Tải bản đầy đủ (.pdf) (71 trang)

Một số vấn đề về đổi mới phương pháp dạy học môn giáo dục công dân trong trường THPT ở Việt Nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (545.39 KB, 71 trang )

Khóa luận tốt nghiệp
SVTH: Nguyễn Thị Hà Lớp: K33A – GDCD
1

























TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA GIÁO DỤC CHÍNH TRỊ
********








NGUYỄN THỊ HÀ




MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ ĐỔI MỚI PPDH
MÔN GDCD TRONG TRƯỜNG THPT Ở
VIỆT NAM HIỆN NAY





KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Phương pháp dạy học môn GDCD

Người hướng dẫn khoa học :
GV. NGUYỄN QUANG THUẬN







HÀ NỘI - 2011

Khóa luận tốt nghiệp
SVTH: Nguyễn Thị Hà Lớp: K33A – GDCD
2
LỜI CẢM ƠN

Trong quá trình thực hiện khóa luận, ngoài sự cố gắng của bản thân,
em còn nhận được sự giúp đỡ của thầy cô và bạn bè. Em xin bày tỏ lòng biết
ơn chân thành và sâu sắc nhất tới thầy Nguyễn Quang Thuận – người đã tận
tình hướng dẫn và giúp đỡ em hoàn thành khóa luận này.
Em xin được chân thành cảm ơn các thầy cô trong trường Đại học Sư
phạm Hà Nội 2, đặc biệt là các thầy cô trong khoa Giáo dục chính trị đã
giảng dạy, chỉ bảo em trong suốt thời gian qua.
Tôi xin cảm ơn các bạn sinh viên đã góp ý và ủng hộ tôi hoàn thành
khóa luận này.
Do điều kiện hạn chế về thời gian cũng như kiến thức của bản thân nên
khóa luận khó tránh khỏi những thiếu sót, tôi rất mong nhận được sự góp ý
của các thầy cô và các bạn.
Tôi xin chân thành cảm ơn !

Hà Nội, tháng 5 năm 2011
Sinh viên thực hiện


Nguyễn Thị Hà







Khóa luận tốt nghiệp
SVTH: Nguyễn Thị Hà Lớp: K33A – GDCD
3
LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan rằng, khóa luận tốt nghiệp này được hoàn thành dưới
sự hướng dẫn của thầy giáo Nguyễn Quang Thuận.
Đây là kết quả nghiên cứu của riêng tôi, nếu sai tôi xin hoàn toàn chịu
trách nhiệm.

Hà Nội, tháng 5 năm 2011
Sinh viên thực hiện


Nguyễn Thị Hà
















Khóa luận tốt nghiệp
SVTH: Nguyễn Thị Hà Lớp: K33A – GDCD
4
MỘT SỐ CỤM TỪ VIẾT TẮT

CĐSP : Cao đẳng sư phạm
CNDVBC : Chủ nghĩa duy vật biện chứng
CNDVLS : Chủ nghĩa duy vật lịch sử
CNXH : Chủ nghĩa xã hội
ĐHSP : Đại học sư phạm
GDCD : Giáo dục công dân
GV : Giáo viên
HS : Học sinh
NCKH : Nghiên cứu khoa học
NDDH : Nội dung dạy học
PPDH : Phương pháp dạy học
PPGD : Phương pháp giảng dạy
PTDH : Phương tiện dạy học
QTDH : Quá trình dạy học
THCS : Trung học cơ sở
THPT : Trung học phổ thông










Khóa luận tốt nghiệp
SVTH: Nguyễn Thị Hà Lớp: K33A – GDCD
5

MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU
1
NỘI DUNG
6
Chương 1: Một số vấn đề lí luận chung về phương pháp dạy học
môn Giáo dục công dân 6
1.1. Phương pháp dạy học và phương pháp dạy học môn GDCD 6
1.2. Đặc điểm cơ bản của môn GDCD ở trường THPT. 15
1.3. Hệ thống các PPDH môn GDCD ở trường THPT hiện nay 21
Chương 2: Đổi mới PPDH môn GDCD trong trường THPT ở
Việt Nam hiện nay 25
2.1 Quan niệm về đổi mới PPDH môn GDCD 25
2.2.Thực trạng việc thực hiện đổi mới PPDH môn GDCD trong
trường THPT ở Việt Nam hiện nay 28
2.3 Định hướng đổi mới PPDH môn GDCD 39
2.4. Một số biện pháp đổi mới PPDH môn GDCD trong trường
THPT ở Việt Nam hiện nay 48
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
61
TÀI LIỆU THAM KHẢO
64








Khóa luận tốt nghiệp
SVTH: Nguyễn Thị Hà Lớp: K33A – GDCD
6
MỞ ĐẦU

1. Lí do chọn đề tài
Lịch sử nhân loại đã bước sang một kỉ nguyên mới – kỉ nguyên của
thông tin tri thức. Thông tin và tri thức được coi là tài sản vô giá, là quyền lực
tối ưu của mỗi quốc gia. Sự phát triển như vũ bão của khoa học – kĩ thuật và
công nghệ đã dẫn đến sự gia tăng nhanh chóng khối lượng tri thức của nhân
loại cũng như tốc độ ứng dụng chúng vào đời sống xã hội tạo nên sự đa dạng
của thế giới. Tình hình đó đã làm thay đổi những quan niệm về giáo dục.
Ngày nay giáo dục được xem là chìa khóa vàng để mỗi người, mỗi quốc gia
tiến bước vào tương lai, là ngành sản xuất mà lợi nhuận của nó khó có thể
đong đếm được. Giáo dục không chỉ có chức năng truyền tải những kinh
nghiệm lịch sử xã hội của thế hệ trước cho thế hệ sau, mà quan trọng hơn là
trang bị cho mỗi người phương pháp học tập, tìm cách phát triển năng lực nội
sinh, phát triển tư duy nội tại, thích ứng với một xã hội học tập thường xuyên,
học tập suốt đời. Để giúp người học đáp ứng được những yêu cầu đó, việc cải
cách, đổi mới giáo dục là một việc làm hết sức cần thiết và cấp bách, trong đó
đổi mới PPDH là khâu then chốt nhất trong quá trình đạt đến mục tiêu đổi
mới giáo dục.
Nhận thức được việc đổi mới phương pháp giảng dạy và phương pháp
học tập là một trong những vấn đề bức thiết hiện nay ở nước ta, Đảng và Nhà

nước cũng như Bộ Giáo dục và Đào tạo đã đưa ra nhiều Nghị quyết, Chỉ thị
như: Nghị quyết Trung Ương 4 khóa VII, Nghị quyết Trung Ương 2 khóa
VIII, Chỉ thị số 15/1999/CT-BGD&ĐT. Luật Giáo dục nước Cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam năm 2005 (Điều 5) đã ghi: “Phương pháp giảng dạy
phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, tư duy sáng tạo của người học;
Khóa luận tốt nghiệp
SVTH: Nguyễn Thị Hà Lớp: K33A – GDCD
7
bồi dưỡng cho người học năng lực tự học, khả năng thực hành, lòng say mê
học tập và ý chí vươn lên”[16, tr.7].
Ở cấp học phổ thông, môn GDCD là một trong những môn học cơ bản
góp phần tạo nên nội dung dạy học, giáo dục toàn diện. Việc hình thành và
giáo dục thế giới quan, nhân sinh quan, phương pháp luận khoa học cho học
sinh do tất cả các môn học, các hình thức giáo dục của nhà trường thực hiện.
Song chỉ có môn GDCD mới có thể trực tiếp giáo dục cho học sinh những tri
thức theo một hệ thống xác định toàn diện về thế giới quan và nhân sinh quan,
mới có thể cho học sinh hiểu được quy luật phát triển tất yếu khách quan của
xã hội loài người, giúp cho học sinh nhận thức đúng đắn, sống và làm việc
theo hiến pháp và pháp luật, có ý thức trách nhiệm cao đối với Tổ quốc, đối
với nhân dân, đối với gia đình và đối với chính bản thân mình. Đồng thời đây
cũng là môn học kích thích mạnh mẽ sự phát triển năng lực trí tuệ chung như:
tư duy trừu tượng, tư duy logic, biện chứng… và rèn luyện thao tác tư duy
như: phân tích, tổng hợp, so sánh, khái quát… cũng như những phẩm chất của
tư duy: linh hoạt, độc lập, sáng tạo.
Nhưng thực tế dạy học môn GDCD hiện nay cho thấy: PPDH vẫn chủ
yếu là lối truyền thụ một chiều, chưa phát huy được tính tích cực, chủ động và
sáng tạo của người học. Với PPDH như vậy sẽ không đáp ứng được yêu cầu,
nhiệm vụ của môn học và làm giảm sút vị trí của môn học, không đáp ứng
được đòi hỏi về đào tạo con người lao động mới phát triển toàn diện, phù hợp
với yêu cầu của xã hội và thời đại.

Từ những yêu cầu bức thiết trên, với mong muốn góp một phần sức lực
nhỏ bé của mình vào việc nâng cao chất lượng học tập môn GDCD ở trường
THPT hiện nay, tôi mạnh dạn tiến hành nghiên cứu đề tài: “Một số vấn đề về
đổi mới PPDH môn GDCD trong trường THPT ở Việt Nam hiện nay”.

Khóa luận tốt nghiệp
SVTH: Nguyễn Thị Hà Lớp: K33A – GDCD
8
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài
Đổi mới PPDH đã và đang trở thành vấn đề cấp thiết, là mối quan tâm
không chỉ của ngành Giáo dục và Đào tạo mà còn là mối quan tâm chung của
toàn xã hội.
Đến nay đã có nhiều hội thảo mang tầm cỡ cấp quốc gia đã diễn ra như:
Hội thảo khoa học “Đổi mới PPDH và phương pháp đánh giá đối với
giáo dục phổ thông, Cao đẳng và Đại học Sư phạm” được tổ chức tại Hội
trường lớn trường Đại học Sư phạm Hà Nội tháng 11 năm 2006,
Hội thảo chuyên đề “Đổi mới PPDH” diễn ra ngày 17/3/2009 do trường
Đại học Sài Gòn tổ chức,
Hội thảo chuyên đề “Đổi mới PPDH theo hướng tích cực” diễn ra ngày
8/10/2010 do trường Đại học Quảng Nam tổ chức…
Đã có nhiều cuốn sách có giá trị lí luận và giá trị thực tiễn được xuất
bản như:
“Đổi mới PPDH, chương trình và sách giáo khoa” của Trần Bá Hoành,
Nxb Đại học Sư phạm 2007.
“Đổi mới PPDH trong các trường Đại học, Cao đẳng, đào tạo giáo viên
THCS” – Tài liệu nâng cao năng lực PPDH cho giáo viên cốt cán các trường
ĐHSP, CĐSP – Dự án đào tạo giáo viên THCS – 2007.
Ngoài ra còn hàng loạt các bài nghiên cứu, tham luận, báo cáo khoa học
đăng trên các báo, các Kỉ yếu khoa học như:
Bài “Bản chất của việc dạy học lấy HS làm trung tâm” của Trần Bá

Hoành, Kỉ yếu hội thảo khoa học, “Đổi mới PPDH theo hướng hoạt động hóa
người học” – Bộ Giáo dục và Đào tạo, Hà Nội, 1995, trang 147.
Bài “Đổi mới PPDH nhằm phát huy khả năng tự học” của tác giả
Dương Thị Trúc Bạch đăng trên Tạp chí Dạy và học ngày nay, Số 12/2004.
Khóa luận tốt nghiệp
SVTH: Nguyễn Thị Hà Lớp: K33A – GDCD
9
Bài “Đổi mới PPDH ở trường THPT và những yêu cầu đặt ra đối với
việc đào tạo giáo viên trong các trường ĐHSP” của Tiến sĩ Phạm Thị Kim
Anh đăng trên tạp chí Dạy và học ngày nay, Số 12/2006, trang 9.
Bài “Bàn về cái “khó” của việc đổi mới PPDH theo quan điểm hướng
vào người học” của Phạm Thị Kim Anh đăng trên Tạp chí Dạy và học ngày
nay, Số 6/2010, trang 22.
Bài “Đổi mới PPDH hay thay đổi triết lí dạy học?” của tác giả Kỳ Hoa
đăng trên Tạp chí Dạy và học ngày nay số 7/201, trang 9, 10.
Như vậy, vấn đề đổi mới PPDH đã được nghiên cứu ở nhiều cấp độ,
nhiều phương diện, song đến nay chưa có cuốn sách, đề tài nghiên cứu nào đề
cập đến việc đổi mới PPDH môn GDCD ở bậc học THPT một cách hệ thống
và hoàn chỉnh. Do đó, tôi đã chọn đề tài: “Một số vấn đề về đổi mới PPDH
môn GDCD trong trường THPT ở Việt Nam hiện nay” làm khóa luận tốt
nghiệp đại học.
3. Mục đích và nhiệm vụ của đề tài
3.1. Mục đích của đề tài
Trên cơ sở nghiên cứu một số lí luận chung về PPDH, về đổi mới
PPDH, thực trạng việc đổi mới PPDH môn GDCD ở trường THPT hiện nay,
bước đầu đề xuất một số giải pháp để thực hiện đổi mới PPDH môn GDCD
một cách hiệu quả nhằm nâng cao chất lượng dạy và học bộ môn này.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích trên, đề tài giải quyết các nhiệm vụ sau đây:
- Tìm hiểu cơ sở lí luận chung về PPDH GDCD, quan niệm về đổi mới

PPDH môn GDCD.
- Tìm hiểu thực trạng việc đổi mới PPDH môn GDCD ở trường THPT
hiện nay, vạch rõ nguyên nhân của vấn đề tồn tại trong quá trình thực hiện đổi
Khóa luận tốt nghiệp
SVTH: Nguyễn Thị Hà Lớp: K33A – GDCD
10
mới PPDH môn GDCD ở trường THPT, từ đó đề xuất một số giải pháp nhằm
khắc phục tình trạng trên.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
4.1. Đối tượng
- Vấn đề đổi mới PPDH môn GDCD ở trường THPT hiện nay.
- Hoạt động dạy và học môn GDCD ở trường THPT.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Do thời gian có hạn nên phạm vi nghiên cứu của đề tài chỉ dừng lại ở
việc tìm hiểu thực trạng việc đổi mới PPDH ở trường THPT Phả Lại (Hải
Dương), THPT Nguyễn Du (Hải Dương), THPT Xuân Hòa (Vĩnh Phúc).
5. Phương pháp nghiên cứu
Khóa luận lấy phương pháp nghiên cứu của CNDVBC, CNDVLS và
một số phương pháp khác như phân tích – tổng hợp, hệ thống hóa, khái quát
hóa, so sánh, điều tra để giải quyết các nhiệm vụ đặt ra.
6. Cấu trúc của khóa luận
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung của khóa bao gồm:
Chương 1: Một số vấn đề lí luận chung về PPDH môn GDCD
Chương 2: Đổi mới PPDH môn GDCD trong trường THPT ở Việt Nam
hiện nay.







Khóa luận tốt nghiệp
SVTH: Nguyễn Thị Hà Lớp: K33A – GDCD
11
CHƯƠNG1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÍ LUẬN CHUNG VỀ PHƯƠNG
PHÁP DẠY HỌC MÔN GIÁO DỤC CÔNG DÂN

1.1. Phương pháp dạy học và phương pháp dạy học môn GDCD
1.1.1. Quan niệm về PPDH
Thuật ngữ “phương pháp” xuất phát từ tiếng Hi Lạp cổ “Methodos” có
nghĩa là con đường, cách thức đạt tới mục đích nhất định. Phương pháp là
hình thức vận động bên trong của nội dung, do nội dung quy định, nó gắn liền
với hoạt động của con người, giúp con người hoàn thành được những nhiệm
vụ phù hợp với mục đích đề ra. Do vậy, phương pháp bao giờ cũng có tính
mục đích, tính cấu trúc và luôn gắn liền với nội dung.
Như vậy, chúng ta có thể hiểu phương pháp là cách thức, con đường,
phương tiện để đạt tới mục đích nhất định, là hoạt động được sắp xếp theo
một trật tự nhất định để giải quyết những nhiệm vụ nhất định trong nhận thức
và trong thực tiễn.
Phương pháp là phạm trù gắn liền với hoạt động có ý thức của con
người, giúp con người nhận thức được hiện thực khách quan, nhận thức được
thực tiễn, mà hiện thực khách quan và thực tiễn được vận động theo những
quy luật khách quan của bản thân và chịu sự tác động hợp quy luật của thế
giới xung quanh. Do đó, phương pháp là một trong những yếu tố quyết định
thành công hay thất bại trong hoạt động nhận thức và cải tạo thực tiễn của con
người. Không có phương pháp, con người sẽ hành động không có kết quả
thậm chí phạm sai lầm, thất bại, đúng như R. Đêcac – nhà triết học duy vật
Pháp thế kỷ XVIII khẳng định “Thiếu phương pháp thì người tài cũng không
thể đạt kết quả, có phương pháp thì người tầm thường cũng làm được việc phi

thường”.
Khóa luận tốt nghiệp
SVTH: Nguyễn Thị Hà Lớp: K33A – GDCD
12
Trong hoạt động nhận thức và thực tiễn phương pháp có vai trò rất
quan trọng. Trong giáo dục nói chung và dạy học nói riêng, phương pháp là
đặc biệt cần thiết vì phải giúp cho người học bằng sự nỗ lực cố gắng của bản
thân, dưới sự hướng dẫn của giáo viên chiếm lĩnh được kiến thức bằng con
đường ngắn nhất. Vì thế kết quả giáo dục cũng như dạy học trong nhà không
chỉ được đánh giá ở mặt nội dung mà ở cả phương pháp. Để có phương pháp
đúng, con người không thể chỉ tích lũy kinh nghiệm thực tiễn mà trên cơ sở
kinh nghiệm con người cần lựa chọn, phân tích, rút ra những cơ sở lí luận để
chỉ đạo hoạt động thực tiễn. Do đó, việc dạy học không thể chỉ tiến hành bằng
kinh nghiệm, bằng cách truyền nghề một cách đơn giản mà phải dựa vào cơ
sở lí luận khoa học về phương pháp được đúc kết từ thực tiễn, có như vậy quá
trình dạy học mới đạt kết quả cao hơn, vững chắc hơn.
Trong nhà trường, QTDH bao gồm rất nhiều yếu tố tác động qua lại
với nhau. Trong phạm vi hoạt động trên lớp của người dạy và người học,
QTDH gồm ba yếu tố cơ bản là nội dung môn học, người dạy, người học.
Các yếu tố cơ bản nằm trong một chỉnh thể thống nhất, ảnh hưởng tác
động qua lại lẫn nhau, có quan hệ rất chặt chẽ với nhau.
Quan hệ giữa nội dung môn học và người dạy là quan hệ xử lí thông tin
khoa học của người dạy. Thông tin khoa học là nội dung tri thức đã được xác
định trong sách giáo khoa và mang tính pháp lệnh. Người dạy phải nắm vững
thông tin đó, tìm ra thông tin khoa học cơ bản nhất chi phối những thông tin
khác để chuyển giao cho người học, để người học có thể tiếp nhận và xử lí
chúng.
Quan hệ giữa người dạy và người học là quan hệ tiếp nhận thông tin
của người học. Sau khi xử lí đầy đủ, chính xác các thông tin người dạy tìm ra
phương thức chuyển giao thông tin phù hợp với khả năng tiếp nhận thông tin

của người học. Để phương thức chuyển giao thông tin của người dạy và khả
Khóa luận tốt nghiệp
SVTH: Nguyễn Thị Hà Lớp: K33A – GDCD
13
năng tiếp nhận thông tin của người học đạt hiệu quả cao, một mặt người dạy
phải có PPDH tốt, luôn luôn có những thay đổi đáp ứng nhu cầu và năng lực
nhận thức của người học nhằm kích thích hứng thú nhận thức của họ. Mặt
khác, người học phải tích cực, chủ động tiếp nhận thông tin, phải luôn tạo ra
nhu cầu khao khát tri thức khoa học mới.
Quan hệ giữa người học và nội dung môn học là quan hệ xử lí thông tin
đã thu nhận được của người học. Sau khi đã tiếp nhận thông tin do giáo viên
chuyển giao, học sinh phải xử lí thông tin đó, biến tri thức khoa học thu nhận
được thành tri thức của bản thân mình. Muốn tiếp nhận thông tin tốt, chính
xác thì người học phải có hứng thú đối với thông tin, phải có phương pháp
nhận thức khoa học do người dạy trang bị thông qua việc chuyển giao thông
tin và phải tập vận dụng thông tin vào việc giải quyết những vấn đề của thực
tiễn từ đơn giản đến phức tạp.
Các yếu tố cơ bản của QTDH có mối quan hệ gắn bó mật thiết tạo
thành một vòng tròn khép kín, vòng này là tiền đề, cơ sở cho vòng khác tiếp
tục việc thực hiện liên tiếp các vòng đó của người dạy và người học sẽ giúp
người dạy hình thành và xây dựng PPDH bộ môn với tư cách là khoa học
nâng cao nhận thức khoa học và có thái độ học tập đúng đắn.
Bản chất của QTDH là quá trình xử lí, chuyển giao thông tin tri thức
của người dạy và quá trình thu nhận, xử lí thông tin đó của người học. Tính
hiệu quả của quá trình này không những phụ thuộc vào chất lượng của thông
tin mà quan trọng hơn là phụ thuộc vào phương pháp thực hiện hoạt động đó.
Vì vậy, để dạy học đạt kết quả người dạy cần có những PPDH thích hợp.
Trong thực tiễn, căn cứ vào các cấp độ của QTDH, khái niệm PPDH là
khái niệm đa cấp độ. Cấp độ rộng nhất, PPDH là quan điểm, tư tưởng về tổ
chức dạy học, là cách thức triển khai một hệ thống dạy học đa tầng, đa diện

cho một cấp học, ngành học, phương thức học.
Khóa luận tốt nghiệp
SVTH: Nguyễn Thị Hà Lớp: K33A – GDCD
14
Cấp độ hai, PPDH là chiến lược và mô hình dạy học, là cách thức triển
khai một QTDH cụ thể, diễn ra theo một quy trình, trong một thời gian, không
gian nhất định và được cấu trúc bởi mục tiêu, nội dung dạy học, các hoạt động
dạy - học và kết quả dạy học. Tức là cách thức hình thành mục tiêu dạy học,
cách thức soạn thảo và triển khai nội dung dạy học, cách thức tổ chức hoạt
động dạy và hoạt động học, cách thức kiểm tra, đánh giá kết quả của QTDH
nhằm hiện thực hóa mục tiêu, nội dung dạy học.
Cấp độ ba, PPDH là những PPDH cụ thể là cách thức tiến hành các
hoạt động của người dạy và người học nhằm thực hiện một nội dung dạy học
đã được xác định.
Những cấp độ đó cho thấy PPDH không phải là một thực thể độc lập,
tồn tại vì mục đích tự thân mà PPDH là hình thức vận động của một hoạt
động đặc thù – hoạt động dạy học. Do đó trong lí luận dạy học có khá nhiều
định nghĩa về PPDH, có thể nêu một vài định nghĩa về PPDH:
Trong cuốn sách: Lí luận dạy học – sách dịch 1978, các nhà giáo dục
học Kazanky và Nazarova định nghĩa: “Phương pháp dạy học là cách thức
hoạt động làm việc của giáo viên và học sinh để học sinh lĩnh hội tri thức, kĩ
năng, kĩ xảo” [32, tr.174].
Trong cuốn sách: Lí luận dạy học đại cương của tác giả Nguyễn Ngọc
Quang, nhà xuất bản Giáo dục, Hà Nội năm 1989, phương pháp dạy học được
định nghĩa như sau: “Phương pháp dạy học là con đường chính yếu, cách thức
làm việc phối hợp thống nhất của thầy và trò, trong đó thầy truyền đạt nội
dung trí dục để trên cơ sở đó và thông qua đó chỉ đạo sự học của trò; còn trò
lĩnh hội và tự chỉ đạo sự học tập của bản thân để cuối cùng đạt tới mục đích
dạy học” [27, tr.47].
Cho đến nay, vẫn chưa có định nghĩa tuyệt đối chính xác về PPDH.

Tuy nhiên, các quan điểm về PPDH đều thừa nhận PPDH có những đặc trưng:
Khóa luận tốt nghiệp
SVTH: Nguyễn Thị Hà Lớp: K33A – GDCD
15
PPDH phản ánh sự vận động của quá trình nhận thức của người học nhằm đạt
mục đích học tập; PPDH phản ánh cách thức hoạt động, tương tác, sự trao đổi
thông tin (truyền đạt và lĩnh hội) giữa người dạy và người học; PPDH phản
ánh cách thức tổ chức, điều khiển hoạt động nhận thức của người dạy như:
kích thích và xây dựng động cơ, tổ chức các hoạt động nhận thức và kiểm tra
đánh giá kết quả nhận thức của người học…; PPDH còn phản ánh cách thức
tự tổ chức, tự điều khiển, tự kiểm tra đánh giá của người học. Như vậy, PPDH
được hiểu là cách thức hoạt động phối hợp, thống nhất của người học và
người dạy nhằm thực hiện tối ưu mục tiêu và nhiệm vụ dạy học ở nhà trường.
1.1.2. Cấu trúc của PPDH
Mỗi PPDH có cấu trúc nhiều tầng bao gồm bốn nhân tố có quan hệ mật
thiết với nhau:
- Tầng phương pháp luận (Hướng tiếp cận đối tượng)
- Tầng lí luận (Nội dung lí luận của phương pháp)
- Tầng kĩ thuật (Hệ thống biện pháp kĩ thuật)
- Tầng nghệ thuật (Các thủ pháp nghệ thuật có tính sáng tạo)
 Tầng phương pháp luận
Trước khi triển khai một hoạt động dạy học nào đó, cả người dạy và
người học đều phải xác định hướng tiếp cận đối tượng của mình. Đó là việc
xác định mục đích của hoạt động dạy học là gì? Dạy học để hướng đến hình
thành kĩ năng, hành động (hành vi), cung cấp tri thức cho người học hoặc
hướng phát triển nhân cách của họ. Đó là cơ sở để xây dựng các nguyên tắc
hoạt động. Quan điểm hướng tiếp cận đối tượng có vai trò quyết định việc lựa
chọn PPDH cụ thể và các PTDH phù hợp.
 Tầng lí luận
Nội dung của PPDH bao gồm sự mô tả toàn bộ nội dung của PPDH, từ

cơ sở lí luận đến các biện pháp tiến hành, từ mục đích chức năng, tính chất,
Khóa luận tốt nghiệp
SVTH: Nguyễn Thị Hà Lớp: K33A – GDCD
16
nguyên tắc, cách thức triển khai các biện pháp cho đến những gợi ý có tính
chất linh hoạt khi sử dụng các PPDH. Nội dung lí luận của PPDH cũng đề cập
đến việc đánh giá ưu điểm và hạn chế của PPDH, phạm vi sử dụng, hiệu quả,
những yêu cầu về phía người dạy và người học. Khi tiến hành các PPDH cần
hiểu sâu sắc và thấu đáo nội dung lí luận của phương pháp sẽ giúp người dạy
và người học có cơ sở lí luận vững chắc để triển khai các biện pháp dạy và
học trong thực tiễn. Ví dụ: Phương pháp thảo luận có nguyên tắc then chốt là
sự tiếp xúc trực diện giữa người học và người dạy, giữa người học với nhau,
và có sự tự do trao đổi ý tưởng hay quan điểm giữa các bên; phương pháp tìm
tòi thực nghiệm có nguyên tắc là sự biến đổi của đối tượng học tập để phát
hiện và tích lũy các sự kiện thực chứng, khái quát hóa chúng để tiến đến hình
thành khái niệm chứ không chỉ tri giác và ghi nhận thông tin có sẵn và đã
được tổ chức từ trước. Phương pháp tìm tòi nghiên cứu có nguyên tắc cốt lõi
là sự lĩnh hội độc lập nội dung học vấn của cá nhân người học.
 Tầng kĩ thuật
Nội dung lí luận của phương pháp dù đầy đủ, sâu sắc đến đâu cũng mới
chỉ là hình thái lí luận chứ chưa phải là PPDH trong thực tiễn. Điều quyết
định cho sự tồn tại trong hiện thực và hiệu quả của PPDH là hệ thống các biện
pháp dạy học. Đó là toàn bộ cách thức tác động cụ thể của người dạy và
người học vào đối tượng dạy học, qua đó để thực hiện được nhiệm vụ dạy
học. Toàn bộ cách thức tác động này gắn liền với hệ thống các công cụ kĩ
thuật (sơ đồ, bản đồ, mô hình và các phương tiện kĩ thuật khác) và được phân
thành các tiểu hệ thống, trong đó các biện pháp cụ thể kết hợp với nhau theo
một logic, tạo thành quy trình chặt chẽ. Vì vậy, trong thực tiễn dạy học, một
mặt phải xác định đầy đủ các bình diện thao tác đồng thời phải thiết lập được
quy trình các thao tác trong từng bình diện đó. Ví dụ: Phương pháp thảo luận

nhóm được tiến hành nhờ kĩ thuật sử dụng các kiểu và các loại câu hỏi, kĩ
Khóa luận tốt nghiệp
SVTH: Nguyễn Thị Hà Lớp: K33A – GDCD
17
năng hội thoại, kĩ năng quản lí hành vi nhóm và lớp học, kĩ năng lãnh đạo và
xử lí các tình huống dạy học – giáo dục… với những yêu cầu về cách đặt ra
mỗi câu hỏi đúng lúc, đúng chỗ, về những hành vi khuyến khích và những
hành vi cần hạn chế ở người học, về các hình thức tổ chức quan hệ và hoạt
động theo nhóm…
 Tầng nghệ thuật
Hệ thống các biện pháp dạy học là cơ cấu kĩ thuật của PPDH, là điều
kiện để hoạt động dạy học đạt kết quả. Tuy nhiên, biện pháp kĩ thuật dễ dẫn
đến việc thực hiện PPDH một cách máy móc. Trong khi đó, dạy học là một
hoạt động vừa mang tính chất khoa học – công nghệ vừa mang tính sáng tạo
nghệ thuật. Vì vậy người giáo viên giỏi không chỉ tổ chức các biện pháp dạy
học mà phải nâng những biện pháp đó lên mức nghệ thuật dạy học. Đó chính
là các thủ pháp nghệ thuật dạy học: thủ pháp ngôn ngữ, thủ pháp hành vi, thủ
pháp tương tác… Đây chính là cơ sở để nâng dạy học lên trình độ mới với
hiệu quả cao.
Như vậy, có thể thấy PPDH là một khoa học và cũng là một nghệ thuật.
Tính khoa học của PPDH đòi hỏi người giáo viên phải nắm vững bản chất của
QTDH, tính nghệ thuật của PPDH thể hiện ở năng lực của giáo viên khi trong
QTDH giáo viên khơi dậy được tiềm năng tiếp thu, phát triển sáng tạo của
học sinh. Do đó, việc giáo viên nắm vững chuyên môn là điều kiện tiên quyết
để dạy học đạt chất lượng, nghiệp vụ và nghệ thuật sư phạm là yếu tố quan
trọng làm cho dạy học có chất lượng và hiệu quả.
1.1.3. Phân loại PPDH
Trên cơ sở xác định mục đích, chức năng, nội dung thực hiện tác động
đến đối tượng dạy học để phân loại các PPDH. Dựa trên các tiêu chí nhất định
việc phân loại các PPDH có giá trị lí luận rất lớn trong việc giúp người dạy

thấy được đặc trưng của từng phương pháp và phản ánh yêu cầu tất yếu của
Khóa luận tốt nghiệp
SVTH: Nguyễn Thị Hà Lớp: K33A – GDCD
18
việc tìm tòi các phương pháp, PTDH hiệu quả hơn đáp ứng xu thế phát triển
của dạy học hiện đại.
Hiện nay có rất nhiều cách phân loại PPDH, nguyên nhân là do cách
tiếp cận và tiêu chí phân loại có sự khác nhau.
 Căn cứ vào thời gian xuất hiện có:
 PPDH hiện đại
 PPDH truyền thống.
 Căn cứ vào tam giác dạy học với ba đỉnh: người dạy, người học và
khách thể, các PPGD có bốn hướng chính:
 Phương pháp giáo điều: khách thể (mục tiêu học đường) được xác
định một lần cho mãi mãi, thầy giữ vai trò ưu thế tuyệt đối, là người nắm
vững quyền lực và tri thức; trò thụ động và mờ nhạt.
 Phương pháp cổ truyền: khách thể tái hiện; thầy giữ vai trò gợi mở
đối với HS; trò được định hướng.
 Phương pháp tích cực: khách thể sáng tạo; thầy giữ vai trò trọng tài;
trò chủ động vào cuộc.
 Phương pháp không gò bó: khách thể được sáng tạo, thầy mờ nhạt,
trò được giải phóng.
 Căn cứ vào mức độ tham gia và tính chất của hoạt động nhận thức
của người dạy và người học trong QTDH thì chia các nhóm phương pháp sau:
 Nhóm phương pháp chủ yếu dùng lời
 Nhóm phương pháp trao đổi
 Nhóm phương pháp tổ chức hoạt động của người học
 Nhóm phương pháp làm việc độc lập của người học có sự trợ giúp
của giáo viên
 Nhóm phương pháp kích thích động cơ học tập của người học.

Khóa luận tốt nghiệp
SVTH: Nguyễn Thị Hà Lớp: K33A – GDCD
19
 Cũng có cách chia PPDH thành 5 kiểu phân biệt với nhau về lí luận:
 Nhóm PPDH thông báo – thu nhận
 Nhóm PPDH làm mẫu – tái tạo
 Nhóm PPDH khuyến khích – tham gia
 Nhóm PPDH kiến tạo – tìm tòi
 Nhóm PPDH tình huống – nghiên cứu
Như vậy, PPDH rất đa dạng và phong phú, mỗi phương pháp đều có
những điểm mạnh, yếu và tác dụng của mỗi phương pháp cũng khác nhau. Do
đó, không có một phương pháp nào là vạn năng và cũng không nên loại trừ
bất kỳ PPDH nào. Việc lựa chọn và sử dụng PPDH nào tùy thuộc vào nội
dung dạy học, đối tượng, tình huống dạy học cụ thể và trình độ năng lực của
người sử dụng PPDH đó.
*PPDH môn GDCD
Giống như các bộ môn khác, hoạt động dạy học môn GDCD cũng tuân
thủ những quy luật chung của QTDH ở trường THPT, đồng thời lại có quy
luật đặc thù của dạy học bộ môn.
Dạy học môn GDCD là quá trình chuyển giao thông tin khoa học của
bộ môn giữa thầy giáo và học sinh. Nó bao gồm hai quá trình: quá trình xử lí
và chuyển giao thông tin khoa học của thầy và quá trình tiếp nhận và xử lí
thông tin đó của học sinh. Hai quá trình này tác động qua lại với nhau, bổ
sung cho nhau, tạo điều kiện tốt cho nhau để hoàn thành toàn bộ QTDH.
Trong sự tác động đó bộc lộ những quy luật, QTDH môn GDCD. Do đó
những giáo viên dạy môn GDCD phải đạt đến trình độ khái quát những kinh
nghiệm phong phú của thực tiễn dạy học môn GDCD, phải phát hiện những
quy luật của QTDH làm cơ sở khoa học cho việc xác định PPDH có hiệu quả,
phù hợp với nội dung đặc thù tri thức bộ môn, tâm lí lứa tuổi và mục tiêu của
nhà trường THPT. Từ đó cho thấy: PPDH môn GDCD là cách thức hoạt động

Khóa luận tốt nghiệp
SVTH: Nguyễn Thị Hà Lớp: K33A – GDCD
20
phối hợp thống nhất của GV và HS nhằm phát hiện những quy luật của
QTDH môn GDCD, xây dựng hệ thống các nguyên tắc, hình thức và PPDH
để tổ chức thành công hoạt động dạy học môn GDCD ở trường THPT.
1.2. Đặc điểm cơ bản của môn GDCD ở trường THPT
1.2.1. Đặc thù tri thức của môn GDCD ở trường THPT
Môn GDCD là môn học thuộc khoa học xã hội nhân văn, có vị trí quan
trọng trong trường THPT. Các tri thức của môn GDCD được truyền thụ cho
HS có thể mang nhiều nội dung khác nhau nhưng đều là tri thức lí luận chính
trị. Những tri thức đó được xây dựng trên các môn khoa học cơ bản như: Triết
học, Đạo đức học, Kinh tế chính trị học, CNXH khoa học, Pháp luật học và
các đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách của Nhà nước Việt Nam ta
hiện nay. Tri thức của môn GDCD được sắp xếp hợp lí, kết cấu chặt chẽ,
logic, phù hợp với đặc điểm tâm sinh lí HS, thể hiện rõ tính đặc thù, riêng
biệt, đồng thời khuynh hướng tư tưởng cũng rất rõ ràng và nổi trội so với các
môn học khác.
Nội dung tri thức môn GDCD bao gồm phạm vi tri thức rộng lớn, bao
quát toàn bộ đời sống xã hội. Những tri thức này được khát quát từ những vấn
đề gần gũi, thiết thực trong đời sống thường nhật của cá nhân công dân, gia
đình và xã hội đến những vấn đề lớn lao hơn của quốc gia, dân tộc, nhân loại.
Các tri thức của môn GDCD mang tính khái quát cao, tính trừu tượng,
tính quy luật, tính logic chặt chẽ. Đây là những tri thức mang tính định hướng
chính trị sâu sắc nó trực tiếp đề cập đến những vấn đề chính trị tư tưởng của
giai cấp công nhân của Đảng Cộng sản Việt Nam, trực tiếp xác lập củng cố
định hướng chính trị xã hội chủ nghĩa cho HS. Toàn bộ nội dung môn GDCD
ở THPT tập trung vào việc xây dựng thế giới quan khoa học, nhân sinh quan
cộng sản, phương pháp luận đúng đắn với những biện pháp và hình thức khác
nhau.

Khóa luận tốt nghiệp
SVTH: Nguyễn Thị Hà Lớp: K33A – GDCD
21
Tri thức môn GDCD mang tính tích hợp, có quan hệ chặt chẽ với nhiều
môn khoa học, nhiều lĩnh vực khoa học. Đặc điểm này đòi hỏi môn GDCD
không chỉ xác lập phương pháp đặc thù cho cả môn học mà còn phải xác lập
phương pháp riêng cho từng học phần, từng bài cụ thể.
Tri thức môn GDCD gắn bó mật thiết với hiện thực, phản ánh một cách
sinh động cuộc sống hiện thực. Dạy học môn GDCD là dạy để HS trở thành
người công dân có tinh thần trách nhiệm của một thành viên hữu ích cho đất
nước, có những kiến thức và kỹ năng cần thiết để tham gia vào một thế giới
đang thay đổi nhanh chóng.
Như vậy, với đặc thù tri thức, môn GDCD đã trực tiếp hình thành cho
HS thế giới quan khoa học, nhân sinh quan tiên tiến và đạo đức trong sáng,
trực tiếp hình thành niềm tin, lí tưởng và ý thức pháp luật cho các thế hệ công
dân của đất nước Việt Nam. Điều đó cho thấy đây là môn học giữ vai trò chủ
chốt trong việc giáo dục cho HS ý thức và hành vi, góp phần hình thành, phát
triển ở HS những phẩm chất và năng lực cần thiết của người công dân trong
một xã hội công bằng dân chủ văn minh.
1.2.2 Chức năng, nhiệm vụ của môn GDCD ở trường THPT
Là môn khoa học xã hội - nhân văn với đặc thù tri thức môn học, môn
GDCD trong trường THPT có nhiệm vụ góp phần đào tạo những người học
sinh trở thành những người lao động mới. Điều đó thể hiện ở việc trực tiếp
giáo dục cho HS những tri thức cần thiết để trên cơ sở đó HS hiểu đúng đắn
những quy luật phát triển tất yếu của tự nhiên, xã hội và tư duy; nhận thức
đúng đắn cuộc sống của cá nhân và cộng đồng phải phù hợp với những quy
luật khách quan của lịch sử xã hội; biết cách sống trong điều kiện cụ thể, có ý
thức vươn tới những chuẩn mực xã hội tốt đẹp. Từ nhiệm vụ đó môn GDCD
có chức năng cơ bản là:
Khóa luận tốt nghiệp

SVTH: Nguyễn Thị Hà Lớp: K33A – GDCD
22
Trang bị cho HS một cách tương đối có hệ thống những tri thức phổ
thông cơ bản, thiết thực của các môn khoa học Mác-Lênin, tư tưởng Hồ chí
Minh, Đường lối cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam, pháp luật của nhà
nước Việt Nam.
Bước đầu giáo dục cho HS những quan điểm khoa học và cách mạng,
tư duy mới về thế giới và thời đại về con người và cộng đồng, về các quá
trình xã hội diễn ra trên thế giới và trên đất nước ta, về cuộc đấu tranh trên tất
các lĩnh vực của đời sống xã hội giữa cái tiến bộ và cái bảo thủ lạc hậu. Trên
cơ sở đó hình thành niềm tin có cơ sở khoa học về chế độ xã hội chủ nghĩa - lí
tưởng cao đẹp mà con người luôn mong ước.
Bước đầu phát triển ở HS phương pháp tư duy biện chứng trong nhận
thức và hành động, biết phân tích đánh giá các hiện tượng xã hội theo quan
điểm khoa học và tiến bộ, kế thừa những giá trị tốt đẹp của dân tộc và nhân
loại, biết ủng hộ cái mới đúng đắn và tích cực đấu tranh chống cái lỗi thời, lạc
hậu. Từng bước hình thành ở HS thói quen và kĩ năng vận dụng những tri
thức khoa học vào cuộc sống, có định hướng đúng đắn về chính trị, tư tưởng,
đạo đức trong các hoạt động xã hội, trong cuộc sống hiện tại và sau này.
Nhận thức đúng đắn và thực hiện đầy đủ nhiệm vụ, chức năng của môn
GDCD sẽ giúp GV tránh được những sai lầm có thể phạm phải như đơn giản
hóa, tầm thường hóa những tri thức khoa học của môn GDCD, thiếu tự tin,
sáng tạo trong dạy học bộ môn này.
1.2.3 Mục tiêu của môn GDCD
Mục tiêu của toàn bộ nội dung và phương pháp dạy học môn GDCD là
nhằm thực hiện mục tiêu giáo dục phổ thông: Phát triển nhận thức, tâm hồn, ý
thức của học sinh nhằm thực hiện tốt phát triển cả về trí tuệ, tâm hồn và nhân
cách của học sinh. Mục tiêu cụ thể của môn GDCD ở trường THPT là:
Khóa luận tốt nghiệp
SVTH: Nguyễn Thị Hà Lớp: K33A – GDCD

23
Về kiến thức: Cung cấp cho HS những hiểu biết ban đầu về thế giới
quan duy vật và phương pháp luận biện chứng; hiểu giá trị đạo đức, pháp luật
cơ bản của con người Việt Nam trong giai đoạn hiện nay; biết được bản chất
của Nhà nước XHCN Việt Nam; vai trò của Nhà nước trong việc đảm bảo
thực hiện pháp luật, hoạch định chính sách và quản lí kinh tế; hiểu đường lối
quan điểm của Đảng; các chính sách quan trọng của Nhà nước về xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc trong giai đoạn hiện nay; hiểu trách nhiệm của công dân trong
việc thực hiện đường lối quan điểm của Đảng, chính sách của Nhà nước.
Về kĩ năng: Trên cơ sở những kiến thức được cung cấp, HS biết vận
dụng những kiến thức đó vào phân tích, đánh giá các hiện tượng, các sự kiện,
các vấn đề trong thực tiễn cuộc sống phù hợp với lứa tuổi; biết lựa chọn và
thực hiện các hành vi ứng xử phù hợp với các giá trị xã hội; biết bảo vệ cái
tốt; đấu tranh, phê phán với các hành vi hiện tượng tiêu cực trong cuộc sống
phù hợp với khả năng bản thân.
Về thái độ: HS biết yêu cái tốt, cái đúng, cái đẹp; không đồng tình với
các hành vi, việc làm tiêu cực, biết yêu quê hương đất nước, biết trân trọng
phát huy các giá trị truyền thống của dân tộc; tin tưởng vào đường lối chủ
trương của Đảng, tôn trọng các chính sách pháp luật của Nhà nước và các quy
định của cộng đồng, có ước mơ và mục đích sống cao đẹp.
Việc nhận thức và thực hiện đúng mục tiêu môn học trong mục tiêu xây
dựng chương trình và đổi mới PPDH là rất quan trọng.
1.2.4. Mối quan hệ giữa PPDH và mục tiêu, nội dung
Mục tiêu, nội dung và phương pháp dạy học có mối quan hệ gắn bó mật
thiết với nhau. Việc xác định mối quan hệ giữa mục tiêu, nội dung và PPDH
có ý nghĩa quyết định đến việc xây dựng và sử dụng cũng như đổi mới PPDH.
Trong mối quan hệ này người ta thường bắt đầu từ mục tiêu để xem xét các
yếu tố nội dung và PPDH sau đó sẽ điều chỉnh cả ba yếu tố cho phù hợp.
Khóa luận tốt nghiệp
SVTH: Nguyễn Thị Hà Lớp: K33A – GDCD

24
Mục tiêu của quá trình dạy học cụ thể thường rất đa dạng và phong phú
nhưng tập trung chủ yếu ở cả ba lĩnh vực: Cung cấp cho học sinh các tri thức
khoa học và phương pháp nhận thức các khoa học đó; hình thành và phát triển
kĩ năng hoạt động trí óc và thực tiễn cho HS; khơi dậy và phát triển các nhu
cầu tiềm năng của HS giúp các em làm chủ đời sống của mình. Trên cơ sở các
mục tiêu dạy học đã được xác định sẽ hình thành NDDH và PPDH phù hợp.
Trước đây quan niệm phổ biến cho rằng quan hệ giữa mục tiêu, nội
dung và PPDH là quan hệ tuyến tính theo sơ đồ sau:
Mục tiêu dạy học Nội dung dạy học Phương pháp dạy học
Trong mối quan hệ đó, GV thường dựa vào mục tiêu để cấu trúc
NDDH, sau đó căn cứ vào NDDH để soạn thảo và sử dụng PPDH thích hợp.
Trong trường hợp NDDH của môn học ổn định và tường minh thì sơ đồ trên
tạo thuận lợi nhất cho GV và HS lựa chọn phương pháp dạy và học.
Hiện nay, do mục tiêu và NDDH thường xuyên thay đổi và có tính độc
lập nhất định nên việc lựa chọn PPDH không chỉ căn cứ trực tiếp vào nội
dung môn học mà còn trực tiếp từ mục tiêu môn học. Đây là trường hợp mà
nội dung khá mới mẻ khi đó GV thường căn cứ vào mục tiêu và thực trạng
của HS để chọn PPDH phù hợp. Trong trường hợp này sự tương tác chặt chẽ
giữa mục tiêu, nội dung và PPDH theo sơ đồ sau:
M


NH

N P


Chú thích:
M : Mục đích dạy học

N : Nội dung dạy học
P : Phương pháp dạy học
NH : Người học

Khóa luận tốt nghiệp
SVTH: Nguyễn Thị Hà Lớp: K33A – GDCD
25
Mô hình trên có khả năng đáp ứng được nhu cầu dạy học hiện đại theo
quan điểm tích cực lấy người học làm trung tâm. Như vậy, xu hướng lựa chọn
PPDH trực tiếp từ mục tiêu đào tạo, nhất là khi nội dung mang tính chủ thể,
vấn đề, tình huống… khi đó rất cần chú ý đến đặc điểm của HS, nhất là năng
lực tự học, tự thể hiện, khả năng tư duy sáng tạo của người học trong QTDH.
NDDH là yếu tố trực tiếp quy định PPDH. Hoạt động dạy học chỉ diễn
ra trên nền tảng của NDDH, mọi phương pháp dạy và học đều phụ thuộc vào
nó theo nguyên lí: PPDH phải phù hợp với NDDH. Bởi lẽ, mỗi môn học trong
nhà trường phản ánh một lĩnh vực khoa học, nó có phương pháp nhận thức
đặc trưng để truyền thụ chúng. Môn GDCD ở trường THPT với đặc thù tri
thức của mình cũng có những đặc trưng để dạy những tri thức đó. Vì thế
trong thực tiễn học bộ môn này, muốn sử dụng có hiệu quả các PPDH giáo
viên phải căn cứ vào nội dung của từng phần, từng bài, từng đơn vị kiến thức
để lựa chọn được những phương pháp thích hợp. Mặt khác tri thức khoa học
của con người có tính lịch sử hình thành lâu dài và trải qua các giai đoạn với
các trình độ khác nhau. Ứng với mỗi loại tri thức có PPDH đặc trưng. Ví dụ:
với những tri thức mang tính biểu tượng thần thoại sẽ có phương pháp đặc
trưng là thuyết trình giảng giải, kể chuyện; với những tri thức mang tính phán
đoán, suy luận chủ quan, phương pháp thích hợp là thảo luận (tranh luận) trao
đổi; với những tri thức mang tính trừu tượng có phương pháp trình bày, giới
thiệu, trực quan; với tri thức là các khái niệm biện chứng về sự vật thì phương
pháp thích hợp là thực nghiệm, tương tác với sự vật (thực hành )… Môn
GDCD ở trường THPT là môn học có nội dung tri thức khoa học bao quát

toàn bộ các lĩnh vực của đời sống xã hội, nội dung của môn học này có sự đan
xen tri thức của các môn Triết học, Kinh tế chính trị học, Chủ nghĩa xã hội
khoa học, Pháp luật học, Đạo đức học… Vì vậy việc lựa chọn những PPDH

×