Tải bản đầy đủ (.doc) (46 trang)

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM SỬ DỤNG TRANH, ẢNH THEO HƯỚNG PHÁT HUY TÍNH TÍCH CỰC CỦA HỌC SINH TRONG DẠY HỌC LỊCH SỬ BÀI 17 SÁCH GIÁO KHOA LỊCH SỬ 12 (CHƯƠNG TRÌNHCHUẨN)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.22 MB, 46 trang )

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO ĐỒNG NAI
Đơn vị: Trường THPT Long Khánh

Mã số: ……………………………
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
SỬ DỤNG TRANH, ẢNH THEO HƯỚNG PHÁT HUY TÍNH
TÍCH CỰC CỦA HỌC SINH TRONG DẠY HỌC LỊCH SỬ
BÀI 17 SÁCH GIÁO KHOA LỊCH SỬ 12
(CHƯƠNG TRÌNHCHUẨN)



Người thực hiện: NGUYỄN THỊ THÔNG
Lĩnh vực nghiên cứu: Phương pháp dạy học bộ môn Lịch sử

Có đính kèm:
 Mô hình  Đĩa CD (DVD)  Phim ảnh  Hiện vật khác
Năm học: 2014 -2015
1
SƠ LƯỢC LÝ LỊCH KHOA HỌC
I. THÔNG TIN CHUNG VỀ CÁ NHÂN
1. Họ tên: NGUYỄN THỊ THÔNG
2. Ngày, tháng, năm sinh: 05 – 02 – 1981
3. Giới tính: Nữ
4. Địa chỉ: 141 Bảo Vinh B – xã Bảo Vinh – TX Long Khánh - Tỉnh Đồng
Nai
5. Điện thoại: 0977172592
6. Fax: Email:
7. Chức vụ: Giáo viên
8. Nhiệm vụ được giao: Giảng dạy môn Lịch sử
II. TRÌNH ĐỘ ĐÀO TẠO


- Học vị (trình độ chuyên môn, nghiệp vụ) cao nhất: Thạc sĩ
- Năm nhận bằng: 2014
- Chuyên môn đào tạo: Lý luận và phương pháp dạy học bộ môn Lịch sử
III. KINH NGHIỆM KHOA HỌC
- Lĩnh vực chuyên môn có kinh nghiệm: Sư phạm lịch sử
- Số năm có kinh nghiệm: 11 năm
- Các sáng kiến kinh nghiệm trong 5 năm gần đây:
1. Nâng cao hiệu quả dạy học lịch sử bằng sự kết hợp phương pháp
truyền thống với công nghệ thông tin.
2. Sử dụng tài liệu thành văn kết hợp với bản đồ giáo khoa trong dạy
học lịch sử Việt Nam từ 1919 đến 1945 ở trường Trung học phổ thông (Chương
trình Chuẩn).
2
MỤC LỤC
Trang
MỤC LỤC
3
Trang
3

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
Chữ viết tắt Viết đầy đủ
GV : Giáo viên
HS : Học sinh
PPDHLS : Phương pháp dạy học lịch sử
3
NXB : Nhà xuất bản
SGK : Sách giáo khoa
THPT : Trung học phổ thông
ĐDTQQƯ : Đồ dùng trực quan quy ước

QTDH : Quá trình dạy học
A. MỞ ĐẦU
1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Giáo dục – đào tạo là sự đáp ứng các yêu cầu của xã hội về con người. Trong
toàn bộ sự vận động đổi mới của xã hội Việt Nam, đổi mới giáo dục là một yêu cầu
tất yếu. Nền giáo dục nước ta đang thực hiện một sự đổi mới mạnh mẽ, toàn diện
4
nhằm thực hiện “bốn cột trụ một nền giáo dục” ở thế kỷ XXI mà UNESCO nêu ra,
đó là: “Học để biết, học để làm, học để chung sống, học để tự khẳng định mình”[14,
tr. 70]. Như những môn học khác, bộ môn Lịch sử với những đặc trưng riêng của
mình cũng góp phần hoàn thành các mục tiêu giáo dục, đào tạo. Mặt khác, bản thân
lịch sử xã hội loài người và bộ môn Lịch sử có nhiều ưu thế trong việc giáo dục thế
hệ trẻ và tạo cho họ một hứng thú thực sự. Qua học tập lịch sử, tầm nhìn của học
sinh (HS) đối với cuộc sống quá khứ, hiện tại và tương lai được mở rộng. HS có thể
tìm thấy trong quá khứ nhiều câu trả lời xác đáng, thú vị cho những vấn đề hiện tại
và tương lai. Như nhà tư tưởng dân chủ cách mạng Nga G. Tsecnưsepxki, thế kỷ
XIX, đã từng nói: “Có thể không biết, không cảm thấy say mê học tập môn toán,
tiếng Hi Lạp hoặc Latinh, môn hóa học, có thể không biết hàng nghìn môn khoa học
khác, nhưng dù sao đã là người có giáo dục mà không yêu thích lịch sử thì chỉ có
thể là một con người không phát triển đầy đủ về trí tuệ”[1, tr. 11].
Thời gian qua, cuộc cách mạng về PPDH nói chung và phương pháp dạy học
lịch sử (PPDHLS) nói riêng đã đi vào thực tế nhà trường và ngày càng được xã hội
quan tâm. Thực tế cho thấy mỗi một phương pháp đều có ưu thế riêng trong việc
nâng cao hiệu quả dạy học, với PPDHLS, nguyên tắc trực quan là một trong những
nguyên tắc cơ bản của lý luận dạy học, góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả, gây
hứng thú, phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh trong học tập. Tuy
nhiên, do những điều kiện khác nhau, việc sử dụng đồ dùng trực quan (ĐDTQ) nói
chung và sử dụng tranh, ảnh nói riêng theo hướng phát huy tính tích cực của học
sinh trong trong dạy học lịch sử (DHLS) hiện nay ở trường phổ thông vẫn chưa
được sự quan tâm đúng mức.

Khóa trình lịch sử Việt Nam từ 1945 đến 1954 bao gồm nhiều nội dung cơ
bản, quan trọng và có ảnh hưởng lớn đến cả ngày nay, nhưng giai đoạn lịch sử này
lại cách chúng ta khá xa. Bên cạnh đó, hệ thống ĐDTQ nói chung và tranh ảnh nói
riêng phục vụ cho việc dạy học các nội dung lịch sử giai đoạn này tương đối ít nên
học sinh sẽ rất khó khăn trong việc hình dung và nhận thức lại các sự kiện lịch sử để
tiến hành các thao tác tư duy trong quá trình học tập. Vì vậy, việc sử dụng ĐDTQ
5
nói chung và sử dụng tranh, ảnh nói riêng theo hướng phát huy tính tích cực của học
sinh trong dạy học các nội dung về lịch sử Việt Nam từ 1945 đến 1954 ở trường
trung học phổ thông (Chương trình chuẩn) là hết sức cần thiết. Hơn nữa, ngày nay
khoa học kĩ thuật đang ngày một phát triển mạnh mẽ, các phương tiện kĩ thuật hiện
đại ngày một được sử dụng nhiều trong quá trình dạy học thì việc sử dụng ĐDTQ
trong dạy học nói chung và DHLS nói riêng, trong đó có việc sử dụng tranh, ảnh là
có nhiều cơ sở để thực hiện thành công. Chính vì những lí do trên, tôi mạnh dạn
chọn đề tài: “Sử dụng tranh, ảnh theo hướng phát huy tính tích cực của học sinh
trong dạy học lịch sử Việt Nam bài 17 (SGK Lịch sử 12, Chương trình chuẩn)”
với mong muốn tiếp cận chuyên sâu về phương pháp sử dụng ĐDTQ nói chung,
tranh, ảnh nói riêng theo hướng phát huy tính tích cực của học sinh trong DHLS và
hy vọng đóng góp một phần nhỏ vào việc nâng cao hiệu quả bài học lịch sử ở
trường phổ thông.
2. LỊCH SỬ NGHIÊN CỨU VẤN ĐỀ
Từ lâu, vấn đề xây dựng và sử dụng ĐDTQ nói chung, tranh, ảnh nói riêng
theo hướng phát huy tính tích cực của học sinh trong DHLS đã được nhiều nhà giáo
dục trong và ngoài nước quan tâm nghiên cứu. Trong nhiều nguồn tài liệu về tâm lí
học, lý luận dạy học đại cương và lý luận dạy học bộ môn lịch sử ở những mức độ
khác nhau đều đề cập tới việc xây dựng và sử dụng ĐDTQ (bao gồm cả tranh, ảnh)
theo hướng phát huy tính tích cực của học sinh trong dạy học nói chung và
DHLS nói riêng ở trường phổ thông.
2.1. Trên thế giới
Sử dụng ĐDTQ trong dạy học là một trong những phương pháp đã được quan

tâm nghiên cứu từ khá lâu trên thế giới. Ngay từ thời cổ đại, vấn đề trực quan, cảm
tính trong dạy học đã được các nhà triết học đề cập đến trong lý luận nhận thức.
Đáng chú ý là Khổng Tử (nhà triết học cổ phương Đông), theo Ông, để có được tri
thức khái quát, chung và nhất quán thì phải “Học nhi tập chi” (học lý thuyết gắn với
6
thực hành); Hêraclít (nhà triết học cổ phương Tây) chủ trương “Quá trình nhận
thức bắt đầu từ cảm giác, không có cảm giác thì không có bất kì nhận thức nào”.
Nhà Giáo dục học kiệt xuất người Tiệp J.A.Cômenxki (1592-1670) là người
đầu tiên xem nguyên tắc trực quan trong dạy học là “nguyên tắc vàng”. Theo ông,
không có gì hết trong trí não nếu như người đó không có gì trong cảm giác. Vì vậy,
dạy học không thể bắt đầu từ sự giải thích về các sự vật mà phải từ sự quan sát trực
tiếp chúng.
Tác giả I.Ia Lecne trong tác phẩm “Dạy học nêu vấn đề” đã đề cập đến bản
chất của việc dạy học nêu vấn đề là “Phương pháp dạy học trong đó học sinh tham
gia một cách có hệ thống vào quá trình giải quyết các vấn đề và các bài toán có vấn
đề được xây dựng theo nội dung tài liệu trong chương trình”.
Nhà giáo dục Liên Xô (cũ) I.F.Kharlamốp trong tác phẩm “Phát huy tính tích
cực của học sinh như thế nào?” cũng đã đề cập đến những biện pháp nhằm kích
thích hoạt động nhận thức của học sinh. Theo Ông để giờ học đạt kết quả cao thì
nhiệm vụ trọng tâm là phát huy tính tích cực học tập của học sinh.
Đi xa hơn trong việc vận dụng nguyên tắc trực quan vào QTDH, tác giả
K.Đ.Usinxki (1824-1870) cho rằng: trực quan không chỉ là phương tiện để phát triển
tư duy. Theo ông, thầy giáo không thể chỉ dựa vào những hình tượng cụ thể được
hình thành trong QTDH, mà phải sử dụng cả những biểu tượng đã có từ trước và
ông cho rằng, trực quan là cái ban đầu và là nguồn gốc của mọi tri thức, cảm giác
cung cấp tài liệu cho hoạt động trí tuệ của con người. Trực quan làm cho quá trình
lĩnh hội tri thức của học sinh trở nên dễ dàng, tự giác, có ý thức và vững chắc hơn;
tạo ra hứng thú học tập ở học sinh, kích thích tính tích cực của học sinh, là phương
tiện tốt nhất giúp giáo viên gần gũi học sinh và là phương tiện quan trọng để phát
triển tư duy cho học sinh.

Đặc biệt, N.G.Đai-ri trong cuốn “Chuẩn bị giờ học lịch sử như thế nào ?” đã
đề cập đến phương pháp trực quan, theo Ông: “Hơn tất cả các cách thức khác, cách
hỏi bằng phương pháp cho lập bảng giúp học sinh so sánh và trên cơ sở đó mà
đánh giá các biến cố, các quá trình, các hình thái kinh tế - xã hội “hoặc “…việc hỏi
7
và cách cho lập sơ đồ tổ chức bộ máy Nhà nước…cho phép tái hiện sự hiểu biết vấn
đề tốt hơn là cách hỏi khác”.
Ngoài ra, còn có rất nhiều các nhà giáo dục, nghiên cứu phương pháp trực
quan trong dạy học nói chung và DHLS nói riêng.
2.2. Ở trong nước
Lí luận sử dụng ĐDTQ theo hướng phát huy tính tích cực của học sinh đã được
các nhà giáo dục học, tâm lí học và giáo dục lịch sử nghiên cứu khá nhiều và có hệ
thống. Liên quan vấn đề này có rất nhiều công trình nghiên cứu đã được công bố như
sách, báo, các tạp chí, luận văn, luận án… Có thể kể ra một số công trình cơ bản sau:
- Tác giả Thái Duy Tuyên trong tác phẩm: “Một số vấn đề đổi mới phương pháp
dạy học”; tác giả Hồ Ngọc Đại trong tác phẩm: “Bài học là gì?” ; tác giả Hà Thế Ngữ
- Đặng Vũ Hoạt trong tác phẩm: “Giáo dục học” đều đã đề cập đến những vấn đề có
tính chất lý luận về PPDH tích cực và bước đầu xây dựng các quy trình thiết kế bài học
theo hướng phát huy tính tích cực của học sinh trong dạy học nói chung.
- Các giáo trình về PPDH Lịch sử cũng đặc biệt quan tâm đến việc phát huy
tính tích cực học tập lịch sử cho học sinh qua việc sử dụng kết hợp nhiều PPDH
khác nhau, trong có có phương pháp trực quan như: “Phương pháp dạy học lịch
sử” tập 1 và 2 của GS.TS Phan Ngọc Liên (chủ biên); tác phẩm “Phát huy tính tích
cực của học sinh trong dạy học lịch sử ở trung học cơ sở” của tác giả Phan Ngọc
Liên -Trịnh Đình Tùng (chủ biên)…Qua các tác phẩm trên, các tác giả đã đề cập
một cách đầy đủ cơ sở lý luận và thực tiễn của việc phát huy tính tích cực học tập
của học sinh. Đồng thời đề ra những biện pháp sư phạm cần thiết nhằm phát huy
tính tích cực của học sinh học trong học tập lịch sử.
- Ngoài ra còn có nhiều công trình nghiên cứu một cách có hệ thống về sử
dụng ĐDTQ nhằm phát huy tính tích cực của học sinh như: tác phẩm: “Đồ dùng

trực quan trong việc dạy - học lịch sử ở trường phổ thông cấp II” của tác giả Phan
Ngọc Liên - Phạm Kì Tá; tác phẩm: “Hướng dẫn sử dụng kênh hình trong sách
giáo khoa lịch sử trung học cơ sở (phần lịch sử Việt Nam) của tác giả Trịnh Đình
Tùng (chủ biên); tác phẩm: “Hướng dẫn sử dụng kênh hình sách giáo khoa lịch sử
8
lớp 12” của Nguyễn Thị Côi đã đề cập đến kỷ thuật thiết kế và trình bày nội dung
lịch sử có quan hệ với đồ dùng trực quan nói chung, đồ dùng trực quan quy ước nói
riêng trong dạy học lịch sử ở trường phổ thông.
- Gần đây, một số luận văn thạc sỹ đã đề cập đến vấn đề này. Cụ thể là Hồ
Thị Minh Sang với luận văn: “Sử dụng tranh, ảnh theo hướng phát huy tính tích cực
của học sinh trong dạy học lịch sử thế giới cổ - trung đại ở trường trung học phổ
thông (Chương trình Chuẩn)”, Khoa sử, Đại học sư phạm – Đại học Huế, (2011) và
Thái Thị Phương Thảo với luận văn: “Sử dụng tranh, ảnh dạy học lịch sử thế giới
cận đại ở trường Trung học phổ thông (Chương trình Chuẩn)”, Khoa sử, Đại học
sư phạm – Đại học Huế (2011).
- Ngoài ra còn có các bài viết đăng trên các báo, tạp chí… như: tác giả Lê
Ngọc Thu với bài viết “Sử dụng tranh, ảnh giáo khoa trong dạy học lịch sử ở
trường phổ thông”, Tạp chí Dạy và Học ngày nay số 6 năm 2006….
Qua các nghiên cứu nêu trên, có thể thấy các tác giả đều tập trung khai thác
ĐDTQ trong DHLS nói chung và sử dụng tranh ảnh nói riêng. Trên cơ sở đó, các tác
giả đã có nhiều đóng góp thiết thực về lý luận và kỹ thuật xây dựng ĐDTQ hoặc
hướng dẫn sử dụng kênh hình, trong đó có tranh, ảnh theo hướng phát huy tính tích cực
của học sinh trong dạy học lịch sử. Tuy nhiên chưa có công trình nào nghiên cứu cụ thể
vấn đề: “Sử dụng tranh, ảnh theo hướng phát huy tính tích cực của học sinh trong
dạy học bài 17 (SGK Lịch sử 12, Chương trình Chuẩn)”. Chính vì vậy, đề tài của tôi
tập trung đi sâu nghiên cứu vấn đề này và đây cũng chính là nhiệm vụ cơ bản mà đề tài
cần giải quyết.
3. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Từ việc xác định lí do chọn đề tài nêu trên, đối tượng nghiên cứu của đề tài

là “Quá trình sử dụng tranh, ảnh theo hướng phát huy tính tích cực của học sinh
trong dạy học bài 17 (SGK Lịch sử 12, Chương trình Chuẩn)”
3.2. Phạm vi nghiên cứu
9
Từ việc xác định đối tượng nghiên cứu nêu trên, phạm vi nghiên cứu của đề
tài chỉ tập trung đề xuất các nguyên tắc, biện pháp của việc sử dụng tranh, ảnh
theo hướng phát huy tính tích cực của học sinh trong DHLS ở trường THPT, cụ
thể là bài 17 “Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa từ sau ngày 2-9-1945 đến trước
ngày 19-12-1946”, SGK Lịch sử 12 (Chương trình Chuẩn) và tiến hành thực
nghiệm sư phạm ở trường THPT Long Khánh tỉnh Đồng Nai. Trên cơ sở đó, rút ra
những kết luận về tính khả thi của đề tài.
4. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
Đề tài xác định những nội dung kiến thức cơ bản cần quán triệt và đề xuất các
nguyên tắc, biện pháp sử dụng tranh, ảnh theo hướng phát huy tính tích cực của học
sinh trong dạy học Lịch sử bài 17 “Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa từ sau ngày
2-9-1945 đến trước ngày 19-12-1946”, SGK Lịch sử 12 ở trường trung học phổ
thông (Chương trình Chuẩn) nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả bài học lịch sử
trên tất cả các mặt giáo dưỡng, giáo dục và phát triển.
5. NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU
Đề tài tập trung giải quyết các nhiệm vụ sau:
5.1. Nghiên cứu lý luận để xác định nội hàm các khái niệm tranh, ảnh lịch sử,
tính tích cực, phương pháp dạy học tích cực và vai trò và ý nghĩa của việc sử dụng
tranh, ảnh theo hướng phát huy tính tích cực của học sinh trong DHLS ở trường
THPT.
5.2. Xác định nội dung kiến thức cơ bản của khóa trình lịch sử Việt Nam bài
17 “Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa từ sau ngày 2-9-1945 đến trước ngày 19-12-
1946”, SGK Lịch sử 12 ở trường Trung học phổ thông, trong sách giáo khoa lịch sử
lớp 12 (Chương trình Chuẩn) có quan hệ với việc sử dụng tranh, ảnh lịch sử theo
hướng phát huy tính tích cực của học sinh.
5.3. Xác định hệ thống tranh, ảnh cần sử dụng theo hướng phát huy tính tích

cực của học sinh trong DHLS Việt Nam bài 17 “Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa
từ sau ngày 2-9-1945 đến trước ngày 19-12-1946”, SGK Lịch sử 12.
5.4. Đề xuất các nguyên tắc và biện pháp sư phạm sử dụng tranh, ảnh theo
hướng phát huy tính tích cực của học sinh trong DHLS Việt Nam bài 17 “Nước Việt
10
Nam Dân chủ Cộng hòa từ sau ngày 2-9-1945 đến trước ngày 19-12-1946”, SGK
Lịch sử 12 ở trường THPT (Chương trình Chuẩn) có hiệu quả.
5.5. Tiến hành thực nghiệm sư phạm việc sử dụng tranh, ảnh theo hướng phát
huy tính tích cực của học sinh trong DHLS Việt Nam bài 17 “Nước Việt Nam Dân
chủ Cộng hòa từ sau ngày 2-9-1945 đến trước ngày 19-12-1946”, SGK Lịch sử 12 ở
trường THPT (Chương trình chuẩn). Đối chiếu kết quả từ các lớp thực nghiệm và
các lớp đối chứng để rút ra những nhận xét, kết luận về tính khả thi của đề tài.
6. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
- Thao giảng, dự giờ,trao đổi rút kinh nghiệm trong giảng dạy môn lịch sử.
- Nghiên cứu các tài liệu về phương pháp dạy học lịch sử.
- Sách giáo khoa, sách bài tập, sách giáo viên lịch sử lớp 12
- Sử dụng các câu hỏi điều tra có thể đáp ứng được đầy đủ các yêu cầu của việc
đánh giá khả năng lĩnh hội kiến thức của học sinh trong việc giảng dạy môn lịch sử
lớp 12, để khắc phục nhược điểm trong phương pháp kiểm tra đánh giá cần phối hợp
các phương pháp hiện đại. Tăng cường kiểm tra đánh giá kết quả học sinh học để từ
đó có điều chỉnh hợp lí hơn.
7. ĐÓNG GÓP CỦA ĐỀ TÀI
-Về mặt lí luận:
+ Xác định nội dung kiến thức cơ bản cho học sinh trong DHLS Việt Nam bài
17 “Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa từ sau ngày 2-9-1945 đến trước ngày 19-12-
1946”, SGK Lịch sử 12 ở trường THPT (Chương trình chuẩn), có quan hệ với việc
sử dụng tranh, ảnh theo hướng phát huy tính tích cực của học sinh.
+ Sưu tầm hệ thống tranh, ảnh cần thiết để giảng dạy bài 17 “Nước Việt Nam
Dân chủ Cộng hòa từ sau ngày 2-9-1945 đến trước ngày 19-12-1946”, SGK Lịch sử
12 theo hướng phát huy tính tích cực của học sinh.

11
+ Đề xuất những nguyên tắc và biện pháp sư phạm để sử dụng tranh, ảnh theo
hướng phát huy tính tích cực của học sinh trong dạy học bài 17 “Nước Việt Nam
Dân chủ Cộng hòa từ sau ngày 2-9-1945 đến trước ngày 19-12-1946”, SGK Lịch sử
12 ở trường THPT (chương trình Chuẩn) đạt chất lượng và hiệu quả.
- Về thực tiễn: Với những nội dung cơ bản mà đề tài giải quyết, hy vọng đây
sẽ là tài liệu tham khảo tốt cho học sinh và giáo viên ở trường phổ thông góp phần
vào việc nâng cao hiệu quả dạy học lịch sử ở trường phổ thông hiện nay.
8. CẤU TRÚC CỦA ĐỀ TÀI
Đề tài gồm 3 phần:
Phần mở đầu
Phần nội dung
Phần kết luận
12
B. PHẦN NỘI DUNG
I. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
1. Cơ sở lý luận
1.1.1. Quan niệm về đồ dùng trực quan trong dạy học lịch sử
Trực quan là một nguyên tắc cơ bản của lí luận dạy học. Nguyên tắc trực quan
là cách học không chỉ dựa vào lời nói mà còn dựa vào những hình ảnh cụ thể mà
học sinh trực tiếp thu nhận được. Trong giảng dạy và học tập lịch sử, phương pháp
sử dụng ĐDTQ lại càng có vị trí quan trọng. Bởi vì, đặc trưng của lịch sử là tính
không lặp lại và con người cũng không thể tái tạo nó trong phòng thí nghiệm.
Việc sử dụng ĐDTQ trong DHLS sẽ góp phần quan trọng trong việc tạo biểu
tượng, hình hành khái niệm, nêu quy luật, rút bài học lịch sử. Từ đó sẽ giúp học sinh
có được hình ảnh chính xác, chân thực về quá khứ và thu nhận được tri thức lịch sử
một cách đầy đủ hơn, khắc phục tình trạng “hiện đại hóa” lịch sử của học sinh.
1.1.2. Quan niệm về tính tích cực
Tính tích cực bao gồm cả tích cực bên trong thể hiện ở những vận động tư duy,
trí nhớ, những chấn động của các cung bậc tình cảm, cảm xúc và tích cực bên ngoài lộ

ra ở thái độ hành động đối với công việc. Điều đó có nghĩa là tích cực là một phương
pháp mà khi vận dụng đòi hỏi vừa thúc đẩy sự tích cực bên trong (tư duy, tình cảm)
và tích cực bên ngoài (thái độ, hành động) của cả giáo viên và học sinh.
1.1.3. Tính tích cực trong dạy học lịch sử
Phương pháp tích cực là phương pháp mới trong quá trình dạy học, thể hiện
mối quan hệ biện chứng giữa thầy - trò - lớp học. Trong mối quan hệ ấy, thầy đóng
vai trò là người đạo diễn, tổ chức cho học trò biết cách hành động, họp tác với bạn,
với thầy để tự mình khám phá ra chân lí và ứng dụng chân lí đó vào thực tiễn cuộc
sống nhằm mục đích hình thành và phát triển nhân cách con người lao động tự chủ,
năng động sáng tạo
13
1.1.4. Quan niệm về tranh, ảnh và tranh, ảnh lịch sử
1.1.4.1. Quan niệm về tranh - ảnh
Tranh, ảnh là một thuật ngữ dùng để chỉ một bức vẽ, một bức hình thu chụp
được nhằm phản ánh một phần nào đó của hiện thực và nó được sử dụng làm
phương tiện dạy học. Đây là loại phương tiện được sử dụng phổ biến trong dạy học
các môn học về tự nhiên và xã hội nói chung, loại phương tiện này thường được sử
dụng khi không có vật thật hoặc hỗ trợ thêm cho vật thật.
1.1.4.2. Quan niệm về tranh, ảnh lịch sử
Tranh - ảnh trong dạy học nói chung và DHLS nói riêng là một loại phương
tiện trực quan quan trọng thuộc nhóm ĐDTQ tạo hình, nó chứa đựng, chuyển tải
lượng thông tin lớn của giáo viên trong quá trình giảng dạy và là nguồn tri thức
phong phú, đa dạng góp phần tạo biểu tượng, hình thành khái niệm, phát triển trí tuệ
và nâng cao năng lực nhận thức cho học sinh trong quá trình học tập.
1.1.5. Ý nghĩa của việc sử dụng tranh, ảnh theo hướng phát huy tính tích cực
của học sinh trong dạy học lịch sử
- Thứ nhất, việc sử dụng tranh, ảnh trong DHLS sẽ góp phần cụ thể hóa nội
dung sự kiện, nhân vật và giúp học sinh nhận thức được những nội dung khái quát
lịch sử.
- Thứ hai, tranh, ảnh lịch sử không chỉ dừng lại ở nhận thức cảm tính mà còn ở

nhận thức lí tính, làm cho học sinh có thể dễ dàng thu nhận một cách có hiệu quả
kiến thức lịch sử.
- Thứ ba, tranh, ảnh lịch sử sẽ có vai trò lớn trong việc giúp học sinh nhớ kỹ,
hiểu sâu những hình ảnh, những kiến thức lịch sử, những tư tưởng thu nhận được.
- Thứ tư, tranh, ảnh lịch sử còn góp phần khắc phục tình trạng “hiện đại hóa”
của học sinh khi nhận thức lịch sử.
- Thứ năm, tranh ảnh lịch sử ngoài việc góp phần tạo biểu tượng, hình thành
khái niệm lịch sử, nó còn giúp học sinh phát triển khả năng quan sát, trí tưởng tượng,
tư duy, ngôn ngữ và năng lực thực hành bộ môn.
14
- Ngoài ý nghĩa giáo dưỡng và phát triển nêu trên thì tranh, ảnh lịch sử còn góp
phần rất lớn trong việc giáo dục tư tưởng, tình cảm, đạo đức và tính thẫm mỹ cho học
sinh, bồi dưỡng cho học sinh những tình cảm đúng đắn, tích cực.
1.2. Cơ sở thực tiễn
- Thuận lợi:
Trường THPT Long Khánh là ngôi trường lớn trong tỉnh Đồng Nai, đã
nhiều lần được Sở Giáo dục - Đào tạo Tỉnh Đồng Nai tặng giấy khen, UBND Tỉnh
Đồng Nai và Bộ Giáo dục - Đào tạo tặng Bằng khen. Năm 1998 được Thủ tướng
Chính phủ tặng Bằng khen. Năm 2004 trường vinh dự được đón nhận Huân
chương lao động Hạng III của Chủ tịch nước trao tặng. Năm 2006 trường được
công nhận đạt chuẩn Quốc gia. Và hiện nay là một trong hai trường trọng điểm
chất lượng cao của tỉnh và đang phấn đấu để trở thành trường chuyên ở khu vực
Long Khánh. Nhiều năm liền tỷ lệ thi tốt nghiệp THPT và Cao đẳng – Đại học
luôn cao. Trong các kỳ thi chọn học sinh giỏi tỉnh thì trường luôn thuộc tốp đầu
trong các trường THPT, ngoài ra còn có nhiều em đạt danh hiệu học sinh giỏi quốc
gia.
Về phương pháp: Các thầy cô trong tổ có trình độ chuyên môn cao, đầy nhiệt
huyết với lòng yêu nghề và luôn tích cực đổi mới phương pháp dạy học: rất chú
trọng dạy học theo phương pháp mới - lấy học sinh làm trung tâm, phát triển tư
duy cho học sinh

Về thái độ học tập của học sinh: Các em nhiệt tình tham gia hoạt động trên
lớp học, đối với các câu hỏi khó, cần yêu cầu tư duy thì các em đều chịu khó tìm
hiểu và chủ động phát biểu. Trong các hoạt động giao việc về nhà sưu tầm tài
liệu, làm bài thuyết trình trước lớp cũng được các em tích cực hưởng ứng.
Về cơ sở vật chất: Trường có hệ thống cơ sở vật chất thuộc loại tốt và luôn
được trang bị hoàn thiện hơn qua các năm học. Hiện tại nhà trường có đầy đủ
phòng chức năng, phòng nghe nhìn. Đặc biệt ở mỗi lớp (thuộc khối 10 và 11)
được trang bị 1 tivi hiện đại với nhiều chức năng ưu việt.
15
Tất cả những yếu tố trên đã tạo một điều kiện thuận lợi để thực hiện tốt đề tài
này.
- Khó khăn: Đa số học sinh đều chọn thi khối A, khối A1, khối B và khối D,
số học sinh chọn khối C rất ít nên dường như các em còn rất lơ là với bộ môn Sử vì
cho rằng môn Sử sự kiện nhiều lại khó nhớ, có nhớ cũng không nhớ được lâu nên
cần phải tạo được sự hứng thú học tập lịch sử cho các em, phát huy được tính tích
cực của bộ môn. Muốn vậy, giáo viên phải tự tìm tòi, nâng cao chuyên môn, đổi mới
phương pháp dạy học. Phát triển tư duy độc lập, sáng tạo là một khâu quan trọng
trong dạy học lịch sử; tuy vậy, hiện nay một số giờ giảng của giáo viên trên lớp vẫn
còn mang tính độc diễn, thầy giáo truyền thụ một chiều. Cũng còn có trường hợp,
bài giảng của giáo viên chỉ là bản tóm tắt SGK mà không chú ý sử dụng các tranh
ảnh cần thiết làm cho giờ học trở nên khô khan và kết quả là HS không hứng thú đối
với việc học môn Lịch sử.
Cũng như việc học các bộ môn khác ở nhà trường phổ thông, học tập lịch sử là
một quá trình nhận thức, mỗi cá nhân phải chủ động thực hiện cùng với sự giúp đỡ,
hướng dẫn, điều chỉnh của thầy giáo. Học tập lịch sử, HS không chỉ dừng ở việc ghi
nhớ các sự kiện, điều quan trọng là phải hiểu bản chất sự kiện, quá trình lịch sử, rút
ra quy luật, tìm kiếm bài học từ quá khứ phục vụ cho hiện tại. Vì vậy, dạy học lịch
sử cần phát huy tính tích cực, sáng tạo từ phía học sinh. Quá trình nhận thức của học
sinh cũng phải tuân theo quy luật “Từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng,
từ tư duy trừu tượng trở về thực tiễn. Đó là con đường biện chứng của của sự nhận

thức chân lý, của sự nhận thức thực tại khách quan”. [6, tr. 270]
Chính vì vậy, đề tài tập trung đề xuất các nguyên tắc, biện pháp của việc sử
dụng tranh, ảnh theo hướng phát huy tính tích cực của học sinh trong DHLS ở
trường THPT, cụ thể là bài 17 “Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa từ sau ngày 2-
9-1945 đến trước ngày 19-12-1946” (SGK Lịch sử 12 Chương trình Chuẩn).
16
II. TỔ CHỨC THỰC HIỆN CÁC GIẢI PHÁP
1. Sử dụng tranh, ảnh để tạo biểu tượng về các sự kiện lịch sử, nhân vật lịch sử
“Việc tạo biểu tượng có ý nghĩa rất quan trọng trong học tập lịch sử ở trường
phổ thông. Do đặc điểm của sự nhận thức lịch sử, việc học tập lịch sử không bắt
đầu từ trực quan sinh động mà từ việc nắm bắt sự kiện và tạo biểu tượng lịch sử.
Tuy vậy, việc học tập lịch sử cũng tuân thủ quy luật chung của quá trình nhận thức
từ cảm tính đến lý tính. Có thể nói tạo biểu tượng là giai đoạn nhận thức cảm tính
của quá trình học tập lịch sử” [9, Tr. 51]. Biểu tượng lịch sử là hình ảnh về những
sự kiện, nhân vật lịch sử, điều kiện địa lý… được phản ánh trong óc HS với những
nét chung nhất, điển hình nhất.
Nội dung của một sự kiện lịch sử được HS nhận thức thông qua việc tạo hình
ảnh về quá khứ bằng những hoạt động của các giác quan như thị giác tạo nên
những hình ảnh trực quan, thính giác đem lại những hình ảnh về quá khứ thông
qua lời giảng của GV.
Việc tạo biểu tượng cho HS là một việc làm khó khăn vì yêu cầu của DHLS là
phải tái tạo những hình ảnh về các sự kiện đúng như nó tồn tại mà những sự kiện đó
lại lùi xa vào quá khứ. Vì vậy, tranh ảnh có vai trò rất quan trọng trong việc tạo biểu
tượng lịch sử cho HS.
Có nhiều biện pháp để tạo biểu tượng lịch sử trong đó việc sử dụng tranh ảnh
kết hợp với các đoạn tường thuật, miêu tả để tạo biểu tượng lịch sử là một biện pháp
sư phạm rất có hiệu quả. Để thực hiện tốt biện pháp này, GV phải nắm vững và có
kỹ năng sử dụng phương pháp tường thuật và miêu tả trong DHLS.
Khi học sinh quan sát hình ảnh cụ thể sẽ mang lại nhận thức chính xác, sinh
động về sự kiện, nhân vật; trên cơ sở đó tạo cho các em những cảm xúc lịch sử mạnh

mẽ, sâu sắc. Đó chính là con đường có hiệu quả để tạo biểu tượng, hình thành khái
niệm, nêu quy luật và rút bài học lịch sử.
17
Chẳng hạn, khi dạy học bài 17, “Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa từ sau ngày
2-9-1945 đến trước ngày 19-12-1946”, giáo viên có thể sử dụng bức ảnh “Lễ ký kết
Hiệp định sơ bộ 6-3-1946 tại Hà Nội” (xem phụ lục 10), để tạo biểu tượng cho học
sinh về việc chính phủ ta kí với đại diện chính phủ Pháp bản Hiệp định ngoại giao và
rút ra nhận xét: “Lễ ký kết Hiệp định Sơ bộ 6/3/1946 thể hiện hình ảnh nước Việt Nam
Dân chủ cộng hòa trong vòng vây của Chủ nghĩa đế quốc”.
Hình: Lễ ký kết hiệp định sơ bộ
2. Sử dụng tranh ảnh để tạo tình huống có vấn đề và giải quyết vấn đề
18
Tình huống có vấn đề là những khó khăn, thắc mắc những mâu thuẫn nảy sinh
trong quá trình nhận thức của HS khi tiếp thu tri thức mới hoặc cần làm sâu sắc
phong phú thêm những tri thức đã biết.
Nhận thức của HS là quá trình đi từ chưa biết đến biết, từ biết chưa sâu sắc đến
biết sâu sắc, phong phú hơn. Tạo tình huống có vấn đề và biết cách giải quyết vấn
đề sẽ giúp kích thích tư duy tích cực của HS. Nhà tâm lí học Rubinxtên đã khẳng
định: “tư duy sáng tạo luôn luôn bắt đầu bằng một tình huống có vấn đề” [8, Tr.
23]. Nhà thơ Maiacôpxki cũng đã phê phán một cách dí dỏm những người mà trong
đầu óc họ không có những vấn đề gì để suy nghĩ bằng hai câu thơ: “những kẻ đầu
óc luôn luôn minh bạch, theo ý tôi chẳng qua họ ngốc”. GV phải biết gợi mở, trình
bày, dẫn dắt, đặt ra những câu hỏi nêu vấn đề kích thích trí tò mò, thích khám phá,
sáng tạo của HS.
Có nhiều cách thức để tạo tình huống có vấn đề, trong đó có biện pháp sử dụng
tranh ảnh.
Ví dụ: Khi dạy mục 2. II, bài 17, SGK Lịch sử lớp 12 (Chương trình Chuẩn).
GV sử dụng bức ảnh “ Nạn đói năm 1945”
19
Sau khi miêu tả chi tiết bức tranh, GV đặt câu hỏi “ Bức tranh nói lên điều

gì?”, “Tại sao nước ta lại xảy ra nạn đói vào năm 1945? ”. Cách đặt câu hỏi như vậy
của GV cùng bức tranh sẽ làm nảy sinh trong nhận thức của HS vướng mắc cần giải
quyết. Với sự hướng dẫn của GV, HS quan sát bức tranh, suy nghĩ và tìm lời giải.
Nhìn vào bức ảnh, học sinh sẽ thấy được nhiều xác người chết đói nằm ngổn ngang
trên các đường phố. Nguyên nhân gây ra nạn đói năm 1945? Lời giải từ bức tranh sẽ
kích thích học sinh đi sâu phân tích nguyên nhân gây ra nạn đói năm 1946 ở miến
Bắc làm hơn 2 triệu người chết đói là do chính sách khai thác, bóc lột của Thực dân
Pháp và phát xít Nhật.
3. Sử dụng tranh ảnh thông qua khai thác tiện ích của công nghệ thông tin để
tăng hiệu quả dạy học.
Với sự phát triển nhanh chóng của khoa học, công nghệ, nhất là công nghệ
thông tin với tiện ích của nó đã có tác dụng to lớn đối với sản xuất và đời sống xã
hội. Công nghệ thông tin đã trở thành công cụ trong nhiều lĩnh vực khác nhau trong
đó có giáo dục và đào tạo.
Do đặc trưng của bộ môn Lịch sử như đã trình bày ở trên nên việc ứng dụng
công nghệ thông tin lại càng cần thiết, tỏ ra khá hiệu quả và khả thi, nhất là trong
việc trình chiếu hình ảnh, chỉnh sửa bản dồ… nhằm góp phần nâng cao chất lượng
dạy và học. Tranh ảnh khi được tích hợp với thiết bị của công nghệ thông tin như:
máy tín điện tử, máy chiếu, hệ thống âm thanh,… sẽ tạo nên màu sắc, hình ảnh sống
động, hấp dẫn cuốn hút HS vào bài giảng, giúp các em tiếp thu kiến thức có hệ
thống và tích cực hơn.
20
Ví dụ trong dạy học bài 17 “Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa từ sau ngày 2-
9-1945 đến trước ngày 19-12-1946”, SGK Lịch sử 12. GV cần phải sử dụng một
lượng tranh ảnh khá phong phú, bao gồm: các tranh ảnh thể hiện các sự kiện lịch sử;
phim tư liệu… Khi chưa có công nghệ thông tin, GV phải mất rất nhiều thời gian,
công sức cho việc sưu tầm, phục dựng, in ấn, phô tô và sử dụng các công đoạn khác
theo hình thức thủ công, điều này làm GV rất ngại sử dụng tranh ảnh thường xuyên
trong các tiết dạy. Hiện nay, với những thành tựu về công nghệ thông tin, chỉ cần
những thao tác đơn giản là GV có thể lên Internet tìm và tải tranh ảnh lịch sử và

những tài liệu chú thích để phục vụ công việc dạy học. Như vậy, ứng dụng công
nghệ thông tin góp phần giải phóng bớt những lao động thủ công chiếm nhiều thời
gian và công sức của người thầy giáo, góp phần làm bài giảng trở nên sinh động với
những sự kiện nhân vật lịch sử cụ thể, chân thực giúp kích thích quá trình tư duy của
HS, từ đó nội dung kiến thức được lĩnh hội đầy đủ và khắc sâu hơn.
Như vậy, với những ưu thế vượt trội nêu trên không thể phủ nhận vai trò của
công nghệ thông tin trong tiến trình đổi mới PPDH. Tuy nhiên, để áp dụng có hiệu
quả thành tựu công nghệ thông tin vào giảng dạy các môn học nói chung giảng dạy
lịch sử nói riêng đòi hỏi người GV cần chịu khó học hỏi nắm bắt kỹ thuật và thao
tác sử dụng thiết bị; phối hợp nhịp nhàng với các PPDH khác; đảm bảo bố trí hợp lí
thời gian cho một tiết dạy, chủ động trong mọi tình huống. Dù có những ưu thế vượt
trội nhưng chúng ta cũng không được tuyệt đối hóa và lạm dụng phương pháp này
làm mờ nhạt vai trò của người GV.
21
Ví dụ: Trong mỗi tiết học sau khi cung cấp cho HS những kiến thức của bài
học, GV tiến hành củng cố vào cuối các mục hoặc cuối bài để khái quát những vấn
đề cơ bản giúp HS nhớ và khắc sâu. Thông thường, GV dành cho khâu củng cố
trong vòng 5 – 7 phút và với hình thức sử dụng các sơ đồ hoặc để HS trả lời những
câu hỏi nhận thức đặt ra ở đầu mỗi bài học. Hiện nay, với thành tựu và tiện ích của
công nghệ thông tin GV tổ chức cho HS củng cố kiến thức thông qua một số trò
chơi với tranh ảnh kết hợp với câu hỏi nhận thức để tạo tính mới mẽ, tạo hứng thú
học tập cho các em. GV có thể cho các em đi tìm các mảnh ghép bằng các hình ảnh
để khám phá ra một bức tranh, tấm ảnh liên quan đến sự kiện, nhân vật lịch sử tiêu
biểu trong bài học từ đó củng cố, khái quát, khắc sâu kiến thức cơ bản.
4. Sử dụng tranh ảnh kết hợp với tài liệu thành văn để tạo hứng thú học tập
lịch sử cho HS.
Trong học tập, yếu tố tâm lý đóng vai trò quan trọng. Khi HS có tâm lý
hứng thú, yêu thích học tập bộ môn thì kết quả học tập rất khả quan.
Hiện nay, do tác động của một số nguyên nhân, nhiều HS không yêu thích
và HTHT bộ môn Lịch sử. Thực trạng ấy ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng và

kết quả học tập bộ môn.
Để khắc phục tình trạng trên, chúng ta phải thực hiện đồng bộ nhiều giải pháp,
trong đó có việc sử dụng tranh ảnh kết hợp với tài liệu thành văn để tạo HTHT cho HS.
Tài liệu thành văn được hiểu là những sử liệu cho ta những thông tin về các
sự kiện xảy ra được ghi lại bằng chữ viết qua các kênh thông tin khác nhau.
Nguồn tài liệu này chiếm khối lượng lớn và đặc biệt quan trọng đôi khi chiếm vị
trí chủ yếu trong các nguồn sử liệu [18]. Tài liệu thành văn là nguồn sử liệu quý
giá góp phần làm sáng tỏ những sự kiện, hiện tượng lịch sử. Đây là nguồn sử liệu
đã được thời gian và thực tiễn lịch sử sàng lọc, kiểm chứng, có độ tin cậy khoa
học cao. Việc kết hợp sử dụng tài liệu thành văn (nghe) và tranh ảnh (nhìn) sẽ tạo
hiệu quả tổng hợp trong DHLS.
22
Ví dụ: Khi dạy mục 3. III, bài 17, SGK Lịch sử lớp 12, để giải quyết nạn
dốt, ngày 8 – 9 -1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh kí sắc lệnh thành lập Nha Bình dân
học vụ. GV sử dụng bức ảnh “Lớp Bình dân học vụ”
GV kết hợp với tài liệu thành văn sau: “Để phong trào có sức lan toả hơn
nữa, ngày 4.10.1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết bài “Chống nạn thất học”.
Trong bài, Người nêu rõ một trong những công việc phải thực hiện cấp tốc lúc này
là nâng cao dân trí: “Muốn giữ vững nền độc lập. Muốn làm cho dân mạnh nước
giầu. Mọi người Việt Nam phải hiểu biết quyền lợi của mình, bổn phận của mình,
phải có kiến thức mới để có thể tham gia vào công cuộc xây dựng nước nhà, và
trước hết phải biết đọc, biết viết chữ quốc ngữ”. Và Người kêu gọi: “Những người
đã biết chữ hãy dạy cho những người chưa biết chữ Những người chưa biết chữ
hãy gắng sức mà học cho biết đi. Vợ chưa biết thì chồng bảo, em chưa biết thì anh
bảo, cha mẹ không biết thì con bảo, người ăn người làm không biết thì chủ nhà bảo,
các người giàu có thì mở lớp học ở tư gia dạy cho những người không biết chữ ở
hàng xóm láng giềng.”…[17]
Lớp bình dân học vụ
23
Với bức ảnh “ Lớp Bình dân học vụ” còn có thể kết hợp với đoạn thơ trong

bài thơ “Việt Bắc” của Tố Hữu:
“ Nhớ sao lớp học i tờ
Đồng khuya đuốc sang những giờ liên hoan”
Đoạn tài liệu và 2 câu thơ trên sẽ giúp bổ sung, cụ thể những nội dung SGK,
góp phần làm sáng rõ vấn đề và là cơ sở để GV và HS khai thác bức ảnh “Lớp Bình
dân học vụ” nhằm giúp học sinh hiểu rõ hơn tại sao mù chữ là một vấn nạn và tầm
quan trọng cần phải giải quyết nạn dốt và những khó khăn trong việc giải quyết nạn
dốt. Qua đó cũng giáo dục cho HS ý thức học tập tốt hơn trong điều kiện đầy đủ
hiện nay.
5. Sử dụng tranh, ảnh kết hợp với nêu câu hỏi nhận thức
Dạy học lịch sử có nhiều con đường, biện pháp để phát triển tư duy học sinh,
một trong những biện pháp là sử dụng tài liệu thành văn kết hợp với bản đồ giáo
khoa để xây dựng hệ thống bài tập nhận thức.
Việc thiết kế bài tập nhận thức trên cơ sở tài liệu thành văn có thể nêu ra vào
đầu giờ học hoặc trước mỗi mục nhằm tập trung sự chú ý và lôi cuốn HS. Câu hỏi
phải mang tính chất là một bài tập nhận thức nhưng phải tập trung vào những nội
dung cơ bản của bài học. Chẳng hạn, khi dạy học mục 3. III, bài 17, SGK Lịch sử
12. GV có thể cho HS xem bức ảnh “Lễ ký kết hiệp định sơ bộ” (phiếu tư liệu số 10)
và nêu câu hỏi nhận thức cho HS “Vì sao Đảng và chính phủ cách mạng của ta lại
chủ trương hòa với Pháp ký hiệp định sơ bộ 6 – 3 -1946?”. Qua đó giúp cho HS
thấy được đường lối lãnh đạo sáng suốt của Đảng, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí
Minh “cứng rắn về nguyên tắc, mềm dẻo về sách lược”, phân hóa, cô lập kẻ thù cao
độ. Nhờ vậy ta vượt qua được khó khăn, hiểm nghèo và bảo vệ được chính quyền
cách mạng, tạo điều kiện cho toàn quốc kháng chiến.
III. THỰC NGHIỆM SƯ PHẠM
1. Mục đích thực nghiệm
24
Tiến hành thực nghiệm sư phạm nhằm xác định tính đúng đắn của cơ sở lí luận
và những yêu cầu mang tính nguyên tắc cũng như kiểm nghiệm tính hiệu quả, khả
thi của đề tài “Sử dụng tranh, ảnh theo hướng phát huy tính tích cực của học sinh

trong dạy học bài 17 “Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa từ sau ngày 2-9-1945
đến trước ngày 19-12-1946”, SGK Lịch sử 12 ở trường trung học phổ thông
(Chương trình Chuẩn)”
2. Phương pháp, kế hoạch thực nghiệm
2.1. Lựa chọn đối tượng thực nghiệm
- Đối với HS các lớp thực nghiệm và đối chứng: chúng tôi chọn 1 lớp thực
nghiệm (12B1) và 1 lớp đối chứng (12B2) ở trường THPT Long Khánh.
2.2. Nội dung thực nghiệm
Tiến hành dạy thực nghiệm bài bài 17 “Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa
từ sau ngày 2-9-1945 đến trước ngày 19-12-1946”. Tiến hành kiểm tra kết quả học
tập giữa lớp thực nghiệm và lớp đối chứng để xem xét tính khả thi của đề tài.
2.3. Phương pháp thực nghiệm
Hướng dẫn áp dụng nội dung, phương pháp và một số biện pháp “Sử dụng
tranh, ảnh theo hướng phát huy tính tích cực của học sinh trong dạy học bài 17
“Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa từ sau ngày 2-9-1945 đến trước ngày 19-12-
1946”, SGK Lịch sử 12 ở trường trung học phổ thông (Chương trình chuẩn) mà luận
văn đã đưa ra ở các lớp thực nghiệm.
Để đảm bảo tính khách quan, chúng tôi chọn đối tượng nhận thức giữa lớp đối
chứng và lớp thực nghiệm đều tương đương nhau về trình độ.
2.4. Thực nghiệm cụ thể
Theo giới hạn của đề tài này tác giả chỉ ứng dụng trong bài
Bài 17: NƯỚC VIỆT NAM DÂN CHỦ CỘNG HÒA TỪ SAU NGÀY
2 – 9 – 1945 ĐẾN TRƯỚC NGÀY 19 – 12 - 1946

I. MỤC TIÊU BÀI HỌC :
1. Về kiến thức : Cung cấp cho học sinh :
- Những hiểu biết về thuận lợi và khó khăn của ta sau cách mạng tháng 8.
25

×