Tải bản đầy đủ (.doc) (94 trang)

Đánh giá tác động của dự án phát triển hệ thống cơ sở hạ tầng thuộc chương trình nông thôn mới đến sinh kế của người dân tại xã tam thai, huyện tương dương

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (603.43 KB, 94 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH

ĐINH TRANG THƠ
TÊN ĐỀ TÀI
ĐÁNH GIÁ TÁC ĐỘNG CỦA DỰ ÁN PHÁT TRIỂN HỆ THỐNG CƠ SỞ HẠ
TẦNG THUỘC CHƯƠNG TRÌNH NÔNG THÔN MỚI ĐẾN SINH KẾ CỦA
NGƯỜI DÂN TẠI XÃ TAM THÁI, HUYỆN TƯƠNG DƯƠNG, TỈNH NGHỆ
AN
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
KỸ SƯ NGÀNH: KHUYẾN NÔNG & PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN
Vinh, năm 2013
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH

TÊN ĐỀ TÀI
ĐÁNH GIÁ TÁC ĐỘNG CỦA DỰ ÁN PHÁT TRIỂN HỆ THỐNG CƠ SỞ HẠ
TẦNG THUỘC CHƯƠNG TRÌNH NÔNG THÔN MỚI ĐẾN SINH KẾ CỦA
NGƯỜI DÂN TẠI XÃ TAM THÁI, HUYỆN TƯƠNG DƯƠNG, TỈNH NGHỆ
AN
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
KỸ SƯ NGÀNH KHUYẾN NÔNG VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN
Người thực hiện : Đinh Trang Thơ
Lớp : 50K KN&PTNT
Người hướng dẫn: ThS Nguyễn Thị Thúy Vinh
Vinh, 5/2013
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của tôi. Các số liệu và kết
quả nghiên cứu trong đề tài này là hoàn toàn trung thực và chưa từng được dùng để
bảo vệ một học vị nào. Các thông tin trong luận văn này đều được chỉ rõ nguồn gốc.


Tác giả luận văn
Đinh Trang Thơ
LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành khóa luận này, ngoài sự nỗ lực của bản thân tôi còn nhận được
sự giúp đỡ, động viên, khích lệ của các cơ quan, tổ chức, cá nhân trong suốt quá
trình thực hiện đề tài.
Đầu tiên tôi xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo, cán bộ khoa Nông Lâm
Ngư trường Đại học Vinh đã giảng dạy và hướng dẫn tôi hoàn thành chương trình
học tập và thực hiện khóa luận.
Tôi xin chân thành tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới giảng viên,Thạc sĩ Nguyễn Thị
Thúy Vinh là người đã nhiệt tình hướng dẫn, góp ý, động viên tôi trong suốt quá
trình thực hiện khóa luận
Tôi xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ tận tình của các cán bộ thuộc trạm
Khuyến nông huyện Tương Dương, cán bộ UBND xã Tam Thái, cùng với sự giúp
đỡ nhiệt tình của người dân xã Tam Thái, những người đã cung cấp cho tôi nhiều
thông tin bổ ích, giúp tôi hoàn thiện khóa luận này.
Và tôi xin bày tỏ lời cảm ơn chân thành những người thân trong gia đình bạn bè
đã luôn động viên, khích lệ tôi trong suốt những năm tháng học tập rèn luyện tại
trường cũng như thực hiện khóa luận.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
2. Mục tiêu nghiên cứu
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
1.1.Cơ sở lý luận
1.1.1 Một số vấn đề về cơ sở hạ tầng
1.1.1.1 Khái niệm hệ thống cơ sở hạ tầng
1.1.1.2 Cơ sở hạ tầng nông thôn
1.1.1.3. Những đặc trưng cơ bản của cơ sở hạ tầng nông thôn

1.1.1.4 Phân loại cơ sở hạ tầng
1.1.1.5 Vai trò của cơ sở hạ tầng
1.1.1.6 Một số dự án, chương trình đầu tư phát triển hạ tầng nông thôn
1.1.2 Một số vấn đề về nông thôn mới
1.1.2.1 Khái niệm về mô hình nông thôn mới
1.1.2.2 Chức năng của nông thôn mới
1.1.3 Một số vấn đề về sinh kế
1.1.3.1. Khái niệm về sinh kế
1.1.3.2. Nội dung sinh kế
1.2. Cơ sở thực tiễn
1.2.1 Trên thế giới
1.2.2 Ở Việt Nam
CHƯƠNG 2: ĐỐI TƯỢNG, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1 Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
2.1.1 Đối tượng nghiên cứu
2.1.2 Phạm vi nghiên cứu
2.2. Nội dung nghiên cứu
2.3 Phương pháp nghiên cứu
2.3.1 Phương pháp chọn điểm nghiên cứu
2.3.2. Phương pháp thu thập số liệu
2.3.3 Phương pháp phân tích số liệu
2.3.4 Phương pháp phân tích xử lý
2.4 Đặc điểm cơ bản của địa bàn nghiên cứu
2.4.1 Điều kiện tự nhiên
2.4.2 Điều kiện cơ bản của khu vực nghiên cứu
CHƯƠNG 3: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN
3.1. Thực trạng cơ sở hạ tầng trước và sau khi thực hiện dự án phát triển đường giao
thông, chợ và các công trình thủy lợi trên địa bàn xã Tam Thái
3.2 Tác động chung của các dự án phát triển cơ sở hạ tầng đến sinh kế của người
dân

3.2.1 Nguồn vốn con người
3.2.2 Nguồn vốn xã hội
3.2.3 Nguồn vốn tài chính
3.2.4 Nguồn vốn vật chất
3.2.5 Nguồn vốn tự nhiên
3.2.6 Chiến lược sinh kế của người dân
3.3.3 Kết quả sinh kế của người dân
3.3 Tác động riêng của các dự án phát triển đường giao thông, chợ và công trình
thủy lợi đối với sinh kế của người dân
3.3.1 Tác động của dự án phát triển đường giao thông
3.3.2 Tác động của dự án phát triển chợ
3.3.2 Tác động của các dự án thủy lợi
3.4 Những thuận lợi và khó khăn trong quá trình thực hiện các dự án phát triển cơ
sở hạ tầng
3.4.1. Thuận lợi
3.4.2 Khó khăn
3.5 Một số giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện các dự án phát triển cơ sở hạ tầng
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
1. Kết luận
2. Kiến nghị
DANH MỤC BẢNG BIỂU
Bảng 1.1 Số người thoát nghèo trên 10 tỷ đồng đầu tư
Bảng 1.2 Giá trị sản phẩm tăng thêm cho 1 đồng vốn đầu tư và các mục đích khác
nhau
Bảng 2.1 Tình hình sử dụng đất đai của xã Tam Thái
Bảng 2.2 Tình hình về dân số và lao động
Bảng 2.3 Cơ cấu kinh tế, xã hội xã Tam Thái
Bảng 3.1 Tổng hợp công tác giải tỏa, làm đường
Bảng 3.2 Tổng hợp tiền dân góp, tiền hỗ trợ, số lượng xi măng xây dựng
Bảng 3.3 Đường giao thông thôn bản trước và sau khi thực hiện dự án phát triển cơ

sở hạ tầng
Bảng 3.4 Hệ thống thủy lợi của các bản trước và sau khi thực hiện dự án phát triển
cơ sở hạ tầng
Bảng 3.5 Số lượng chợ trước và sau khi thực hiện dự án phát triển cơ sở hạ tầng
Bảng 3.6 Mức độ tham gia của các hộ vào dự án phát triển đường giao thông
Bảng 3.7 Mức độ tham gia của các hộ vào các dự án phát triển thủy lợi
Bảng 3.8 Trình độ văn hóa của các chủ hộ
Bảng 3.9 Tỷ lệ hộ gia đình tham gia các lớp tập huấn
Bảng 3.10 Nguồn cung cấp thị trường hàng hóa, dịch vụ của hộ
Bảng 3.11 Nguồn thu nhập của hộ gia đình năm 2009 và năm 2012
Bảng 3.12 Nhà ở của hộ gia đình năm 2009 và năm 2012
Bảng 3.13 Diện tích bình quân một số loại đất của hộ gia đình
Bảng 3.14 Hình thức buôn bán của các hộ gia đình
Bảng 3.15 Ý kiến về mức sống của hộ gia đình trong thời gian qua
Bảng 3.16 Nguồn cung cấp thị trường hàng hóa, dịch vụ
Bảng 3.17 Ý kiến của người dân về giá cả hàng hóa sau khi có chợ
Bảng 3.18 Nơi bán nông sản chủ yếu của hộ gia đình
Bảng 3.19 Hình thức buôn bán của các hộ gia đình năm 2009 và 2012
Bảng 3.20 Tác động của công trình thủy lợi đối với nguồn vốn tự nhiên của hộ
DANH MỤC SƠ ĐỒ
Biểu đồ 3.1 Nguồn cung cấp thông tin sản xuất của hộ gia đình
Biểu đồ 3.2 Tiết kiệm của hộ gia đình
Biểu đồ 3.3 Tài sản của hộ gia đình
Biểu đồ 3.4 Nơi bán sản phẩm của hộ gia đình
Biểu đồ 3.5 Quan niệm của hộ về thay đổi mức sống năm 2012 và 2009
Biểu đồ 3.6 Số hộ gia đình phân theo mức đáp ứng nhu cầu lương thực năm 2009
Biểu đồ 3.7 Phương tiện di chuyển của hộ gia đình
DANH MỤC HÌNH VÀ HỘP

Hình 1.1 Khung sinh kế

Hộp 3.1 Điều vui mừng nhất
Hộp 3.2 Kinh nghiệm …tập huấn
Hôp 3.3 Cố gắng dành dụm
Hộp 3.4 Đời sống đã có đổi thay
Hộp 3.5 Đường đẹp về bản…vui lắm
Hộp 3.7 Nguồn thông tin nhận từ chợ của các hộ gia đình
Hộp 3.8 Năng suất lúa khi có dự án thủy lợi
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong quá trình thực hiện công cuộc đổi mới nền kinh tế xã hội Việt Nam đã có
những bước chuyển biến đáng kể và đạt được nhiều thành tựu quan trọng.Tốc độ
tăng trưởng (GDP) trong nước năm 2012 theo giá so sánh 1994 ước tính tăng 5,03%
so với năm 2011, khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản tăng 2,72%, đóng góp 0,44
điểm phần trăm vào mức tăng trưởng chung; khu vực công nghiệp và xây dựng tăng
4,52%, đóng góp 1,89 điểm phần trăm; khu vực dịch vụ tăng 6,42%, đóng góp 2,7
điểm phần góp phần tăng trưởng chung của toàn nền kinh tế [1]. Mặc dù đã đạt
được nhiều thành tựu quan trọng trong phát triển kinh tế, xã hội, chính trị và an ninh
nhưng tình hình nền nông nghiệp nông thôn vẫn còn lạc hậu, đời sống nông dân còn
thấp, đặc biệt ở nông thôn, miền núi, vùng sâu, vùng xa.Để xác định hướng phát
triển tiếp theo, đưa Việt Nam hoà nhịp với tiến trình công nghiệp hoá hiện đại hoá
cần thiết phải đánh giá đúng, nhận dạng đủ các nhân tố ảnh hưởng đến tình hình
phát triển kinh tế xã hội của đất nước.Một trong những nhân tố quan trọng hàng đầu
đó chính là cơ sở hạ tầng kỹ thuật bởi cơ sở hạ tầng kỹ thuật có vai trò quan trọng
và quyết định đối với sự phát triển kinh tế xã hội của mỗi quốc gia. Một trong
những chính sách được thực hiện khá thành công trong thời gian qua là Chương
trình mục tiêu quốc gia về xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2010-2020 được Thủ
tướng chính phủ phê duyệt theo quyết định số 800/QĐ TTg ngày 4 tháng 6 năm
2010.
Chương trình nông thôn mới là chương trình tổng thể về phát triển kinh tế, xã
hội, chính trị và an ninh quốc phòng gồm 11 nội dung như: Quy hoạch xây dựng

nông thôn mới, phát triển cơ sở hạ tầng kinh tế- xã hội, chuyển dịch cơ cấu, phát
triển kinh tế, nâng cao thu nhập…Thông qua chương trình này chính phủ hy vọng
đến năm 2015: 20% số xã đạt tiêu chuẩn nông thôn mới và đến năm 2020: 50% số
xã đạt chuẩn nông thôn mới (theo Bộ tiêu chí quốc gia về nông thôn mới).[13]
Đối với huyện Tương Dương là một huyện miền núi nghèo vùng cao của Nghệ
An, dân cư chủ yếu là đồng bào dân tộc sống rải rác các sườn đồi, rừng và cạnh các
khe suối, hồ đập. Với kiến trúc nhà ở, vườn, bờ rào, các trục đường giao thông nội
thôn, bản chưa theo hình mẫu nào. Các xã chưa có quy hoạch tổng thể nông thôn,
các khu dân cư còn phát triển tự phát nên đời sống của người dân còn gặp rất nhiều
khó khăn đặc biệt về hệ thống cơ sở hạ tầng như đường giao thông thì có 82,4 % số
xã có đường ô tô vào đến trung tâm xã, còn 17,6% số xã (3 xã) chưa có đường ô tô
đến trung tâm xã. Đường từ trung tâm các xã đi vào các thôn, bản còn rất khó khăn,
đặc biệt vào mùa mưa.[14]
Thực hiện mục tiêu quốc gia về chương trình xây dựng nông thôn mới huyện
Tương Dương trong thời gian qua đã đạt được một số kết quả nhất định, đặc biệt là
đầu tư xây dựng hệ thống cơ sở hạ tầng đã tác động rất lớn đến sinh kế của người
dân. Nhằm mục đích xem xét lại những tác động của chương trình nông thôn mới
đối với sinh kế của người dân tại các xã đặc biệt khó khăn như thế nào, qua đó cũng
phát hiện được những hạn chế của quá trình đầu tư cơ sở hạ tầng, từ đó đề xuất một
số giải pháp nâng cao hiệu quả của quá trình đầu tư cơ sở hạ tầng đối với sinh kế
của người dân tại các vùng đặc biệt khó khăn.
Với những lý do trên tôi tiến hành nghiên cứu đề tài “Đánh giá tác động của
dự án phát triển hệ thống cơ sở hạ tầng thuộc chương trình nông thôn mới đến
sinh kế của người dân tại xã Tam Thái, huyện Tương Dương, tỉnh Nghệ An”.
2. Mục tiêu nghiên cứu
2.1. Mục tiêu chung
Đánh giá tác động của dự án phát triển cơ sở hạ tầng thuộc chương trình nông
thôn mới đến sinh kế của người dân trên điạ bàn xã Tam Thái, từ đó đề xuất một số
giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của dự án.
2.2. Mục tiêu cụ thể

- Thực trạng cơ sở hạ tầng trước và sau khi thực hiện dự án phát triển đường giao
thông, chợ và các công trình thủy lợi thuộc chương trình nông thôn mới trên địa bàn
xã Tam Thái, huyện Tương Dương.
- Đánh giá những tác động của dự án phát triển đường giao thông, chợ và các công
trình thủy lợi đối với sinh kế của người dân trên địa bàn nghiên cứu.
- Đề xuất một số giải pháp nâng cao hiệu quả của các dự án cơ sở hạ tầng đối với
sinh kế của người dân trên địa bàn nghiên cứu.
CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
1.1 Cơ sở lý luận
1.1.1 Một số vấn đề lý luận về cơ sở hạ tầng
1.1.1.1 Khái niệm hệ thống cơ sở hạ tầng
Trong quá trình phát triển của mỗi quốc gia thì hệ thống cơ sở hạ tầng đều có
vai trò quan trọng trong hỗ trợ cho quá trình phát triển của các ngành, các lĩnh vực
cũng như các địa phương. Có thể nói rằng, hệ thống cơ sở hạ tầng là nền tảng cho
quá trình phát triển đặc biệt là phát triển kinh tế. Hệ thống cơ sở hạ tầng tốt đảm bảo
cho các hoạt động của nền kinh tế diễn ra một cách thuận lợi, giảm bớt được các chi
phí đầu vào cũng như rút ngắn được khoảng cách giữa sản xuất và tiêu dùng [6]
Một hệ thống cơ sở hạ tầng tốt đồng nghĩa với các ngành, lĩnh vực hay cả một
quốc gia có nhiều cơ hội hơn để thu hút các nguồn vốn đầu tư phát triển kinh tế đặc
biệt là các nguồn vốn đầu tư nước ngoài. Do đó một điều dễ nhận thấy trong các
chính sách phát triển kinh tế hiện nay của tất cả các quốc gia trên thế giới đặc biệt là
các quốc gia đang phát triển như nước ta nơi mà hệ thống cơ sở hạ tầng còn yếu
kém đều cố gắng tập trung các nguồn lực để ưu tiên phát triển hệ thống cơ sở hạ
tầng làm nền tảng và cơ sở cho các hoạt động kinh tế khác.
Theo như khái niệm của các nhà kinh tế học thì “Hệ thống cơ sở hạ tầng là
tổng thể những điều kiện, yếu tố vật chất kỹ thuật, kiến trúc được hình thành theo
một cấu trúc nhất định và đóng vai trò nền tảng cho các hoạt động kinh tế xã hội
được diễn ra một cách bình thường” [5]. Trong khái niệm nêu trên về hệ thống cơ
sở hạ tầng sẽ bao gồm tổng thể những điều kiện, yếu tố vật chất kỹ thuật phục vụ

cho các hoạt động kinh tế xã hội. Như vậy, tất cả các yếu tố vật chất kỹ thuật và
điều kiện phục vụ cho các hoạt động kinh tế xã hội được coi là cơ sở hạ tầng. Các
điều kiện và yếu tố vật chất này bao gồm nhiều loại, nhiều cách tổ chức khác nhau
như giao thông, thông tin liên lạc, điện, cơ sở vật chất của giáo dục, y tế. Và dựa
trên mục đích và đối tượng phục vụ của các công trình cơ sở hạ tầng thì chúng ta có
thể phân loại cơ sở hạ tầng thành bốn nhóm sau
Nhóm đầu tiên là hệ thống cơ sở hạ tầng kinh tế. Đây là những cơ sở vật chất kỹ
thuật phục vụ cho sự phát triển của các ngành, các lĩnh vực kinh tế, các địa phương
trong nền kinh tế quốc dân. Hệ thống cơ sở hạ tầng kinh tế cũng được chia thành
những loại sau:
- Hệ thống giao thông vận tải: đường bộ, đường sắt, cầu cống, nhà ga, sân bay, bến
cảng.
- Hệ thống cung ứng vật tư kỹ thuật, nguyên nhiên vật liệu phục vụ sản xuất và đời
sống (phân bón, dầu, chất đốt )
- Mạng lưới vận tải và phân phối năng lượng: các trạm biến áp, trạm trung chuyển,
đường dây, các thiết bị vận hành.
- Hệ thống công trình và phương tiện thông tin liên lạc, bưu điện viễn thông lưu trữ
và xử lý thông tin.
- Hệ thống thủy lợi, thủy nông phục vụ việc tưới tiêu, chăn nuôi, nước sinh hoạt.
Nhóm thứ hai hệ thống cơ sở hạ tầng xã hội: là toàn bộ hệ thống cơ sở vật chất,
kỹ thuật phục vụ hoạt động văn hóa xã hội, bảo đảm cho việc thỏa mãn và nâng cao
trình độ dân trí, văn hóa tinh thần của dân cư, đồng thời cũng tạo điều kiện chung
cho quá trình tái sản xuất sức lao động và nâng cao trình độ lao động của xã hội.
Nhóm thứ ba là hệ thống hạ tầng môi trường: là toàn bộ hệ thống vật chất kỹ
thuật phục vụ cho việc bảo vệ và cải tạo môi trường sinh thái của đất nước và môi
trường sống của con người.
Nhóm thứ tư là nhóm các công trình cơ sở hạ tầng vật chất phục vụ cho công tác
an ninh quốc phòng. Đây là những yếu tố vật chất, kỹ thuật hay điều kiện cần thiết
phục vụ cho các hoạt động đặc thù về an ninh quốc phòng.
1.1.1.2 Cơ sở hạ tầng nông thôn

Cơ sở hạ tầng nông thôn là một hệ thống cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ nông
nghiệp, nông thôn được tổ chức thành các đơn vị sản xuất và dịch vụ, các công trình
sự nghiệp có khả năng đảm bảo sự di chuyển các luồng thông tin, vật chất nhằm
phục vụ nhu cầu có tính phổ biến của sản xuất đại chúng, của sinh hoạt dân cư nông
thôn nhằm đạt hiểu quả kinh tế - xã hội cao.
Cơ sở hạ tầng nông thôn bao gồm: hệ thống giao thông đường bộ, đường thủy,
các công trình bến bãi, cầu cống, các công trình cung cấp điện, cung cấp nước, điện
thoại, các cơ sở y tế, văn hóa, hệ thống cung ứng vật tư kỹ thuật, nguyên nhiên liệu
phục vụ sản xuất và đời sống ở nông thôn.[12]
Cơ sở hạ tầng nói chung có thuộc tính của hàng hóa công cộng và nó có những
tác động ngoại lai tích cực đối với sự tăng trưởng và phát triển kinh tế. Chính vì
vậy, cơ sở hạ tầng là một trong những chương trình đầu tư công cộng. Chương trình
đầu tư công cộng thực chất là một chương trình tổng kết các nguồn lực bảo đảm
hàng hóa và dịch vụ công cộng cho toàn xã hội. Đây là một bộ phận rất quan trọng
của hệ thống phát triển kinh tế - xã hội, tạo nền tảng ban đầu cho các doanh nghiệp
quốc doanh và ngoài quốc doanh cũng như hệ thống tổ chức giáo dục, y tế văn hóa,
khoa học kỹ thuật … có điều kiện thuận lợi để phát triển.[8]
Nghị định số 41/2010/NĐ-CP có nêu: “Cơ sở hạ tầng nông thôn bao gồm hạ
tầng cơ sở kỹ thuật (hệ thống giao thông, thông tin liên lạc cung cấp năng lượng,
chiếu sáng công cộng, nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn và các công
trình khác) và cơ sở xã hội (các công trình y tế, văn hóa, giáo dục, thể thao, thương
mại, dịch vụ cộng cộng, cây xanh, công viên và các công trình khác)”.
1.1.1.3. Những đặc trưng cơ bản của cơ sở hạ tầng nông thôn
Cơ sở hạ tầng nông thôn gắn liền với mọi hệ thống kinh tế, xã hội ở nông thôn.
Nó là nhân tố thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội nhưng sự phát triển của nó lại phụ
thuộc vào trình độ phát triển kinh tế, xã hội của nông thôn.
Cơ sở hạ tầng nông thôn là một hệ thống bao trùm lên toàn bộ hoạt động sản
xuất, xã hội trên toàn lãnh thổ khu vực nông thôn. Dưới hệ thống đó lại có những
phân hệ với mức độ phạm vi ảnh hưởng thấp hơn. Tuy vậy, các phân hệ này có mối
liên hệ gắn kết với nhau trong quá trình hoạt động, khai thác và sử dụng.

a. Tính kiến trúc
Các bộ phận cấu thành hệ thống cơ sở hạ tầng nông thôn phải có cấu trúc phù
hợp với những tỷ lệ cân đối, kết hợp với nhau tạo thành một tổng thể có sự hài hòa,
đồng bộ. Sự không đồng bộ trong kết cấu hạ tầng có thể làm tê liệt cả hệ thống hay
từng phân hệ của cấu trúc, hệ thống công trình mất tác dụng, không phát huy được
hiệu quả.
b. Tính tiên phong định hướng
Cơ sở hạ tầng của một vùng, một nước luôn phải hình thành phát triển đi trước
một bước so với các hoạt động kinh tế khác. Sự phát triển cơ sở hạ tầng về quy mô,
chất lượng, trình độ tiến bộ kỹ thuật là những tín hiệu cho người ta thấy định hướng
phát triển kinh tế - xã hội của một vùng hay một nước đó. Tính tiên phong của hệ
thống cơ sở hạ tầng còn thể hiện ở chỗ nó luôn đón đầu sự phát triển kinh tế - xã
hội, mở đường cho các hoạt động kinh tế xã hội phát triển theo sau được thuận lợi.
c. Tính tương hỗ
Các phân hệ trong hệ thống cơ sở hạ tầng có tác động qua lại với nhau. Sự phát
triển của bộ phận này có thể tạo thuận lợi cho bộ phận kia và ngược lại.
d. Tính công cộng
Các công trình đều được sử dụng nhằm mục đích phục vụ sản xuất và sinh hoạt
của người dân nông thôn. Trong xây dựng, mỗi loại công trình khác nhau có những
nguồn vốn khác nhau từ tất cả các thành phần, các chủ thể trong nền kinh tế quốc
dân. Tuy nhiên, cần lưu ý rằng trong lĩnh vực sản xuất và dịch vụ công cộng này
không thể chỉ lấy doanh lợi của xí nghiệp làm đầu, mà còn phải coi trọng tính phục
vụ và ý nghĩa phúc lợi cho toàn xã hội nông thôn.
e. Tính vùng (địa lý)
Việc xây dựng và phát triển cơ sở hạ tầng ở nông thôn phụ thuộc vào nhiều yếu
tố như địa lý, địa hình, trình độ phát triển … Do địa bàn nông thôn rộng, dân cư
phân bố không đều và điều kiện sản xuất nông nghiệp vừa đa dạng, phức tạp lại vừa
khác biệt lớn giữa các địa phương, các vùng sinh thái. Vì thế hệ thống cơ sở hạ tầng
nông thôn mang tính vùng và địa phương rõ nét. Điều này thể hiện cả trong quá
trình tạo lập, xây dựng cũng như trong tổ chức quản lý, sử dụng chúng. Yêu cầu này

đặt ra trong việc xác định phân bố hệ thống hạ tầng nông thôn, thiết kế, đầu tư, xây
dựng, quản lý và sử dụng nguyên vật liệu, vừa đặt trong hệ thống chung của quốc
gia, vừa phải phù hợp với đặc điểm, điều kiện từng địa phương, từng vùng lãnh thổ.
1.1.1.4 Phân loại cơ sở hạ tầng
Căn cứ vào đặc điểm, tính chất hoạt động của các công trình cơ sở hạ tầng chúng
ta chia cơ sở hạ tầng thành hai loại: cơ sở hạ tầng kỹ thuật và cơ sở hạ tầng xã hội.
Cơ sở hạ tầng kỹ thuật (cơ sở hạ tầng kinh tế, cơ sở hạ tầng sản xuất) là những
công trình phục vụ sản xuất như bến cảng, điện, sân bay …
Cơ sở hạ tầng xã hội: là những công trình phục vụ đời sống như trường học,
trạm xá, bệnh viện, công viên, các nơi vui chơi giải trí …
Tuy nhiên, sự phân chia này chỉ mang tính tương đối bởi vì một công trình có
thể thực hiện nhiều chức năng khác nhau như giao thông, điện lưới vừa phục vụ đời
sống nhân dân vừa phục vụ quốc phòng. Giữa cơ sở hạ tầng kinh tế và cơ sở hạ tầng
xã hội có mối quan hệ với nhau. Mối quan hệ này phản ánh quan hệ giữa sản xuất
và đời sống: khi cơ sở hạ tầng kinh tế phát triển, sản xuất phát triển, thu nhập tăng,
đời sống xã hội được nâng cao, cơ sở hạ tầng xã hội cũng sẽ phát triển theo.
Hệ thống cơ sở hạ tầng nông thôn cũng được chia làm 2 nhóm:
Nhóm 1: các công trình cơ sở hạ tầng kinh tế đây là tổ hợp của các công trình giao
thông, thủy lợi, cung cấp điện, cung cấp vật tư nguyên liệu.
Nhóm 2: các công trình cơ sở hạ tầng xã hội đây là tổ hợp của các công trình vật
chất kỹ thuật có chức năng phục vụ đời sống cư dân nông thôn như cơ sở y tế, văn
hóa, trường học … trong nhóm này cơ sở hạ tầng xã hội còn được phân chia theo
nhu cầu hoặc nhóm nhu cầu, theo đối tượng dân cư lựa chọn những đối tượng cần
được xã hội quan tâm đặc biệt để xây dựng cơ sở dịch vụ riêng. Trong xã hội những
người đó thường là những người già, người tàn tật, người có công lớn đối với dân
tộc và xã hội. Ngoài ra tùy theo chế độ và hoàn cảnh đặc biệt mà mỗi nước có
những ưu tiên riêng theo chế độ phục vụ tức là theo đó người sử dụng các cơ sở hạ
tầng xã hội phải trả tiền hay không phải trả tiền.
1.1.1.5 Vai trò của cơ sở hạ tầng
Đối với mỗi nhóm, hay loại hình cơ sở hạ tầng thì có vai trò và ý nghĩa khác

nhau trong việc bảo đảm và duy trì các hoạt động kinh tế xã hội. Hệ thống cơ sở hạ
tầng có vai trò đảm bảo những điều kiện vật chất cơ bản cho quá trình tái sản xuất,
đảm bảo cho nền kinh tế phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững.
Theo như khái niệm đã trình bày ở phần trên, thì vai trò của hệ thống cơ sở hạ
tầng rất quan trọng. Hệ thống cơ sở hạ tầng cung cấp những điều kiện cần thiết cho
quá trình sản xuất thông tin liên lạc hệ, thống giao thông vận chuyển đầu vào và đầu
ra hệ thống điện…. Mỗi sự cố của các công trình cơ sở hạ tầng đều ảnh hưởng trực
tiếp đến hoạt động sản xuất của các ngành kinh tế. Theo như tổng kết của các nhà
khoa học kinh tế, thì vốn đầu tư cho cơ sở hạ tầng tăng 1% sẽ làm cho nền kinh tế
tăng trưởng thêm 1%[6].
Khi nói đến cơ sở hạ tầng chúng ta cũng thấy rằng đây chính là huyết mạch của
nền kinh tế. Một hệ thống cơ sở hạ tầng tốt đặc biệt là hệ thống giao thông, thông
tin liên lạc sẽ đảm bảo cho các hoạt động kinh tế xã hội sẽ diễn ra thuận lợi. Đây là
cơ sở cho quá trình giao lưu về kinh tế, văn hóa giữa các vùng giữa các quốc gia,
đặc biệt trong xu thế hội nhập và mở cửa.
Dựa vào khái niệm về cơ sở hạ tầng đã trình bày ở trên thì chợ, đường giao
thông và công trình thủy lợi là một trong những loại cơ sở hạ tầng thuộc nhóm các
công trình cơ sở hạ tầng về kinh tế. Cũng giống như vai trò của hệ thống các công
trình cơ sở hạ tầng nói chung, vai trò của chợ, đường giao thông và công trình thủy
lợi cũng có vai trò cực kỳ quan trọng trong phát triển xã hội ở nông thôn, đặc biệt là
ở các xã vùng đặc biệt khó khăn.
1.1.1.6 Một số dự án, chương trình đầu tư phát triển hạ tầng nông thôn
Khi nói đến cơ sở hạ tầng nông nghiệp, nông thôn chúng ta thường nhắc tới các
hạng mục công trình như: đường giao thông (trong thôn, liên thôn, liên xã, liên
huyện …), hệ thống thủy lợi (các công trình thủy nông tưới tiêu phục vụ sản xuất
nông nghiệp), hệ thống cấp nước sinh hoạt, hệ thống điện, công trình văn hóa thể
thao, trạm y tế, trường học, thông tin liên lạc … trong thời gian qua nhà nước ta đã
ban hành nhiều chủ trương, chính sách đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng nông nghiệp
nông thôn. Nhờ tập trung đầu tư của nhà nước, cùng với sự đóng góp của nhân dân,
cơ sở hạ tầng nông thôn được cải thiện đáng kể, điều kiện sống, ăn ở, đi lại học

hành, bộ mặt kinh tế, xã hội ở nông thôn có sự thay đổi rõ rệt.
Chương trình 135 là chương trình phát triển kinh tế - xã hội các xã đặc biệt
khó khăn miền núi và vùng sâu, vùng xa được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt theo
Quyết đinh số 135/1998/QĐ-TTg ngày 31/07/1998. Chương trình này do Ủy ban
Dân tộc và Miền núi (nay là Ủy ban Dân tộc) là cơ quan thường trực giúp chính phủ
thực hiện, chương trình đã hỗ trợ cho 2320 xã nghèo đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng.
Trong dự án định canh định cư ở các xã nghèo có “hỗ trợ đầu tư các công trình
hạ tầng thiết yếu theo quy hoạch: thủy lợi nhỏ, giao thông nông thôn, trường học,
trạm y tế, nước sinh hoạt, điện phục vụ sản xuất và sinh hoạt ở vùng dự án”. Và “hỗ
trợ đầu tư các công trình hạ tầng thiết yếu: thủy lợi nhỏ, giao thông nông thôn,
trường học, trạm y tế, nước sinh hoạt, chợ nông thôn, điện phục vụ sản xuất và sinh
sinh hoạt ở vùng dự án” là nội dung đầu tư trong dự án ổn định dân di cư và xây
dựng kinh tế mới ở các xã nghèo.
Dự án phát triển cơ sở hạ tầng nông thôn dựa vào cộng đồng với mục tiêu giảm
nghèo đói ở các vùng nông thôn tại 600 xã nghèo nhất của 13 tỉnh Miền Trung Việt
Nam. Dự án có ba hạng mục chính trong đó hạng mục thứ hai là “cung cấp tài trợ
cho các xã để xây dựng cơ sở hạ tầng ngay tại xã mình và các cơ sở hạ tầng có ảnh
hưởng tới hai hoặc ba xã”.
Trên tinh thần phát huy nội lực thì chúng ta cũng tranh thủ sự giúp đỡ, hỗ trợ của
các nguồn lực từ bên ngoài như:
Việt Nam ký kết thỏa thuận vay vốn tổng trị giá 210 triệu USD của ngân hàng
phát triển Châu Á (ADB) để hỗ trợ phát triển cơ sở hạ tầng nông thông trong đó, dự
án “phát triển cơ sở hạ tầng nông thôn bền vững các tỉnh vùng núi phía Bắc” với
tổng kinh phí 138 triệu USD, dự án sẽ giúp giảm bớt những trở ngại đối với sản
xuất nông nghiệp, cũng như phi nông nhiệp, góp phần nâng cấp cơ sở hạ tầng thiết
yếu ở khu vực nông thôn các tỉnh miền núi phía Bắc. Và 75 triệu USD cho phần dự
án cải thiện mạng lưới giao thông khu vực phí bắc của tiểu vùng sông Mê Công mở
rộng lần thứ hai.
Gói hỗ trợ trị giá 108 triệu USD của ngân hàng phát triển Châu Á để nâng cấp
đường giao thông nông thôn và các hệ thông tưới tiêu ở một số khu vực nghèo nhất

Việt Nam.
1.1.2. Một số vấn đề lý luận về nông thôn mới
Nông thôn mới trước tiên phải là nông thôn, không phải là thị tứ, thị trấn, thị xã,
thành phố và khác với nông thôn truyền thống hiện nay có thể gói gọn trong những
đặc trưng cơ bản sau: Nông thôn phát triển theo quy hoạch có kết cấu hạ tầng kinh
tế, xã hội hiện đại, môi trường sinh thái được bảo vệ, kinh tế phát triển, đời sống vật
chất và tinh thần của cư dân nông thôn được nâng cao, dân trí được nâng cao, bản
sắc văn hóa được giữ gìn và phát huy, an ninh tốt, quản lý dân chủ, chất lượng hệ
thống chính trị được nâng cao,…[4]
1.1.2.1 Khái niệm về mô hình nông thôn mới
Xây dựng mô hình nông thôn mới là một chính sách về một mô hình phát
triển cả nông nghiệp, nông thôn, nên vừa mang tính tổng hợp, vừa bao quát nhiều
lĩnh vực, vừa đi sâu giải quyết nhiều vấn đề cụ thể, đồng thời giải quyết các mối
quan hệ với các chính sách khác, các lĩnh vực khác trong sự tính toán, cân đối mang
tính tổng thể, khắc phục tính trạng rời rạc hoặc duy ý chí
Hình dung chung của các nhà nghiên cứu về mô hình nông thôn mới là những
kiểu mẫu cộng đồng theo tiêu chí mới, tiếp thu những thành tựu khoa học kỹ thuật
hiện đại mà vẫn giữ được nét đặc trưng, tinh hoa văn hóa của người Việt Nam.
Nhìn chung mô hình nông thôn mới được quy định bởi các tính chất: đáp ứng
yêu cầu phát triển, đạt hiệu quả cao nhất trên tất cả các mặt, tiến bộ hơn so với mô
hình cũ, chứa đựng các đặc điểm chung, có thể phổ biến và vận dụng trên cả nước.
Tóm lại: “Mô hình nông thôn mới là tổng thể những đặc điểm, cấu trúc tạo
thành một kiểu tổ chức nông thôn theo một tiêu chí mới, đáp ứng yêu cầu mới đặt
ra cho nông thôn trong điều kiện hiện nay, là kiểu nông thôn được xây dựng trên cơ
sở nông thôn cũ (truyền thống, đã có) nhưng có tính tiên tiến về mọi mặt”
1.1.2.2 Chức năng của nông thôn mới
Nông thôn mới vừa bao hàm chức năng lịch sử vốn có của nông thôn là vùng
nông dân quần tụ trong đơn vị làng xã và chủ yếu làm nông nghiệp, vừa có những
thuộc tính khác với nông thôn truyền thống: đó là làng xã văn minh, sạch đẹp, hạ
tầng hiện đại, sản xuất phát triển bền vững theo hướng kinh tế hàng hóa, đời sống

vật chất và tinh thần của người dân nông thôn ngày càng được nâng cao, giá trị văn
hóa truyền thống được bảo tồn, phát triển, xã hội nông thôn an ninh tốt, quản lý dân
chủ.
a. Chức năng sản xuất nông nghiệp hiện đại
Nông thôn là nơi diễn ra phần lớn hoạt động sản xuất nông nghiệp, có thể nói
nông nghiệp là chức năng tự nhiên của nông thôn. Chức năng cơ bản của nông thôn
là sản xuất dồi dào các sản phẩm nông nghiệp chất lượng cao. Khác với nông thôn
truyền thống, sản xuất nông nghiệp của nông thôn mới bao gồm cơ cấu ngành nghề
mới, các điều kiện sản xuất nông nghiệp hiện đại hóa, ứng dụng phổ biến khoa học
kỹ thuật tiên tiến và xây dựng các tổ chức nông nghiệp hiện đại.
Nông thôn mới phải là nơi sản xuất ra các sản phẩm nông nghiệp có năng suất,
chất lượng cao theo hướng sản xuất hàng hóa, không phải là tự cung, tự cấp, phát
huy được đặc sắc của địa phương. Đồng thời với việc này là phát triển sản xuất
ngành nghề, trước hết là làng nghề truyền thống của địa phương. Sản phầm ngành
nghề vừa chứa đựng yếu tố văn hóa vật thể và phi vậy thể của từng làng quê Việt
Nam, vừa tạo việc làm, vừa tăng thu nhập cho cư dân nông thôn,…
Xây dựng nông thôn mới không có nghĩa là biến nông thôn thành thành thị. Nếu
áp dụng mô hình phát triển của thành thị vào xây dựng nông thôn sẽ làm mất những
giá trị tự có và không giữ vững, phát triển được bản sắc riêng của nông thôn.[10]
b. Chức năng giữ gìn bản sắc văn hóa truyền thống của dân tộc
Trải qua hàng nghìn năm phát triển, làng xóm ở nông thôn được hình thành dựa
trên những cộng đồng có cùng phong tục, tập quán, huyết thống, quy tắc hành vi
của xã hội gồm những người quen được xây dựng trên cơ sở những phong tục tập
quán được hình thành lâu đời. Ở đó quan hệ huyết thống là mối quan hệ quan trọng
nhất, giúp bà con nông dân khắc phục được những nhược điểm của kinh tế tiểu
nông. Chống chọi với thiên tai, dịch họa. Cũng chính văn hóa quê hương đã sinh ra
những sản phẩm tinh thần quý báu như lòng kính lão, yêu trẻ, giúp nhau canh gác,
bảo vệ, giản dị, tiết kiệm, thật thà, yêu quý quê hương … Các truyền thống văn hóa
quý báu này đòi hỏi phải được giữ gìn và phát triển trong một hoàn cảnh đặc thù.
Môi trường thành thị là nơi có tính mở cao, con người cũng có tính năng động cao,

và văn hóa quê hương ở đây sẽ không còn tính kế tục. Do vậy, chỉ có nông thôn với
đặc điểm sản xuất nông nghiệp và tụ cư theo dòng tộc mới là môi trường thích hợp
nhất để giữ gìn và kế tục văn hóa quê hương. Ngoài ra, các cảnh quan nông thôn với
những đặc trưng riêng đã hình thành nên màu sắc văn hóa làng xã đặc thù, thể hiện
các tư tưởng triết học như trời đất giao hòa, thuận theo tự nhiên, tôn trọng tự nhiên,
phát triển hài hòa cũng như chú trọng sự kế tục phát triển của các dòng tộc.
Để đảm bảo giữ gìn được văn hóa truyền thống tốt đẹp của nông thôn, việc xây
dựng nông thôn mới không được phá vỡ các cảnh quan làng xã mang tính khu vực
đã được hình thành trong lịch sử, làm ảnh hưởng đến sự hài hòa vốn có của nông
thôn, làm mất đi bản sắc làng quê nông thôn, vì điều này không những hạn chế tác
động của nông thôn mà còn có tác động tiêu cực đến việc giữ gìn sinh thái cảnh
quan nông thôn và cảnh quan văn hóa truyền thống.
Nông thôn nước ta là khu vực rộng lớn và đông dân nhất, đa dạng về thành phần
tộc người, về văn hóa là nơi bản tồn, lưu giữ các phong tục tập quán của các cộng
đồng. Một trong những vấn đề cần đặc biệt quan tâm trong quá trình thực hiện
chương trình mục tiêu quốc gia về xây dựng NTM là thực sự tôn trọng, giữ gìn,
phát huy tối đa nét văn hóa truyền thống muôn đời của người Việt.[10]
c. Chức năng đảm bảo môi trường sinh thái
Nền văn minh nông nghiệp được hình thành từ những tích lũy trong suốt một
quá trình lâu dài, từ khi con người thích ứng với tự nhiên, lợi dụng, cải tạo thiên
nhiên, cho đến khi phá vỡ tự nhiên dẫn đến phải chịu các ảnh hưởng xấu và cuối
cùng là tôn trọng tự nhiên.
Trong nông thôn truyền thống con người sống hài hòa, tôn trọng tự nhiên, bảo
vệ tự nhiên và hình thành nên thói quen làm việc theo quy luật tự nhiên. Thành thị
là hệ thống sinh thái nhân tạo, tạo phần tự nhiên ở mức độ cao nhất. Quá trình mưu
cầu cuộc sống đầy đủ về vật chất đã khiến người thành thị ngày càng xa rời thiên
nhiên, nền văn minh công nghiệp đã phá vỡ mối quan hệ hài hòa vốn có giữ con
người với tự nhiên dẫn đến phá vỡ môi trường một cách nghiêm trọng.
Quá trình công nghiệp hóa và đô thị hóa khiến con người ngày càng xa rời tự
nhiên, dẫn đến ô nhiễm trong môi trường nước và không khí. Các cảnh quan tự

nhiên tươi đẹp cùng với môi trường sinh thái nông thôn có thể đáp ứng được nhu
cầu trở về với tự nhiên của con người, nông thôn có thể bù đắp được những thiếu
hụt sinh thái của thành thị.
Do đó cần xây dựng nông thôn mới với những đóng góp tích cực cho sinh thái.
Có thể coi chức năng sinh thái chính là thước đo để một đơn vị có thể coi là nông
thôn mới hay không, đồng thời phải phân biệt rõ, không được lẫn lộn giữa nông
thôn với thành thị. Vì vậy xây dựng nông thôn mới cần hạn chế việc gạch hóa, bê
tông hóa, phố hóa các làng quê truyền thống.
1.1.3 Một số vấn đề lý luận về sinh kế
1.1.3.1. Khái niệm về sinh kế
Sinh kế theo như khái niệm của DFID đưa ra thì một sinh kế có thể được miêu
tả như là sự tập hợp các nguồn lực và khă năng mà con người có được kết hợp với
những quyết định và hoạt động mà họ thực thi nhằm để kiểm sống cũng như để đạt
được các mục tiêu và ước nguyện của họ [3].
Theo như khái niệm nêu trên thì chúng ta thấy sinh kế bao gồm toàn bộ những
hoạt động của con người để đạt được mục tiệu dựa trên những nguồn lực sẵn có của
con người như các nguồn tài nguyên thiên nhiên, các nguồn vốn, lao động, trình độ
phát triển của khoa học công nghệ…
Tiếp cận sinh kế là cách tư duy về mục tiêu, phạm vi và những ưu tiên cho phát
triển nhằm đẩy nhanh tiến bộ xóa nghèo. Đây là phương pháp tiếp cận sâu rộng với
mục đích nắm giữ và cung cấp một phương tiện để tìm hiểu nguyên nhân và các
mặt quan trọng của đói nghèo với trọng tâm tập trung vào một số yếu tố (ví dụ như
những các vấn đề kinh tế, an ninh lương thực ). Nó cũng cố gắng phác họa những
mối quan hệ giữa các khía cạnh khác nhau của nghèo đói giúp xác lập ưu tiên tốt
cho những hành động xóa nghèo [3].
Phương pháp tiếp cận sinh kế có mục đích giúp người dân đạt được thành quả
lâu dài trong sinh kế mà những kết quả đó được đo bằng các chỉ số do bản thân họ
tự xác lập và vì thế họ sẽ khộng bị đặt ra bên ngoài. Điều đó thể hiện tính chất lấy
người dân làm trung tâm. Phương pháp này thừa nhận người dân có những quyền
nhất định cũng như trách nhiệm giữa họ với nhau và với xã hội nói chung.

Phương pháp tiếp cận sinh kế được sử dụng để xác định. Thiết kế và đánh giá
các chương trình, dự án mới, sử dụng cho đánh giá lại các hoạt động hiện có sử
dụng để cung cấp thông tin cho việc hoạch định chiến lược và sử dụng cho nghiên
cứu. Một trong những điểm nổi trội của tiếp cận sinh kế là khả năng linh hoạt và
khả năng áp dụng của chúng đối với nhiều tình huống.
1.1.3.2. Nội dung sinh kế
Để xem xét nội dung của sinh kế, DFID đã đưa ra một khung, mô hình về sinh
kế. Khung sinh kế của DFID được phát triển dựa trên nhiều khái niệm, đã đưa ra
một cấu trúc phân tích để tìm hiểu về các loại hình kinh tế. Đây là khung giúp cho
người sử dụng hiểu các loại hình sinh kế hiện hữu và dùng nó làm cơ sở để lập kế
hoạch cho các hoạt động phát triến và các hoạt động cho phí. Điều này kèm theo
cho việc phân tích và sử dụng nhiều công cụ hiện có như phân tích xã hội và các
liên quan, các phương pháp đánh giá nhanh và đánh giá kinh tế.
- Bối cảnh sống của người dân, trong đó bao gồm những ảnh hưởng của các xu
hướng bên ngoài đối với họ (xu hướng kinh tế, xu hướng phát triển dân số ).
- Khả năng tiếp cận của người dân đối với các loại tài sản kinh tế và khả năng sử
dụng chúng cho sản xuất
- Những thể chế, chính sách và tổ chức định hình cho các loại hình sinh kế của con
người.
- Các chiến lược mà người dân áp dụng để theo đuổi mục đích của mình
Khung sinh kế giúp cho ta sắp xếp những nhân tố gây cản trở hoặc tăng cường
các cơ hội sinh kế, đồng thời cho ta thấy cách thức chúng liên quan với nhau như
thế nào. Nó không phải là mô hình chính xác trong thực tế mà nó chỉ đưa ra một
cách tư duy về sinh kế, nhìn nhận nó trên góc độ phức hợp và sâu rộng nhưng vẫn
trong khuôn khổ có thể quản lý được khung sinh kế thực sự không có điểm đầu,
điểm giữa và điểm cuối. Toàn bộ bức tranh nó đưa ra chỉ cố gắng biểu trưng cho
các tổng thể hệ thống sinh kế và chúng không có cấu trúc tổ chức nhất định đặc
điểm của chúng được cấu thành bởi các dạng lập lại của các mối liên kết và ảnh
hưởng. Các mũi tên trong sơ đồ không dùng để chỉ mối quan hệ nhân quả, các mũi
tên dài chỉ phản hồi quan trọng, mũi tên ngắn dùng để chỉ một ý tưởng.

Giá trị của một khung sinh kế giúp cho người sử dụng một cách bao quát và có
hệ thống các tác nhân gây ra nghèo khổ và mối quan hệ giữa chúng, có thể đó là
những cú sốc và các xu hướng bất lợi, các chính sách và thể chế hoạt động kém hiệu
quả hoặc việc thiếu một cách cơ bản các tài sản sinh kế.
Mục đích của sử dụng khung sinh kế là để tìm hiểu những cách thức mà con
người đã kết hợp và sử dụng các nguồn lực, khả năng nhằm kiếm sống cũng như để
đạt được các mục tiêu và ước nguyện. Những mục tiêu và ước nguyện mà con
người đạt được nhờ sử dụng và kết hợp các nguồn lực khác nhau và có thể goi là kết
quả của sinh kế. Đây là những thứ mà con người muốn đạt được trong cuộc sống kể
cả trước mắt cũng như lâu dài [2].
Nghiên cứu kết quả sinh kế cho chúng ta hiểu động lực nào dẫn tới các hoạt
động mà họ đang thực hiện những ưu tiên của họ là gì đồng thời nghiên cứu kết quả
sinh kế cũng cho thấy phản ứng của người dân trước những cơ hội mới. Kết quả
sinh kể thể hiện trên chỉ số cuộc sống hưng thịnh hơn, đời sống được nâng cao, khả
năng tổn thương được giảm, an ninh lương thực được cũng cố và được sử dụng bền
vững tài nguyên thiên nhiên. Để có những mong ước và mục tiêu của mình con
người cần phải kết hợp và sử dụng các nguồn lực khác nhau như đất đai vốn khoa
học kỹ thuật và bên canh đó khả năng sử dụng và tiếp cận của con người với các
nguồn lực này là khác nhau do đó có thể nói rằng sinh kế của con người phụ thuộc
vào khối lượng và chất lượng của những nguồn vốn mà họ có hoặc có thể tiếp cận
theo mô tả trong khung sinh kế thì tài sinh kế theo tiếp cận của DFID được chia
thành 5 nhóm chính bao gồm [3]
Vốn con người H (H- viết tắt từ tiếng anh là Human capital): Bao gồm kỹ năng,
kiến thức và sự giáo dục của từng cá nhân và các thành viên trong gia đình, sức
khỏa và thời gian khả năng làm việc để đạt được kết quả sinh kế.
Vốn xã hội S (S- viết tắt từ tiếng anh là Social capital): Thuật ngữ này đề cập tới
các mạng lưới và mối quan hệ xã hội, các tổ chức xã hội, các nhóm chính thức hay
phi chính thức mà con người tham gia để từ đó có được những cơ hội và những lơi
ích khác nhau.
Vốn tự nhiên N (N- viết tắt từ tiếng anh là Natural capital): Bao gồm tiềm năng

và các nguồn tài nguyên thiên nhiên mà tự đó cung cấp những nguồn lực cho sinh
kế ví dụ như đất đai, nguồn nước, hệ động thực vật.
Vốn tài chính F (F- viết tắt từ tiếng anh là Financial capital): Bao gồm các
nguồn lực tài chính mà người dân có được nguồn thu nhập bằng tiền mặt, các loại
hình tiết kiệm khác nhau, các nguồn thu nhập bằng tiền khác như lương hưu, tiền do
thân nhân từ nước ngoài gửi về hay các khoản trợ cấp khác của nhà nước.
Vốn vật chất P(P – viết tắt từ tiếng Anh là Physical capital): bao gồm các công
trình hạ tầng xã hội cơ bản và các loại tài sản của gia đình hỗ trợ cho sinh kế như
giao thông, hệ thống cấp thoát nước, nhà ở, công trình chăn nuôi, các đồ dùng dụng
cụ trong gia đình
Với những tài sản sinh kế mà con người có được thì mỗi cá nhân, tổ chức đều có
chiến lược khác nhau để sử dụng cũng như kết hợp đảm bảo để có được kết quả
sinh kế tốt nhất. Chiến lược sử dụng các loại tài sản trong tiếp cận sinh kế được gọi
là chiến lược sinh kế. Chiến lược sinh kế được dùng chỉ để pham vi và sự kết hợp
những lựa chọn và quyết định của người dân đưa ra trong việc sử dụng và quản lý
các nguồn vốn và tài sản sinh kế nhằm tăng thu nhập và cải thiện mức sống.
Chiến lược sinh kế bao gồm những lựa chọn và quyết định của người dân về
những việc như [2]: họ đầu tư vào nguồn vốn và sự kết hợp tài sản sinh kế nào, quy
mô của các hoạt động tạo thu nhập họ đang theo đuổi, cách thức họ quản lý như thế
nào để tồn tại các tài sản sinh kế và thu nhập, cách thức họ thu nhận và phát triển
như thế nào những kiến thức, kỹ năng cần thiết để kiếm sống, họ sẽ ứng phó như
thế nào với những rủi ro, những cú sốc và những cuộc khủng hoảng ở nhiều dạng
khác nhau, họ sử dụng thời gian và công sức như thế nào để đạt được điều trên.
Trong quá trình kết hợp và sử dụng các tài sản sinh kế, con người cũng thường
xuyên chịu những tác động không mong muốn làm ảnh hưởng đến kết quả sinh kế.
Sự xuất hiện các yếu tố này gây tổn thương cho sinh kế của người dân, làm cho
người dân lâm vào các loại sốc và khủng hoảng. Các yếu tố gây sốc hay khủng
hoảng có thể bắt đầu từ những xu hướng kinh tế, xã hội, môi trường hay sự giao
động. Một đặc điểm quan trọng trong khả năng tổn thương là con người không dễ
dàng kiểm soát được những yếu tố trước mắt hoặc lâu dài hơn nữa. Khả năng tổn

thương hay sự bập bênh trong sinh kế tao ra những yếu tố này là một thực tế rất
thường trực cho rất nhiều hộ nghèo. Điều này chủ yếu là do họ không có khả năng
tiếp cận với các nguồn lực có thể bảo vệ mình khỏi những tác động xấu. Các loại cú
sốc hay khủng hoảng mà con người thường gặp phải trong sinh kế bao gồm nhiều
loại khác nhau.Và thông thường những cú sốc đều mang tính tiêu cực. Chúng không
theo quy luật nhất định, không thể đoán trước và có cường độ khác nhau. Sốc bao
gồm các sốc liên quan đến thiên nhiên, sinh kế, vật chất hay con người. Và chịu bất
cứ cú sốc nào thì sinh kế của con người đều chịu những tác động rất lớn và thường
là các tác động rất xấu. Ví dụ như gặp cú sốc về sức khỏe như lao động chính của
gia đình gặp tai nạn giao thông dẫn đến kết quả sinh kế bị giảm sút do chiến lược
sinh kế của hộ cũng thay đổi theo. Các nguồn vốn vật chất, tài chính được ưu tiên
sử dụng cho cứu chữa người bị tai nạn dẫn đến kết quả sinh kế bị giảm sút do chiến
lược mới của hộ không ưu tiên và tạo ra các nguồn thu nhập mới, đồng thời lao
động chính trong gia đình lại mất đi trong khi các nguồn chi tiêu lại tăng lên.
Một điểm khác cần phải nhấn mạnh trong sinh kế của người dân là còn chịu tác
động của thể chế và chính sách. Các chính sách và thể chế bao gồm một loạt những
yếu tố liên quan đến bối cảnh có những tác động mạnh đến mọi khía cạnh của sinh

×