Tải bản đầy đủ (.doc) (28 trang)

Thực trạng pháp chế trong quản lý giáo dục

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (126.39 KB, 28 trang )

MỤC LỤC
Trang
A. Lời nói đầu.................................................................... 2
B. Nội dung nghiên cứu tiểu luận...................................... 4
I. Một số vấn đề lí luận chung........................................... 4
1. Khái niệm pháp chế XHCN........................................... 4
2. Những nguyên tắc của pháp chế XHCN....................... 6
3. Pháp chế XHCN trong quản lý giáo dục....................... 7
II. Thực trạng pháp chế XHCN trong quản lý giáo dục ở
Trường THCS Cát Hiệp..................................................... 11
1. Đặc điểm chung............................................................. 11
2. Thực trạng tình hình pháp chế trong quản lý giáo dục ở
Trường THCS Cát Hiệp, Phù Cát...................................... 14
III. Các giải pháp và kiến nghò.......................................... 17
1. Cơ sở đề ra giải pháp................................................... 18
2. Các giải pháp................................................................ 19
3. Các kiến nghò................................................................ 24
C. Kết luận......................................................................... 26
D. Danh mục tài liệu tham khảo........................................ 28
1
A . LỜI NÓI ĐẦU
* Lý do chọn đề tài: Quá trình nghiên cứu lí luận và thực tiễn quản lí Nhà
nước, bản thân tôi nhận thấy việc tăng cường pháp chế xã hội chủ nghóa để nâng
cao hiệu lực quản lí Nhà nước trong tình hình hiện nay là một nhiệm vụ hết sức
quan trọng của Đảng và Nhà nước ta trong sự nghiệp đổi mới và trong quá trình
hình thành để phát triển Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghóa. Có nghóa là
Nhà nước quản lí xã hội bằng pháp luật và không ngừng tăng cường pháp chế xã
hội chủ nghóa. Pháp chế xã hội chủ nghóa là một biện pháp hữu hiệu để duy trì
cho pháp luật ngày càng bền vững có hiệu lực quản lí xã hội của Nhà nước.
Thực hiện nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghóa là mọi tổ chức và hoạt
động của cơ quan Nhà nước, mọi cán bộ nhân viên đều phải nghiêm chỉnh chấp


hành, triệt để việc tuân thủ pháp luật khi thi hành quyền hạn và nhiệm vụ của
mình, bộ máy Nhà nước phải thực hiện được việc quản lí xã hội bằng pháp luật.
Bảo đảm cho pháp luật được tôn trọng và thi hành nghiêm chỉnh.
Thực hiện đúng nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghóa trong các tổ chức
cũng như bộ máy Nhà nước xã hội chủ nghóa là đảm bảo sự thống nhất và kỷ
cương, trật tự, bảo đảm dân chủ và công bằng xã hội, tránh khuynh hướng cục
bộ, tuỳ tiện vô chính phủ, ngăn chặn tệ nạn quan liêu, tham nhũng và các hiện
tượng khác như lạm quyền hoặc thoái thác không tuân thủ pháp luật.
Qua khoá học, dưới sự hướng dẫn và cung cấp thông tin của thầy cô giáo,
sự tiếp cận nghiên cứu giáo trình và quá trình thảo luận trao đổi với tổ, với tập
thể lớp… đã giúp cho bản thân lónh hội nhiều kiến thức bổ ích về lý luận chính trò
và kinh nghiệm xử lý tình huống trong thực tiễn công tác. Bản thân được nhận
thức sâu sắc hơn về Nhà nước và Pháp luật, về quản lý hành chính….Với tâm
nguyện mong muốn tất cả mọi người đều sống và thực hiện đúng theo Hiến
pháp , pháp luật; thực hiện đúng đắn các chủ trương chính sách của Đảng và
Pháp luật của Nhà nước; với tình hình thực tiễn của nhà trường hiện nay, còn có
2
nhiều trường hợp học sinh chưa chấp hành đúng nội quy của nhà trường, còn có
bộ phận cán bộ, giáo viên và nhân viên trong nhà trường chưa thực hiện đúng
các yêu cầu của quy chế chuyên môn quy đònh…. Đã phần nào làm cho chất
lượng giáo dục của nhà trường chưa đáp ứng được yêu cầu của đòa phương và xã
hội, chính vì vậy đã thôi thúc tôi chọn vấn đề :Tăng cường pháp chế xã hội chủ
nghóa trong quản lý giáo dục – Một biện pháp để nâng cao chất lượng giáo dục ở
trường THCS Cát Hiệp. Đây là điều kiện để bản thân nâng cao nhận thức và tìm
biện pháp phù hợp để tác động vào nhà trường, góp phần nâng cao chất lượng
giáo dục của nhà trường trong thời gian đến.
* Phương pháp dùng để nghiên cứu đề tài: sử dụng nhóm phương pháp
biện chứng, phương pháp di vật lòch sử, phương pháp điều tra, thống kê …
* Lời cảm ơn: xin chân thành cảm ơn sự cung cấp tài liệu và thông tin của
Đảng uỷ, Uỷ Ban Nhân Dân xã Cát Hiệp; cảm ơn sự tạo điều kiện thuận lợi của

Ban giám hiệu trường Trung học cơ sở Cát Hiệp; cảm ơn thầy giáo hướng dẫn
cho bản thân hoàn thành đề tài.
Trong quá trình nghiên cứu ghi chép, chắc chắn không tránh khỏi sai sót,
rất mong sự quan tâm tạo điều kiện giúp đỡ của quý thầy cô giáo để bản thân
hoàn thành tốt bài viết của mình.
3
B. NỘI DUNG NGHIÊN CỨU TIỂU LUẬN
I. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÍ LUẬN CHUNG:
1. Khái niệm pháp chế xã hội chủ nghóa ( XHCN):
1.1. Pháp chế xã hội chủ nghóa:
Pháp chế thường được hiểu là “ chế độ trong đó đời sống và hoạt động xã
hội được đảm bảo bằng pháp luật”. Nhà nước quản lý xã hội và điều hành các
quan hệ xã hội đều căn cứ vào pháp luật. Nhà nước nào thì pháp luật ấy, Nhà
nước xã hội chủ nghóa có pháp luật xã hội chủ nghóa, Nhà nước ta là Nhà nước xã
hội chủ nghóa nên có pháp luật xã hội chủ nghóa, vậy pháp chế ở nước ta là pháp
chế xã hội chủ nghóa.
Pháp chế xã hội chủ nghóa là chế độ của đời sống chính trò – xã hội trong
đó Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật; các cơ quan nhà nước, đơn vò lực
lượng vũ trang nhân dân, các tổ chức chính trò xã hội, các tổ chức xã hội nghề
nghiệp, các đơn vò kinh tế và mọi công dân đều phải tôn trọng và thực hiện Hiến
pháp, Pháp luật một cách nghiêm chỉnh, triệt để và chính xác.
Như vậy, pháp chế xã hội chủ nghóa là sự tuân thủ và chấp hành một cách
thường xuyên, chính xác, đầy đủ và nghiêm minh những luật, những văn bản
dưới luật của các cơ quan Nhà nước, các nhà chức trách, các tổ chức xã hội, các
tập thể lao động và mọi công dân.
Xã hội là một cộng đồng người thường xuyên nảy sinh những quan hệ. Vì
vậy cần phải có những nguyên tắc, những tiêu chuẩn hợp lí để điều chỉnh tổ
chức đời sống xã hội. Trong hệ thống các vi phạm xã hội thì hệ thống quy phạm
pháp luật có vò trí quan trọng đối với việc bảo đảm lợi ích cơ bản và mục tiêu
kinh tế – xã hội.

Như vậy, khái niệm pháp chế xã hội chủ nghóa thể hiện mối tương quan
giữa hoạt động của cơ quan Nhà nước, các tổ chức xã hội, hành vi xử sự của
công dân với những quy phạm pháp luật.
4
1.2. Mối quan hệ giữa pháp luật và pháp chế:
Pháp chế và pháp luật là hai khái niệm không đồng nhất với nhau nhưng
có quan hệ chặt chẽ tác động lẫn nhau. Không có pháp luật thì không có pháp
chế và ngược lại, không có pháp chế thì pháp luật không có ý nghóa gì. Pháp chế
đòi hỏi chủ thể pháp luật phải triệt để tuân theo và chấp hành nghiêm chỉnh.
Pháp luật chỉ điều chỉnh có hiệu quả các quan hệ xã hội trên cơ sở có pháp chế
vững chắc. Ngược lại pháp chế chỉ được củng cố và tăng cường khi có một hệ
thống pháp luật hoàn chỉnh phù hợp với cơ sở kinh tế – văn hoá xã hội.
Điều 12 Hiến pháp năm 1992 của nước ta quy đònh: “Nhà nước quản lí xã
hội bằng pháp luật, không ngừng tăng cường pháp chế XHCN”. Như vậy, tình
trạng pháp chế phụ thuộc vào thái độ của các chủ thể pháp luật, các cơ quan
Nhà nước, các tổ chức Đảng, các tổ chức xã hội phải thực hiện đúng thẩm
quyền, hoạt động trong khuôn khổ pháp luật quy đònh.
1.3. Pháp chế xã hội chủ nghóa với các hoạt động của các tổ chức
chính trò – xã hội , công dân và chế độ dân chủ XHCN.
Đảng cộng sản Việt Nam lãnh đạo Nhà nước và các đoàn thể xã hội, sự
lãnh đạo ấy không tách rời nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghóa. Mỗi đoàn thể,
tổ chức đều có phương thức và nguyên tắc hoạt động riêng, song tất cả đều tuân
thủ theo nguyên tắc pháp chế XHCN.
Pháp chế XHCN là nguyên tắc xử sự theo pháp luật của công dân.
Trong quan hệ giữa công dân với Nhà nước, công dân với các tổ chức xã
hội và quan hệ giữa các công dân với nhau đều phải xử sự theo pháp luật. Sự tôn
trọng pháp luật của mọi tổ chức, mọi công dân là điều kiện cơ bản để đảm bảo
công bằng xã hội. Bình đẳng trước pháp luật cũng là điều kiện cho mọi người tự
do phát triển mối quan hệ này, dân chủ XHCN là cơ sở để củng cố tăng cường
pháp chế. Mặt khác, pháp chế XHCN là phương tiện cần thiết để bảo vệ, củng

cố mở rộng dân chủ, phát huy quyền làm chủ của nhân dân lao động. Dân chủ
5
càng mở rộng càng tăng cường pháp chế. Vì pháp chế đảm bảo thực hiện
nguyên tắc dân chủ, xây dựng tính tổ chức, kỷ luật, trật tự kỷ cương xã hội, kỷ
luật Nhà nước và công bằng xã hội.
2. Những nguyên tắc của pháp chế xã hội chủ nghóa:
Nguyên tắc pháp chế XHCN là những chỉ đạo cơ bản thể hiện bản chất và
đặc điểm của pháp chế XHCN. Vì vậy, Đảng và Nhà nước rất coi trọng vai trò
của pháp chế XHCN. Tư tưởng pháp chế của Đảng, Nhà nước ta được thể hiện
trong các nguyên tắc cơ bản sau:
2.1. Tôn trọng tính tối cao của Hiến Pháp.
Đây là yêu cầu quan trọng nhất trong quá trình xây dựng, thiết lập nền
pháp chế xã hội chủ nghóa. Hiến pháp là đạo luật gốc – cơ bản của cả hệ thống
pháp luật và có giá trò pháp lý cao nhất. Vì vậy, hoạt động xây dựng luật pháp
của các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền phải căn cứ vào các quy đònh của Hiến
pháp. Hiến pháp có vò trí trung tâm và vai trò tối cao do đặc điểm về nội dung,
được cơ quan quyền lực cao nhất của Nhà nước là Quốc hội ban hành theo một
trình tự và thủ tục đặc biệt. Do vậy, các luật hoặc đạo luật đều phải có đủ để cụ
thể hoá Hiến pháp và phù hợp với Hiến pháp. Khi xây dựng những văn bản dưới
luật, cần phải dựa vào Hiến pháp và luật. Chỉ có thực hiện tốt yêu cầu này mới
có thể xây dựng hệ thống pháp luật ngày càng hoàn chỉnh, đồng bộ, tránh được
tình trạng tản mạn, trùng lắp, chồng chéo hoặc mâu thuẫn.
2.2. Pháp chế phải thống nhất trên phạm vi cả nước:
Pháp chế phải thống nhất trên phạm vi cả nước. Đặc điểm này đòi hỏi
trước hết, trong khi thực hiện pháp chế phải thống nhất tuân thủ pháp luật, bảo
đảm tính nghiêm minh của luật, mặc dù các luật và các văn bản dưới luật rất
phong phú và đa dạng nhưng pháp chế thì phải thống nhất. Pháp chế thống nhất
đòi hỏi từ việc xây dựng pháp luật của các cơ quan có thẩm quyền đến việc chấp
hành pháp luật của các chủ thể pháp luật luôn luôn xuất phát từ luật, trên cơ sở
6

luật để thi hành luật. Thực hiện nguyên tắc pháp chế thống nhất trong hoạt động
quản lí nhà nước sẽ làm cho mọi chủ trương, chính sách của Đảng thể hiện trong
văn bản pháp luật được thực hiện đầy đủ, đúng đắn từ Trung ương đến cơ sở.
2.3. Các cơ quan xây dựng, tổ chức thực hiện và bảo vệ pháp luật phải hoạt
động một cách tích cực, chủ động và có hiệu quả.
Pháp chế xã hội chủ nghóa yêu cầu các cơ quan Nhà nước, các tổ chức
trong hệ thống chính trò và toàn dân thực hiện nhiệm vụ của mình một cách tích
cực, chủ động và hiệu quả. Các cơ quan xây dựng pháp luật là các cơ quan nhà
nước có thẩm quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật, phải có kế hoạch
làm pháp luật và thực hiện tốt kế hoạch đó. Các cơ quan hành chính nhà nước từ
Chính phủ đến Uỷ ban nhân dân các cấp phải chủ động trình các dự án luật lên
Quốc hội và có kế hoạch lập quy phù hợp với kế hoạch làm luật của Quốc hội.
Có như vậy, hệ thống pháp luật mới ngày càng hoàn thiện và đầy đủ, đáp ứng
nhu cầu khách quan, cần thiết của việc điều chỉnh các quan hệ xã hội ngày càng
phát triển phong phú, đa dạng. Hệ thống pháp luật đầy đủ, có chất lượng cao là
cơ sở vững chắc để củng cố pháp chế xã hội chủ nghóa.
Tổ chức và thực hiện pháp luật là một yêu cầu chủ yếu của pháp chế. Để
pháp luật đi vào cuộc sống, được mọi tổ chức và công dân thực hiện một cách
nghiêm minh, chính xác triệt để, đòi hỏi các cơ quan tổ chức thực hiện pháp luật
phải hoạt động tích cực và có hiệu quả.
3. Pháp chế XHCN trong quản lý giáo dục:
Pháp chế là chế độ trong đó đời sống và hoạt động xã hội được đảm bảo
bằng pháp luật. Việc quản lý, điều hành các mối quan hệ, các hoạt động đều căn
cứ vào pháp luật.
Pháp chế trong lónh vực giáo dục chính là sự tuân thủ, chấp hành và thực
hiện đúng theo những quy đònh của Luật giáo dục; hệ thống các văn bản thuộc
về giáo dục.
7
Người cán bộ quản lý trong ngành giáo dục nói chung, người Hiệu Trưởng
trong nhà trường nói riêng, khi thực hiện nhiệm vụ và quyền của mình đều phải

tuân thủ theo quy đònh của Pháp luật, Luật giáo dục, Điều lệ trường phổ thông….
Pháp chế xã hội chủ nghóa trong quản lý giáo dục chính là sự tuân thủ và
chấp hành một cách nghiêm ngặt về Hiến pháp, Pháp luật nhà nước; về Luật
giáo dục, về Điều lệ trường phổ thông và các văn bản chuyên ngành giáo dục …
của tất cả các đối tượng trong và ngoài nhà trường nói chung, và cán bộ quản lý
giáo dục nói riêng.
Tăng cường pháp chế trong quản lý giáo dục chính là tăng cường quá trình
triển khai và thực hiện đúng các quy đònh về chuyên ngành trong lónh vực giáo
dục nói riêng và các văn bản quy phạm pháp luật của nhà nước ta nói chung.
3.1. Khái niệm quản lý giáo dục:
Quản lý giáo dục là việc xây dựng, hoạch đònh các đường lối, chính sách
để giáo dục phát triển, đáp ứng mục tiêu kinh tế - xã hội của đất nước nói chung
và của một đòa phương , đơn vò nói riêng.
Quản lý là một chức năng lao động xã hội bắt nguồn từ tính chất xã hội
của lao động. Về cơ bản có thể coi: Quản lý là sự tác động có tổ chức, có hướng
đích của chủ thể quản lý tới đối tượng quản lý nhằm đạt mục tiêu đề ra.
Hoạt động dạy học và giáo dục là những hoạt động cơ bản trong nhà
trường phổ thông. Chủ thể quản lý các hoạt động này là Hiệu trưởng. Tập thể
giáo viên, học sinh và các lực lượng ngoài nhà trường, những nhân tố trực tiếp tổ
chức hoạt động dạy học và giáo dục là đối tượng quản lý.
Vậy, quản lý các hoạt động dạy học và giáo dục là những tác động có mục
đích, có kế hoạch của Hiệu trưởng đến tập thể giáo viên và học sinh, những lực
lượng giáo dục trong và ngoài nhà trường nhằm huy động họ tham gia, cộng tác,
phối hợp trong các hoạt động của nhà trường giúp quá trình dạy học và giáo dục
vận động tối ưu tới các mục tiêu dự kiến.
8
3.2. Khái niệm về chất lượng giáo dục
Chất lượng giáo dục được hiểu là tổng hoà những phẩm chất và năng lực
được tạo nên trong quá trình giáo dục, đào tạo và bồi dưỡng cho người học so với
những thang chuẩn giá trò của Nhà nước hoặc xã hội nhất đònh.

Có chất lượng giáo dục toàn diện và chất lượng giáo dục từng mặt,tuỳ theo
góc độ đánh giá. Chất lượng giáo dục có tính lòch sử, cụ thể và luôn luôn tuỳ
thuộc vào các điều kiện xã hội nhất đònh, vào các thiết chế, chính sách và lực
lượng tham gia giáo dục.
Chất lượng giáo dục không chỉ đơn thuần là trình độ học tập, rèn luyện
được đánh giá bằng những điểm số các môn thi, mà quan trọng hơn là bằng
những kết quả thực tế và bằng hiệu quả sử dụng những phẩm chất và năng lực
của học sinh trong hoạt động thực tiễn ở nhà trường, gia đình và xã hội.
3.3. Quan hệ giữa pháp chế với quản lý giáo dục và chất lượng giáo
dục:
Như đã trình bày ở trên, quản lý giáo dục là việc xây dựng, hoạch đònh các
đường lối, chính sách để giáo dục phát triển, đáp ứng mục tiêu kinh tế - xã hội
của đất nước nói chung và của một đòa phương , đơn vò nói riêng.
Việc xây dựng, hoạch đònh các đường lối, chính sách để giáo dục phát triển
phải phù hợp với Hiến pháp, pháp luật của Nhà nước cộng hoà xã hội chủ nghóa
Việt Nam; phù hợp với quy đònh của Luật giáo dục và mục tiêu phát triển giáo
dục Việt Nam. Đó là “ Đào tạo con người Việt Nam phát triển toàn diện, có đạo
đức, tri thức, sức khoẻ, thẩm mỹ và nghề nghiệp, trung thành với lý tưởng độc lập
dân tộc và chủ nghóa xã hội; hình thành và bồi dưỡng nhân cách, phẩm chất và
năng lực của công dân, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc.”. Đảm bảo đúng tính chất, nguyên lý giáo dục: “1. Nền giáo dục Việt Nam
là nền giáo dục xã hội chủ nghóa có tính nhân dân, dân tộc, khoa học, hiện đại,
lấy chủ nghóa Mác – Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng. 2. Hoạt động
9
giáo dục phải được thực hiện theo nguyên lý học đi đôi với hành, giáo dục kết hợp
với lao động sản xuất, lý luận gắn liền với thực tiễn, giáo dục nhà trường kết hợp
với giáo dục gia đình và giáo dục xã hội.”
Pháp chế trong giáo dục đònh hướng cho quá trình hoạch đònh đường lối
phát triển giáo dục của các nhà quản lý giáo dục. Quá trình hoạch đònh đường
lối phát triển đúng, phù hợp với yêu cầu thực tiễn của đất nước và của đòa

phương sẽ đảm bảo cho hoạt động giáo dục phát triển thuận lợi, có như vậy chất
lượng giáo dục mới được nâng cao.
Để thực hiện đúng pháp chế trong giáo dục cần phải xây dựng kỷ cương,
nền nếp trong ngành giáo dục, việc xây dựng ấy phải bắt đầu từ các cơ quan chỉ
đạo giáo dục và đào tạo; từng phòng, ban quán triệt các chủ trương, đường lối chỉ
đạo giáo dục; tiến đếùn các nhà trường, cấp học thể hiện nền nếp kỷ cương thông
qua hành động cụ thể từ việc soạn giảng, xây dựng hồ sơ, sổ sách, việc kiểm tra
đánh giá … đến các quy đònh cụ thể đến từng bộ phận, từng giáo viên và học sinh.
Một khi tính pháp chế trong ngành giáo dục nói chung và hoạt động quản
lý giáo dục nói riêng được quán triệt và thực hiện nghiêm, thì vấn đề cán bộ,
giáo viên, nhân viên trong ngành giáo dục sẽ không còn tình trạng vi phạm các
quy đònh về chuyên ngành; học sinh không còn hiện tượng vi phạm nội quy
trường, lớp … và như vậy quá trình đào tạo của các nhà trường lo gì đến việc
không đảm bảo chất lượng . Vì suy cho cùng, sự tuân thủ và chấp hành nghiêm
theo các quy đònh trong lónh vực giáo dục đã giải quyết được vấn đề về đổi mới
và cập nhật phương pháp quản lý, phương pháp giáo dục – giảng dạy trong nhà
trường, đáp ứng được yêu cầu thực tiễn của xã hội.
Như vậy, mối quan hệ về pháp chế với quản lý giáo dục và chất lượng
giáo dục là mối quan hệ nhân quả và bổ trợ phát triển: pháp chế thực hiện
nghiêm minh giúp cho hoạt động quản lý thực hiện tốt vai trò chức năng của
mình, khi quản lý thực hiện đúng vai trò, chức năng , nhiệm vụ thì tổ chức, đơn vò
10
sẽ hoạt động đảm bảo theo tiến trình, theo kế hoạch, đúng theo quy đònh của
ngành và như vậy hiệu quả công việc chắt chắn được nâng cao. Ngược lại, chất
lượng, hiệu quả công tác của cơ quan đơn vò, đáp ứng yêu cầu thực tiễn xã hội ,
hay nói cách khác chất lượng giáo dục của nhà trường cao phản ánh sự quản lý
có hiệu quả và khoa học của lãnh đạo, đồng thời nó cũng phản ánh sự chấp hành
nghiêm minh các quy phạm pháp luật trong lónh vực giáo dục.
Vì vậy, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghóa trong quản lý giáo dục là
tiền đề, là cơ sở cho việc nâng cao chất lượng giáo dục – đào tạo của các nhà

trường trong giai đoạn hiện nay và mai sau.
II. THỰC TRẠNG PHÁP CHẾ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA TRONG QUẢN
LÝ GIÁO DỤC Ở TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ SỞ CÁT HIỆP.
1. Đặc điểm chung:
1.1. Sơ lược về nhà trường.
Trường THCS Cát Hiệp nằm trong đòa bàn thôn Hòa Đại, Xã Cát Hiệp về
phía tây của Huyện Phù Cát, thuộc tỉnh Bình Đònh.
Cát Hiệp là xã trung du, có diện tích tự nhiên 4102 ha, gồm 1784 hộ với
7780 nhân khẩu, trong đó 90% dân số làm nghề nông, nguồn thu nhập chính từ
sản xuất nông nghiệp. Xã có điều kiện tự nhiên không mấy thuận lợi cho việc
phát triển kinh tế xã hội, với vùng bán sơn đòa có nền đất cát xám bạc màu,
không có hệ thống thủy lợi như những đòa phương khác, nguồn nước phụ thuộc
vào thiên nhiên là chính, hoạt động sản xuất chủ yếu của nhân dân là sản xuất
nông nghiệp. Điều kiện thiên nhiên không được ưu đãi, với vò trí đòa lí không
mấy thuận lợi nên nhìn chung đời sống của nhân dân trong đòa phương rất khó
khăn. Chính vì vậy, mức độ đầu tư cho giáo dục của đòa phương không cao, phụ
huynh học sinh chú trọng nhiều trong sản xuất, lo đi làm ăn xa để có nguồn thu
nhập, việc chăm lo học hành của con em ít được chú trọng.
11

×