


LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC














HÀ NỘI - 2014


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT




HOÀNG VĂN BÍCH

GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG CÓ THẾ CHẤP TÀI
SẢN QUA THỰC TIỄN XÉT XỬ TẠI VĨNH PHÖC


Chuyên ngành: Luật dân sự và tố tụng dân sự
Mã số: 60 38 0103




LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Cán bộ hướng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Minh Tuấn











HÀ NỘI - 2014


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả
nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu,
ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi
đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo
quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể bảo vệ
Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!


NGƢỜI CAM ĐOAN



Hoàng Văn Bích

















MỤC LỤC

Trang phụ bìa
Trang

Lời cam đoan


Mục lục


Danh mục các chữ viết tắt


Danh mục bảng biểu


Mở đầu



Chƣơng 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ HỢP ĐỒNG TÍN
DỤNG VÀ THẾ CHẤP BẢO ĐẢM HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG

1.1
Một số vấn đề lý luận về hợp đồng tín dụng
5
1.1.1
Khái niệm hợp đồng tín dụng
5
1.1.2
Đặc điểm hợp đồng tín dụng
7
1.1.3
Chủ thể hợp đồng tín dụng
12
1.1.4
Nội dung và hình thức hợp đồng tín dụng
14
1.1.4.1
Nội dung của hợp đồng tín dụng
14
1.1.4.2
Hình thức của hợp đồng tín dụng
20
1.2
Thế chấp, biện pháp bảo đảm nghĩa vụ trong hoạt động
tín dụng
21

1.2.1
Thế chấp và đặc điểm thế chấp trong hoạt động tín dụng
21
1.2.2
Đặc điểm pháp lý của hợp đồng thế chấp tài sản trong
hoạt động cho vay của tổ chức tín dụng
24
1.2.3
Đối tƣợng của thế chấp
26
1.2.4
Hình thức của thế chấp
28
1.2.5
Chủ thể của thế chấp bảo đảm hợp đồng tín dụng
30
1.3
Mối quan hệ hiệu lực giữa hợp đồng thế chấp tài sản với
hợp đồng tín dụng
31
1.4
Xử lý tài sản thế chấp để đảm bảo hợp đồng tín dụng
35
1.4.1
Các trƣờng hợp xử lý tài sản thế chấp
36
1.4.2
Phƣơng thức xử lý tài sản thế chấp
38
1.4.2.1

Về phƣơng thức bán tài sản bảo đảm
38



1.4.2.2
Về phƣơng thức nhận chính tài sản bảo đảm tiền vay để
thay thế cho việc thực hiện nghĩa vụ đƣợc bảo đảm
39
1.4.2.3
Về phƣơng thức nhận tài sản từ bên thứ ba trong trƣờng
hợp bên thứ ba có nghĩa vụ trả tiền cho khách hàng vay,
bên thế chấp
41
1.4.2.4
Về phƣơng thức xử lý tài sản thế chấp là quyền sử dụng
đất
41

Chƣơng 2: CÁC TRANH CHẤP PHÁT SINH TỪ HỢP
ĐỒNG TÍN DỤNG VÀ HỢP ĐỒNG THẾ CHẤP TÀI
SẢN
45
2.1
Các tranh chấp phát sinh từ hợp đồng tín dụng
45
2.1.1
Tranh chấp về hành vi vi phạm nghĩa vụ của một hoặc
các bên trong hợp đồng
46

2.1.2
Tranh chấp hợp đồng tín dụng xuất phát từ việc vi phạm
nghĩa vụ trả nợ gốc và lãi
48
2.2
Tranh chấp về hợp đồng thế chấp tài sản bảo đảm hợp
đồng tín dụng
55
2.2.1
Tranh chấp về chủ thể xác lập, thực hiện hợp đồng
55
2.2.2
Tranh chấp về hình thứ hợp đồng
62
2.2.3
Tranh chấp về tài sản thế chấp
67
2.2.3.1
Tranh chấp trong việc thực hiện quyền đối với tài sản
bảo đảm
67
2.2.3.2
Tranh chấp tài sản bảo đảm giữa ngân hàng với bên thứ
ba
68
2.2.3.3
Tranh chấp về tài sản hình thành trong tƣơng lai
70
2.2.3.4
Tranh chấp về định giá, xử lý tài sản bảo đảm

71
2.2.3.5
Tranh chấp về việc xử lý tài sản để thu hồi nợ
74
2.3
Nguyên nhân dẫn đến tranh chấp hợp đồng tín dụng và
hợp đồng thế chấp
75


2.3.1
Nguyên nhân từ phía bên cho vay
75
2.3.2
Nguyên nhân từ phía bên vay
77
2.3.3
Nguyên nhân do quy định pháp luật
78

Chƣơng 3: THỰC TIỄN GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP VỀ
HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG CÓ THẾ CHẤP TÀI SẢN TẠI
TÕA ÁN NHÂN DÂN TỈNH VĨNH PHÖC VÀ PHƢƠNG
HƢỚNG HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ THẾ CHẤP TÀI
SẢN TRONG HOẠT ĐỒNG TÍN DỤNG CỦA NGÂN
HÀNG

3.1
Đánh giá tình hình giải quyết tranh chấp hợp đồng tín
dụng tại Tòa án tỉnh Vĩnh Phúc và những yếu tố cơ bản

ảnh hƣởng tới chất lƣợng bản án.
80
3.1.1
Một số tồn tại trong công tác giải quyết tranh chấp hợp
đồng tín dụng
80
3.1.2
Nguyên nhân của hạn chế tồn tại
95
3.1.2.1
Nguyên nhân khách quan
95
3.1.2.2
Nguyên nhân chủ quan
97
3.2
Một số kiến nghị
99
3.2.1
Kiến nghị hoàn thiện quy định về Hợp đồng tín dụng và
hợp đồng thế chấp tài sản
99
3.2.2
Những kiến nghị nhằm hoàn thiện các quy định của
pháp luật tố tụng liên quan tới giải quyết tranh chấp hợp
đồng
104

KẾT LUẬN
107


Danh mục tài liệu tham khảo
109







DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

BLDS

Bộ luật dân sự
BLTTDS
Bộ luật tố tụng dân sự
HĐQT
Hội đồng quản trị
HĐTD
Hợp đồng tín dụng
NHNN
Ngân hàng Nhà Nƣớc
NHNN&PTNN
Ngân hàng nông nghiệp và Phát triển nông thôn
TCTD
Tổ chức tín dụng
TNHH
Trách nhiệm hữu hạn
TMCP

Thƣơng mại cổ phần
QSDĐ
Quyền sử dụng đất
UBND
Ủy ban nhân dân



















1 DANH MỤC BẢNG BIỂU
STT
Số hiệu
bảng
2 Tên bảng
Trang

1
3.1
Số liệu thống kê các vụ án tranh chấp hợp đồng
tín dụng có thế chấp tài sản (năm 2007 – tháng 6/
2014)
3 80
2
3.1
Số liệu thống kê bản án, quyết định sơ thẩm bị
kháng cáo theo thủ phúc thẩm, kháng nghị theo
thủ tục giám đốc thẩm (năm 2007 – đến tháng
6/2014)
4 81
1

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài:
Nƣớc ta đang trong giai đoạn đổi mới trong mọi lĩnh vực nhƣ về kinh tế,
chính trị, xã hội và các lĩnh vực khác. Các giao dịch trong xã hội diễn ra hàng ngày
rất đa dạng, pháp luật khó có thể điều chỉnh đƣợc toàn bộ các quan hệ trong cuộc
sống. Thông thƣờng các bên lựa chọn hình thức giao dịch thông qua hợp đồng –
hợp đồng ghi nhận sự thỏa thuận giữa các bên, là cơ sở để pháp luật bảo vệ quyền
lợi của các bên khi có tranh chấp. Trong thực tiễn ta nhận thấy hợp đồng tín dụng
ngân hàng có nhiều vấn đề phức tạp và chứa đựng nhiều yếu tố rủi ro. Tại các tổ
chức tín dụng, đặc biệt là ở các ngân hàng hợp đồng tín dụng ngân hàng đƣợc sử
dụng nhiều trong các giao dịch với các đối tác của mình. Bởi hợp đồng tín dụng
ngân hàng chứa nhiều yếu tố phức tạp và nhạy cảm nên nó rất dễ dẫn đến tranh chấp
của các bên trong hợp đồng. Khi lợi ích giữa các bên không đạt đƣợc, không thể
cùng nhau thoả thuận thì thông thƣờng bên bị ảnh hƣởng đến quyền và lợi ích hợp
pháp sẽ làm thủ tục khởi kiện ra toà án để đƣợc pháp luật bảo vệ quyền và lợi ích

hợp pháp của mình, nếu trƣớc đó hai bên chƣa thỏa thuận việc giải quyết tranh chấp
hợp đồng tín dụng thông qua trọng tài thƣơng mại.
Việc giải quyết các tranh chấp phát sinh từ hợp đồng tín dụng ngân hàng của
Tòa án đóng vai trò rất quan trọng trong việc góp phần bảo vệ lợi ích của nhà nƣớc,
quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân, giữ gìn trật tự an toàn xã hội và đặc
biệt là góp phần đƣa đất nƣớc phát triển đi lên nhƣ mục tiêu của Đảng và Nhà nƣớc
ta đề ra.
Tuy nhiên, trong nền kinh tế thị trƣờng hiện nay các giao dịch dân sự, đặc
biệt là các giao dịch thông qua hợp đồng tín dụng ngân hàng diễn ra ngày càng
nhiều trên phạm vi rộng, gây khó khăn cho việc giải quyết các tranh chấp này ở
Tòa. Trƣớc tình hình đó cần phải hoàn thiện hơn hệ thống pháp luật liên quan đến
việc giải quyết tranh chấp hợp đồng tín dụng ngân hàng nhằm tạo điều kiện, đẩy
nhanh quá trình giải quyết tranh chấp trong lĩnh vực này cũng nhằm đảm bảo tính
nghiêm minh của pháp luật và bảo đảm pháp chế xã hội chủ nghĩa. Thiết nghĩ, việc
nghiên cứu hợp đồng tín dụng ngân hàng và các tranh chấp về hợp đồng tín dụng
2

ngân hàng là rất cần thiết không chỉ ở những nhà lập pháp, ngành tƣ pháp mà còn
rất cần thiết đối với một học viên chuẩn bị tốt nghiệp.
Để tìm hiểu rõ hơn trong việc giải quyết các tranh chấp trên ở Tòa án, gặp
những thuận lợi, khó khăn nào, trình tự giải quyết nhƣ thế nào, vấn đề đảm bảo
công bằng giữa lợi ích các bên nhƣ thế nào, việc áp dụng pháp luật giải quyết gặp
những thuận lợi và khó khăn gì trên thực tế… Đó cũng là lý do em chọn đề tài này,
thông qua đó giúp em học hỏi thêm nhiều kinh nghiệm, nâng cao kiến thức pháp
luật của mình trên thực tế công tác tại Tòa án nhân dân Tỉnh Vĩnh Phúc.
Vì thời gian nghiên cứu đề tài có hạn, kinh nghiệm thực tiễn chƣa nhiều nên
đề tài nghiên cứu của em cũng không thể tránh khỏi những thiếu sót và sai lầm
trong nhận định cũng nhƣ quan điểm đánh giá, nhận xét. Em kính mong Thầy, cô
thông cảm và đóng góp ý kiến để em hoàn thiện hơn đề tài cũng nhƣ kiến thức pháp
luật của mình.

Thế chấp tài sản là một biện pháp bảo đảm nghĩa vụ theo quy định của Bộ
luật dân sự Việt Nam. Khi bên có nghĩa vụ không thực hiện đƣợc nghĩa vụ của
mình cho bên có quyền, thì bên có quyền sử lý tài sản thế chấp của bên có nghĩa vụ
để đảm bảo quyền lợi cho mình. Thực tế hiện nay trƣớc tình hình kinh tế suy thoái,
ngƣời dân và các doanh nghiệp gặp nhiều khó khăn nên việc thực hiện nghĩa vụ trả
nợ khi đến hạn đối với các hợp đồng tín dụng không đƣợc thực hiện. Dẫn tới nợ xấu
tăng cao, tranh chấp giữa ngân hàng các tổ chức tín dụng với khách hàng bên có
nghĩa vụ trả nợ không ngừng ra tăng. Thực tiễn khi giải quyết các tranh chấp hợp
đồng tín dụng có thế chấp tài sản phát sinh nhiều vấn đề phức tạp đòi hỏi ngƣời giải
quyết phải có trình độ chuyên môn sâu, nắm vững quy định pháp luật và áp dụng
pháp luật chính xác. Hiện nay, một số quy định của pháp luật về thế chấp, giải quyết
tranh chấp phát sinh chƣa đáp ứng đƣợc đòi hỏi của thực tiễn, chƣa rõ ràng, gây
nhiều tranh cãi cả về lý luận và thực tiễn áp dụng. Bên cạnh đó, nhận thức pháp luật
của các cấp tòa án còn chƣa thống nhất dẫn đến rất nhiều bản án giải quyết tranh
chấp hợp đồng tín dụng có thế chấp của Tòa án có hiệu lực pháp luật nhƣng đƣơng
sự vẫn khiếu kiện kéo dài, hoặc không thi hành đƣợc gây nên tình trạng thiếu tin
tƣởng của ngƣời dân vào hệ thống cơ quan thực thi pháp luật. Việc giải quyết vụ án
3

tranh chấp hợp đồng tín dụng có thế chấp tài sản trong ngành Tòa án nhân dân Tỉnh
Vĩnh Phúc thƣờng kéo dài, có nhiều vụ bị sửa, bị hủy để giải quyết lại nhiều lần gây
tâm lý “ngại xét xử” cho thẩm phán đƣợc phân công giải quyết vụ án, gây khó khăn
cho việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đƣơng sự.
Xuất phát từ những lý do trên, em mạnh dạn chọn đề tài: “Giải quyết tranh
chấp hợp đồng tín dụng có thế chấp tài sản qua thực tiễn xét xử tại Vĩnh Phúc”
cho luận văn tốt nghiệp thạc sỹ chuyên ngành luật của mình với mong muốn nắm
vững các quy định của pháp luật trong lĩnh vực này để có đƣợc nhận thức sâu hơn
về kiến thức, tích lũy thêm nhiều kinh nghiệm nhằm đáp ứng đƣợc yêu cầu của
nhiệm vụ chuyên môn.
2. Phạm vi nghiên cứu đề tài

Luận văn không nghiên cứu toàn bộ các quy định của pháp luật về hợp đồng
tín dụng có thế chấp tài sản, mà chỉ tập trung nghiên cứu một số nội dung về tranh
chấp hợp đồng tín dụng có thế chấp tài sản còn có sự bất cập, khó khăn trong thực
tiễn. Trên cơ sở đó, luận văn phân tích thực trạng giải quyết tranh chấp hợp đồng tín
dụng có thế chấp tài sản trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc, nơi tác giả đang công tác.
3. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu
3.1. Cơ sở lý luận
Luận văn dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác- Lê nin, tƣ tƣởng Hồ Chí
Minh về Nhà nƣớc và pháp luật, các quan điểm đƣờng lối của Đảng Cộng sản Việt
Nam về tăng cƣờng pháp chế, xây dựng Nhà nƣớc pháp quyền của dân, do dân, vì
dân đăc biệt là quan điểm của Đảng chỉ đạo về cải cách tƣ pháp trong thời gian tới.
3.2. Phƣơng pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng các phƣơng pháp của triết học duy vật biện chứng, duy vật
lịch sử Mác xít, chú trọng phƣơng pháp kết hợp giữa lý luận và thực tiễn, phƣơng
pháp phân tích và tổng hợp, phƣơng pháp lịch sử cụ thể. Ngoài ra luận văn còn sử
dụng các phƣơng pháp phổ biến và hiện đại khác nhƣ thống kê luật học, điều tra xã
hội học, so sánh
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu đề tài
4

Mục đích của việc nghiên cứu đề tài là tìm ra những vƣớng mắc của pháp
luật về giải quyết tranh chấp hợp đồng tín dụng có thế chấp tài sản và thực tiễn áp
dụng pháp luật, trên cơ sở đó đƣa ra giải pháp hoàn thiện pháp luật. Để đạt đƣợc
mục đích này, luận văn có những nhiệm vụ sau:
- Phân tích và làm rõ một số quy định của pháp luật về hợp đồng tín dụng, về
thế chấp tài sản còn vƣớng mắc, khó áp dụng trong thực tiễn;
- Tìm hiểu thực tiễn vận dụng pháp luật khi giải quyết tranh chấp về hợp
đồng tín dụng có thế chấp tài sản của ngành Tòa án nhân dân tỉnh Vĩnh Phúc trong
những năm gần đây;
- Đƣa ra phƣơng hƣớng và giải pháp hoàn thiện pháp luật về thế chấp trong

hợp đồng tín dụng.
5. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Kết quả của luận văn góp phần bổ sung và phát triển lý luận về vai trò của
pháp luật và áp dụng pháp luật trong giải quyết các tranh chấp về hợp đồng tín dụng
có thế chấp tài sản của Toà án nhân dân.
Luận văn có thể đƣợc sử dụng phục vụ cho công tác giảng dạy, nghiên cứu
khoa học. Đặc biệt, luận văn có thể đƣợc coi là một tài liệu bổ ích đối với những
Thẩm phán, cán bộ Toà án đang trực tiếp xét xử và giải quyết các tranh chấp về hợp
đồng tín dụng có thế chấp tài sản.
6. Cơ cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung luận
văn gồm ba chƣơng:
Chương 1. Những vấn đề cơ bản về hợp đồng tín dụng và thế chấp bảo hợp đồng
tín dụng.
Chương 2: Các tranh chấp phát sinh từ hợp đồng tín dụng và hợp đồng thế
chấp tài sản.
Chương 3: Thực tiễn giải quyết tranh chấp về hợp đồng tín dụng có thế chấp
tài sản tại Tòa án nhân dân tỉnh Vĩnh Phúc và phƣơng hƣớng hoàn thiện pháp luật
về thế chấp tài sản trong hoạt động tín dụng của ngân hàng.
5

Chƣơng 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG VÀ
THẾ CHẤP BẢO ĐẢM HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG
1.1. Một số vấn đề lý luận về hợp đồng tín dụng
1.1.1. Khái niệm hợp đồng tín dụng
Tín dụng là hoạt động quan trọng và đặc trƣng của hệ thống ngân hàng
thƣơng mại và các tổ chức tín dụng khác. Tín dụng cũng là hoạt động mang tính rủi
ro rất cao. Vì vậy, chất lƣợng hoạt động tín dụng mang ý nghĩa sống còn đối với sự
tồn tại và phát triển của hệ thống ngân hàng cũng nhƣ toàn bộ nền kinh tế.

Theo giáo sƣ V.S.Pascốpxki trong bài giảng "Tín dụng trong công cuộc xây
dựng chủ nghĩa xã hội" tại Trƣờng Quản lý Kinh tế Trung ƣơng thì từ tín dụng
(Credit) theo tiếng Nga cũng nhƣ tiếng các nƣớc Châu Âu khác, xuất phát từ gốc
chữ La tinh Creditum có nghĩa là tin. Ở đây lòng tin đòi hỏi không những ở
ngƣời cho vay, mà còn ở cả ngƣời vay. Ngƣời cho vay tin tƣởng vào khả năng
thanh toán của ngƣời vay, còn ngƣời vay thì tin tƣởng vào khả năng thanh toán
của mình [28, tr. 113].
Theo Jane. P. Mallor, A. James Marres trong cuốn "Môi trƣờng pháp luật cho
kinh doanh" thì thuật ngữ tín dụng có rất nhiều nghĩa. Thuật ngữ này thƣờng đƣợc
dùng để chỉ các giao dịch trong đó hàng hóa đƣợc bán, dịch vụ đƣợc cung ứng hoặc
tiền đƣợc cho vay để đổi lấy lời hứa về hoàn trả trong tƣơng lai [52, tr. 534].
Nhiều tài liệu nghiên cứu khác cũng có chung nhận định này [4, tr. 19; 53].
Tín dụng phát sinh hầu nhƣ đồng thời với tiền tệ. Chức năng cơ bản của tín dụng là
phân phối vốn giữa những ngƣời có cung - cầu vốn theo nguyên tắc hoàn trả. Về
bản chất kinh tế, tín dụng là quan hệ phân phối lại của cải theo nguyên tắc hoàn trả
và có lợi tức. Tính có hoàn là cơ sở để phân biệt tín dụng với các phƣơng thức phân
phối của cải khác trong xã hội. Về bản chất pháp lý, tín dụng là giao dịch tài sản
(tiền, hàng hóa) giữa bên cung ứng tín dụng và bên nhận tín dụng. Trong đó, bên
cung ứng tín dụng chuyển giao tài sản cho bên nhận cung ứng tín dụng sử dụng
trong khoảng thời gian nhất định theo thỏa thuận trên cơ sở hoàn trả vốn gốc và lãi.
Trong đời sống xã hội, tín dụng do nhiều loại chủ thể thực hiện. Tùy thuộc vào chủ
6

thể cung ứng tín dụng mà tín dụng có thể phân chia thành các loại nhƣ: Tín dụng
nhà nƣớc, tín dụng hợp tác, tín dụng quốc tế, tín dụng ngân hàng
Tín dụng ngân hàng: Là quan hệ tín dụng giữa ngân hàng, các tổ chức tín
dụng khác với các nhà doanh nghiệp và cá nhân. Với tƣ cách là ngƣời đi vay, ngân
hàng và các tổ chức tín dụng nhận tiền gửi của các nhà doanh nghiệp và cá nhân
hoặc phát hành chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu để huy động vốn trong xã hội; với tƣ
cách là ngƣời cho vay, ngân hàng cấp tín dụng cho các doanh nghiệp và cá nhân.

Trong nền sản xuất hàng hóa, tín dụng là một trong những nguồn hình thành
vốn lƣu động và vốn cố định của các doanh nghiệp, thúc đẩy quá trình tái sản xuất
xã hội và nền kinh tế phát triển. Tín dụng ngân hàng đƣợc đặc trƣng bởi tính chuyên
nghiệp của các hoạt động tín dụng do các tổ chức kinh doanh tiền tệ thực hiện. Các
tổ chức này gọi là tổ chức tín dụng. Tổ chức cung ứng tín dụng chủ yếu là các ngân
hàng nên hoạt động tín dụng này đƣợc gọi là tín dụng ngân hàng [49, tr. 727]. Ngoài
các tổ chức tín dụng cung ứng tín dụng là các ngân hàng, một số loại hình doanh
nghiệp kinh doanh tiền tệ khác cũng có cung ứng tín dụng nhƣ ngân hàng nên hoạt
động cung ứng tín dụng của loại doanh nghiệp này cũng gọi là tín dụng ngân hàng.
Do đó, về phƣơng diện pháp lý không có sự phân biệt hoạt động cung ứng tín dụng
của hai loại chủ thể này trong áp dụng pháp luật ngân hàng.
Luật các tổ chức tín dụng năm 1997 cũng nhƣ năm 2010 và các quy định
trong các văn bản pháp luật ở Việt Nam về tín dụng ngân hàng không đƣa ra khái
niệm pháp lý về hợp đồng tín dụng. Điều 51, Luật các tổ chức tín dụng năm 1997
quy định: Việc cho vay phải đƣợc lập thành hợp đồng tín dụng. Hợp đồng tín dụng
phải có nội dung về điều kiện vay, mục đích sử dụng tiền vay, hình thức vay, số tiền
vay, lãi suất, giá trị tài sản bảo đảm, phƣơng thức trả nợ và những cam kết khác
đƣợc các bên thỏa thuận. [20, điều 51] Còn trong luật các tổ chức tín dụng năm
2010 quy định tổ chức tín dụng cấp tín dụng dƣới hình thức sau đây: Cho vay; chiết
khấu, tái chiết khấu công cụ chuyển nhƣợng và giấy tờ có giá khác; bảo lãnh ngân
hàng; phát hành thẻ tín dụng; bao thanh toán trong nƣớc; bao thanh toán quốc tế đối
với các ngân hàng đƣợc phép thực hiện thanh toán quốc tế; các hình thức cấp tín
dụng khác sau khi đƣợc Ngân hàng Nhà nƣớc chấp thuận. [23. Điều 98]
7

Trong các tài liệu nghiên cứu, vấn đề tìm một định nghĩa chuẩn cho hợp
đồng tín dụng cũng ít đƣợc các nhà khoa học quan tâm.
Trong cuốn "Từ điển thuật ngữ Tài chính tín dụng" của Viện Khoa học Tài
chính, Bộ Tài chính có nêu: "Hợp đồng tín dụng là văn bản ghi nhận những cam kết
giữa ngƣời cho vay và ngƣời vay về những điều kiện của tín dụng nhƣ số tiền vay,

phƣơng thức cấp vốn vay, thời hạn vay, phƣơng thức thu nợ, mức lãi suất, loại hình
lãi suất, phƣơng thức thu lãi". [50, tr. 163] Về cơ bản, định nghĩa này có nội dung
tƣơng tự nhƣ định nghĩa trong các văn bản pháp luật, chỉ nêu ra các yêu cầu về nội
dung của hợp đồng tín dụng ngân hàng. Trong cuốn "Giáo trình Luật ngân hàng
Việt Nam", tác giả Nguyễn Tuyến đƣa ra định nghĩa: Hợp đồng tín dụng là sự thỏa
thuận chung bằng văn bản giữa tổ chức tín dụng (bên cho vay) với tổ chức, cá nhân
có đủ những điều kiện do luật định (bên vay), theo đó, tổ chức tín dụng thỏa thuận
ứng trƣớc một số tiền cho bên vay sử dụng trong một thời hạn nhất định, với điều
kiện có hoàn trả cả gốc và lãi, dựa trên sự tín nhiệm [27, tr. 91]. Định nghĩa này đã
đề cập đƣợc các dấu hiệu cơ bản của hợp đồng tín dụng ngân hàng trên các phƣơng
diện: chủ thể (bên cho vay là tổ chức tín dụng, bên vay là tổ chức, cá nhân) đối
tƣợng của hợp đồng (tiền), nguyên tắc cơ bản của quan hệ hợp đồng (điều kiện hoàn
trả tiền vay). Tuy nhiên, nếu quan niệm quan hệ chuyển giao vốn theo hợp đồng chỉ
là ứng trƣớc một số tiền sẽ không phản ánh đầy đủ tính pháp lý của quan hệ vay vốn
là bên cho vay chuyển giao quyền sở hữu vốn vay cho bên vay hay chỉ là chuyển
giao quyền sử dụng.
Để làm rõ những dấu hiệu của hợp đồng tín dụng cần thiết phải làm sáng tỏ
những vấn đề liên quan đến đặc điểm của nó.
1.1.2. Đặc điểm của hợp đồng tín dụng
Khi so sánh hợp đồng thông thƣờng với một hợp đồng tín dụng ta thấy hợp
đồng tín dụng có đặc điểm khác biệt so với các hợp đồng thông thƣờng sau:
Thứ nhất: Một bên chủ thể của hợp đồng tín dụng luôn là ngân hàng, tổ chức
tín dụng phi ngân hàng, tổ chức tài chính vi mô và quỹ tín dụng nhân dân.
Tổ chức tín dụng muốn thực hiện hoạt động cho vay phải hội đủ các điều
kiện về thành lập, vốn pháp định, có điều lệ đƣợc Ngân hàng Nhà nƣớc chuẩn y và
8

có đại diện hợp pháp khi tham gia ký kết hợp đồng theo quy định của pháp luật.
Những điều kiện trên đây không những góp phần hạn chế, loại trừ những tổ chức
không đủ tiêu chuẩn kinh doanh trên thị trƣờng tài chính mà còn góp phần lành

mạnh hóa các quan hệ tín dụng. Ngoài ra, khi các tổ chức tín dụng hội đủ các điều
kiện trên sẽ góp phần bảo vệ lợi ích hợp pháp của nhà đầu tƣ, là căn cứ để các thẩm
phán, các trọng tài viên tiến hành thẩm định và đánh giá vấn đề hiệu lực của hợp
đồng tín dụng.
Để thực hiện hoạt động cho vay, tổ chức tín dụng phải tiến hành ký kết hợp
đồng nhằm xác lập quyền và nghĩa vụ giữa các bên. Trong hợp đồng tín dụng, tổ
chức tín dụng luôn tham gia ký kết với tƣ cách là chủ thể cho vay nhằm phân phối
lại nguồn vốn đã huy động từ tổ chức và cá nhân khác trong xã hội. Với tƣ cách là
chủ thể cho vay, tổ chức tín dụng (mà đa phần là các ngân hàng) phải thẩm định
đƣợc phƣơng án vay vốn, tính hiệu quả của việc sử dụng vốn vay. Điều này là vô
cùng cần thiết vì nó có khả nẳng hoàn trả nợ vay của bên đi vay. Các ngân hàng
tham gia vào quan hệ tín dụng chủ yếu để thực hiện chức năng kinh doanh tiền tệ và
mục tiêu lợi nhuận, trừ trƣờng hợp các ngân hàng chính sách thực hiện hoạt động
tín dụng vì mục đích xã hội là chính.
Thứ hai: Hợp đồng tín dụng phải luôn đƣợc ký kết dƣới hình thức văn bản.
Đặc trƣng cơ bản của hoạt động tín dụng là: Đi vay để cho vay, vì vậy để cho
vay lại của tổ chức tín dụng phải có trách nhiệm bảo toàn nguồn vốn tín dụng của
mình. Để thực hiện điều này thì quyền và nghĩa vụ của các bên (bên cho vay và bên
đi vay) phải cụ thể. Pháp luật quy định các chủ thể khi tham gia vào quan hệ tín
dụng phải thỏa thuận bằng văn bản các quyền và nghĩa vụ của mình. Thực ra quy
định này nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho các bên. Bởi vì hợp đồng tín
dụng là cơ sở pháp lý cho việc giải quyết tranh các chấp của các cơ quan nhà nƣớc
có thẩm quyền.
Thƣờng hợp đồng tín dụng là hợp đồng mẫu do các tổ chức tín dụng soạn
thảo dựa trên quy định của pháp luật và phù hợp với quy chế cho vay của tổ chức
tín dụng. Các điều khoản cụ thể trong hợp đồng tín dụng phải đảm bảo xác định cụ
thể quyền và nghĩa vụ của bên cho vay và bên đi vay. Khi các bên thỏa thuận cụ thể
9

về quyền và nghĩa vụ của mình trong hợp đồng thì các bên phải thực hiện đúng các

điều mà mình đã cam kết. Nếu một trong hai bên vi phạm cam kết gây thiệt hại cho
bên kia và họ phải có trách nhiệm bồi thƣờng cho bên bị vi phạm. Nhƣ vậy, khi xảy
ra tranh chấp thì hợp đồng tín dụng là cơ sở để quy trách nhiệm cho các bên.
Thứ ba: Đối tƣợng của hợp đồng tín dụng luôn là vốn tiền tệ.
Vốn tiền tệ trong hợp đồng tín dụng có thể là tiền đồng Việt Nam, vàng hoặc
ngoại tệ. Đối tƣợng này có thể tồn tại ở vật hiện hữu là tiền mặt hoặc bút tệ. Đây là
đặc điểm rất quan trọng trong quan hệ cho vay đối với tổ chức tín dụng nhất là ngân
hàng. Chính đặc điểm này đã giúp cho hoạt động cho vay là hoạt động kinh doanh
chủ yếu của ngân hàng và trở thanh một hình thức tín dụng phổ biến trong nền kinh
tế thị trƣờng. Từ vốn tiền tệ, bên đi vay họ có thể thỏa mãn bất kì nhu cầu nào của
họ kể cả số lƣợng vốn vay và mục đích vay vốn. Cũng cần lƣu ý rằng, bên cho vay
là công ty cho thuê tài chính nhƣng đối tƣợng của nó là tài sản thì đây chính là quan
hệ cho thuê tài chính (chứ không phải là hoạt động cho vay theo quy định của pháp
luật) và các bên phải ký hợp đồng thuê mua tài chính. Nhƣ vậy, yếu tố đối tƣợng
vốn tiền tệ là một đặc điểm không thể thiếu đƣợc của hợp đồng tín dụng ngân hàng.
Thứ tư: Hợp đồng tín dụng luôn nhằm mục đích sinh lợi.
Tính chất sinh lợi của hợp đồng tín dụng luôn đƣợc biểu hiện qua tỷ số chênh
lệch giữa lãi suất cho vay và lãi suất huy động vốn của các tổ chức tín dụng. Lãi
suất cho vay luôn cao hơn lãi suất huy động vốn và sự chênh lệch này luôn phụ
thuộc vào cung cầu về vốn trên thị trƣờng tùy thuộc vào từng thời điểm cụ thể, hiện
nay mức lãi suất trong hợp đồng tín dụng do các bên thỏa thuận. Các tổ chức tín
dụng hoạt động theo các quy định của Luật các Tổ chức tín dụng và các quy định
của pháp luật có liên quan nên mục đích tìm kiếm lợi nhuận không chỉ là điều tất
yếu mà còn là động lực giúp ngân hàng duy trì hoạt động kinh doanh của mình.
Khách hàng càng nhiều, hợp đồng càng tăng thì lợi nhuận của tổ chức tín dụng càng
sinh sôi, phát triển. Vì vậy, vận mệnh của tổ chức tín dụng luôn gắn với khả năng
tạo ra giá trị thặng dƣ của đồng tiền thông qua việc huy động vốn và kí kết hợp
đồng tín dụng tín dụng. Trong trƣờng hợp này, trừ trƣờng hợp các ngân hàng chính
sách thực hiện hoạt động tín dụng vì mục đích xã hội là chính.
10


Thứ năm: Hợp đồng tín dụng là hợp đồng ƣng thuận
Thời điểm phát sinh hiệu lực pháp lý của hợp đồng là điểm mốc thời gian
làm phát sinh quyền đồng thời cũng là cơ sở để phân định nghĩa vụ của các bên khi
có tiền vay hoặc rủi ro xảy ra. Thông thƣờng các bên trong hợp đồng tín dụng sẽ ghi
rõ thời gian mà hợp đồng có hiệu lực, trong trƣờng hợp này nó là hợp đồng ƣng
thuận và chúng ta không có gì để bàn luận về thời điểm phát sinh hiệu lực pháp lý
của hợp đồng tín dụng. Hợp đồng tín dụng có thể đƣợc công chứng, chứng thực phụ
thuộc vào sự thỏa thuận của các bên.
Tuy nhiên, trên thực tế vẫn có nhiều trƣờng hợp pháp sinh từ hợp đồng tín
dụng ngân hàng chỉ ghi thời hạn vay và ngày giao kết hợp đồng mà không có thỏa
thuận cụ thể về thời điểm phát sinh hiệu lực pháp lý của hợp đồng nên các thẩm
phán khó có thể xác định quyền và nghĩa vụ của các bên. Vì vậy, các nhà nghiên
cứu trong giới luật học đã đặt ra vấn đề, khi các bên không thỏa thuận đƣợc thời
điểm phát sinh hiệu lực pháp lý của hợp đồng thì hợp đồng tín dụng ngân hàng là
hợp đồng ƣng thuận hay hợp đồng thực tế, có hai quan điểm khác nhau về giải đáp
thắc mắc vấn đề này:
Quan điểm thứ nhất, hợp đồng tín dụng là hợp đồng thực tế vì nó là một dạng
cụ thể của hợp đồng dân sự vay tài sản. Thời điểm có hiệu lực của nó chính là lúc
bên cho vay giao tài sản cho bên vay. Trƣớc đó bên đi vay không có quyền yêu cầu
bên cho vay thực hiện bất kỳ hành vi nào liên quan đến tài sản theo nhƣ những cam
kết mà hai bên đã thỏa thuận mà chỉ có bên cho vay mới có quyền giao tài sản của
mình. Những ngƣời theo quan điểm này cho rằng, hợp đồng tín dụng là một dạng
của hợp đồng dân sự vay tài sản nên nó là hợp đồng đơn vụ. Cơ sở để đƣa ra nhận
định trên dựa vào mối liên hệ giữa các bên dựa vào thời điểm hợp đồng dân sự có
hiệu lực. Hợp đồng tín dụng có hiệu lực kể từ thời điểm bên cho vay chuyển giao
tiền vay cho bên đi vay. Lập luận này phù hợp với luật pháp hiện hành vì họ cho
rằng thời điểm có hiệu lực của hợp đồng tín dụng là thời điểm ngân hàng thực hiện
hành vi giải ngân. Theo đó việc chuyển giao tiền vay không phải là một nghĩa vụ
pháp lý trong hợp đồng tín dụng mà bên cho vay phải thực hiện. Nếu bên cho vay

đã thỏa thuận sẽ cho vay nhƣng sau đó họ không tiến hành hoạt động giải ngân thì
11

hợp đồng tín dụng vẫn chƣa hình thành và cho bên cho vay cũng không phải gánh
chiệu một chế tài nào.
Quan điểm thứ hai, bác bỏ lập luận trên và chứng minh hợp đồng tín dụng là
hợp đồng ƣng thuận. Theo quan điểm này thì việc chuyển giao vốn vay là một nghĩa
vụ theo hợp đồng của tổ chức tín dụng, nếu tổ chức tín dụng không thực hiện đúng
nghĩa vụ này mà gây thiệt hại cho bên đi vay thì phải chịu trách nhiệm bồi thƣờng
thiệt hại do vi phạm hợp đồng. Khi hợp đồng tín dụng tín dụng đƣợc ký kết theo
đúng hình thức đã đƣợc pháp luật quy định, nếu hai bên không thỏa thuận về thời
điểm phát sinh hiệu lực của hợp đồng, thì hợp đồng đƣợc coi là có hiệu lực kể từ
thời điểm giao kết. Dù rằng các bên chƣa trực tiếp thực hiện nghĩa vụ đã cam kết,
nhƣng quyền và nghĩa vụ của các bên đã đƣợc xác lập, đã phát sinh quyền yêu cầu
thực hiện của khách hàng vay. Trên thực tế, các phƣơng thức cấp tín dụng từ tổ
chức tín dụng ngày càng phong phú và đa dạng dƣới những hình thức cho vay theo
hạn mức chứ không chỉ dừng lại ở hoạt động cho vay từng lần. Vì vậy, việc xác lập
các điều khoản quy định giới hạn quyền và nghĩa vụ của các bên cũng nhƣ lựa chọn
hình thức vay là hoàn toàn tự do thỏa thuận của bên cho vay và bên đi vay. Nhƣ
vậy, với phƣơng thức cho vay đa dạng, hợp đồng tín dụng đã bộc lộ nét đặc trƣng
riêng biệt là nó sẽ có hiệu lực kể từ thời điểm ký nếu các bên không có thỏa thuận gì
khác.
Khi phân tích cả hai trƣờng phái trên cùng một khía cạnh với mục đích tìm ra
cách thức nhằm bảo vệ tốt nhất quyền và lợi ích của các bên thì quan điểm thứ hai
sẽ chiếm ƣu thế hơn về mặt logic. Việc xây dựng nên giới hạn về quyền và nghĩa vụ
pháp lý của các bên vừa là mục đích của việc giao kết hợp đồng, vừa là hệ quả tất
yếu của hành vi giao kết một hợp đồng đồng đã có hiệu lực. Trong quá trình thực
hiện hợp đồng tín dụng có hai hành vi đƣợc đánh dấu là cột mốc quan trọng đối với
vai trò và chấm dứt của hợp đồng. Đó là hành vi giải ngân của tổ chức tín dụng, tạo
cơ sở tiền đề cho bên đi vay sử dụng một khoản tiền nhất định để bên đi vay thực

hiện nhu cầu của mình. Tiếp theo là hành vi hoàn trả vốn và lãi cho tổ chức tín dụng
của bên đi vay với ý nghĩa là chấm dứt hiệu lực của hợp đồng và giải phóng các bên
khỏi các quyền và nghĩa vụ nhất định. Hơn nữa, khi tổ chức tín dụng đã trải qua quá
12

trình thẩm định hồ sơ, phƣơng án kinh doanh, khả năng tài chính và có sự đồng
thuận về ý chí thực hiện nội dung của hợp đồng, sau khi ký kết hợp đồng tín dụng
có hiệu lực là phù hợp nhất. Nếu nhƣ việc giải ngân là quyền của tổ chức tín dụng
và hợp đồng tín dụng chỉ có hiệu lực khi tiền đƣợc chuyển giao cho bên đi vay thì
có thể bảo vệ quyền lợi của ngƣời đi vay. Quan hệ tín dụng là quan hệ đƣợc xây
dựng trên cơ sở chữ tín thì việc tách biệt nó ra khỏi hợp đồng vay tài sản thời điểm
có hiệu lực là hoàn toàn hợp lý. Nhƣ vậy, đối với những hợp đồng tín dụng mà
không ghi rõ thời điểm có hiệu lực thì cơ sở này giúp các bên thực hiện đúng nghĩa
vụ của mình, đồng thời giúp cho các thẩm phán phân định rõ ràng trách nhiệm giữa
các chủ thể khi giải quyết tranh chấp.
Hợp đồng tín dụng là một dạng đặc biệt của hợp đồng dân sự xuất phát từ
hoạt động cho vay của tổ chức tín dụng là rất đa dạng. Nếu tổ chức tín dụng thực
hiện cho vay đối với các từng lớp dân cƣ nhằm đáp ứng nhu cầu về sinh hoạt và tiêu
dùng (cá nhân) thì hợp đồng tín dụng mang tính chất là một hợp đồng dân sự theo
đúng nghĩa. Nếu tổ chức tín dụng thực hiện cho vay đối với các thành phần kinh tế
(tổ chức) nhằm đáp ứng mục đích phát triển sản xuất kinh tế thì hợp đồng tín dụng
mang tính chất là hợp đồng thƣơng mại. Do đó tùy theo đối tƣợng và mục đích
trong hoạt động cho vay của ngân hàng mà chúng ta nhìn nhận hợp đồng tín dụng
ngân hàng ở gốc độ thích hợp.
Tính chất ƣng thuận của hợp đồng tín dụng cũng đƣợc thể hiện rõ trong quy
định tại khoản 16, Điều 4, Luật các Tổ chức tín dụng năm 2010, theo đó “cấp tín
dụng (cho vay) là việc tổ chức tín dụng giao hoặc cam kết giao cho khách hàng một
khoản tiền để sử dụng vào mục đích xác định trong một thời gian nhất định theo
thỏa thuận với nguyên tắc có hoàn trả cả gốc và lãi”. [23, Điều 4 ] nhƣ vậy Luật đã
khẳng định đó là tính chất ƣng thuận.

1.1.3. Chủ thể hợp đồng tín dụng
Quan hệ pháp luật tín dụng là quan hệ tài sản – Hàng hóa phát sinh trong quá
trình sử dụng vốn tạm thời giữa tổ chức tín dụng và các tổ chức, cá nhân khác theo
nguyên tắc có hoàn trả, dựa trên cơ sở tín nhiệm hoặc có sự bảo đảm, đƣợc các qui
13

phạm pháp luật điều chỉnh. Tham gia quan hệ này có ít nhất gồm hai chủ thể: là bên
cho vay và bên đi vay.
Bên cho vay:
Luôn là tổ chức tín dụng, đƣợc thành lập và hoạt động theo Luật các Tổ chức
tín dụng và các pháp luật liên quan. Có chức năng hoạt động, kinh doanh tín dụng,
thực hiện các chính sách kinh tế - xã hội.
Bên đi vay (Khách hàng). Bao gồm:
Nhóm khách hàng thứ nhất: Các pháp nhân: Doanh nghiệp nhà nƣớc, hợp tác
xã, Công ty trách nhiệm hữu hạn, Công ty cổ phần, Công ty hợp danh, Doanh
nghiệp có vốn đầu tƣ nƣớc ngoài và các tổ chức khác.
Nhóm khách hàng thứ hai: Cá nhân, hộ gia đình, tổ hợp tác, Doanh nghiệp
Tƣ nhân.
Nhóm khách hàng thứ ba: Các pháp nhân và cá nhân nƣớc ngoài.
Bên đi vay phải thỏa mãn các điều kiện liên quan đến năng lực chủ thể, mục
đích sử dụng vốn vay, khả năng thanh toán khoản vay…
Điều kiện về năng lực chủ thể.
Đối với khách hàng vay là pháp nhân và cá nhân Việt Nam:
Pháp nhân phải có năng lực pháp luật dân sự;
Cá nhân và chủ doanh nghiệp tƣ nhân phải có năng lực pháp luật và năng lực
hành vi dân sự;
Đại diện của hộ gia đình phải có năng lực pháp luật và năng lực hành vi dân
sự;
Đại diện của tổ hợp tác phải có năng lực pháp luật và năng lực hành vi dân
sự;

Thành viên hợp danh của công ty hợp danh phải có năng lực pháp luật và
năng lực hành vi dân sự;
Đối với khách hàng vay là pháp nhân và cá nhân nƣớc ngoài:
Năng lực pháp luật dân sự và năng lực hành vi dân sự theo quy định pháp
luật của nƣớc mà pháp nhân đó có quốc tịch hoặc cá nhân đó là công dân, nếu pháp
luật nƣớc ngoài đó đƣợc Bộ Luật Dân sự của nƣớc Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt
14

Nam, các văn bản pháp luật khác của Việt Nam quy định hoặc đƣợc điều ƣớc quốc
tế mà Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam ký kết hoặc tham gia quy định.
1.1.4. Nội dung và hình thức hợp đồng tín dụng
1.1.4.4. Nội dung của hợp đồng tín dụng ngân hàng.
Hợp đồng tín dụng ngân hàng “phải có nội dụng về điều kiện vay, mục đích
sử dụng vốn vay, phƣơng thức cho vay, số vốn vay, lãi suất, thời hạn cho vay, hình
thức bảo đảm, giá trị tài sản bảo đảm, phƣơng thức trả nợ và những cam kết khác
đƣợc các bên thoả thuận” [25. Điều 17]
Điều khoản về điều kiện về vay vốn và mục đích sử dụng vốn.
Khi khách hàng muốn vay vốn của Tổ chức tín dụng thì phải trình bày rõ về
điều kiện vay vốn. Điều này giúp cho tổ chức tín dụng nhận rõ đƣợc tình hình cũng
nhƣ khả năng của khách hàng trong quan hệ tín dụng, việc xác định điều kiện vay
phải dựa trên cơ sở là mục đích sử dụng tiền vay, với từng mục đích khác nhau có
thể có các điều kiện vay khác nhau.
Mục đích sử dụng tiền vay ngoài việc xác định các điều kiện vay còn là một
cơ sở quan trọng để xác định bản chất của hợp đồng là kinh tế hay dân sự, đồng thời
nó là cơ sở để kiểm tra tình hình sử dụng vốn vay của khách hàng.
Điều khoản về phương thức cho vay.
Tổ chức tín dụng thoả thuận với khách hàng vay việc áp dụng các phƣơng
thức cho vay, việc lựa chọn phƣơng thức phải đƣợc thể hiện trong hợp đồng; ví dụ:
Cho vay từng lần; Mỗi lần vay vốn khách hàng và tổ chức tín dụng thực hiện
thủ tục vay vốn cần thiết riêng cho từng lần và ký kết hợp đồng tín dụng ngân hàng.

Đây là phƣơng thức cho vay phổ biến đặc biệt trong các hợp đồng mà bên khách
hàng không phải là khách hàng quen thuộc có độ tin cậy cao đối với tổ chức tín
dụng.
Cho vay theo hạn mức tín dụng: Tổ chức tín dụng và khách hàng xác định
và thoả thuận một hạn mức tín dụng duy trì trong một khoảng thời gian nhất định
hoặc theo chu kỳ sản xuất kinh doanh.
Cho vay theo dự án đầu tƣ: Đây là phƣơng thức cho vay trung hạn hoặc dài
hạn theo đó Tổ chức tín dụng cho khách hàng vay vốn để thực hiện các dự án đầu tƣ
15

phát triển sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và các dự án đầu tƣ phục vụ đời sống. Để
cho vay theo phƣơng thức này, tổ chức tín dụng cần phải nắm rõ dự án đầu tƣ của
khách hàng xem xét dự án có khả thi không, khách hàng phải trình bày rõ ràng cụ
thể dự án của mình để tổ chức tín dụng quyết định có thể cho vay hay không.
Cho vay hợp vốn: Khi một khách hàng muốn vay với một nguồn vốn vay khá
lớn, một tổ chức tín dụng không đảm bảo đƣợc, khi đó một tổ chức tín dụng làm
đầu mối dàn xếp, phối hợp với các tổ chức tín dụng khác, sau đó là một nhóm tổ
chức tín dụng cùng cho vay đối với một dự án vay vốn hoặc phƣơng án vay vốn của
khách hàng.
Cho vay trả góp: Trong trƣờng hợp khách hàng không có khả năng trả nợ
một lần hoặc do chu kỳ kinh doanh nên khách hàng phải trả nợ theo phƣơng thức số
lãi tiền vay phải trả chia ra để trả nợ trong nhiều kỳ hạn. Khi đó tổ chức tín dụng và
khách hàng xác định và thoả thuận số lãi vốn vay phải trả cộng với số nợ gốc đƣợc
chia ra để trả nợ theo nhiều kỳ hạn trong thời hạn cho vay.
Cho vay thông qua nghiệp vụ phát hành và sử dụng thẻ tín dụng: Tổ chức tín
dụng chấp thuận cho khách hàng đƣợc sử dụng số vốn vay trong phạm vi hạn mức
tín dụng để thanh toán tiền mua hàng hoá, dịch vụ và rút tiền mặt tại máy rút tiền tự
động hoặc điểm ứng tiền mặt là đại lý của tổ chức tín dụng.
Cho vay theo hạn mức thấu chi: Là việc cho vay mà tổ chức tín dụng thoả
thuận bằng văn bản chấp thuận cho khách hàng chi vƣợt số tiền có trên tài khoản

thanh toán của khách hàng phù hợp với các quy định của Chính phủ và Ngân hàng
Nhà nƣớc Việt Nam về hoạt động thanh toán qua các tổ chức cung ứng dịch vụ
thanh toán.
Thông qua các hợp đồng tín dụng ngân hàng trên thực thế thì cho dù vay
dƣới bất kỳ phƣơng thức nào thì hợp đồng vay cũng thể hiện rõ các điều khoản chủ
yếu và đảm bảo khả năng chi trả của khách hàng vay đúng thời hạn và cách thức trả
nợ.
Điều khoản về số tiền vay và đảm bảo vốn vay.
Số tiền vay do các bên thỏa thuận trong hợp đồng, theo đó thì tổ chức tín
dụng sẽ cho khách hàng vay một số tiền nhất định, theo phƣơng thức nhất định, tuy
16

nhiên số tiền vay phải tuân theo các quy định về hạn mức tín dụng tại Điều 128
Luật các Tổ chức tín dụng năm 2010.
Tổng dƣ nợ của một khách hàng đối với một tổ chức tín dụng không đƣợc
vƣợt quá 15% vốn tự có của tổ chức tín dụng trừ trƣờng hợp có sự ủy thác của
chính phủ, các tổ chức, cá nhân hoặc khách hàng vay là một tổ chức tín dụng khác.
Trong trƣờng hợp nhu cầu của khách hàng vƣợt quá 15% vốn tự có của tổ
chức tín dụng thì tổ chức tín dụng có thể cho vay hợp vốn với các tổ chức tín
dụng khác theo quyết định của thống đốc ngân hàng Nhà nƣớc, trƣờng hợp đặc
biệt Chính phủ có thể quyết định mức cho vay tối đa đối với từng trƣờng hợp cụ
thể.[23, điều 128]
Khi cho vay tổ chức tín dụng cần căn cứ vào Điều 127 Luật các Tổ chức tín
dụng năm 2010 quy định về hạn chế cấp tín dụng, tùy thuộc vào đối tƣợng đƣợc cấp
tín dụng mà tổng mức dƣ nợ cấp tín dụng đối với các đối tƣợng là khác nhau:
Không quá không quá 5%, 10%, 20% vốn tự có của mình. [23, điều 127]
Biện pháp bảo đảm vốn vay bao gồm biện pháp bảo đảm bằng tài sản và bảo
đảm tiền vay không có bảo đảm về tài sản.
Các biện pháp bảo đảm tiền vay bằng tài sản là các cách thức sử dụng tài sản
để cầm cố thế chấp, trong trƣờng hợp này tài sản phải thuộc sở hữu của khách hàng

vay cũng có thể là bảo lãnh bằng tài sản của bên thứ ba hoặc bảo đảm bằng tài sản
hình thành từ vốn vay. Việc áp dụng biện pháp bảo đảm tiền vay bằng tài sản theo
cách thức nào là do các bên tự thỏa thuận và phải quy định rõ ràng trong hợp đồng
về giá trị tài sản đem ra bảo đảm, theo nguyên tắc là giá trị tài sản bảo đảm này
không đƣợc thấp hơn giá trị hợp đồng vay.
Khi tiến hành cho vay không có đảm bảo bằng tài sản thì tổ chức tín dụng
chủ động lựa chọn khách hàng để cho vay hoặc cho các cá nhân, hộ gia đình nghèo
vay vốn có đảm bảo bằng tín chấp của tổ chức đoàn thể chính trị - xã hội.
Các biện pháp bảo đảm tiền vay đƣợc thực hiện trên nguyên tắc là:
Tổ chức tín dụng có quyền lựa chọn, quyết định việc cho vay có bảo đảm
bằng tài sản, không có bảo đảm bằng tài sản và chịu trách nhiệm về quyết định của
mình, trƣờng hợp tổ chức tín dụng là Nhà nƣớc cho vay không có bảo đảm tín dụng
17

bằng tài sản theo chỉ định của Chính phủ thì những tổn thất do những nguyên nhân
khách quan của những khoản vay này do chính phủ xử lý.
Khi cho vay không bảo đảm bằng tài sản mà khách hàng vay vi phạm cam
kết trong hợp đồng tín dụng thì tổ chức tín dụng có quyền yêu cầu khách hàng thực
hiện các biện pháp bảo đảm bằng tài sản hoặc thu hồi nợ trƣớc hạn.
Tổ chức tín dụng có quyền xử lý các tài sản đảm bảo tiền vay theo quy định
của pháp luật để thu hồi nợ khi khách hàng vay hoặc bên bảo lãnh không thực hiện
hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ trả nợ nhƣ đã cam kết, bên khách hàng vay
hoặc bên bảo lãnh có trách nhiệm tiếp tục thực hiện nghĩa vụ trả nợ nhƣ đã cam kết
nếu vẫn chƣa thực hiện nghĩa vụ trả nợ.
Hợp đồng thế chấp tài sản phải đƣợc lập bằng văn bản riêng hoặc ghi vào
hợp đồng tín dụng ngân hàng, nếu hai bên có thỏa thuận thì các hợp đồng này phải
đƣợc chứng thực của cơ quan nhà nƣớc có thẩm quyền, có thể là công chứng hoặc
chúng thực của Ủy ban nhân dân cấp có thẩm quyền.
Điều khoản về lãi suất cho vay và phương thức trả nợ.
Lãi suất tín dụng là khoản tiền thƣờng đƣợc tính bằng tỷ lệ phần trăm trên

tổng số tiền vay mà ngƣời đi vay phải trả cho ngƣời cho vay trong thời gian một
tháng, một năm.
Mức lãi suất cho vay do tổ chức tín dụng và khách hàng thoả thuận phù hợp
với quy định của Ngân hàng nhà nƣớc Việt Nam. Dựa trên nhu cầu cung và cầu vốn
trên thị trƣờng và thực tế hoạt động kinh doanh của mình mà tổ chức tín dụng công
bố lãi suất sao cho hợp lý. Mức lãi suất áp dụng đối với khoản nợ gốc quá hạn do tổ
chức tín dụng ấn định và thoả thuận với khách hàng trong hợp đồng tín dụng nhƣng
không vƣợt quá 150% lãi suất cho vay áp dụng trong thời hạn cho vay đã đƣợc ký
kết hoặc điều chỉnh trong hợp đồng tín dụng.
Lãi suất phải đƣợc quy định rõ trong hợp đồng tín dụng ngân hàng.
Phƣơng thức trả nợ là cách thức mà khách hàng vay sẽ trả nợ gốc và lãi cho
tổ chức tín dụng tùy theo từng điều kiện mà hai bên có thể thỏa thuận trả nợ gốc và
lãi cùng kỳ hạn hoặc khác kỳ hạn, có thể trả một lần hoặc nhiều lần.
Điều khoản về chuyển nợ quá hạn.

×