Tải bản đầy đủ (.pdf) (172 trang)

Tìm hiểu văn trên tri tân tạp chí

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.14 MB, 172 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI




NGUYỄN THỊ PHƯƠNG LAN



TÌM HIỂU VĂN TRÊN TRI TÂN TẠP CHÍ


Chuyên ngành: Văn học Việt Nam
Mã số: 62.22.34.01

LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGỮ VĂN


Người hướng dẫn khoa học:
1. PGS. TS Lại Văn Hùng
2. TS Phạm Thị Thu Hương



HÀ NỘI - 2014
LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, kết
quả trong luận án là trung thực, được nghiên cứu từ thực tế và chưa từng được ai
công bố trong bất kỳ công trình nào.





Tác giả


Nguyễn Thị Phương Lan



LỜI CẢM ƠN
Tôi xin bày tỏ lòng kính trọng, sự biết ơn chân thành và sâu sắc đến thầy cô
giáo hướng dẫn khoa học: PGS.TS Lại Văn Hùng và TS Phạm Thị Thu Hương đã
tận tình chỉ bảo, giúp đỡ tôi trong quá trình nghiên cứu và hoàn thiện luận án.
Tôi xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo, các nhà nghiên cứu của Viện Văn
học Việt Nam, Ban lãnh đạo, phòng đào tạo, các phòng ban chức năng của Học viện
Khoa học xã hội - Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam đã giúp đỡ tôi trong suốt
quá trình học tập và nghiên cứu.
Tôi xin gửi lời cảm ơn tới Ban giám hiệu trường THPT Nguyễn Trãi - Ba Đình
Hà Nội đã động viên, tạo điều kiện cho tôi tập trung nghiên cứu và hoàn thành luận án.
Trong quá trình thực hiện đề tài, tôi luôn nhận được sự giúp đỡ, động viên,
khích lệ của bạn bè, đồng nghiệp, người thân trong gia đình. Tôi xin chân thành cảm
ơn những tình cảm tốt đẹp đó.

Tác giả


Nguyễn Thị Phương Lan

MỤC LỤC

PHẦN MỞ ĐẦU 1
PHẦN NỘI DUNG 8
Chương 1. TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU VĂN TRÊN TRI TÂN TẠP CHÍ 8
1.1. Tri tân trong những công trình nghiên cứu về báo, tạp chí nửa đầu thế kỷ XX.8
1.2. Tạp chí Tri tân trong những công trình nghiên cứu về văn học 14
1.3. Những công trình sưu tầm, giới thiệu về tạp chí Tri tân 18
1.3.1. Công trình nghiên cứu tổng quan về tạp chí Tri tân 18
1.3.2. Công trình nghiên cứu về các tác gia 19
1.3.3. Công trình nghiên cứu về các thể loại 21
1.3.4. Công trình số hóa văn bản Tri tân 22
Chương 2. TRI TÂN TẠP CHÍ TRONG SỰ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN
CỦA BÁO CHÍ VIỆT NAM NHỮNG NĂM 1940-1945 26
2.1. Đặc điểm của báo chí Việt Nam từ đầu thế kỷ XX đến 1941 26
2.1.1. Lịch trình của báo chí Việt Nam qua các giai đoạn hình thành và phát
triển 26
2.1.2. Về sự xuất hiện của ba nhóm văn phái nổi bật. 35
2.2. Tiền đề cho sự ra đời của tạp chí Tri tân 39
2.2.1. Tiền đề về chính trị, xã hội và văn hóa, tư tưởng 39
2.2.2. Về đặc điểm của văn học những năm 1940-1945 46
2.3. Sự ra đời và diện mạo của tạp chí Tri tân 50
2.3.1. Sự ra đời của tạp chí Tri tân 50
2.3.2. Diện mạo của tạp chí Tri tân 53
2.3.3. Lí giải về sự sinh tồn, đình bản của Tri tân tạp chí 64
2.4. Kết luận chương 2 66
Chương 3. VĂN SÁNG TÁC TRÊN TRI TÂN TẠP CHÍ 67
3.1. Văn xuôi trên Tri tân tạp chí 67
3.1.1. Truyện và Ký 67
3.1.2. Tiểu thuyết lịch sử 81
3.2. Kịch trên Tri tân tạp chí 94
3.2.1. Quá trình kế thừa và tiếp biến của thể loại kịch ở Việt Nam 94

3.2.2. Diện mạo của thể kịch trên tạp chí Tri tân 97
3.2.3. Đặc điểm của kịch thơ viết về đề tài lịch sử 98
3.2.4. Vũ Như Tô, vở chính kịch đặc sắc 106
3.3. Văn vần trên Tri tân tạp chí 109
3.3.1. Diện mạo và đặc điểm của thơ trên Tri tân tạp chí 109
3.3.2. Những giới hạn của thơ trên Tri tân tạp chí 113
3.4. Kết luận chương 3 115
Chương 4. VĂN KHẢO CỨU PHÊ BÌNH VÀ SƯU TẦM DỊCH THUẬT TRÊN
TRI TÂN TẠP CHÍ 116
4.1. Văn khảo cứu phê bình 116
4.1.1. Tình hình chung của văn khảo cứu phê bình những năm 1940 116
4.1.2. Diện mạo và đặc điểm của văn khảo cứu, phê bình trên Tri tân 121
4.2. Văn sưu tầm dịch thuật 139
4.2.1. Sưu tầm dịch thuật theo khuynh hướng “ôn cố” 140
4.2.2. Sưu tầm dịch thuật theo khuynh hướng “tri tân” 144
4.3. Kết luận chương 4 147
PHẦN KẾT LUẬN 148
1. Tri tân tạp chí trong hành trình về nguồn - “ôn cố” 148
2. Tri tân tạp chí trong hành trình mở mang, tiếp cận chân trời tri thức mới - “tri tân” 149
3. Tri tân tạp chí trong quá trình vận động của đời sống báo chí và văn học nửa
đầu thế kỷ XX 149
4. Tìm hiểu Văn trên tạp chí Tri tân – triển vọng của hướng nghiên cứu văn học sử 150
CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC ĐÃ CÔNG BỐ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI
LUẬN ÁN
TÀI LIỆU THAM KHẢO
DANH MỤC BÁO CHÍ

1

PHẦN MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài
1.1. Báo chí Việt Nam ra đời vào cuối thế kỷ XIX và thật sự phát triển vào
khoảng giữa thế kỷ XX. Sự xuất hiện của báo và tạp chí không chỉ phản ánh thực trạng
xã hội nước ta trong thời kỳ bị áp đặt, cưỡng chế bởi văn minh phương Tây mà còn là:
“Sự phản ánh của lịch sử văn hóa ngôn ngữ (chữ quốc ngữ), văn học, nghề in…” [79,
7]. Dưới ách cai trị của thực dân, dù bị kiểm soát chặt chẽ, song báo chí Việt Nam vẫn
tìm được nguồn sống riêng và gắn chặt với đời sống văn hóa tư tưởng của dân tộc.
Ngoài việc chuyển tải những nội dung thông tin về thời sự, chính trị, khoa học, giáo
dục, báo chí còn thể hiện mục đích văn chương rõ rệt.
1.2. Một trong những yếu tố thúc đẩy quá trình hiện đại hóa văn học Việt Nam
nửa đầu thế kỷ XX diễn ra khẩn trương, dồn dập, mau lẹ không thể không kể đến sự
hình thành và xuất hiện của các nhóm phái văn học. Việc các tác giả tập trung quanh
một tờ báo hoặc một nhà xuất bản có ý nghĩa quan trọng: Vừa định hướng người viết
theo một tôn chỉ mục đích rõ ràng, vừa quy tụ các tác giả trong một khuynh hướng,
trường phái và thúc đẩy phong trào sáng tác văn học thêm phong phú, đa dạng. Điều
này cũng chứng tỏ, người cầm bút ngày càng có ý thức sâu sắc về vai trò, giá trị và sứ
mệnh của mình.
1.3. Tri tân (1941-1946) là một tạp chí văn hóa lớn, có vai trò quan trọng trong
đời sống báo chí và văn học Việt Nam những năm 40 của thế kỷ XX. So với nhiều tờ
báo, tạp chí xuất hiện ở nửa đầu thế kỷ XX thì Tri tân tạp chí tuy chỉ tồn tại trong thời
gian 5 năm (từ ngày 3/6/1941 đến ngày 16/7/1946) nhưng với 214 số ra đều đặn hàng
tuần thì tự thân nó đã xác lập được vai trò vị trí của mình.
Là loại tạp chí chuyên về khảo cứu nhưng thực chất Tri tân lại mang đặc điểm
của loại hình báo chí tổng hợp. Có thể tìm thấy trên tờ tuần báo này tri thức của nhiều
ngành, nhiều lĩnh vực: Lịch sử, địa lý, văn hóa, chính trị, khoa học, kỹ thuật, tôn giáo,
mỹ thuật, văn học… Riêng mảng văn học phải kể đến sự phong phú của nhiều thể loại:
Tiểu thuyết, truyện ngắn, ký, thơ ca, kịch, nghiên cứu, phê bình, dịch thuật… Mỗi thể
loại được Tri tân đón nhận và giới thiệu đều nhằm hướng tới chủ đích riêng của tờ báo
với mệnh đề thống lĩnh: Ôn cố tri tân (ôn cũ, biết mới). Thực tế, các tác phẩm được
Tri tân lựa chọn đăng tải lại chủ yếu nghiêng về khuynh hướng ôn cố. Đồng thời,

những đóng góp của Tri tân tạp chí đối với nền văn học hiện đại Việt Nam tập trung
chính ở các sáng tác văn học, các bài nghiên cứu, phê bình, sưu tầm, hiệu đính, dịch
thuật theo khuynh hướng phục cổ. Đó cũng chính là đặc điểm riêng biệt làm nên diện

2

mạo độc đáo của Tri tân trước sự nở rộ của báo chí Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX, nhất
là những năm 40. Đề tài của luận án đi vào Tìm hiểu văn trên Tri tân tạp chí, thiết nghĩ
là một hướng nghiên cứu khả thi, đặt ra nhiều vấn đề gợi mở và có ý nghĩa khoa học.
1.4. Trong sự phát triển phong phú, đa sắc của đời sống báo chí nửa đầu thế kỷ
XX, Tri tân là một trong số những tạp chí điển hình và có sắc thái riêng. Là một tạp
chí văn hóa, sinh tồn trong thời điểm lịch sử gay cấn, bối cảnh chính trị phức tạp, đời
sống văn hóa đầy thử thách nhưng Tri tân vẫn được coi là một tạp chí “chất lượng” và
“trí tuệ”. Bởi tôn chỉ mục đích mà Tri tân hướng tới là: “Ôn cũ biết mới. Nhằm cái
đích ấy, Tri tân riêng đi vào con đường văn hóa với cặp kính khảo cứu”. Đồng thời với
mục đích “ôn cố”, tạp chí cũng chủ trương “tri tân” mở mang tầm nhìn, “ngó rộng
chân trời tri thức, mạnh bạo tiến bước trên đường chân lý” (Lời Phi lộ).
Là loại tạp chí mang tính “bách khoa thư” (giống như kiểu tạp chí Nam phong),
Tri tân đã tạo nên những ưu thế đặc biệt của loại hình báo chí tổng hợp. Tìm trên tờ
tuần báo này, có thể thấy đủ các thể loại từ báo chí chuyên biệt (thời sự chính trị, khoa
học kỹ thuật, thông tin văn hoá xã hội, quảng cáo…) đến văn học nghệ thuật (thơ ca,
truyện ngắn, tiểu thuyết, ký, kịch…) rồi đến các lĩnh vực khác như lịch sử, địa lý, kinh
tế, dân tộc học, tôn giáo… Trong đó, đáng chú ý nhất là mảng văn học được tạp chí
dành một số lượng trang báo đáng kể để in ấn, giới thiệu đều đặn, cần mẫn trong suốt
5 năm tồn tại.
Qua việc khảo sát 214 số tạp chí với gần 5000 trang báo và hơn 1400 văn bản
văn học, kết quả mà chúng tôi thống kê bước đầu là: Có 388 bài khảo cứu về các lĩnh
vực lịch sử, văn hóa, địa lí, tôn giáo, xã hội; 427 bài nghiên cứu, phê bình văn học, 39
bài khảo cứu văn học dài kỳ (trong đó có những bài dài gần 100 số tạp chí); 167 bài
sưu tầm, dịch thuật văn học có giá trị. Đặc biệt tạp chí Tri tân còn đón nhận và đăng

tải gần 500 sáng tác văn học mới với những thể loại làm nên đặc trưng chỉ có ở Tri
tân: Ký khảo cứu, tiểu thuyết lịch sử, kịch thơ lịch sử…
Một số lượng văn chương đáng kể và có sắc thái riêng biệt như vậy thiết nghĩ cần
được nhìn nhận và đánh giá đích đáng để không những khẳng định vai trò, vị trí của tờ
tạp chí này trong đời sống báo chí và văn học nửa đầu thế kỷ XX mà còn góp phần
nhìn nhận đầy đủ hơn quá trình vận động của nền văn chương hiện đại trong tiến trình
văn học dân tộc.
Vì vậy, khi nghiên cứu văn học hiện đại Việt Nam không thể không xác định vai
trò của báo chí như “một động lực văn học”, bởi: “Từ Tri tân cũng có thể hình dung
được vai trò của báo chí đối với văn học đầu thế kỷ”

[158, 9].

3

1.5. Tìm hiểu bộ phận văn học trên báo chí nửa đầu thế kỷ XX là vấn đề thực sự
cần thiết và có ý nghĩa đối với việc nghiên cứu văn học sử bởi nó mở ra nhiều hướng
tiếp cận trong quá trình khôi phục, nhìn nhận và đánh giá lại một cách nghiêm túc
những giá trị văn hóa, văn học quá khứ. Đề tài luận án đi vào khái quát một cách có hệ
thống về diện mạo và chỉ ra những đặc điểm cơ bản của các thể văn trên Tri tân tạp
chí. Nói cách khác, luận án đi vào tìm hiểu quá trình hình thành, sự vận động của các
thể loại văn học những năm 40 của thế kỷ XX được Tri tân đón nhận và giới thiệu có
đóng góp như thế nào đối với nền văn học hiện đại Việt Nam.
Luận án luôn đặt đối tượng nghiên cứu trong sự so sánh, đối chiếu với các báo,
tạp chí xuất hiện trước và cùng thời với Tri tân để lí giải về sự vận động của các thể
loại văn học Việt Nam. Từ đó xác định vai trò tiên phong của báo chí trong quá trình
hiện đại hóa nền văn học dân tộc, đồng thời mở ra một hướng tiếp cận có nhiều triển
vọng: Nghiên cứu văn học hiện đại Việt Nam trong môi trường báo chí. Đó cũng là
yêu cầu thực tiễn và cấp thiết mà chuyên ngành nghiên cứu văn học sử đặt ra.
2. Đối tượng, mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu

2.1. Đối tượng nghiên cứu
- Luận án chọn toàn bộ văn bản Tri tân làm đối tượng nghiên cứu chính: Gồm
214 số tạp chí, trong đó khảo sát thống kê chi tiết phần văn trên tạp chí Tri tân.
- Đồng thời, luận án lựa chọn một số báo và tạp chí xuất hiện trước và cùng thời
với Tri tân để có điều kiện so sánh đối chiếu như:
+ Trước Tri tân: Đông Dương tạp chí, Nam phong tạp chí, An Nam tạp chí,
Phong hóa, Ngày nay…
+ Cùng thời với Tri tân: Tiểu thuyết thứ Bảy, Tiểu thuyết thứ Năm, tạp chí Tao
đàn, Thanh nghị, Hàn Thuyên …
Luận án sẽ khảo sát phần Văn in trên Tri tân tạp chí qua các phương diện sau:
- Phần 1: Văn sáng tác gồm:
+ Văn xuôi với các thể loại chính: Truyện ngắn, ký, tiểu thuyết
+ Văn vần: Chủ yếu là thơ
+ Kịch: Chủ yếu là kịch thơ
Trong khi nghiên cứu về các thể loại văn học đó, luận án tập trung và nhấn mạnh vào
các thể tài làm nên giá trị của Tri tân như tiểu thuyết lịch sử, kịch lịch sử, ký khảo cứu…
- Phần 2: Văn khảo cứu, phê bình và sưu tầm dịch thuật.
+ Văn khảo cứu: Luận án đặc biệt quan tâm đến các bài khảo cứu về văn hóa,
văn học, lịch sử dài kỳ, có giá trị của các cây bút khảo luận danh tiếng như Nguyễn

4

Văn Tố, Hoa Bằng, Nguyễn Tường Phượng, Đào Duy Anh, Trần Văn Giáp, Nguyễn
Triệu, Lê Văn Phúc…
+ Văn phê bình: Người viết sẽ nhấn mạnh vào vai trò vị trí các bài phê bình tác
phẩm mới của các cây bút tiêu biểu: Lê Thanh, Kiều Thanh Quế, Hoàng Thiếu Sơn,
Phạm Mạnh Phan…
+ Văn sưu tầm dịch thuật: Chúng tôi tập trung vào phần sao lục, trích dịch, hiệu
đính các tác phẩm văn học cổ.
2.2. Mục đích nghiên cứu:

Luận án đi vào khái quát một cách hệ thống về diện mạo của bộ phận văn học trên Tri
tân tạp chí. Từ đó, tìm hiểu đặc điểm về nội dung và hình thức của các thể loại Văn trên
Tri tân.
Đồng thời, xác định vai trò, vị trí, sự đóng góp cũng như mặt hạn chế của Văn
trên Tri tân và lí giải sự hình thành, suy vong của các thể loại văn học Việt Nam
những năm 40 của thế kỷ XX.
Luận án khẳng định mối quan hệ mật thiết giữa báo chí và văn học trong quá
trình hiện đại hóa văn học và vai trò của tạp chí Tri tân đối với đời sống báo chí, văn
chương, học thuật nửa đầu thế kỷ XX cũng như nội lực của nền văn học dân tộc.
2.3. Nhiệm vụ nghiên cứu:
Để hoàn thành mục đích nghiên cứu, luận án sẽ tiến hành giải quyết các nhiệm
vụ cơ bản sau:
Khảo sát, thống kê một cách chi tiết cụ thể về mảng văn qua hơn 5000 trang văn
bản Tri tân.
Trên kết quả khảo sát, luận án sẽ phân tích lí giải nguyên nhân xuất hiện, quá
trình hình thành, hưng thịnh và suy vong của các thể Văn trên Tri tân. Từ đó, khái quát
sự vận động của các thể văn trên Tri tân trong sự so sánh đối chiếu với văn trên các
báo, tạp chí trước và cùng thời với Tri tân.
Định vị vai trò của mảng Văn trên Tri tân nói riêng và tạp chí Tri tân trong đời
sống báo chí và văn học Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX.
3. Giới thuyết khái niệm Văn
Trong quá trình tiếp cận Tri tân, chúng tôi nhận thấy: Đặc điểm riêng của tờ tạp
chí này là chất khảo luận văn học nổi lên như một điểm nhấn làm cho khuôn diện của
tạp chí Tri tân không lẫn, không nhòa vào bất cứ một khuôn diện nào khác. Là một tạp
chí văn hóa, Tri tân là địa hạt thuận lợi cho các nhà văn, nhà nghiên cứu thể nghiệm.
Tạp chí dành sự ưu ái cho các bài khảo cứu về văn hóa, văn học, lịch sử dài kỳ; các bài

5

nghiên cứu, nhất là các bài phê bình tác phẩm mới; tiểu thuyết lịch sử; các bài ký khảo

cứu và các vở kịch lịch sử…
Khi sử dụng khái niệm Văn (mà không phải là văn học hay văn chương), chúng tôi
đã cân nhắc tìm hiểu công phu về vấn đề này để lựa chọn và đưa ra quyết định cuối cùng.
Trước hết, Văn là một phạm trù rộng, một khái niệm đa nghĩa, đa sắc thái. Theo Hán
ngữ đại từ điển, Văn có 27 nghĩa, trong đó quá nửa nét nghĩa tồn tại trên cả hai bình
diện: Tác phẩm văn học và quan niệm văn chương. Như vậy, nội hàm khái niệm Văn
mở rộng từ văn lý thuyết mang tính lý luận (văn nghiên cứu, dịch thuật) đến văn sáng
tác (các thể loại văn học); từ khái niệm văn bản văn học (với tư cách là một ngành khoa
học ngữ văn chuyên nghiên cứu tác phẩm văn học) đến văn chương (Nghĩa rộng là tác
phẩm văn nói chung, bao gồm cả triết học, chính trị, lịch sử, quân sự, văn học…, nghĩa
hẹp hơn là tác phẩm văn học, nghệ thuật ngôn từ, thường chỉ tác phẩm thơ). Do đó, luận
án không sử dụng khái niệm văn chương hay văn học để thay thế bởi cái lõi của các
thuật ngữ này đều nằm trong và bị bao ở khái niệm rộng hơn, bao trùm hơn là Văn. Hơn
nữa, một dấu hiệu đặc thù của nền văn học trung đại Việt Nam là tình trạng văn – sử bất
phân, với tinh thần “phục cổ”, Tri tân đã thực hiện sứ mệnh khai quật những di sản văn
hóa, văn học cổ, cho nên biên độ của khái niệm Văn sẽ được mở rộng hơn, phù hợp hơn
với đối tượng, phạm vi, mục đích nghiên cứu của luận án.
Đề tài dựa trên cơ sở lý thuyết về phương thức sáng tác và thể loại văn học làm căn
cứ để phân loại, phân tích, nhận định, đánh giá những ưu thế và hạn chế của mảng Văn
trên Tri tân. Do vậy, khái niệm Văn được chúng tôi sử dụng trong luận án có ý nghĩa
bao quát toàn bộ những vấn đề thuộc về văn nghiên cứu phê bình, sưu tầm dịch thuật,
văn sáng tác, văn khảo cứu về các đề tài lịch sử, văn hoá, tôn giáo, địa lý, dân tộc, triết
học… Đồng thời khái niệm này có ý nghĩa khu biệt với khái niệm văn báo chí. Nghĩa là
những bài mang tính thời sự chính trị (trong mục Thời đàm,Tin vắn hàng tuần) hay
những trang mục quảng cáo trên tạp chí không thuộc phần khảo sát của luận án.
Như vậy, luận án sẽ khảo sát trực tiếp mảng văn chương sáng tác trên Tri tân
(trong mục Tuỳ hứng, truyện ngắn, du ký, kịch, tiểu thuyết); văn khảo cứu phê bình,
sưu tầm dịch thuật (trong chuyên mục Sử liệu sống, chuyện thơ, giai thoại văn học,
phê bình tác phẩm mới, dịch thơ Ta, dịch thơ Tây…). Tuy nhiên, trong khi phân loại
và nghiên cứu để khái quát đặc điểm của các thể văn trên Tri tân, chúng tôi cũng dựa

theo tiêu chí nguồn gốc, đề tài, thể loại.

6

4. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện nhiệm vụ mà đề tài đặt ra, luận án sử dụng phối hợp các phương
pháp nghiên cứu và các thao tác sau:
4.1. Phương pháp nghiên cứu văn học sử
Đây là phương pháp chủ đạo xuyên suốt quá trình nghiên cứu của luận án. Sử
dụng phương pháp nghiên cứu này, người viết đặt Tri tân trong bối cảnh lịch sử sinh
thành, tồn tại, tiếp diễn của tạp chí trong lịch sử báo chí và văn học nửa đầu thế kỷ XX
(nhất là những năm 40). Vận dụng phương pháp này chúng tôi phục dựng diện mạo
phần văn trên Tri tân một cách có hệ thống. Từ đó, luận án phân tích đánh giá về vai
trò, vị trí của tác giả, tác phẩm, đặc biệt về các thể loại loại văn học trên tạp chí Tri tân.
4.2. Phương pháp so sánh
Đây cũng là một phương pháp nghiên cứu quan trọng. Đối chiếu đồng đại và lịch
đại với một số báo và tạp chí trước hoặc cùng thời với Tri tân để từ đó, nhìn nhận đối
tượng như một bộ phận trong tính chỉnh thể cũng như quá trình vận động liên tục của nó.
4.3. Phương pháp tích hợp - liên ngành
Luận án sử dụng phương pháp này với mục đích nhìn nhận đối tượng trong mối
liên hệ giữa văn học với lịch sử, chính trị, văn hóa, triết học, báo chí… nhằm xem xét
đối tượng một cách đa chiều, soi chiếu trên nhiều phương diện khác nhau
4.4. Thao tác thống kê - phân loại:
Thao tác này là cơ sở, giúp người nghiên cứu có những đánh giá, nhìn nhận chính
xác và khách quan từ những số liệu thống kê, phân loại cụ thể về các thể loại, tiểu loại
văn học trên Tri tân.
4.5. Thao tác phân tích - tổng hợp
Thao tác này được vận dụng một cách thường xuyên trong quá trình nghiên cứu.
Phân tích tác phẩm, sự hình thành, phát triển, thoái trào của các thể loại văn học sẽ làm
cơ sở cho việc tổng hợp thành những vấn đề cần đạt được trong quá trình thực hiện đề

tài nghiên cứu. Phương pháp tổng hợp sẽ nhằm quy nạp các vấn đề đã nghiên cứu một
cách tổng quát sau khi đã luận giải chi tiết. Với cách nhìn khái quát đó, công trình
nghiên cứu sẽ có diện mạo đầy đủ và sâu sắc hơn.
5. Đóng góp mới của luận án
Về mặt tư liệu: Luận án là công trình đầu tiên phục dựng, nhìn nhận đánh giá hệ
thống và toàn diện về mảng Văn trên Tri tân tạp chí, góp một tư liệu thực sự có ý
nghĩa cho chuyên ngành văn học sử.

7

Về mặt lý luận: Luận án góp phần lí giải sự hình thành, phát triển, thậm chí suy
vong của các thể loại văn học hiện đại Việt Nam trên cơ sở lý luận về thi pháp thể loại.
Về mặt thực tiễn: Khẳng định giá trị của bộ phận văn học trên tạp chí Tri tân đối
với đời sống văn học nửa đầu thế kỷ XX.
Định vị vai trò của Tri tân tạp chí trong quá trình sinh thành, diễn tiến của báo
chí và văn học nửa đầu thế kỷ XX.
Nghiên cứu Văn trên Tri tân tạp chí, nhất là đối với mảng văn khảo cứu, phê bình
hay các thể loại, thể tài văn học như tiểu thuyết lịch sử, kịch lịch sử, du ký thực sự giúp
ích cho công việc học tập và giảng dạy các tác giả, tác phẩm tiêu biểu của văn học cận
hiện đại Việt Nam.
6. Cấu trúc của luận án
Ngoài phần: Mở đầu, Kết luận, phần nội dung luận án có bốn chương:
Chương 1: Tổng quan vấn đề nghiên cứu Văn trên Tri tân tạp chí.
Chương 2: Tri tân tạp chí trong sự hình thành và phát triển của báo chí Việt Nam
những năm 1940-1945.
Chương 3: Văn sáng tác trên Tri tân tạp chí.
Chương 4: Văn khảo cứu, phê bình và sưu tầm dịch thuật trên Tri tân tạp chí.


8


PHẦN NỘI DUNG
Chương 1
TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU VĂN TRÊN TRI TÂN TẠP CHÍ
Tri tân là một tạp chí ra đời và phát triển trong một bối cảnh đặc biệt. Tình hình
chính trị trên thế giới diễn ra những biến động dữ dội, chứa đựng các mâu thuẫn chồng
chéo, phức tạp. Thế chiến lần thứ hai bùng nổ cùng với sự bành trướng của chủ nghĩa
phát xít… đã tạo nên tâm lý hoang mang, bất ổn trong nhân loại, nhất là đối với các
dân tộc thuộc địa.
Ở trong nước, những năm 40 của thế kỷ XX, không khí chính trị cũng bức bối,
căng thẳng; tình hình văn hóa, tư tưởng thì bộn bề, đa tạp; đời sống báo chí và văn học
bị kiểm soát ngặt nghèo Trước tất cả khó khăn, thách thức ấy, Tri tân tạp chí vẫn
vượt qua và đứng vững để hoàn thành sứ mệnh: “Xây dựng một nền văn hóa chân
chính cho nước nhà” (Lời Phi lộ).
Theo dõi lịch trình nghiên cứu về Tri tân tạp chí và những vấn đề có liên quan
đến việc tìm hiểu, nghiên cứu về bộ phận văn học trên tạp chí Tri tân từ trước tới nay,
chúng tôi tập hợp, tiếp nhận và đánh giá thành tựu của những công trình đi trước trên
ba phương diện:
Thứ nhất, đặt Tri tân tạp chí trong những công trình nghiên cứu về báo và tạp
chí nửa đầu thế kỷ XX, luận án xác định vai trò của báo chí nói chung và tạp chí Tri
tân nói riêng đối với lịch sử báo chí và nền văn chương hiện đại.
Thứ hai, đặt Tri tân tạp chí trong những công trình nghiên cứu về văn học, luận án
nhấn mạnh đến mối quan hệ gắn bó, tương tác không thể tác rời giữa báo chí và văn học.
Thứ ba, từ những công trình trực tiếp nghiên cứu, sưu tầm, biên soạn về Tri tân
tạp chí, chúng tôi phân tích, đánh giá những vấn đề có liên quan mật thiết đến đề tài,
những vấn đề còn tồn tại. Từ đó, luận án nêu lên vấn đề mà đề tài sẽ tập trung nghiên
cứu và giải quyết.
1.1. Tri tân trong những công trình nghiên cứu về báo, tạp chí nửa đầu thế kỷ XX.
Không phải là một hiện tượng đột hiện trong văn học Việt Nam, có thể khẳng
định, tạp chí Tri tân ra đời do nhu cầu bức thiết của lịch sử văn học và lịch sử dân tộc.

Ở phần này, chúng tôi đặt tạp chí Tri tân trên nền phát triển của lịch sử báo chí nói
chung để thấy Tri tân đã kế thừa báo chí đi trước trên hai phương diện: Sự phát triển của

9

báo chí từ khởi thủy đến trước khi Tri tân ra đời và sự phát triển của văn học trên báo chí
từ tờ báo Quốc ngữ đầu tiên (Gia Định báo, 1865) đến khi tạp chí Tri tân ra đời.
Báo chí Việt Nam xuất hiện từ cuối thế kỷ XIX và thực sự dành được địa hạt,
nguồn sống riêng từ những năm 20 của thế kỷ XX. Trong rất nhiều điều kiện, nguyên
nhân thúc đẩy sự ra đời của nền báo chí tiếng Việt, cần phải khẳng định nguyên nhân
có ý nghĩa tiên quyết là do âm mưu xâm lược và đồng hóa của chính quyền thực dân.
Song, người Việt Nam (nhất là người trí thức) với tinh thần dân tộc, với niềm tự tôn,
tự hào về truyền thống, đặc biệt với bản lĩnh của mình đã nắm lấy cơ hội, xoay chuyển
tình thế, âm thầm xây dựng một nền báo chí tiếng Việt tồn tại độc lập, song hành với
báo chí tiếng Pháp.
Khi nghiên cứu về Lịch sử báo chí Việt Nam, các ông Huỳnh Văn Tòng, Hồng
Chương, Đỗ Quang Hưng, Nguyễn Thành… dù có những cách lập luận và dẫn giải
khác nhau song tựu chung lại các nhà nghiên cứu đều thống nhất khẳng định vai trò, vị
trí của báo chí đối với văn học, đặc biệt là về mối quan hệ gắn bó hữu cơ giữa báo chí
và văn học. Báo chí là cái nôi nâng đỡ, tạo đà cho văn học phát triển và văn học làm
cho khuôn diện và đời sống báo chí thêm phong phú, đa sắc. Hơn nữa, sự ra đời và
phát triển của báo chí Việt Nam đã đánh dấu một bước trưởng thành của nền quốc văn
Việt Nam.
Tác giả Huỳnh Văn Tòng trong công trình Lịch sử báo chí Việt Nam, từ khởi
thuỷ đến năm 1930 (1973) đã sớm xác định vai trò của báo chí Việt Nam trên cả hai
phương diện: chính trị và văn học. Về phương diện văn học, ông đặc biệt nhấn mạnh
đến tầm quan trọng của báo chí trong việc khai sinh, truyền bá, thúc đẩy chữ Quốc ngữ
phát triển. Bởi đó là điều kiện thuận lợi mở ra cơ hội tiếp xúc với những chân trời tri
thức mới và dần dần hiện đại nền văn học nước nhà: “Chính báo chí là phương tiện
duy nhất lúc bấy giờ đã cho phép nhà văn phổ biến trong dân chúng nền văn học mới,

nền văn học chữ Quốc ngữ cùng với những tư tưởng, những học thuyết Tây phương
(…). Tuy nhiên trên thực tế, những nhà trí thức Việt Nam lúc bấy giờ đã biết lợi dụng
chính sách tuyên truyền văn hóa của người Pháp để phục vụ và làm cho hoàn hảo nền
văn học nước nhà còn ở trong tình trạng phôi thai” [188, 119].
Mặc dù Nam Kỳ được coi là cái nôi đầu tiên của báo chí và chữ Quốc ngữ,
nhưng Bắc Kỳ lại là địa hạt để báo chí trưởng thành, lớn mạnh đồng thời cũng là mảnh
đất màu mỡ ươm mầm cho nền văn chương hiện đại Việt Nam. Hầu hết báo chí miền
Bắc giai đoạn trước năm 1930: “Chỉ chú trọng vào vấn đề văn chương, khảo cứu lịch

10

sử, nhờ đó góp phần tích cực vào văn học” [188, 184]. Đến giai đoạn sau (1940-1945),
có thể thấy mảng văn chương hoài cổ là đặc thù của báo chí miền Bắc. Bởi so với
Nam Kỳ, chính quyền thực dân đã áp đặt một quy chế chính trị chặt chẽ, thu hẹp
quyền tự do của nhà văn, nhà báo ở Bắc Kỳ. Cho nên, ký giả miền Bắc không được
phát biểu ý kiến cởi mở như ở Nam Kỳ, họ chỉ còn một cách quay về với các di sản
tinh thần trong quá khứ qua việc tìm kiếm, thu lượm, sưu tầm, giới thiệu các bài văn
cổ. Đây là một điểm khả thủ để lí giải vì sao, trong sự tăng tốc của báo chí và văn học
hiện đại, lại định vị một dòng riêng luôn tìm về văn hóa, văn học quá khứ. Đồng thời,
việc tìm nguồn ấy cũng chính là vùng đất sống cho các tờ báo, tạp chí sinh tồn trong
thời điểm chính trị nhạy cảm như Nam phong, Thanh nghị, Tri tân…
Tiếp thu ý kiến của ông Huỳnh Văn Tòng, tác giả Đỗ Quang Hưng thêm một lần
nữa khẳng định về mối quan hệ mật thiết giữa báo chí với văn học, nhà báo với nhà văn:
Trong cuốn Nhập môn văn học Việt Nam, M. Durand và Nguyễn Trần Huân đã
nhìn nhận báo chí từ một bộ phận của tiến trình văn học và được coi là một chương của
bộ sách này, với ý nghĩa như một thể loại, một động lực của văn học. Vấn đề cũng không
chỉ là phương tiện. Một thời gian dài gần như tất cả các sáng tác văn học, kể cả dịch
thuật đều đăng tải trên báo chí (…) Vấn đề còn là, khi văn chưa tách khỏi báo (giữa thập
kỷ 30 về trước) thì phần lớn các nhà văn đều phải đi từ nghề báo [79, 234-235].
Điểm khác biệt của báo chí Việt Nam so với báo chí phương Tây là ra đời trước

và tạo nên nền văn học hiện đại. Điều đó cũng lí giải vì sao nhiều tờ báo không hề có
chủ trương về văn học, nghệ thuật nhưng chính những chuyên mục “ngoài lề” đó lại
luôn có sức thu hút độc giả.
Chẳng hạn như Gia Định báo (1865), tờ báo đầu tiên viết bằng chữ Quốc ngữ ở
Việt Nam do Soái phủ Nam Kỳ - ông Ernest Potteau khởi lập, sau đó chuyển cho
Trương Vĩnh Ký đảm nhiệm vai trò chính. Đây cũng là tờ công báo của chính phủ
thuộc địa, có cấu tạo gồm hai phần: Phần chính đăng các công văn, nghị định, thông tư,
những tài liệu chính thức của chính phủ Pháp và những tin tức trong nước. Phần phụ
đăng những bài nghiên cứu về lịch sử, thơ, truyện cổ tích… Tuy nhiên, phần phụ lại
được số đông độc giả quan tâm chú ý nhiều hơn. Mặc dù là tờ báo ra đời vì mục đích
chính trị nhưng Gia Định báo lại góp phần xây dựng căn bản cho báo chí nước nhà và
hướng tới mục tiêu tạo dựng một nền quốc văn độc lập. Vai trò khởi đầu của tờ báo
này có ý nghĩa đặt nền móng cho báo chí và văn học nước nhà.

11

Một tờ báo lớn như Đông Dương tạp chí trong quá trình tồn tại cũng dần dần dịch
chuyển và thay đổi khuynh hướng cho phù hợp với tâm lí của độc giả. Nếu như ở giai
đoạn đầu, Đông Dương tạp chí (từ số 1 đến số 85, ra ngày 15/05/1913- 31/12/1914) chủ
yếu tập trung đăng tải tin tức, thời sự, mảng văn chương còn mờ nhạt thì đến giai đoạn
sau (từ số 86 đến số 102, ra ngày 10/01/1915- 31/12/1916) bản báo lại chú trọng đến
việc đăng tải mảng văn chương, học thuật. Đặc biệt hơn, đến Đông Dương tạp chí, văn
phong tiếng Việt đã: “Bắt đầu được cấu kết có mạch lạc trôi chảy. Có thể tạm gọi là
thời kỳ khởi đầu của nền văn học chữ Quốc ngữ” [188, 92].
Cũng như vậy, với các tờ báo chủ trương về kinh tế (Nông cổ mín đàm, 1901-
1924), tôn giáo (Vì chúa, ra đời 1936) thì chuyên mục: “Văn uyển (vườn văn), thậm
chí trang văn học, trang tiểu thuyết (dịch, sáng tác) thường kỳ trở nên một chuyên mục
câu khách” [79, 235]. Nếu báo chí Việt Nam sản sinh ra nền văn học hiện đại Việt
Nam thì tương quan lại, văn học chính là điều kiện cần thiết cho vận mệnh sinh tồn
của một tờ báo.

Bùi Đức Tịnh khi tìm hiểu Những bước đầu của báo chí, truyện ngắn, tiểu
thuyết và thơ mới (1865-1932), (2002, tái bản lần 2) cũng đã xác định báo chí như một
bộ phận của nền văn học hiện đại Việt Nam. Cho nên khi nghiên cứu các thể loại văn
học mới (truyện ngắn, tiểu thuyết và thơ) ông rất quan tâm đến báo chí với tư cách là
môi trường thúc đẩy sự sinh sôi, nảy nở của các thể loại văn học: “Sở dĩ cần quan tâm
nhiều đến báo chí là vì đó là bộ môn tiền phong của nền văn học mới. Đồng thời, đó
cũng là môi trường để nảy sinh và phát triển của tất cả các bộ môn khác như tiểu
thuyết, thơ, văn nghị luận, phê bình…” [185, 13].
Ngay từ khi tìm hiểu về những tờ báo đầu tiên, ông cũng đã khẳng định vai trò
của chúng đối với văn học. Với Gia Định báo thì việc: “Truyền bá thứ chữ viết dùng
mẫu tự La Tinh để ghi âm thanh của tiếng Việt cần được lưu tâm đến khi nghiên cứu
những bước đầu của nền văn chương hiện đại” [185, 29]. Với những tờ như Nông cổ
mín đàm, Lục tỉnh tân văn một mặt: “Để thực hành sứ mạng giúp đồng bào văn minh
tiến bộ hơn”, mặt khác, “Góp công xây dựng nền quốc văn mới trong giai đoạn chuyển
tiếp từ văn chương cổ điển sang văn chương hiện đại” [185, 35].
Báo chí càng phát triển phong phú thì càng phân hóa phức tạp. Có thể hình dung
lược trình của nền báo chí tiếng Việt như sau:
Lúc đầu báo chí ra đời do nhu cầu thống trị và xâm lăng văn hóa của chủ nghĩa
thực dân nên mang tính chức năng. Chính quyền thực dân dùng báo chí chủ yếu nhằm

12

thực hiện mục đích chính trị. Chủ thuyết của A.Sarraut là dựa vào sức mạnh của báo
chí để tạo ra: “Một thứ huyền thoại độc tôn về nền văn minh Pháp và thứ mặc cảm tự ti
nơi những nhà trí thức Việt Nam lúc bấy giờ” [188, 88]. Cho nên hầu hết, nội dung của
các báo, tạp chí thời kỳ đầu tập trung đăng tải những thông tin mang tính thời sự, xoay
quanh các vấn đề về kinh tế, chính trị, tuyên truyền văn hóa, văn minh nước Đại Pháp
… Các tờ báo tiếng Việt tiêu biểu buổi đầu như: Gia Định báo (1865), Lục tỉnh tân
văn (1907), Đông Dương tạp chí (1913), Nam phong tạp chí (1917)… được ra đời
trước hết để thực hiện chức năng và nhiệm vụ cụ thể đó.

Càng về sau, báo chí dần chuyên biệt và xuất hiện những tờ báo chuyên hẳn về
văn chương nghệ thuật. Tờ Phong hóa (1932) - Ngày nay (1935) của nhóm Tự lực
văn đoàn chủ yếu đăng bài và bàn luận xoay quanh phong trào Thơ mới. Tiểu thuyết
thứ Bảy (1934), Tiểu thuyết thứ Năm (1937) là loại tạp chí chuyên về văn học,
Thanh nghị (1941), Tri tân (1941) là loại tạp chí chuyên về khảo cứu. Rõ ràng, không
thể phủ nhận vai trò của báo chí đối với sự phát triển của nền văn học hiện đại. Vai trò
ấy lại: “Càng rõ rệt hơn vào thời kỳ sau năm 1930 khi chúng ta thấy xuất hiện những
tờ báo dành hẳn cho văn học hoặc phần văn học là chủ yếu như: Ngày nay, Tiểu
thuyết thứ Ba, Tiểu thuyết thứ Năm, Tiểu thuyết thứ Bảy, Tương lai, Hà Nội báo,
Tao đàn, Tân văn … (trước năm 1945)” [135, 29].
Đồng quan điểm với Bùi Đức Tịnh, nhà nghiên cứu Phong Lê trong bài: Báo chí
và văn học trong chặng đầu của tiến trình hiện đại hóa đã viết: “Báo chí và văn học
đã có cơ hội đến với nhau ngay từ Gia Định báo (1865) ở Nam Kỳ trong mục khảo cứu
- nghị luận và trong các thông tri yêu cầu bạn đọc viết bài phải bám chắc vào sự thật”
[102, 55].
Đặc biệt trong các cuốn hồi ký của các nhà văn nhà báo như Đời viết văn của tôi
(1994), Nguyễn Công Hoan; Bốn mươi năm nói láo (2008, in lần đầu 1969), Vũ
Bằng; Hồi ký Thanh nghị (1997), Vũ Đình Hòe… các tác giả đã ghi lại chân thực sinh
động gương mặt của báo chí và văn học giai đoạn giao thời. Báo chí và văn học có
những điểm giao thoa, cộng hưởng, nhà báo và nhà văn không tách bạch: “Người viết
báo nói thực ra là làm văn chớ không phải làm báo. Một cái đoản thiên ngắn bao giờ
cũng bắt đầu bằng một đoạn tả cảnh biền ngẫu, kiểu Tuyết Hồng lệ sử; còn xã thuyết
thì bàn về chữ tín, chữ nghĩa và thường là phải bắt đầu bằng câu Phàm người ta ở
trên đời. Vì thế, người viết báo trước hết phải tập viết văn cho nhịp nhàng thánh thót”
[12, 15].

13

Văn chương được bồi đắp từ cái nôi của báo chí, do đó, bản thân các nhà văn
cũng không thể phủ nhận ý nghĩa, tác động của báo chí trong quá trình trưởng thành

của họ: “Có thể rút ra rằng, chính làm báo đã giúp cho tôi làm văn. Nếu không có làm
báo chắc chắn tôi sẽ không làm văn được và không thể trở thành nhà văn (…) Tôi cho
rằng, không có nghề báo thì tôi sẽ không có vốn sống, không có nền tảng để tôi viết
văn” [38, 9]. Quả thật, “Báo và tạp chí là nơi thử thách ngòi bút của nhiều người,
trước khi trở thành nhà văn chuyên nghiệp”.
Tác giả Trần Thị Trâm trong chuyên luận Văn học và báo chí từ một góc nhìn
(2003) thêm một lần nữa khẳng định mối quan hệ “đan xen, cộng hưởng, nâng đỡ,
chuyển hóa” lẫn nhau giữa báo chí và văn học để “cùng phát triển với một gia tốc lớn”.
Có khi tác giả lại “tuyệt đối hóa” vai trò của báo chí: “Tìm hiểu sự phát triển của báo
chí cũng chính là nói đến đời sống của bản thân văn học bởi vì trong thời kỳ đầu, đặc
biệt trước khi có sự ra đời của các nhà xuất bản thì hầu như báo chí là phương tiện duy
nhất để truyền bá tác phẩm, nơi giới thiệu kinh nghiệm sáng tác, nghiên cứu phê bình.
Có những lúc, báo chí là phương tiện duy nhất, quan trọng nhất để truyền bá tác phẩm
văn chương, đồng thời còn là trung tâm văn hóa lớn của thời đại” [191, 196].
Đến nay, khi đã có khá đầy đủ tư liệu về báo chí và có đủ độ lùi về thời gian để
nhìn lại thì rõ ràng cách đánh giá của tác giả Trần Thị Trâm chưa thật khách quan và
thỏa đáng song cái đích cuối cùng mà tác giả hướng tới cũng là nhằm khẳng định vai
trò “quan trọng, duy nhất” của báo chí và các nhà xuất bản đối với nền văn chương
hiện đại Việt Nam.
Như vậy, khi nghiên cứu về lịch sử báo chí, các nhà nghiên cứu đều thống nhất
khẳng định vai trò quan trọng của báo chí đối với tiến trình hiện đại hóa văn học Việt
Nam nửa đầu thế kỷ XX:
Sự thật dần dần chứng tỏ: Báo chí cần sử dụng và mở rộng địa bàn cho văn
chương (gồm cả sáng tác và nghiên cứu - dịch thuật) để phát triển số lượng người đọc.
Còn văn chương cần dựa vào báo chí để rèn luyện và nâng cao khả năng diễn đạt, miêu
tả, qua đó từng bước hoàn thiện các thể văn mới đến từ các ảnh hưởng phương Tây
đồng thời đưa tiếng Việt - chữ Quốc ngữ lên tầm một ngôn ngữ phong phú, linh hoạt, có
năng lực thể hiện mọi trạng huống sinh hoạt xã hội và tâm lý con người [102, 57].
Hay nói cách khác, báo chí như một bộ phận của tiến trình văn học. Đó là mối
quan hệ biện chứng, thẩm thấu tạo nên nét đặc thù của báo chí cũng như của văn học

Việt Nam.

14

1.2. Tạp chí Tri tân trong những công trình nghiên cứu về văn học.
Trong các tài liệu nghiên cứu về Lịch sử văn học Việt Nam như: Việt Nam văn
học sử yếu (1944) của Dương Quảng Hàm, Lược thảo lịch sử văn học Việt Nam
(1957) của nhóm Lê Quý Đôn, Sơ thảo lịch sử văn học Việt Nam của các tác giả Văn
Tân, Hồng Phong, Nguyễn Đổng Chi, Vũ Ngọc Phan, Giáo trình lịch sử văn học Việt
Nam (1961), tập 4 của nhóm Lê Trí Viễn, Phan Côn, Huỳnh Lý, Lê Hoài Nam,
Nguyễn Đình Chú, Việt Nam văn học sử trích yếu (1949) của Hạo Nhiên Nghiêm
Toản, Lược truyện các tác gia Việt Nam (1972) của Trần Văn Giáp, Nguyễn Tường
Phượng, Nguyễn Văn Phú, Tạ Phong Châu hay bộ Lược khảo văn học của Nguyễn
Văn Trung, Thanh Lãng … dù ít nhiều các tác giả đều đề cập đến vai trò của báo chí
đầu thế kỷ XX đối với tiến trình lịch sử văn học dân tộc: “Trên mặt các báo chí
thường là xuất hiện nhiều nhà văn và nhiều tác phẩm thuộc mọi xu hướng khác nhau,
cho nên trước hết chúng ta cần điểm các báo chí bằng Quốc ngữ từ khi ra đời đến năm
1945” [52, 24].
Tác giả Phạm Thế Ngũ trong cuốn Việt Nam văn học sử giản ước tân biên (Ất
tị) khi khái quát “Bộ mặt đặc biệt của mấy năm 1940-1945” đã rất chú ý đến sự hình
thành của các báo phái: Nếu như năm 1918 Nam phong chiếm địa vị độc tôn đến 1932
địa vị ấy nhường lại cho Phong hóa (những ai có học cao phải đọc những báo này) thì
từ sau 1940:
Người trí thức để tâm đến quốc văn nhiều hơn, công chúng có học cũng mở rộng
hơn, cơn gió phục hưng lại thổi đến một không khí đua chen giữa những người làm
văn nghệ cùng một trình độ và nhiệt huyết, chỉ khác nhau ở đường lối và họ tung ra
những ấn phẩm khuynh hướng đa tạp, có thể làm phân vân độc giả sành sỏi đi lựa
chọn. Tựu trung có ba khuynh hướng đáng nêu làm tiêu biểu cho mấy năm 1940-1945
này được đúc kết vào ba nhóm: Tri tân, Thanh nghị, Hàn Thuyên. Tri tân đại biểu cho
khuynh hướng phục cổ, học cổ, lấy khẩu hiệu: “Ôn cố nhi tri tân” của Khổng Tử mà

đặt tên cho tờ tuần báo của họ [125, 615].
Nhà nghiên cứu văn học Vũ Ngọc Phan trong cuốn Nhà văn hiện đại (1994, in
lần đầu 1942) đã nói đến vai trò của chữ Quốc ngữ và văn học Quốc ngữ được khẳng
định bởi các nhà văn tiên phong xuất thân từ báo chí: “Quốc văn bắt đầu thịnh, bắt
đầu có cái giọng hoa mỹ, dồi dào và chú trọng về tư tưởng là công các nhà biên tập
hai tờ tạp chí Bắc Hà: Đông Dương tạp chí và Nam phong tạp chí” [139, 33].

15

Chuyên luận Quá trình hiện đại hóa văn học Việt Nam 1900-1945 (2000) do
Mã Giang Lân chủ biên là cuốn sách tập hợp được các bài viết quan trọng cung cấp
cho ta những điểm nhìn gợi mở, có ý nghĩa khái quát về văn học Việt Nam trên tiến
trình hiện đại hóa. Đặc biệt, các tác giả đều khẳng định vai trò không thể thiếu của báo
chí đối với quá trình hiện đại hóa văn học: “Có thể nói, đối với công việc nghiên cứu
văn học Việt Nam 30 năm đầu thế kỷ XX, những tờ báo Quốc ngữ xuất bản công khai
đương thời mang ý nghĩa của những hoa thạch văn hoá” [94, 128].
Đồng thời, tác giả nhấn mạnh đến báo chí với tư cách là: “Môi trường lưu giữ
những tác phẩm văn học Quốc ngữ viết theo lối mới, mà đặc biệt là các thể đoản thiên
tiểu thuyết, ký… đều được đăng tải trên báo chí hoặc để lại dấu ấn trên báo chí qua
những bài giới thiệu sách, phê bình văn học, tranh luận văn học. Những khuynh hướng
khác nhau tác động đến sự ra đời của văn học hiện đại viết bằng Quốc ngữ đều hiện
diện và quy tụ ở môi trường báo chí, từ những hoạt động dịch thuật cho đến việc kiểm
kê, thức nhận lại kho tàng văn học truyền thống. Hoàn toàn có thể khẳng định ít nhất
trong ba thập niên đầu thế kỷ (nếu thậm chí không muốn nói là một khoảng thời gian
còn rất dài sau đó) các nhà văn hiện đại đã xuất hiện, định hình và trưởng thành trong
môi trường báo chí” [94, 128-129].
Vì vậy, nghiên cứu quá trình hiện đại hóa văn học Việt Nam: “Cần phải khai
thác mối quan hệ đặc thù giữa văn chương và báo chí” [94, 131]. Hơn nữa, cũng cần
phải khẳng định: “Vị trí đặc biệt quan trọng của báo chí đối với sự nghiệp xây dựng
quốc văn, quốc học lúc bấy giờ” [94, 14]. Có nghĩa việc nghiên cứu văn học hiện đại

Việt Nam những năm nửa đầu thế kỷ XX không thể tách biệt khỏi môi trường báo chí .
Từ đó cho thấy, ý nghĩa, tác động thiết thực của báo chí đối với văn học và ngược lại.
Khi nghiên cứu Tổng quan về văn học Quốc ngữ trên báo chí 30 năm đầu thế
kỷ, tác giả Phạm Xuân Thạch xem báo chí là cầu nối gắn kết và giữ vai trò chuyển tiếp
giữa văn học truyền thống và văn học hiện đại. Bởi quá trình cách tân văn học truyền
thống chuyển động dần dần trên các mặt báo viết: “Trong bối cảnh khi cái cũ tiếp tục
đi đến cùng những khả năng cách tân và cái mới vẫn đang trong một giai đoạn thể
nghiệm, tìm đường, khẳng định khả năng tồn tại, cho phép hình dung về một lối phát
triển điều hoà, thỏa hiệp mà sản phẩm tất yếu là hình thức pha tạp, không trọn vẹn,
dứt khoát. Tất cả những hiện tượng cũng như những khuynh hướng đó, một phần cơ
bản cũng đã hiện diện trên báo chí” [94, 150].

16

Chính môi trường báo chí đã tác động trực tiếp đến quá trình sinh thành các thể
loại văn học mới, góp phần làm thay đổi bộ mặt của nền văn học dân tộc: “Mặt khác,
chúng ta cũng thấy rõ hơn vai trò của báo chí trong việc xã hội hóa văn học, hiện đại
hóa văn học, nhất là hiện đại hóa các thể loại văn học” [137, 29].
Đặc biệt, thành tựu của văn học hiện đại Việt Nam kết tinh ở giai đoạn 1930-
1945 phải kể đến sứ mệnh hết sức quan trọng của báo chí: “Giai đoạn hoàn thiện diện
mạo hiện đại của nó, trên cơ sở một phong trào báo chí - xuất bản thực sự là bà đỡ, là
mảnh đất nuôi dưỡng cho văn chương - học thuật có được một mùa màng bội thu, với
các tác gia, tác phẩm đỉnh cao trên tất cả các khu vực: thơ, tiểu thuyết, truyện ngắn,
các loại ký, phê bình khảo cứu, nghị luận… Đóng góp nổi bật và có vai trò quan trọng
cho sự nuôi dưỡng đó là các tờ Phong hóa, Ngày nay của Tự lực văn đoàn, Tiểu thuyết
thứ Bảy, Tao đàn, Ích hữu của ông chủ Tân Dân Vũ Đình Long và Tri tân, Thanh
nghị…” [102, 62].
Phong Lê khi tìm hiểu về “Cuộc đồng hành ngoạn mục” của văn học và báo chí
trước 1945 đã chỉ ra quá trình vận động của báo chí đã hình thành nên những phong trào
và khuynh hướng đối với sáng tác văn chương, học thuật: “Nếu từ trong thế chiến thứ

nhất đến đầu những năm 30, gương mặt báo chí nổi bật trên hai tờ Đông Dương tạp chí
của Nguyễn Văn Vĩnh và Nam phong tạp chí của Phạm Quỳnh, thì chuyển vào những
năm 30, trên nền rộng của nhiều loại báo chí đưa tới sự xuất hiện những tờ chuyên cho
văn chương và học thuật như Phong hóa, Ngày nay, Tiểu thuyết thứ Bảy, Ích hữu, Tao
đàn, Tiểu thuyết thứ Năm, Tri tân, Thanh nghị… ” [102, 63].
Đồng hướng nghiên cứu với chúng tôi có luận án Tiến sĩ của Nguyễn Đức Thuận
với đề tài “Tìm hiểu văn trên Nam phong tạp chí” (2006) đã có ý nghĩa định hướng,
gợi mở cho chúng tôi trong quá trình tiếp cận, thực thi đề tài. Tuy kế thừa thành tựu
của người đi trước nhưng luận án không rập theo khuôn mẫu sẵn có. Người viết luôn
cố gắng tạo một hướng tiếp cận riêng với Tri tân. Điều đó được quy định bởi những
đặc điểm riêng mang tính thời đại về hoàn cảnh lịch sử cụ thể, bối cảnh tư liệu cũng
như tâm lí của công chúng tiếp nhận để giải mã Tri tân. Nam phong là một tờ tạp chí
bề thế, có khuynh hướng tư tưởng khá phức tạp nên khi đánh giá về tờ tạp chí này, dù
ít dù nhiều, người nghiên cứu vẫn phải giữ thái độ thận trọng, đôi khi phải né tránh.
Tạp chí Tri tân ra đời độc lập, không chịu sự chi phối của tư tưởng chính trị mà hoàn
toàn trên tinh thần tự chủ của các trí thức có tâm huyết trong việc gìn giữ, khôi phục

17

các giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc. Cho nên, những nghiên cứu về Tri tân
đảm bảo tính khách quan, khoa học.
Những tham luận tại Hội thảo về Quá trình hiện đại hóa văn học Việt Nam diễn
ra hai ngày 18 và 19 tháng 3 năm 2010 tại trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân
văn thành phố Hồ Chí Minh mà chúng tôi cập nhật được từ trang web: khoavanhoc-
ngonngu.edu.vn cũng đã đặt ra vấn đề cần nghiên cứu mảng văn chương trên báo chí
đầu thế kỷ XX với mục đích xác nhận giá trị, ý nghĩa của mảng văn chương đó trong
tiến trình hiện đại hóa văn học dân tộc cũng như khôi phục gìn giữ, bảo tồn kho tư liệu
quý hiếm này để phục vụ cho các công trình nghiên cứu chuyên sâu.
Gần đây nhất là công trình nghiên cứu Những sự kiện văn học Việt Nam (từ
1865 đến 1945) của Vũ Tuấn Anh do Nhà xuất bản Khoa học xã hội phát hành vào

tháng 11 năm 2012 đã ghi lại những nét cơ bản của diễn trình văn học Việt Nam theo
trình tự thời gian từ năm 1865 (năm có tờ báo quốc ngữ đầu tiên) đến năm 1945 thông
qua các sự kiện văn học. Có thể nói, đây là công trình chứa đựng khối lượng thông tin
tư liệu phong phú, dù không phải là một chuyên khảo về báo chí nhưng cuốn sách đã:
“Lựa chọn những tờ báo có vai trò nổi bật trong các sự kiện văn học, các tờ báo – tạp
chí có sức tập hợp đông đảo các cây bút đương thời và ghi dấu ấn rõ nét trong lịch sử
báo chí, văn học, chẳng hạn như: Gia Định báo, Nông cổ mín đàm, Phụ nữ tân văn,
Tiếng dân, Đông Dương tạp chí, Nam phong tạp chí, Phong hóa, Ngày nay, Tiểu
thuyết thứ Bảy, Tiểu thuyết thứ Năm, Tao đàn, Tri tân, Thanh nghị ” [6, 25]. Cuốn
sách giúp cho người đọc có cái nhìn toàn cảnh nền báo chí tiếng Việt và bao quát tiến
trình hiện đại hóa văn học Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX. Đồng thời, nó cũng giúp cho
độc giả “nhận ra những mối tương quan, ảnh hưởng và tác động của chính trị, xã hội,
văn hóa đối với các sự kiện văn học” [6, 28].
Từ những vấn đề trên, có thể khẳng định: Nền văn học hiện đại Việt Nam sở dĩ
có được tốc độ phát triển nhanh mạnh như vậy là do quá trình thai nghén, ấp ủ rồi
bung nở từ báo chí. Mối quan hệ giữa báo chí và văn học là mối quan hệ hữu cơ, hai
chiều đan xen, quyện hòa. Báo chí là mảnh đất gieo mầm cho văn học và văn học là
chất kích thích tạo đà cho báo chí phát triển thêm phong phú, đa dạng. Vì vậy, khi
bước sang thời đại mới, việc: “Nhìn nhận lại những thành tựu văn học thế kỷ XX là
quan trọng cần thiết. Nhưng có được thành tựu ngày hôm nay rõ ràng không thể
không có công của báo chí, nhất là báo chí giai đoạn 32-45 khá phong phú và đăng tải
nhiều thể loại văn học” [43, 456].

18

Từ đó, cho thấy việc nghiên cứu văn học trên báo, tạp chí khu vực đầu thế kỷ XX
là thực sự cần thiết. Bởi nó tạo ra cái nhìn đa chiều khi nghiên cứu văn học đồng thời
đặt ra một vấn đề nghiêm túc là cần thức nhận lại kho tàng văn học quá khứ, phục
dựng thêm đầy đặn khuôn diện của nền văn học sử, trả chúng về đúng vị trí trước khi
bị lãng quên.

1.3. Những công trình sưu tầm, giới thiệu về tạp chí Tri tân
Nhìn lại lịch trình nghiên cứu Tri tân tạp chí, chúng tôi nhận thấy việc nghiên
cứu tờ tạp chí này tựu chung lại đã được những người đi trước đề cập trên ba phương
diện sau:
1.3.1. Công trình nghiên cứu tổng quan về tạp chí Tri tân
Công trình đầu tiên nghiên cứu một cách tổng quan về tạp chí Tri tân phải kể đến
là Mục lục phân tích tạp chí Tri tân (1941-1945) (1998) của Hồng Nhuệ Nguyễn
Khắc Xuyên. Với mục đích tổng hợp, thống kê, phân loại các đề mục xuất hiện trên
Tri tân, nhà thư mục Nguyễn Khắc Xuyên đã phân chia một cách chi tiết và sắp xếp
tương đối hệ thống về các đề mục xuất hiện trên Tri tân dựa trên hai tiêu chí: Mục lục
các tác giả và Mục lục các bộ môn .
Phần một, về Mục lục các tác giả, Nguyễn Khắc Xuyên đã tổng hợp, sắp xếp tên
các tác giả theo thứ tự A, B, C… Đối với mỗi tác giả lại có phần thống kê cụ thể bài
viết của họ được đăng trên các số của tạp chí Tri tân trong suốt 5 năm. Các bài viết
này cũng được tác giả sắp xếp theo thứ tự A, B, C… dựa vào chữ cái đầu tiên của tiêu
đề bài báo. Để tiện cho việc tra cứu, Nguyễn Khắc Xuyên đã đặt ra quy ước, kí hiệu rất
rõ ràng: đặt số tạp chí đứng trước và số trang của bài viết đứng sau: Chẳng hạn, phần
mục lục về tác giả Cây Thông, có các bài: 1- Ban kịch Hà Nội với Thế chiến quốc;
Bóng giai nhân (68, 16); 2- Học thêm; (32, 19-21); 3- Nên luyện cho trẻ em tập đọc
quốc văn (42, 4)… Với cách hệ thống, phân loại công phu, tỉ mỉ, Hồng Nhuệ Nguyễn
Khắc Xuyên đã cung cấp cho độc giả một hình dung “tổng thể” về diện mạo của tờ tạp
chí này.
Phần hai, về Mục lục các bộ môn được tác giả chia thành 21 bộ môn: Tôn giáo,
Kinh tế, Mỹ thuật, Kịch, Chính trị, Triết học, Giáo dục, Du ký, Sách báo, Địa lý, Học
đường, Thời sự, Khoa học, Ngữ học, Báo chí - thư viện – truyện, Tiểu thuyết dài –
khảo cứu dài, Phê bình giới thiệu sách, Xã hội – phong tục – phụ nữ - thanh niên, Thơ,
Văn học, Lịch sử. Với cách phân chia này, ta thấy các bài viết trong từng bộ môn chủ
yếu được lựa theo tiêu chí đề tài và thể loại. Tuy nhiên, đây là cách phân chia còn

19


nhiều vấn đề cần luận bàn. Bởi nó chưa thật khoa học và chưa đồng nhất về tiêu chí
phân loại: Có phần thuộc về các lĩnh vực trong đời sống (Kinh tế, chính trị, khoa học,
xã hội…), phần thì thuộc về các môn học (Triết học, lịch sử, địa lý, văn học…), phần
thì thuộc về các thể loại văn học (Thơ, truyện, kịch, phê bình…), có phần thuộc về thể
loại báo chí (Thời sự), có phần lại thuộc về đề tài (Phong tục, phụ nữ, thanh niên…)
hay các thể tài văn học (Du ký, tiểu thuyết dài, khảo cứu dài…). Vì vậy, nếu đặt là
Mục lục các bộ môn thì tiêu chí, cơ sở phân loại chưa thật bình đẳng, thậm chí còn
chồng chéo.
Cho đến nay, cuốn sách của Nguyễn Khắc Xuyên vẫn là công trình duy nhất khái
quát một cách đầy đủ và tương đối hệ thống về diện mạo của tạp chí Tri tân. Với vai
trò của người tiên phong phục dựng tổng quan về tạp chí Tri tân thì công trình của
Nguyễn Khắc Xuyên có ý nghĩa tổng hợp bước đầu về diện mạo Tri tân tạp chí và là
cuốn sách thực sự hữu dụng cho những ai quan tâm đến mảnh đất còn bỏ ngỏ này.
1.3.2. Công trình nghiên cứu về các tác gia
Với các công trình lựa chọn đối tượng là các tác giả lớn - những cây bút đắc lực
làm nên linh hồn của Tri tân như Tiên Đàm Nguyễn Tường Phượng, Hoa Bằng,
Nguyễn Văn Tố, Lê Thanh, Nguyễn Huy Tưởng, Phan Khắc Khoan… đã được các nhà
nghiên cứu sưu tầm, tập hợp, tuyển chọn các tác phẩm của họ thành các tuyển tập lớn.
Các tác giả Băng Hồ, Hải Hồng, Hải Yến trong công trình Tuyển tập Nguyễn
Tường Phượng (sưu tập, Nxb Văn học, 1996) đã giới thiệu những nét cơ bản về thân
thế, cuộc đời, sự nghiệp của nhà văn, nhà nghiên cứu, phê bình Nguyễn Tường
Phượng. Sau đó, tác giả tập hợp, giới thiệu các bài viết tiêu biểu của Nguyễn Tường
Phượng về các lĩnh vực: Văn hóa, văn học, lịch sử chủ yếu đã được đăng trên tạp chí
Tri tân. Cuốn sách đã giúp ích rất nhiều cho những ai quan tâm đến tác giả Nguyễn
Tường Phượng đồng thời cũng có ý nghĩa định hướng, gợi mở cho những công trình
nghiên cứu chuyên sâu về tác giả này.
Nguyễn Huy Tưởng là nhà văn danh tiếng đương thời, chính sự cộng tác của ông
đã góp phần làm “sang” tên tuổi của tạp chí Tri tân. Với hai thể tài: Tiểu thuyết lịch sử
và Kịch lịch sử, Nguyễn Huy Tưởng đã xác lập vị trí, vai trò không thể thiếu trong nền

văn học hiện đại Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX, đặc biệt là vào những năm 1940. Vì thế,
ông là tác gia được giới nghiên cứu, phê bình văn học quan tâm, chú ý trong việc sưu
tầm, biên soạn các sáng tác của ông thành các tuyển tập: Nguyễn Huy Tưởng, Tuyển
tập ký sự (Nxb Văn học, 1963), Nguyễn Huy Tưởng, Tác phẩm chọn lọc (Nxb Hội

20

Nhà văn, 1994), Nguyễn Huy Tưởng toàn tập (Nxb Văn học, 1996)… hoặc chọn các
sáng tác của ông làm đối tượng nghiên cứu của luận văn, luận án. Ngoài ra, các tiểu
thuyết lịch sử (Đêm hội Long Trì, An Tư), các vở kịch lịch sử (Vũ Như Tô, Bắc Sơn)
của ông được các nhà xuất bản in ấn, phát hành, tái bản nhiều lần. Điều đó chứng tỏ
sáng tác của Nguyễn Huy Tưởng có sức hút lớn đối với độc giả đương thời. Từ
Nguyễn Huy Tưởng, Tri tân tạp chí đã được mở rộng hơn về đối tượng tiếp nhận.
Tác giả Lại Nguyên Ân là người có công lớn trong việc giới thiệu tạp chí Tri tân
qua các bài viết, các công trình sưu tầm, biên soạn thành tuyển tập. Công trình Nghiên
cứu và phê bình văn học của Lê Thanh (Nxb Hội Nhà văn, 2002) là cuốn sách được
tác giả sưu tầm, biên soạn, tập hợp các bài viết của nhà nghiên cứu, phê bình văn học Lê
Thanh trên nhiều phương diện. Trong đó, có các bài viết về các tác giả (Tản Đà, Tú Mỡ,
Trương Vĩnh Ký), có các bài phỏng vấn các nhà văn (Ứng Hòe Nguyễn Văn Tố, Tùng
Vân Nguyễn Đôn Phục, Trúc Khê Ngô Văn Triện, Song An Hoàng Ngọc Phách, Vệ
Thạch Đào Duy Anh…), có các bài nghiên cứu về văn học, sử học, triết học, có các bài
phê bình văn học (Phê bình Khói lam chiều, Sách Kỹ nghệ lấy Tây, Người bạn gái; Giới
thiệu Hàn Mặc Tử, Ảnh hưởng của văn chương Pháp trong văn chương Việt Nam, Ba
người thợ cần mẫn…). Các bài viết này đều được đăng trên các báo Tin văn, Tiểu thuyết
thứ Bảy và phần lớn là Tri tân. Lê Thanh là cây bút nghiên cứu, phê bình tiêu biểu của
văn học Việt Nam những năm 40. Tên tuổi của Lê Thanh xuất hiện trên nhiều mặt báo
nhưng gắn bó và tâm huyết nhất dành cho Tri tân.
Với tác giả Phan Khắc Khoan, người có sở trường đặc biệt về thể tài kịch thơ lịch
sử, ông đã đóng góp 5/11 vở kịch thơ, chiếm 46% mảng kịch thơ được Tri tân đăng tải.
Ông cũng là đối tượng được các nhà nghiên cứu quan tâm, chú ý. Tuyển tập Phan

Khắc Khoan: kịch thơ và thơ (Nxb Hội nhà văn, 1999) là cuốn sách sưu tầm, tuyển
chọn các vở kịch thơ và các bài thơ viết theo hình thức kịch (đối thoại) của Phan Khắc
Khoan. Trong đó không thể không kể đến các tác phẩm kịch gắn liền với tên tuổi của
Phan Khắc Khoan như Trần Can, Lý Chiêu Hoàng, Phạm Thái… Đó cũng là những
vở kịch đã được tạp chí Tri tân sớm đón nhận và giới thiệu. Với những vở kịch chỉ
được Tri tân trích đăng (Vua Lê Chiêu Thống, Nguyễn Hoàng) thì cuốn sách giúp ích
cho những ai nghiên cứu về thể loại kịch thơ trên tạp chí Tri tân có điều kiện đối chiếu,
so sánh với toàn văn.
Ngoài ra, các cây bút có ảnh hưởng lớn đến tạp chí Tri tân là Hoa Bằng Hoàng Thúc
Trâm, Ứng Hòe Nguyễn Văn Tố, Chu Thiên Hoàng Minh Giám, Biệt Lam Trần Huy

×